Nguyên tác: Physik
Số lần đọc/download: 1912 / 28
Cập nhật: 2017-06-01 10:10:42 +0700
Chương 29 - Nhà Kho Số 9
S
nori đang ngủ say khi bà Alice Nettles trở về nhà khuya thật khuya đêm ấy. Bà trưởng phòng Hải Quan vừa lạnh vừa mệt rũ và ướt nhem sau chuyến làm việc gay go với một con tàu bất hợp tác trở về, nhưng khi đẩy cánh cửa nhỏ màu xanh da trời mở ra, bà mỉm cười, bởi vì cùng bước qua ngưỡng cửa với bà còn có con ma ngài Alther Mella.
Ngài Alther cũng vừa trải qua một ngày khó khăn ở Cung Điện. Lúc chiều sau khi gặp Jillie Djinn ở Văn phòng Sao lục, Marcia rền rĩ, "Ối, ngài Alther ơi, tôi không muốn gặp thêm bất cứ ai nữa - kể cả ngài. Ôi không. Tôi cũng không biết khi nào tôi lại có thể ra ngoài được. Chắc chắn phải trên vài tháng nữa. Giờ, ngài đi đi." Ngài Alther đã tiếp tục lùng sục khắp Cung Điện tìm Jenna và Septimus, nhưng chẳng thấy tăm hơi chúng đâu. Tuy nhiên, số câu chuyện về những gì có thể xảy ra với chúng lại tăng lên vô tận. Ngài Alther suy đoán xem ra chắc chắn có Khạc Lửa liên quan ở đây, nhất là kể từ khi con rồng đó cũng biến mất tiêu, nhưng ngoài điều đó ra, ngài không thể đoán thêm được gì nữa. Ngài Alther không dễ gì thuyết phục được mình tin rằng lá thư Marcia đã tìm thấy đó là do Septimus gửi thật. Ngài vẫn hy vọng Jenna và Septimus đi thăm Zelda, mặc dù ngày đã sắp tàn và màn đêm bắt đầu buông, ngài nhận thấy mình sắp chết đuối thì bám được cọng rơm cũng cố bám, bởi ngài biết rõ Zelda sẽ không đời nào cho phép đứa nào trong chúng nó đi xa nhà lâu đến vậy.
Trong khi đó, Silas càng lúc càng nản lòng. Đến đêm, ngài Alther cuối cùng đành phải chấp nhận với mình rằng lá thư của Septimus là thật. Ngài đã trấn an Silas rằng “vẫn còn vài chỉ dẫn phải bám sát” và hẹn sáng mai sẽ trở lại. Ngài Alther để lại Silas và chó Maxie ngồi ủ rũ bên cửa Cung Điện chờ lão Gringe tới.
Điều ngài Alther cần thật sự là nói chuyện với Alice Nettles.
Thế cho nên, khi bà Alice được thuyền đưa về phía ngọn hải đăng gọi mời của Bến Cảng, nơi vùng biển gào réo đen ngòm, bà trông thấy con ma ngài Alther đứng kiên nhẫn trên bức tường cảng, hệt như bà đã một lần thấy ngài Alther đứng đó cách đây nhiều năm, khi ngài là Pháp sư Tối thượng còn sống. Nhớ lại, hôm đó là ngày bà Alice trở về sau chuyến công du bí mật thường niên vào mùa đông của toà án Lâu Đài. Ngài Alther đã tìm hiểu và biết được địa điểm của chuyến công du – trên Đảo Cát lộng gió cách Bến Cảng vài dặm về phía Nam – và thân hành ra đón riêng bà. Bà Alice chưa bao giờ, trước đó và cả sau này, ngập tràn hạnh phúc đến thế khi bà nhận ra bóng hình khoác áo thụng tía của ngài Alther dõi mắt ra biển chờ mình. Hai tuần sau thì ngài Alther chết, do viên đạn của một ám sát binh.
Bà Alice nhấc nến ra khỏi giá, đánh đá lửa và thắp nến lên. Ngài Alther theo bà Alice đi qua nhà kho, luồn lách qua những hẻm núi hẹp, tạc sâu hút vào giữa những núi hàng hoá cổ xưa cao ngất nghểu. Ánh sáng từ cây nến bà cầm run rẩy quăng bóng qua những chồng rương gỗ cũ nát, đồ gia dụng, đủ thứ hầm bà lằng, và cả một toa xe khách trang trí công phu, với những bánh xe khổng lồ màu đỏ và hai con cọp nhồi bông được thắng vào xe. Ngài Alther giật nảy mình trước ánh mắt lấp loá bằng thuỷ tinh của đôi cọp, trông như đang trừng trừng nhìn ngài một cách nhục mạ, ra điều ngài phải chịu trách nhiệm về số phận của chúng vậy.
Nhà kho của bà Alice là một trong nhiều nơi cũ mục nhất của Bến Càng, chất kín hàng hoá từ những con tàu ải mục theo thời gian, được mang tới Bến Cảng vì những người đi biển đã chết từ lâu, không đoái hoài hoặc từ chối việc đóng thuế cho chúng nữa, phần lớn vì chúng đã nằm đó nhiều thế kỷ và số tiền thuế phải đóng còn lớn gấp nhiều lần giá trị món hàng.
Sau nhiều khúc quanh và quẹo, bà Alice và ngài Alther tới được dãy cầu thang ở phía sau nhà kho. Tiếng chân bà Alice lua khua, dội vang trên những bậc sắt cao dốc khi bà leo qua các tầng lầu, mà lầu nào cũng két bụi đất tới tận mái trần cùng mạng nhện xen kẽ giữa của cải và rác.
“Không thể ngờ nổi sao em lại sống ở đống xà bần này, Alice,” ngài Alther trêu bà, “trong khi em dư sức có một chỗ tươm tất trên Vũng Nhất của trưởng phòng Hải Quan.”
“Cả em cũng không thể ngờ,” bà Alice nói, hụt hơi, khi họ leo tới lầu năm và vẫn còn phải leo tiếp. “Thì phải làm gì đó với con ma già cứ lẽo đẽo bám theo em khắp nơi chứ.” Bà Alice dừng ở chiếu nghỉ tầng sáu để lấy hơi, dựa lưng một lát vào chồng đĩa cao ngất làm bằng gỗ liễu của Trung Hoa cho ý nghĩ thông suốt hơn. “Tiếc là ngài đã không bao giờ tới dự tiệc tùng của Hải Quan, Alther,” bà thở hồng hộc. “Vậy có phải em sẽ đỡ được bao nhiêu phiền toái không.”
“Lẽ ra dáng em không thon gọn thế này đâu,” ngài Alther đáp, mỉm cười. “Trông em đẹp là nhờ chăm thể dục thế này đấy mà, Alice.”
“Chao, cảm ơn, Alther. Em tin chắc là bây giờ mình được khen ngợi hơn là hồi ngài còn… à, còn…”
“Sống, Alice. Không sao, em cứ nói từ đó. Hừ, lúc đó ta là tên ngốc. Không nhận ra, đến khi quá trễ.”
Bà Alice không biết phải đáp lại thế nào. Bà quay đi và chạy nốt quãng cầu thang cuối cùng lên tầng bảy, đẩy cánh cửa vào cái tổ chim cao tít của mình và bắt mình bận rộn nhóm bếp lò to xụ ở chính giữa sàn nhà.
Ngài Alther trôi vào sau bà một thoáng, bằng lối những bậc thang mà ngài đã đi cách đây nhiều năm, sau khi dì Zelda phát hiện ra vài lá thư giấu sau ống khói ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm. Bã đã bất ngờ đến gặp ngài Alther, quả quyết cho rằng có gì đó rất quan trọng ở trong Nhà kho số 9 và bà muốn ngài giúp bà tìm ra nó. Khi ngài Alther hỏi dì Zelda xem chính xác nó là cái gì, bà chỉ trả lời rằng nhìn thấy nó bà sẽ biết ngay. Do bị dì Zelda nài ép dữ dội mà ngài Alther đồng ý thực hiện phép Dò Tìm. Cuộc Dò Tìm đó khiến ngài mất ba tuần – mà sau đó ngài mắc chứng dị ứng bụi – lăn xả cùng với dì Zelda nhưng chẳng tìm được gì quan trọng theo như ngài thấy, ngoài một cái tổ nhện nhiệt đới cực hiếm, kỳ dị quá trời ở đằng sau ống dẫn nước nông. Tới lúc đó thì dì Zelda đã không thèm nói chuyện với ngài nữa. Sau này, khi giữa họ nảy sinh cuộc cãi vã, dì Zelda muốn trở lại đó tìm lần nữa. Thế nhưng, như nhiều thứ trong cuộc đời mình, ngài không bao giờ thực hiện được điều này.
Và ngài Alther luôn cho toàn bộ quãng thời gian tìm kiếm đó là vô bổ, mãi đến những năm sau này, khi bà Alice cố tìm một chỗ ở tại Bến Cảng mà con ma ngài Alther có thể tới thăm bà. Hồi còn sống ngài Alther không đến nhiều nơi ở Bến Cảng, cho nên khi Nhà kho số 9 rao bán, ngài và bà Alice vui mừng khôn xiết. Bà Alice mua Nhà kho số 9, bao gồm cả hàng hoá trong đó, và dọn đến sống ở tầng trên cùng. Giờ ngài Alther có thể đi thăm bà Alice và thoải mái bay dạo khắp toà nhà mà không sợ bị Hoàn Trả, điều ngài vốn sợ chết khiếp.
Trên tổ chim của mình, bà Alice đặt cây nến lên cái bàn lớn cạnh một trong những cửa sổ nhỏ nhìn ra ngoài cảng, ngài Alther đến bên bà và họ yên lặng ngồi sát bên nhau. Ở góc xa, trong bóng tối, Snorri hơi trở mình nhưng không thức giấc. Bà Alice liếc nhìn thân hình nhỏ nhắn nằm trên tấm thẳm Ba Tư dày, trùm vừa khít trong tấm chăn da sói, và mỉm cười. Bà mừng vì Snorri an toàn nhưng… cái gì thế kia?
Trong khoảnh khắc quên mất ngài Alther là con ma, bà Alice nắm lấy cánh tay ngài. “Alther,” bà thì thầm, khi tay bà chơi vơi trong hư không. “Alther, có gì đó ở đây. Một con thú. To lắm. Trời ơi, nhìn kìa.”
Hai con mắt xanh lá cây phản chiếu ánh nến. Chúng gườm gườm nhìn bà Alice và ngài Alther.
“Ối quỷ thần, Alice,” ngài Alther hoảng hốt. “Em có một con báo ở đây.”
“Ngài Alther, em không nuôi báo trên đây. Hay bất cứ ở đâu. Em không thích báo. Ối, nghe nó coi…” một tiếng gừ trầm đặc lấp kín tầng trên cùng của Nhà kho số 9 khi Ullr Đêm đứng hẳn dậy trên bốn đệm chân, túm lông phía sau sổ nó dựng lên. Snorri thức giấc.
“Yên, Ullr,” cô lào thào, thấy bóng bà Alice và ngài Alther nổi bật dưới ánh trăng và biết mình an toàn. Ullr Đêm gừ thêm một tiếng cuối cùng nữa để thị uy. Xong nó lại nằm xuống bên chủ nhân, đầu tự gối vào chân, và leo nheo đôi mắt nhìn bà Alice và con ma cạnh bên bà. Snorri gác cánh tay lên tấm lưng mượt êm của nó và lại ngủ thiếp đi.
“Em không biết cô ấy có một con vật vừa là báo vừa là mèo,” bà Alice lầm thầm. “Đáng lý ra cô ấy đã phải báo cho em biết chứ. Cánh lái buôn thật kỳ dị.”
Ngài Alther mỉm cười trìu mến nhìn bà Hải Quan trưởng. Ngài yêu cái cách bà Alice tỏ ra khắt khe, xù xì bên ngoài, chứ thật ra trong lòng bà không hề có ý vậy. Nếu có ai gặp hoạn nạn, bà Alice không đời nào đứng ngó. “Lại một đứa trẻ bơ vơ của em nữa hả, Alice?” ngài hỏi.
“Một cô gái bị giam thuyền để cách ly kiểm dịch. Em thấy áy náy về việc đó quá, nhưng em biết phải làm sao? Dịch bệnh đang hoành hành khắp lâu đài như lửa cuồng. Chúng ta không thể liều để nó lan tới đây.”
“À, ừ… nhắc ta mới nhớ.” Lời bà Alice nhắc tới Lâu Đài bất đắc dĩ lôi ngài Alther trởi về thực tế, chứ đáng ra ngài có thể sung sướng ngồi với bà Alice bên cửa sổ, nhìn ra ánh đèn cảng suốt đêm rồi.
“Có gì vậy, ngài Alther? Sao em cứ có cảm giác đây không phải là một tối lãng mạn chuyện trò dưới trăng?”
Ngài Alther thở dài. “Ta thật sự tính như vậy đấy, nhưng có việc xảy ra.”
Lại đến lượt bà Alice thở dài. “Thật không? Luôn luôn có việc gì đó sao?”
“Alice à, làm ơn đi. Việc này rất nghiêm trọng. Ta cần sự trợ giúp của em.”
“Ngài biết là ngài không cần phải hỏi mà. Em có thể làm được gì?”
“Ta cần Dò Tìm nhà kho từ tầng hầm tới tầng thượng. Ở đây có món ta cần tìm. Zelda và ta không bao giờ tìm thấy nó cách đây nhiều năm, nhưng giờ ta là ma, ta nghĩ mình có thể tìm được.” ngài Alther thở dài. “Ta sẽ phải Xuyên Qua tất cả mọi thứ.”
Bà Alice bàng hoàng. “Nhưng ngài rất ghét Xuyên Qua mà, ngài Alther. Và… èm, ngài biết ở đây có hằng hà sa số đồ vật. Cả núi xà bần ai biết được là cái gì với cái gì. Việc đó kinh khủng lắm. Trời ơi, việc này chắc là nghiêm trọng.”
“Ờ đúng, Alice… rất nghiêm trọng. Em biết không, sáng nay Septimus và Jenna… hả, cái gì ngoài đó đó?”
Có tiếng đập rầm rầm ở ngoài đường phố dưới lầu, làm rung chuyển những tấm kính cửa sổ phòng bà Alice. Lúc họ lắng tai, tiếng động càng lúc càng dữ dội lớn hơn và bức bách hơn, cho đến khi nó chuyển thành những tiếng thịch, thịch, thịch đều đặn làm rung sàn nhà và dội âm vào cái bàn.
“Đôi khi ta lo lắng cho em sống ở địa bàn phức tạp thế này.”
“Cái bọn chè chén đêm khuya thôi, ngài Alther. Để em ra bảo họ im lặng.” Bà Alice thò đầu ra cửa sổ và kêu lên. “Ối, quỷ thần ôi, ít nhất thì không phải là con báo.”
“Cái gì không phải là con báo?”
“Một con rồng.”
“Rồng không phải là báo?” ngài Alther đủng đỉnh lặp lại. Ngài cảm tưởng như bà Alice đang nêu mật mã.
“Nói chung, ối. Rồng là rồng, và báo là báo. Thế thôi. Đừng hỏi em tại sao. Em tin là chúng ta nên ra mở cửa cho chúng vào trước khi chúng nghiền nát cửa thành từng mảnh.”
“Ai? Cái gì?”
“Con rồng, ngài Alther. Em đã bảo ngài rồi, có một con rồng ở ngoài cửa.”