Nguyên tác: Peste Et Choléra
Số lần đọc/download: 1280 / 46
Cập nhật: 2017-05-20 08:52:16 +0700
Ở Nha Trang
N
gay khi trở về, anh bắt tay vào việc dựng một trung tâm khiêm tốn chuyên nghiên cứu các bệnh dịch ở động vật, anh hình dung ra việc xây dựng và chăn nuôi. Một tổ chức chính phủ trợ cấp cho anh năm nghìn đồng. Với số tiền ấy, anh dựng một phòng thí nghiệm thú y nhỏ. Anh định tiến hành nghiên cứu một mình, theo nhịp riêng. Mọi thứ bắt đầu ở gần căn nhà gỗ nơi Xóm Cồn, không xa bãi cát và tiếng rì rào của rặng dừa bên bờ nước, ở đó các ngư dân sáng sáng dùng dao mổ cá, moi bộ ruột đỏ lòm của những con cá lớn màu xanh lơ bên bờ nước.
Anh muốn không phải đi đâu nữa, Yersin ấy, mà muốn nuôi trong lồng tre những con vật thí nghiệm, lũ chuột thường, chuột lang, khỉ và thỏ. Thiếu chỗ cho trâu bò. Anh ở quá gần biển. Vào mùa mưa bão, khi đám cọ rối bù lên, nơi này đôi khi bị ngập nước. Anh tìm một chỗ chắc chắn hơn để dựng chuồng trại. Chưa có con đường nào dẫn sâu vào đất liền. Anh bèn đi thuyền độc mộc ngược sông Cái đổ ra biển ở đoạn này, mua tòa thành Khánh Hòa cũ cách đây chừng chục cây số, sắp chỗ đủ cho khoảng hai mươi con ngựa, cùng chừng ấy trâu bò. Anh cần có một bác sĩ thú y.
Ở Nha Trang, Yersin thuê đám con trai ngư dân rồi dạy chúng làm trợ tá phòng thí nghiệm trong cơ ngơi nhỏ bé của mình. Ở chỗ Calmette, anh kiếm được thiết bị và đồ thủy tinh, được cẩn thận chuyển từ tàu Saigon xuống xuồng rồi mang vào bờ, cũng như các tạp chí khoa học và chiếc xe đạp Peugeot mới tinh đặt mua bên Pháp ở chỗ nhà thủ công nghiệp khéo léo. Sáng ra, trên hàng hiên, anh vẽ các sơ đồ, chiều thì trông coi việc xây dựng phòng thí nghiệm, tối đến lại viết cuốn sách Ở chỗ người Mọi trong căn nhà, cuốn sách này anh bỏ tiền cho in mười lăm bản. Yersin chưa bao giờ tìm kiếm vinh quang, cũng chưa bao giờ vứt bỏ nó. Theo lời khuyên của Calmette, anh thuê một bác sĩ thú y quân đội từ Sài Gòn đến, Pesas, kẻ sẽ nhanh chóng ngã xuống chiến trường của ngành vi trùng học.
Anh muốn sống ở đây, Yersin ấy, ở Xóm Cồn, trước con nước lóng lánh của mặt vịnh và những cây cau có dây trầu không leo, đám dừa, lũ trẻ, những mảnh lưới đánh cá được cánh phụ nữ ngồi vá ờ bờ biển, và tối đến lũ dơi chập chờn bay, cách xa sự sôi sục của những thành phố động kinh, ở giữa đời sống thực. Thỉnh thoảng vào ban đêm, anh nhớ tới thuyền trưởng Flotte, nói cho cùng, là người đã cho anh những thứ này, Nha Trang, các chuyến thám hiểm và danh tiếng. “Mặc dù nhìn chung thờ ơ với những dải ruy băng, tôi rất vui sướng vì được nhận Bắc đẩu bội tinh, nó sẽ giúp tôi đơn giản hóa nhiều điều.” Cả ở đây nữa, cũng như với nhân khẩu và tuổi thọ, tốt hơn hết là nên tránh mọi ghi nhận nhầm thời. Thời đó, người ta không trao huân chương cho các cầu thủ bóng đá.
Năm ấy, một sĩ quan kỵ binh trẻ tuổi, Hubert Lyautey (Hubert Lyautey (1854-1934): một vị tướng của quân đội Pháp, từng làm toàn quyền ở Maroc, sau thành thống chế), vừa sống hai năm ở bên Algérie, tại đó anh đã phê phán chút ít chế độ thuộc địa, vốn là một hậu duệ của cái nhóm nhỏ Sahara và của đại úy Rimbaud, tới thăm Yersin tại nơi ở ẩn của anh. Cuộc gặp giữa họ trong căn nhà gỗ đã được thuật lại bởi Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin. Hai con người này có khí chất thật giống nhau.
Lyautey, vừa từ một công vụ bôn Madagascar trở về, ngưỡng mộ tinh thần doanh nghiệp của vị môn đệ Pasteur, người khám phá trực khuẩn dịch hạch và lẽ ra có thể nổi đình nổi đám tại các phòng khách Paris. Anh thăm các chuồng trại cùng phòng thí nhiệm nhỏ bên bờ nước. “Lẽ dĩ nhiên anh ta đã khởi động từ chỗ không có gì, thế mà đã mua được hai mươi con ngựa với giá 15 đồng một con để dùng làm vật thí nghiệm vắcxin, rồi liên danh với một bác sĩ thú y tên là Pesas, được anh ta chỉ giáo và truyền cho ngọn lửa nhiệt tình: và thế là tiến lên. Thật là những giờ khắc đầy khích lệ khi được ở trong ngôi nhà ấy, dù vẫn sơ sài, bên cạnh nhà bác học trẻ tuổi chẳng có nhu cầu riêng nào, chỉ duy nhất bị ám ảnh bởi công trình của mình.”
Ở Paris đã nổ ra vụ Dreyfus từ mấy tháng nay. Cũng như xưa kia người ta từng buộc tội người Do Thái lan truyền dịch hạch, giờ dây người ta lại ngờ họ ủ men thất bại và phản bội nước Pháp. Yersin thấy tiếc vì bị thiếu thông tin. “Mẹ hỏi ý kiến của con về vụ Dreyfus, nhưng con không có ý kiến vì chẳng ai biết rõ các chi tiết vụ xử án. Có khả năng là các ông tướng đã không muốn phổ biến rộng rãi những chi tiết này, vì nếu làm vậy có thể sẽ có những bất tiện lớn.” Lyautey thuộc vào những người ngay lập tức tin viên đại úy vô tội. Anh đã cả gan viết công khai những nghi ngờ của mình đối với phán quyết của tòa án quân sự. “Sự hoài nghi của chúng tôi lại càng tăng, bởi vì chúng tôi thấy ở đây dường như có một áp lực từ cái gọi là dư luận hay nói đúng hơn là từ đường phố, từ đám tiện dân.” Ở hai con người này cũng tồn tại lòng căm ghét dư luận và sự thô thiển, đám đông. “Chúng hú hét đòi giết người Do Thái ấy bởi anh ta là người Do Thái và hiện giờ phong trào bài Do Thái đang thắng thế.” Nhưng đó là một chàng đồng tính luyến ái lên tiếng bảo vệ một tên Do Thái. Kẻ mù và tên què. Chuyện này khiến anh phải công khai giới tính mặc dù không hề mong muốn, và Clemenceau (Georges Clemenceau (1841-1929), chính trị gia Pháp, người dẫn dắt nước Pháp chiến thắng trong thế chiến thứ nhất), tuy ủng hộ Dreyfus, lại vờ vịt tỏ ra ngưỡng mộ lòng can đảm của Lyautey để nói: “Đó là một người đáng ngưỡng mộ, can đảm, luôn luôn có dái ở đít (“Có dái ở đít” (avoir des coquilles au cul) một cách nói tục chỉ một người đàn ông dũng cảm) cho dù cái đít dó không phải của anh ta.” Cuộc sống chính trị nước Pháp vẫn còn đầy đực tính, và đôi khi những bài diễn văn ở Hạ viện dẫn đến kết cục là đánh đấm nhau ngoài đồng. Yersin biết rằng, dù cho có làm gì, thì cũng sẽ không dễ mà tránh xa toàn bộ sự bẩn thỉu chính trị này.