Nguyên tác: The Clocks (1963)
Số lần đọc/download: 298 / 21
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:48 +0700
Chương 21
T
hanh tra thám tử Hardcastle xem lịch để trên bàn làm việc. Ngày 20 tháng 9. Đã hơn mười ngày rồi. Họ vẫn không đạt được tiến bộ gì nhiều như ông mong muốn bởi họ bị níu giữ lại với khó khăn ban đầu: nhận diện một xác chết. Thời gian kéo dài đã lâu quá mức ông có thể tưởng. Tất cả các chỉ dấu dường như mất dần, đã thất bại. Xét nghiệm y phục chẳng đem lại điều gì đặc biệt hữu ích. Chính y phục cũng không cung cấp manh mối nào. Đó là những quần áo chất lượng tốt, chất lượng hàng xuất khẩu, không mới nhưng được giặt giũ tươm tất. Các nha sĩ không giúp được gì, các tiệm giặt ủi hay hấp tẩy cũng không. Người chết vẫn còn là một ‘người đàn ông bí ẩn’. Thế nhưng ông thanh tra lại cảm thấy ông ta thật sự không phải là một ‘người đàn ông bí ẩn’. Chẳng có gì ngoạn mục hoặc kịch tính về ông ta cả. Ông ta chỉ là một con người mà không một ai có thể nhận diện được. Đó là một kiểu vụ án, ông chắc chắn như thế. Hardcastle thở dài khi nghĩ tới những cú điện thoại và những lá thư đã đổ về một cách cần thiết sau khi công bố bức ảnh trên báo với chú thích bên dưới: Bạn có biết người này không? Số người nghĩ mình có biết người ấy thật đúng là làm cho người ta kinh ngạc. Những cô con gái viết thư trong lòng tràn trề hy vọng gặp lại người cha bao năm qua đã trở nên xa lạ. Một bà già chín mươi tuổi chắc chắn người trong bức ảnh là con trai của mình đã bỏ nhà ra đi cách đây ba mươi năm. Vô số các bà vợ đã chắc chắn đó là ông chồng mất tích của mình. Các chị em gái không hoàn toàn nóng lòng nhận anh em trai như thế. Các chị em gái có lẽ là những người nghĩ mình ít hy vọng hơn. Và tất nhiên có một số rất lớn những người từng gặp chính người đàn ông này ở Lincolnshire, Newcastle, Devon, London, trên tàu điện ngầm, trên xe buýt, lẩn trốn trong đám người ngồi câu cá trên một chiếc cầu nhô ra biển, trông có vẻ hung ác ở một góc đường, cố che mặt mình khi ra khỏi một rạp chiếu bóng. Hằng trăm chỉ dấu, các nhân viên nhiều triển vọng nhất kiên trì đeo bám nhưng chẳng có kết quả gì.
Nhưng hôm nay, ông thanh tra cảm thấy có hy vọng hơn một chút. Ông xem lại lá thư trên bàn giấy. Merlina Rival. Ông không thích cái tên thánh ấy lắm. Ông nghĩ, không ai còn tỉnh trí lại có thể đặt cho con mình cái tên thánh Merlina cả. Rõ ràng đó là một cái tên đặt chơi mà quý bà này đã nhận lấy. Nhưng ông lại thích cái cảm nhận trong thư. Thư không hề nói quá lố hay tin tưởng quá mức. Chỉ đơn giản nói rằng người viết thư nghĩ người đàn ông được đề cập đến có khả năng là người chồng đã chia tay với bà ta cách đây rất nhiều năm rồi. Sáng nay là đúng hẹn gặp bà ta. Ông bấm cái nút kêu vo ve và trung sĩ Cray đi vào. “Bà Rival ấy chưa đến sao?”
“Vừa mới tới tức thì ạ,” Cray đáp. “Tôi định vào báo cho sếp biết.”
“Bà ta trông thế nào?”
Ngẫm nghĩ một lát rồi Cray mới trả lời: “Có vẻ hơi kịch. Đánh phấn thoa son nhiều quá — trang điểm không đẹp lắm. Hạng phụ nữ nói chung khá đáng tin cậy, có thể nói như vậy ạ.”
“Bà ta có vẻ bối rối hay không?”
“Không ạ. Rõ là không có.”
“Được,” Hardcastle bảo. “Cho bà ta vào!”
Viên trung sĩ đi ra rồi trở vào ngay sau đó và nói: “Bà Rival đây, thưa sếp.”
Thanh tra đứng dậy, bắt tay bà. Ông đánh giá bà chừng năm mươi tuổi, nhưng từ khoảng cách xa đó — xa thật là xa — có thể bà ta chỉ độ ba mươi thôi. Đứng sát một bên, do hậu quả của việc đánh phấn thoa son không kỹ nên hầu như trông bà có vẻ già hơn tuổi năm mươi, nhưng nói chung ông cứ cho là năm mươi tuổi. Tóc đen nhuộm nhiều màu đỏ. Không đội mũ, chiều cao và vóc dáng trung bình, mặc áo khoác và váy màu đen với áo trắng. Xách một cái túi vải carô của dân Scotland to tướng. Đeo một hay hai vòng tay kêu leng keng, rất nhiều nhẫn. Dựa trên kinh nghiệm bản thân để đánh giá đạo đức, ông nghĩ nói chung đây là một dạng người khá tốt. Không e dè thận trọng quá mức, có lẽ vậy, nhưng dễ sống chung, rộng lượng một cách có lý lẽ, có thể là người tốt bụng. Đáng tin cậy hay không? Đó chính là vấn đề. Ông không trông mong gì vào chuyện này, nhưng dù sao đi nữa cũng không có đủ cơ sở để có thể trông mong như vậy.
“Rất vui được gặp bà, bà Rival ạ,” ông nói, “và tôi rất hy vọng bà có thể giúp chúng tôi.”
“Dĩ nhiên rồi, tôi không hoàn toàn chắc chắn,” bà Rival nói với vẻ xin lỗi. “Nhưng đúng là giống Harry. Rất giống Harry. Dĩ nhiên tôi đã chuẩn bị tinh thần để biết không phải là thế, và hy vọng sẽ không làm mất thì giờ của các ông vì chuyện không đâu vào đâu.”
Bà ta hình như rất biết lỗi vì chuyện này.
“Bất luận thế nào,” thanh tra nói, “bà cũng chẳng cần phải cảm thấy như thế. Chúng tôi rất cần giúp đỡ trong vụ án này.”
“Vâng, tôi hiểu. Hy vọng có thể chắc chắn. Ông thấy đấy, lâu lắm rồi tôi không gặp ông ấy.”
“Chúng tôi xin ghi lại vài sự kiện để giúp việc điều tra, có được không? Bà gặp chồng lần cuối lúc nào?”
“Tôi vẫn đang cố nhớ cho chính xác,” bà Rival đáp, “đang hồi tưởng chuỗi ngày đã qua. Thật kinh khủng vì trí nhớ mình đi đâu mất khi đến lúc cần nhớ lại. Tôi tin trong bức thư gửi các ông tôi đã nói là cách đây chừng mười năm, nhưng còn lâu hơn thế nữa. Ông biết không, chắc gần mười lăm năm. Thời gian trôi nhanh quá.” Bà ta nói thêm một cách khôn khéo, “Tôi cho rằng người ta thường có khuynh hướng nghĩ ít thời gian hơn sự thực, bởi vì nó khiến ta cảm thấy mình trẻ hơn. Ông có nghĩ vậy không?”
“Tôi nghĩ có thể như thế. Dù sao thì bà cũng nghĩ là khoảng chừng mười lăm năm không gặp chồng, phải không? Bà lập gia đình khi nào?”
“Chắc là ba năm trước đó.”
“Và vẫn sống với nhau đến khi ấy?”
“Ở một nơi gọi là Shipton Bois thuộc hạt Suffolk. Thành phố rất đẹp. Phố chợ. Khá nghèo nàn, không rõ ông có hiểu tôi muốn nói gì không…”
“Và lúc bấy giờ chồng bà làm gì?”
“Ông ấy là nhân viên bảo hiểm, ít nhất…” bà ta ghìm lại “…thì là ông ấy bảo thế.”
Thanh tra ngẩng phắt lên.
“Bà đã phát hiện điều ấy không đúng sự thật à?”
“À không, không hẳn… không phải ngay lúc ấy. Chỉ là từ lúc ấy, tôi đã nghĩ có lẽ không đúng sự thật. Đàn ông dễ dàng nói họ làm nghề đó mà, phải không?”
“Chắc thế, trong những hoàn cảnh nào đó.”
“Ý tôi muốn nói nó cho đàn ông một cái cớ để xa nhà rất thường xuyên.”
“Chồng bà rất thường vắng nhà, phải không bà Rival?”
“Vâng, mới đầu tôi không hề nghĩ nhiều về chuyện ấy.”
“Nhưng rồi sau đó thì sao?”
Bà ta không trả lời ngay. Sau đó bà mới nói: “Chúng ta không nên tiếp tục nói chuyện ấy, phải không? Rốt cuộc, nếu không phải là Harry…”
Ông tự hỏi đích xác bà ta đang nghĩ gì. Có gì đó căng thẳng trong giọng nói của bà, có thể do cảm động chăng? Ông không chắc chắn.
“Tôi có thể hiểu,” ông nói, “rằng bà không muốn đề cập đến chuyện ấy. Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ.”
Ông đứng dậy, hộ tống bà ta ra khỏi phòng tới tận chiếc xe hơi đang chờ sẵn.
Bà tỏ ra sốt ruột trên đường đi tới nơi cần tới không hơn gì những người khác ông từng đưa đến cũng nơi đó. Ông nói câu trấn an như thường lệ.
“Rồi sẽ hoàn toàn ổn thỏa. Chả có gì phải đau buồn cả. Chỉ mất một hai phút thôi.”
Cái khay được đẩy ra. Viên phụ tá lật tấm vải che lên. Bà ta chằm chặp nhìn xuống trong vài phút, hơi thở gấp gáp hơn một chút, bà khẽ thở hổn hển rồi đột nhiên quay ngoắt đi. Bà ta nói: “Đúng là Harry. Vâng. Ông ấy già đi rất nhiều, trông đã khác đi… Nhưng đúng là Harry.”
Thanh tra gật đầu với viên phụ tá, sau đó đặt tay lên cánh tay bà ta rồi lại dẫn ra ngoài tới tận xe hơi và họ lên xe trở về đồn. Ông chẳng nói chẳng rằng. Ông để mặc cho bà tự trấn tĩnh.
Khi họ vừa trở về phòng làm việc của ông, một cảnh sát viên gần như ngay lập tức mang vào một khay trà.
“Đây rồi, bà Rival ạ. Mời dùng một tách trà, sẽ giúp bà lấy lại tinh thần! Rồi chúng ta sẽ trò chuyện.”
“Cảm ơn ông.”
Bà bỏ đường vào tách trà, thật nhiều, rồi lẹ làng nốc cạn.
“Như thế tốt hơn,” bà nói. “Tôi chả bận tâm đâu. Chỉ là — chỉ là, à như thế thì dễ khiến người ta buồn nôn một chút, phải không?”
“Bà nghĩ người đàn ông này đích thị là chồng mình sao?”
“Tôi chắc chắn như thế. Dĩ nhiên ông ta đã già đi rất nhiều, nhưng thực sự không thay đổi bao nhiêu. Trông ông ta lúc nào cũng có vẻ — à, rất tươm tất. Tử tế, ông biết đấy, thuộc tầng lớp cao.”
Đúng thế, Hardcastle nghĩ, một miêu tả rất hay. Tầng lớp cao. Có thể thấy rõ trông Harry có vẻ thuộc một tầng lớp cao hơn thực tế rất nhiều. Một số người trông như thế, và điều đó rất hữu ích để họ đạt được những mục đích riêng.
Bà Rival nói, “Ông ấy lúc nào cũng đặc biệt quan tâm nhiều đến y phục và bề ngoài. Tôi nghĩ chính vì thế mà lũ chúng nó dễ dàng đổ vì ông ta. Lũ chúng nó chả bao giờ nghi ngờ gì cả.”
“Ai bị đổ vì ông ấy, hả bà Rival?” giọng thanh tra dịu dàng, thông cảm.
“Đàn bà,” bà ta đáp. “Lũ đàn bà. Đấy là nơi ông ta dành hầu hết thời gian.”
“Tôi hiểu. Và bà đã biết ra chuyện ấy.”
“À, tôi — tôi đã nghi ngờ. Tôi muốn nói ông ấy đã bỏ đi quá nhiều lần. Dĩ nhiên tôi hiểu bọn đàn ông là thế nào rồi. Tôi từng nghĩ có lẽ thỉnh thoảng lại có một cô. Nhưng hỏi bọn đàn ông chuyện ấy vô ích. Họ sẽ nói dối thôi. Nhưng tôi không hề nghĩ — không nghĩ ông ta lại lợi dụng để làm tiền.”
“Ông ta có làm thế sao?”
Bà gật đầu. “Tôi nghĩ chắc hẳn ông ấy đã làm thế.”
“Bà đã phát hiện như thế nào?”
Bà nhún vai.
“Một hôm ông ta trở về sau một chuyến đi. Đến Newcastle, ông ấy bảo thế. Dẫu sao ông ấy cũng trở về và nói mình đã phải chuồn thật nhanh, cuộc chơi đã kết thúc. Đã có con đàn bà nào đấy khiến ông ấy gặp rắc rối. Một giáo viên, ông ấy bảo thế, và chuyện có lẽ hơi thối tha. Khi đó tôi đã hỏi này nọ. Ông ấy không ngần ngại kể lại tôi nghe. Có lẽ tưởng tôi biết nhiều hơn thực tế. Lũ chúng nó thường bị đổ vì ông ấy, ông biết đấy, thật dễ dàng cũng như tôi trước đó. Ông ấy sẽ tặng một chiếc nhẫn và sau đó sẽ hứa hôn — rồi sau đấy ông ấy bảo sẽ đầu tư tiền giúp cho chúng nó. Chúng thường đưa tiền cho ông ấy hết sức dễ dàng.”
“Ông ta có làm như thế với bà không?”
“Quả thật ông ta đã cố, chỉ có điều tôi chả đưa đồng nào.”
“Sao không đưa? Ngay lúc ấy bà có tin tưởng ông ta không?”
“À, tôi không phải loại người bạ ai cũng tin tưởng. Tôi đã có cái mà ông gọi là một chút xíu kinh nghiệm, ông biết đấy, về bọn đàn ông, cách hành xử của họ và mặt trái của chuyện này chuyện nọ. Dù sao tôi cũng chả muốn ông ấy đầu tư tiền của tôi giúp cho tôi. Tôi có tiền thì có thể tự mình đầu tư. Lúc nào cũng giữ tiền trong tay mình đi, rồi chắc chắn mình sẽ có tiền! Tôi từng thấy quá nhiều đàn bà con gái tự biến mình thành kẻ ngu ngốc.”
“Ông ta muốn bà đầu tư tiền khi nào? Trước hay sau khi cưới?”
“Tôi nghĩ ông ấy đã gợi ý trước điều gì đại loại như thế, nhưng tôi không đáp ứng nên ông ta lập tức tránh vấn đề ấy. Rồi sau khi cưới ông ta bảo có một cơ hội tuyệt vời nào đấy. Tôi nói: ‘Không làm gì cả.’ Chẳng những tôi không tin tưởng ông ta, mà tôi đã thường nghe bọn đàn ông nói có chuyện gì đấy tuyệt vời, kỳ thực là bọn đàn ông chúng quơ sạch thôi.”
“Chồng bà có bao giờ gặp rắc rối với cảnh sát hay chưa?”
“Chả sợ gì,” bà Rival đáp. “Đàn bà không muốn cả thế giới biết mình đã bị lường gạt. Nhưng lần này rõ ràng có thể đã khác trước. Đứa con gái hay mụ đàn bà đó là một phụ nữ có học thức. Ả không dễ bị lừa như những đứa khác.”
“Có phải lúc ấy cô ta sắp có con hay không?”
“Phải.”
“Chuyện ấy có xảy ra vào những lần khác không?”
“Tôi nghĩ là có.” Bà nói thêm, “Thành thật mà nói tôi chả biết chuyện bầu bì được dùng để thúc ông ta làm gì. Hoặc chỉ là tiền bạc — có thể nói là một cách kiếm sống — hoặc ông ta đúng là hạng người phải lừa bịp đàn bà và ông ta thấy chả có lý do gì chúng nó không trả giá cho niềm lạc thú của ông ta.” Giờ đây giọng bà ta không còn cay đắng nữa.
Thanh tra dịu dàng hỏi: “Bà yêu ông ấy lắm, phải không bà Rival?”
“Tôi không biết. Thành thật mà nói tôi không biết. Có lẽ tôi đã gây trở ngại, hay lẽ ra đừng nên kết hôn với ông ấy…”
“Bà đã — xin lỗi bà — kết hôn với ông ta?”
“Tôi cũng không biết chắc chắn,” bà Rival thẳng thắn đáp. “Chúng tôi có làm lễ cưới đàng hoàng. Cũng trong một nhà thờ, nhưng tôi không biết có phải ông ấy từng cưới những người đàn bà khác, dùng một cái tên khác, tôi cho là như thế. Họ của ông ta là Castleton khi tôi lấy ông ấy. Tôi không nghĩ đấy là tên thật.”
“Harry Castleton. Đúng không?”
“Đúng.”
“Và ông bà đã sống ở nơi ấy như vợ chồng được bao lâu?”
“Chúng tôi đã ở đấy chừng hai năm. Trước đấy chúng tôi sống gần Doncaster. Tôi không nói mình thực sự ngạc nhiên khi ông ấy trở về ngày và kể tôi nghe. Tôi nghĩ mình đã biết chồng là một kẻ chuyên làm bậy rồi. Người ngoài không thể nào tin chuyện đó chỉ vì, ông biết đấy, trông ông ấy lúc nào cũng đáng kính quá đỗi. Luôn ra dáng là một quý ông!”
“Và rồi chuyện gì đã xảy ra?”
“Ông ấy bảo phải nhanh chóng đi chỗ khác và tôi nói ông ấy có thể đi, chúc đi đường bình an, tôi không chịu được tất cả chuyện này!” Bà nói thêm với vẻ trầm ngâm, “Tôi cho ông ấy mười bảng Anh. Đấy là tất cả những gì tôi có trong nhà. Ông ấy bảo đang thiếu tiền tiêu… Tôi chưa bao giờ gặp lại hay nghe nói về ông ấy kể từ dạo đó. Mãi đến hôm nay.”
“Ông ấy không có dấu hiệu đặc biệt nào để phân biệt rõ ràng hay sao? Một vết sẹo? Vết mổ — chỗ xương bị nứt gãy — hay cái gì đấy?”
Bà lắc đầu.
“Tôi nghĩ không có.”
“Ông ấy có bao giờ dùng cái tên Curry không?”
“Curry? Không, tôi không nghĩ thế. Dù sao tôi cũng chưa từng biết đến.”
Thanh tra đẩy tấm danh thiếp trượt trên mặt bàn sang chỗ bà.
“Cái này ở trong túi ông ta.”
“Vẫn tự xưng là nhân viên bảo hiểm nhỉ,” bà nhận xét. “Tôi đoán ông ta thường dùng — tôi muốn nói đã dùng những cái tên khác nhau, đủ kiểu.”
“Bà bảo chưa bao giờ nghe nói đến ông ta suốt mười lăm năm qua?”
“Ông ấy không hề gửi cho tôi thiệp Giáng sinh, có phải ông muốn nói thế không?” giọng bà ta pha một chút hài hước. “Dù sao tôi cũng không cho rằng ông ấy biết tôi ở đâu. Sau khi chúng tôi chia tay, tôi đã quay trở lại sân khấu một thời gian ngắn. Chủ yếu là đi lưu diễn. Vợ chồng sống chẳng ra sống bao nhiêu, nên tôi cũng bỏ luôn cái tên Castleton. Trở về với Merlina Rival.”
“Merlina là — ơ— không phải tên thật của bà, tôi đoán đúng không?”
Bà lắc đầu và một nụ cười vui tươi thoáng hiện trên khuôn mặt: “Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi. Không bình thường. Tên thật của tôi là Flossie Gapp. Florence, tôi cho rằng lẽ ra mình đã được đặt tên thánh như thế, nhưng mọi người vẫn luôn gọi tôi là Flossie hay là Flo. Flossie Gapp. Không lãng mạn chút nào, phải không?”
“Bây giờ bà đang làm gì? Vẫn đóng kịch chứ, bà Rival?”
“Thỉnh thoảng thôi,” bà hơi dè dặt. “Lên voi xuống chó, có thể nói như thế.”
Hardcastle rất khéo. Ông nói: “Tôi hiểu.”
“Tôi thường đi đây đi đó làm việc,” bà nói. “Giúp việc ở các đám tiệc, làm một chút công việc của người chủ trì đám tiệc, một kiểu việc làm. Sống không đến nỗi tệ. Dù sao đi nữa cũng gặp gỡ người này kẻ nọ. Thỉnh thoảng cũng lâm vào cảnh gần như túng quẫn.”
“Bà chưa bao giờ nghe bất cứ điều gì về Henry Castleton từ khi hai người chia tay — hay là nhắc đến ông ta?”
“Không một lời nào. Tôi nghĩ ông ta đã ra nước ngoài hay đã chết.”
“Điều duy nhất tôi có thể hỏi thêm, bà Rival ạ, vì sao Harry Castleton lại đến vùng này, bà có biết không?”
“Không. Dĩ nhiên tôi chẳng biết được. Ngay cả ông ấy đã làm gì những năm gần đây tôi cũng không biết.”
“Có khả năng ông ấy đến bán bảo hiểm lừa — cái gì đại loại như thế?”
“Tôi chả biết. Đối với tôi dường như chẳng có cái khả năng kinh khủng ấy. Tôi muốn nói Harry lúc nào cũng rất thận trọng về bản thân. Ông ấy không đưa cổ vào tròng để làm chuyện gì có thể bị điều tra đâu. Tôi nghĩ có nhiều khả năng hơn là nhì nhằng nhăng nhít gì đấy với đàn bà.”
“Có thể nào là một dạng tống tiền, bà có nghĩ thế không, bà Rival?”
“À, tôi không biết… Tôi cho rằng, vâng, kiểu vậy. Có lẽ mụ đàn bà nào đấy không muốn chuyện quá khứ bị bới móc. Ông ta cảm thấy khá an toàn khi làm vậy, tôi nghĩ thế. Xin ông lưu ý, tôi không nói là như thế, nhưng có thể như thế. Tôi không nghĩ ông ta muốn rất nhiều tiền, ông biết đấy. Tôi không nghĩ ông ta định đẩy bất kỳ ai đến chỗ tuyệt vọng, mà chỉ thu gom đôi chút thôi.” Bà gật đầu khẳng định. “Đúng thế.”
“Đàn bà thích ông ta, phải không?”
“Phải. Chúng vẫn luôn dễ dàng bị ông ta cưa đổ. Tôi nghĩ chủ yếu vì ông ta lúc nào cũng có vẻ thuộc tầng lớp cao và đáng kính. Chúng tự hào vì đã chinh phục được một người đàn ông như thế. Chúng trông mong một tương lai an lành tốt đẹp với ông ta. Có thể nói thêm đấy là con đường gần nhất. Chính tôi cũng từng có cảm giác thế đấy,” bà nói thêm một cách khá thẳng thắn.
Thanh tra bảo thuộc cấp: “Chỉ còn một vấn đề nhỏ nữa. Cậu mang những chiếc đồng hồ ấy vào đây, được không?” Chúng được bưng vào trên một cái khay phủ vải. Thanh tra nhanh tay lấy tấm vải đi rồi đưa cho bà Rival chăm chú nhìn. Bà xem xét chúng thật kỹ, có vẻ thành thật quan tâm và khen ngợi.
“Xinh xắn thật, phải không? Tôi thích chiếc ấy.” Bà sờ vào chiếc đồng hồ mạ vàng giả.
“Bà có từng thấy chiếc nào trong số này trước đây chưa? Chúng chẳng có ý nghĩa gì với bà sao?”
“Không thể nói là có. Chúng phải có ý nghĩa gì đấy hay sao?”
“Bà nghĩ có mối liên hệ nào giữa chồng bà vót cái tên Rosemary không?”
“Rosemary sao? Để tôi nghĩ xem! Có một con tóc đỏ — không phải, tên nó là Rosalie. Tôi e rằng mình không thể nghĩ đến bất kỳ ai. Nhưng mà có lẽ tôi không biết được, phải không? Harry luôn bí ẩn.”
“Nếu bà thấy kim đồng hồ chỉ đúng bốn giờ mười ba…” Hardcastle tạm dừng lại.
Bà Rival vui vẻ cười khúc khích.
“Tôi thiết nghĩ đã đến giờ dùng bữa xế rồi.”
Hardcastle thở dài.
“À, bà Rival ạ, chúng tôi rất biết ơn bà. Buổi sơ thẩm hoãn lại như tôi đã nói với bà sẽ là ngày kia. Bà sẽ không phiền khi cung cấp lời khai về nhận dạng, phải không?”
“Không. Không, không sao cả. Tôi chỉ cần nói ông ấy là ai thôi, phải thế không? Tôi sẽ không phải đề cập đến chuyện này chuyện nọ đúng không? Tôi sẽ không phải đề cập đến tính cách của ông ấy trong cuộc sống — bất cứ điều gì như thế?”
“Ngay bây giờ thì không cần thiết. Tất cả những gì bà phải tuyên thệ, là xác nhận ông ấy là người có tên Harry Castleton mà bà đã kết hôn. Ngày tháng chính xác sẽ có trong sổ bộ ở Nhà Somerset. Bà đã kết hôn ở đâu? Có nhớ được không ạ?”
“Nơi gọi là Donbrook — tôi nghĩ Thánh Michael là tên của nhà thờ ấy. Hy vọng cách đây không hơn ba mươi năm. Như thế khiến tôi có cảm giác đã gần đất xa trời,” bà Rival nói.
Bà đứng dậy, chìa tay ra. Hardcastle chào tạm biệt. Ông trở lại bàn làm việc, ngồi gõ nhẹ cây bút chì lên mặt bàn. Ngay sau đó trung sĩ Cray đi vào và hỏi: “Thỏa mãn chứ ạ?”
“Dường như thế,” thanh tra đáp. “Tên Harry Castleton — có khả năng là một bí danh. Chúng ta sẽ phải xem mình tìm được những gì về gã này. Dường như khả năng là có nhiều hơn một người đàn bà có lý do muốn trả thù hắn ta.”
“Trông cũng đáng kính quá chừng,” anh trung sĩ nhận xét.
“Dường như đấy là đồ nghề chủ lực của hắn,” thanh tra nói.
Ông lại nghĩ tới cái đồng hồ trên đó có ghi chữ Rosemary. Để tưởng nhớ?