An ordinary man can... surround himself with two thousand books... and thenceforward have at least one place in the world in which it is possible to be happy.

Augustine Birrell

 
 
 
 
 
Tác giả: Mark Winegardner
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Godfather’S Returns
Dịch giả: Phan Quang Định
Biên tập: Bùi Thanh
Upload bìa: Bùi Thanh
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3191 / 128
Cập nhật: 2016-05-03 19:52:17 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20
ác chuyên gia nêu ra nhiều yếu tố đã dẫn từ thời hoàng kim của La Cosa Nostra vào những thập niên năm mươi và sáu mươi của thế kỉ trước cho đến cái bóng mờ nhạt, phản trắc của nó hiện nay. Từng có nhiều cuộc điều trần ở Thượng viện lẫn Hạ viện. FBI đã chuyến hướng tiêu điểm từ Mối Đe Dọa Đỏ đến Các Ông Trùm. Khuynh hướng chung là trong mọi công việc làm ăn do những di dân thế hệ thứ nhất tạo ra thì thế hệ thứ nhì làm mất ổn định và thế hệ thứ ba làm cho phá sản. Cái giả định được truyền bá rộng rãi về phía những người Mỹ trung bình (được đưa vào cách suy nghĩ dòng chính bởi Mafia và nhấn mạnh bởi xì -căng -đan Watergate) đó là luật lệ và qui định là những thứ dành cho bọn khờ khạo! Những lợi nhuận càng lớn hơn có được bằng cách điều hành những doanh nghiệp hợp pháp để vớ được những hợp đồng béo bở không qua đấu thầu từ những người bạn có thế lực lớn trong chính quyền. Hầu hết các Ông Trùm bị đập cho khụy gối bởi Đạo luật về các tổ chức tham nhũng và ảnh hưởng bởi gian lận (Racketeer Influenced and Corrupt Organization Act, viết tắt là RICO). Đạo luật này trao vũ khí kết tội gian lận cho các quan tòa liên bang ở khắp nơi, đưa đến hậu quả là những thời hạn giam giữ lâu dài đối với các Ông Trùm và cảm nhận nơi nhiều góc tối của thế giới ngầm ở Mỹ rằng Omerta (Luật im lặng) càng ngày càng bị phá vỡ.
Những điều này đều rất quan trọng, tất nhiên, nhưng chúng trào ra từ một nguồn chung, một cú tát trời giáng có sức tàn phá khủng khiếp nhất đập vào giới tội ác có tổ chức ở Mỹ: đơn đặt hàng, được đưa ra chưa đầy một tháng trước cuộc hội nghị đầu tiên của mọi Gia đình(xã hội đen) trong một trang trại màu trắng ở Thượng New York, đặt làm hai tá bàn giấy bằng gỗ thích làm theo ý khách hàng.
Ngay cả nếu những cái bàn đã được làm theo đơn đặt hàng vào phút chót nhưng người thợ cả là người nào khác hơn là Ông Floyd Kirby, thì có lẽ là tất cả chúng ta đã sống trong một nước Mỹ rất khác. Chuyện này không chỉ vì người thợ mộc khác có thể dùng một hiệu sơn ít độc hại hơn nhưng cũng có thể bởi vì Ông Kirby kết hôn với một người chị em họ của một tay cảnh sát bang New York. Giáng sinh năm đó tay cảnh sát đã nghe về những cái bàn kia và anh ta đã đoán chừng chúng được đặt cho những loại người nào. Tay cảnh sát đã biết rằng người chủ của công ty bia sống trong căn nhà bị tình nghi là kẻ thao túng cảnh sát địa phương. Tay cảnh sát và đối tác của anh ta nói chuyện với nhiều người dân trong vùng, nhưng không ai thấy điều gì khác thường, hay là họ nói thế. Còn bình thường hay khác thường thì tự các anh cứ đi mà tìm hiểu.
Anh chàng cảnh sát ghi vào sổ tay công tác là cần để mắt theo dõi những chuyện xảy ra ở khu vực đó, nhưng ai biết anh ta có còn quan tâm chuyện đó không nếu như anh ta không mới vừa li dị vợ và nếu người phụ nữ sống trong chiếc xe kéo han gỉ gần con đường đưa đến trang trại không tỏ ra thân thiện trên mức hữu hảo đối với anh ta. Anh và ả bắt đầu hẹn hò nhau. Vào thời điểm các Gia đình họp thượng đỉnh lần thứ nhì, thì hai anh chị đã cưới nhau. Chị dời khỏi chiếc xe kéo, nhưng họ vẫn để chiếc xe nguyên tại chỗ vì chị sở hữu mảnh đất đó. Đôi lứa”rổ rá cạp lại” dự định sẽ có một ngày xây căn nhà hạnh phúc tại miếng đất trên. Ngày nọ ngẫu nhiên mà họ về lại chốn cũ, làm tình với nhau trên chiếc xe kéo kia để nhớ lại ngày xưa, khi cuộc diễu hành của những chiếc Cadillacs và Lincolns rầm rập ào đến trên con đường rải sỏi, ngang qua chiếc xe kéo.
Xin được phép nhắc lại câu “danh ngôn nho nhỏ” đã nói trước đây: để xây dựng quyền lực, đôi khi người ta phải kiểm soát những kẻ ít quyền lực nhất. Anh chàng cảnh sát giúi nhanh những tờ năm mươi đô cho các thư kí tiếp tân của các motels trong vùng(vùng này không có hotel mà chỉ có các motels, tức các khách sạn mini với tiện nghi tàm tạm thôi), với lời dặn là hãy cho anh ta biết nếu họ gặp một đợt bùng phát đặt phòng bởi những người ở ngoài bang mang họ tên gốc Ý (anh chàng cũng là một chuyên gia nhận diện chủng tộc theo bản năng). Năm tiếp theo anh ta có đủ thông báo trước để tiến hành một chiến dịch.
Chiến dịch này suýt không xảy ra. Người chỉ huy của anh ta không thấy đáng để phân phối thêm người cho cuộc điều tra ngoài chính anh ta và đối tác của anh ta thôi. Không ai ở FBI chịu trả lời các cuộc gọi của anh. Trong một cố gắng cuối cùng anh ta liên lạc Cục Rượu, Thuốc lá và Hỏa khí. Người tiếp chuyện anh ta là một chàng trai trẻ năng nổ. Anh chàng cảnh sát cũng tự mình thực hiện một số cuộc gọi cho các phóng viên. Ngày hôm sau anh ta và đối tác của anh ta ngồi trong chiếc xe kéo cũ của vợ anh ta với cặp ống nhòm hai mắt. Hai mươi nhân viên Cục Rượu, Thuốc lá và Hỏa khí chuẩn bị tư thế sẵn sàng trong những chiếc công xa Chevrolets màu xám tại một trạm xe tải bên ngoài xa lộ chính, chờ đợi cuộc gọi. Trong những chiếc xe mướn đậu đàng sau những chiếc Chevys là đám báo chí, khoảng một trung đội phóng viên ảnh và phóng viên viết và cả một phóng viên truyền thanh từ Albany.
Những gì diễn ra sau đó sẽ nằm trên trang nhất của mọi tờ báo lớn ở Mỹ và trang bìa của tạp chí Life. Ngay cả nhiều năm sau đó, hầu hết độc giả cũng còn quen thuộc với sự kiện đó: cuộc đột kích vào trang trại màu trắng kia và những người chứng kiến bọn họ đi đến rồi bỏ chạy tán loạn.
Những bức hình nổi tiếng: những con người nặng kí trong những bộ đồ lụa chạy ì ạch qua rừng cây. Lão béo Rico Tattaglia và lão Paulie Fortunato, còn béo hơn cả lão kia, bị còng tay trong khi một con lợn đực thiến đang quay trên một cái xiên đàng sau họ. Các nhân viên công lực ngồi xổm kế bên các giá cưa tại một rào chắn trên con đường có hàng cây hai bên, súng rút ra khỏi bao, lúc các Ông Trùm của Detroit, Tampa và Kansas City lộ diện từ những chiếc xe của họ (những chiếc xe bọc thép và có kính chống đạn). Tay cảnh sát bang, cười rạng rỡ như vừa bắt được con cá lớn trong hồ, trong khi gã đàn ông bên cạnh anh ta - Ignazio Pignatelli, có hỗn danh Jackie Ping-Pong (những hỗn danh, lạy Chúa! Sao mà công chúng thích những hỗn danh đến thế!) - che khuôn mặt tròn núc ních của lão ta bằng cả hai tay.
Những người đó bị đưa về trụ sở cảnh sát bang gần nhất và bị buộc tội - nhưng là tội gì đây? Chuyện này hóa ra lại là vấn đề. Coi bộ khả nghi đây, khi tất cả những con người này tụ tập với nhau trong trang trại nọ, nhưng “coi bộ khả nghi” hay ngay cả là “khả nghi lắm”, “khả nghi quá” đi nữa thì tự thân điều ấy chưa phải là yếu tố cấu thành tội phạm. “Có lẽ sẽ là an toàn khi nói rằng,” người chỉ huy đám nhân viên công lực phát biểu với báo chí New York, “tất cả đám người Ý đó trong những bộ quần áo khá đặc thù, lập dị, không đến từ khắp mọi nơi của nước Mỹ, có người vượt cả đoạn đường vài ba ngàn cây số, có người thậm chí phải đi qua đến bốn năm ngàn cây số, chỉ để cùng nhau quay một con lợn, ăn vài miếng bánh mì với dăm ba lát thịt heo quay, uống với nhau vài cốc rượu, nói chuyện bù khú với nhau một hồi cho thỏa tình đồng hương đồng khói rồi về. Thế thôi! Có thể là thế chăng? Còn thực sự họ đến đó làm gì? Chuyện này thì không một ai có ý tưởng nào, ngoại trừ chính những người
trong cuộc, nhưng họ đâu nói gì ngoài lí do họp mặt đồng hương cho thỏa lòng “tình thương mến thương”! Cảnh sát ở một xứ tự do dân chủ như Huê kỳ thì đâu có quyền gì mà tra tấn để bức cung, buộc người ta phải khai nhận tội. Còn anh muốn suy đoán mò gì gì đó thì mặc anh nhưng đâu có thể dùng những suy đóan vô bằng của anh để kết tội ai được.
Rất nhiều luật sư tài danh đã nhanh chân nhạy miệng nhảy vào ngay. (kể cả một cựu phụ tá tổng chưởng lí của Hoa kỳ, đối tác tầm cỡ của hãng luật lớn nhất ở Philadelphia thời ấy, và có thời là Hạ nghị sĩ Liên bang, Thomas Hagen, đại diện của bang Nevada). Các vị này đủ kiến thức luật học để chỉ ra rằng Hiến pháp Hoa kỳ bảo đảm quyền tự do hội họp của mọi người miễn rằng không đưa đến những hành động gây hại cho xã hội.
Những người bị bắt giữ này nêu lên quyền được hiến pháp bảo đảm của họ đó là quyền không phải làm chứng chống lại chính mình. Hậu quả là chỉ một ít người bị kết tội cản trở công lí - những lời buộc tội mà sau đó, đúng theo nghĩa đen, đã bị cười nhạo khi ra khỏi tòa. Mặc dầu những cố gắng của vô số thẩm phán bang và liên bang, hậu quả trực tiếp duy nhất của cuộc đột kích chỉ là việc trục xuất ba người bị bắt giữ về lại Sicily, trong đó có một người là Salvatore Narducci ở Cleveland, người này đã sống ở Mỹ từ khi mới là đứa trẻ sơ sinh, đã hơn sáu mươi năm. Ông ta khiếu nại rằng mình không hề biết là mình lại chưa trở thành công dân Mỹ, nhưng yêu sách của ông ta bị khước từ vì đâu phải anh đến Mỹ từ nhỏ là đương nhiên trở thành công dân Mỹ mà anh phải hoàn tất một số những thủ tục nào đó thì về phương diện luật pháp anh mới là công dân Mỹ. Và thế là lão phải bỏ dở giấc mộng kế thừa sự nghiệp Ông Trùm Cleveland. Nhưng chuyện này cũng chưa biết là họa hay phúc đây. Có thể lại là phiên bản của Tái ông mất ngựa. Xin để... hạ hồi phân giải!
Những hậu quả gián tiếp, tuy thế, lại rất nhiều. Khi các tờ báo với những câu chuyện về cuộc đột kích nhan nhản trên các trang nhất phơi bày la liệt trên các đường phố chính trên khắp nước Mỹ, đó là lần đầu tiên nhiều người nghe đến những từ như Mafia và La Cosa Nostra. Những câu chuyện một phần dựa trên các sự kiện có thật, một phần dựa vào suy diễn và rất nhiều phần dựa vào tài năng thêu dệt thêm mắm dặm muối (gọi một cách văn hoa là trí tưởng tượng sáng tạo) về sự tồn tại cho đến nay chưa ai nghĩ tới của một nghiệp đoàn tội ác quốc tế. Rất nhiều đầu đề sử dụng từ đó: nghiệp đoàn. Cái từ này không hề chói tai đối với người Mỹ mà nghe ra chỉ có tính toán học một cách mơ hồ. Và nước Mỹ thì không phải là một xứ sở mê toán cho lắm.
Một sự phản đối ầm ĩ của công chúng bùng lên: Chúng là ai, những quân vô lại đó?
Trước cuộc đột kích, những tay cớm và những sĩ quan cảnh sát, những viên chức Nhà nước thoái hóa, những chính trị gia mang ơn mắc nợ các trùm giang hồ cùng những cây bút viết cho các tạp chí như Manhunt (Săn người) và Thrilling Detective (Thám tử giật gân li kỳ) tất cả đều biết nhiều về những người ở trong trang trại màu trắng đó - và về những uomini rispettati(những người khả kính) làm việc cho những quân vô lại đó và về những tên lưu manh đường phố làm việc cho những con người đó, hơn là FBI biết.
Thời đó sắp chấm dứt rồi.
Ngày nay, hai mươi ba cái bàn gỗ thích rất chắc chắn với kiểu dáng đẹp, dã được đóng thùng và bảo quản trong một nhà kho tại một địa điểm không được tiết lộ ở trong hay ở gần District of Columbia (tức thủ đô Washington). Theo qui định thì chiếc bàn thứ hai mươi tư lẽ ra phải được trưng bày thường trực tại Viện bảo tàng Smithsonian. Một tấm biển gắn vào chiếc bàn ghi dòng chữ này: Chiếc bàn này đã giúp giáng xuống một cú đấm quyết định làm tan tác tội ác có tổ chức tại Mỹ. Với một đầu lâu lợn đực ở trên, cùng với một mô hình theo tỉ lệ của căn nhà xe kéo han gỉ.
Nhưng thay vì thế, cái bàn đó lại được gửi từ nhà trắng này đến nhà trắng khác. Từ 1961 chiếc bàn đó được sử dụng thường xuyên ở trong hay gần Phòng Bầu dục (Phòng họp của Tổng thống trong Nhà Trắng).
Tom Hagen không lao vào vụ này, tất nhiên rồi. Chỉ là có vẻ như vậy thôi. Khi các thám tử đặt câu hỏi làm thế nào mà một người sống ở Nevada lại đến Thượng New York nhanh đến thế Hagen nói rằng mình đã ở Thành phố New York, rằng mình vẫn thường hay đến thành phố này, và điều này thì đúng.
Hagen nằm trong số những người trẻ hơn ở đó. Anh đến từ dưới chân ngọn đồi chạy theo một con đường hai bên là đá cho đến khi gặp một thị trấn. Anh đi vào một quán ăn nhỏ ven đường. Không có ai tìm kiếm bất kỳ một người nào trông giống Tom Hagen, còn chiếc xe mà anh ta đã lái tới đó, hiện giờ đang đỗ phía sau trang trại, thì được đăng kí chủ quyền cho một... bóng ma. Anh ngồi trong một cái quầy và bình thản dùng bữa trưa. Rồi anh đi đến Woolworth’s mua một cái va-li và theo hướng đi về phía tòa án quận. Tòa án ở phố kế bên. Anh trở lại chỗ quán ăn và gọi một chiếc taxi. Hành lí cầm tay giống như bất kỳ một du khách bình thường nào, không có gì đáng để ý, Hagen làm thủ tục lấy phòng khách sạn ở quận lị. Anh bước vào tiệm hớt tóc gần tòa án nhất. Vào lúc trả tiền cho anh thợ cạo, Hagen đã được tin sơ qua về những gì đã xảy ra. Anh gọi về dịch vụ điện thoại ở Las Vegas. Anh trở lại khách sạn và ngủ một giấc ngắn. Vài giờ sau điện thoại reng đánh thức anh dậy. Đó là Rocco Lampone, gọi từ Tahoe. Hagen gọi taxi đến trụ sở cảnh sát bang gần nhất. Michael không nằm trong số những người bị bắt, nhưng, như một cử chỉ thiện chí, Hagen đề nghị trợ giúp pháp lí cho vài người bạn của gia đình.
Vào năm 1959, với lời thề trên Kinh thánh và trước một tiểu ban của Thượng viện Mỹ, Michael Corleone xác nhận rằng mình không có mặt tại trang trại đó. Anh phủ nhận mình ở trong số những người đã thoát khỏi một hành động rõ ràng là phi pháp của cảnh sát.
Nói một cách chặt chẽ thì Michael Corleone đã kể sự thật.
Anh ta và Hagen đã lái xe đến đó riêng rẽ, vì nhiều lí do về công việc lẫn an ninh. Nếu Michael là người đúng giờ giấc như bố anh thì chắc chắn anh cũng đã ở trong số những người phải trườn xuống sườn đồi, quần áo mặt mày nhem nhuốc và phẩm giá cũng bị ô danh. Đúng, anh đã từng thoát khỏi những tình huống còn ác liệt hơn với mưa bom bão đạn và những chiếc Thần phong Kamikaze của các phi công cảm tử Nhật cứ nhắm tàu anh mà lao xuống còn dưới biển thì đạn pháo cao xạ túa lên dày dặc để khiến những chiếc máy bay liều chết kia nổ tung thành những quả cầu lửa trên không. Một cảnh tượng bi thảm nhưng vô cùng hào hùng và không thiếu phần ngoạn mục!
Nhưng đó là chuyện đã qua hơn mười mấy năm rồi. Ai biết chắc được là anh có thể chạy đủ nhanh và đủ xa để tránh khỏi bị bắt?
Anh đã không phải tìm ra giải pháp - đơn giản là vì, như thường lệ, anh đến trễ, thực sự là trễ quá mức đến độ họ đã khai mạc cuộc họp mà không có anh. Chỉ một tích tắc trước khi Michael nháy đèn hiệu quẹo vòng lối đi rải sỏi, anh chợt thoáng thấy cái gì vàng vàng ở trong bụi không xa chiếc xe kéo han gỉ kia là mấy. Anh liền rụt tay lại, không nháy đèn hiệu mà đặt tay lại lên vô -lăng và tiếp tục lái thẳng. Anh đi qua lối đi nội bộ kia và bắt đầu vòng một tua. Nhìn vào kính chiếu hậu anh thấy hai người - hình như là cớm - đang kéo hai cái giá cưa màu vàng từ trong bụi kia ra.
Chiếc xe anh đang sử dụng là một chiếc Dodge màu xanh, đã hơi cũ, được trang bị một máy phân hình (scanner) của cảnh sát (Al Neri từng là một tay cớm; cả chiếc xe loàng xoàng không có gì nổi bật lẫn cái máy phân hình đều là ý tưởng của anh ta). Michael dò tìm tầng số mà các nhân viên ATF đang sử dụng.
Anh nện tay xuống vô -lăng mạnh hết mức có thể và để thoát ra tiếng rú đau đớn.
Lần này anh đã dự định là lần xuất hiện cuối cùng tại một cuộc họp của Ủy ban thường vụ hay của tất cả các Gia đình. Anh dự trù thương lượng để thông báo với toàn thể anh hùng thiên hạ ý định “rửa tay gác kiếm”, ra khỏi vòng cương tỏa của mọi ân oán giang hồ. Sau ngày hôm nay, anh sẽ đẩy mạnh và đi đến quyết định dứt khoát về chuyện làm ăn ở Cuba và anh sẽ trở thành một doanh nhân hoàn toàn hợp pháp. Anh đấm mạnh xuống vô -lăng lần nữa.
Bình tĩnh nào, anh nghĩ. Hãy suy nghĩ một cách sáng suốt.
Anh đốt lên một điếu thuốc. Anh ngồi dựa lưng vào ghế, cố gắng hít thở những hơi dài và đều, lắng nghe cuộc đột kích mà anh vừa thoát khỏi trong đường tơ kẽ tóc. Đó là âm thanh của một thế giới đang đi đến hồi chung cuộc. Thế nhưng anh vẫn còn nhiều vướng mắc nên khó có thể đường hoàng, thảnh thơi đi vào thế giới mới mà anh hằng ao ước bước vào để tạo một nền tảng khác, yên bình hơn cho con cháu mai sau.
Michael Corleone chẳng có ý tưởng nào về việc con đường hẹp, quanh co này sẽ dẫn đến đâu. Mặt trời dọi thẳng xuống đầu, và anh cũng không thể biết là mình đang đi theo hướng nào. Thế nhưng anh cứ tiếp tục lái xe về phía trước, thận trọng tuân thủ các luật đi đường và nhìn kỹ các biển báo. Anh đâu còn chọn lựa nào khác? Chắc chắn là anh không thể quay vòng và trở lại con đường anh đã đến.
Fredo không thức dậy với ý nghĩ, Hôm nay là ngày ta phản bội em ta. Anh ta không khởi công làm việc đó, và, như Nick Geraci đã tiên liệu, Fredo không biết mình đã làm gì ngay cả sau khi anh ta đã đóng dấu ấn vào số phận mình bằng cách làm điều đó. Thay vì thế ngày của anh ta bắt đầu khi, trong dãy phòng ở Chateau Marmont, Deanna Dunn đi ra khỏi phòng tắm và còn nồng mùi rượu gin từ tối qua, tuồn người lại vào giường bên cạnh anh chồng đang ngủ.
“Nào, cưng ơi,” nàng ta kêu rừ... rừ... như con mèo cái lên cơn động cỡn, bắt đầu dùng chiếc khăn tay
để buột cổ tay của chàng vào chân giường.
Fredo quơ cánh tay kia. “Em đang làm cái gì thế?”
“Hãy chứng tỏ tinh thần thượng võ đi, chàng trai,” nàng nói. “Mấy giờ vậy? Anh còn phải ngủ độ một tiếng nữa đã, cưng à.”
Nàng nhăn mày và ném cái khăn sang bên. “Anh không muốn tôi tỏ ra khát tình với một bạn diễn mới chứ?” nàng gằn giọng. “Thế nào, muốn hay không muốn đây?”
Chuyện này hơi căng đây. Anh không ăn được thì tôi cho người khác ăn chứ để không mãi rồi nó mốc meo thiu thối phải đổ bỏ thì lại phí của giời! Ai chớ cái ả quái quỉ này dám nói dám làm cái một chứ chẳng chơi đâu!
Thế là chàng Fredo dầu muốn hay không muốn cũng phải vội vàng cho nàng cái nàng muốn. “Hãy cố gắng làm cái gì hơn là chỉ lên xuống, lên xuống nhé,” nàng lệnh.
Chàng đang ở trên. Câu nói của nàng chẳng êm tai với một trượng phu nam tử chút nào! Thế nên chàng cũng cố biến chiêu đổi thế này kia nọ theo pho sách “tam thập lục thức nam nữ phòng trung bí thuật” để mong chiều lòng nàng.
“Đừng có làm cách mạng nửa vời nhé,” nàng khích tướng. “Anh biết rồi, cách mạng nửa vời là tự sát đấy!”
“Để em cộng tác với anh chơi mô-đen quằn quại nhé?” Trước khi chàng kịp trả lời nàng đã nhanh chóng biến thế và vào thế sẵn sàng. Tính nàng vốn thế. Nói là làm ngay.
Luôn nhanh chóng sẵn sàng với mọi việc. Với khả năng ứng diễn tuyệt vời, không cần ai chỉ đạo diễn xuất cả. Một nữ diễn viên hai lần đoạt giải Oscar thì tất nhiên là tài diễn xuất phải ưu việt, hơn hẳn người khác rồi!
Nàng chổng cả bốn vó, hai đùi hơi giạng ra, mặt ngước lên, môi miệng mở rộng, tham lam. “Nhưng mà đừng vào lỗ sau nhé,” nàng dặn dò.
“Anh sẽ không làm thế đâu,” chàng đáp. Tại sao nàng vẫn tiếp tục vểnh phao câu? Để làm gì khi vũ khí của chàng đã không còn “năng cử” nữa. Chàng mất khả năng chi trả rồi. Chàng buông vật người xuống nệm, chán chường.
“Đừng có mà như thế,” nàng nói, vươn tay ra để nắm cu chàng. “Không sao mà.” Fredo gạt tay nàng ra. “Nhưng mà có sao với anh đấy.”
“Chỉ tại anh uống quá nhiều thôi,” nàng nói. “Em nên biết thế,” chàng bảo.
Họ nằm bên nhau, nhìn vào hình ảnh chính mình trong tấm gương mà nàng đã chi tiền cho khách sạn để họ gắn nó lên trần giường ngủ. Sau một hồi, Deanna bèn tự thân vận động để tự xử. Và một cách khá là thô bạo với chính mình. Fredo đốt một điếu thuốc và khảo sát. Nghĩ về chuyện này thấy có vẻ nhơ nhuốc nhưng lại kích thích chàng. Chàng ta cố tránh nhìn hình ảnh anh chàng đầu hói bụng tròn với thằng bé xuội lơ cán cuốc tựa người uể oải một cách vô dụng lên đùi mình. Deanna trồng hai chân lên giường, vểnh mông và thực hiện một sô lớn về lắc hông, tự massage và tự khoái. Sau đó nàng hôn chàng. Chàng lăn ra xa. Họ nằm đó và lại trải qua một khoảng lặng dài khác.
“Fredo,” cuối cùng nàng nói. “Này cưng. Em muốn anh biết rằng em biết. Trước giờ em vẫn biết.”
“Vẫn biết cái gì?” Fredo ra khỏi giường và đi tiểu. Chàng biết nàng có ý chỉ gì. Cơn giận tràn dâng khắp người chàng.
“Đây là Hollywood. Ngành giải trí là thế, anh biết chứ? Nhiều người có những cuộc hôn nhân vốn chỉ là vỏ bọc cho... ờ, chuyện đó. Được thôi. Tôi chỉ yêu cầu một chỗ ấm áp để buổi tối đi về, và có lẽ là đôi điều gì đó dễ chịu một khi ở trên -”
“Em đang nói về cái đéo gì vậy?”
“Chẳng có gì.” Nàng thở ra. “Thôi quên đi.”
Fredo rửa tay và đứng trong ô cửa đi vào phòng tắm. “Tôi muốn biết.” Anh đưa nắm đấm lên và đập nhẹ vào khuông cửa. “Hãy nói tôi nghe.”
“Anh sắp làm gì nào? Định đập tôi hở? Hay bắn con chó nhỏ khác? Tôi đang nói cho anh hay rằng tôi hiểu anh là thế nào. Tôi không biết là tha thứ có phải là từ đúng hay không, nhưng -”
“Tha thứ cho tôi về cái gì cơ chứ?”
Anh có thể ném nàng qua cửa sổ. Nàng là một... con chó cái tham dâm, nát rượu với một sự nghiệp đang xuống dốc. Hàng ngày vẫn có khối người như thế nhảy qua cửa sổ.
“Thực vậy,” nàng nói. “Quên chuyện đó đi. Xin lỗi vì đã khơi lên.”
Nếu gặp tay anh hay em chàng thì nàng đã nhừ đòn rồi. Fredo biết như thế. Họ nghĩ anh yếu đuối. Mọi người nghĩ thế, chứ anh thì không. Anh mạnh chứ không hề yếu. Phải có sức mạnh mới không ném nàng qua cửa sổ hay đánh đập nàng. Fredo giữ cho hơi thở đều một cách hoàn hảo và gọi đem bữa điểm tâm lên phòng. Khi bữa ăn sáng được mang đến anh không ném đĩa thức ăn vào mặt nàng. Anh bình thản
dùng bữa và bình thản đợi nàng rời đi.
Một khi nàng đã đi xa khỏi tầm nghe, anh ném mạnh ly cam vắt vào cửa chính.
Anh cầm cái đèn để bàn lên và nện cái đế bằng sắt của nó vào màn hình Tivi. Anh quẳng cái gạt tàn bằng thủy tinh màu xanh lá cây vào dãy chai rượu mùi đàng sau quầy bar. Anh lấy một con dao và, với thời gian thong thả, rạch nát chiếc ghế xô-pha, các chiếc ghế bọc nệm da, giường, chăn gối, mùng màn... nói chung là mọi thứ các cái đều cho te tua tơi tả!
Chẳng vì một lí do đặc biệt nào nhưng những vật duy nhất trong dãy phòng mà anh cẩn thận chừa lại là quần áo và đồ trang sức của Deanna. Và quần áo của anh. Ngoài ra thì anh phá hủy bất kỳ thứ gì có thể phá hủy. Chắc chắn là nhiều người nghe tiếng đập phá, nhưng không ai đến để ngăn cản anh ta.
Cuối cùng anh rút súng ra. Một khẩu súng xấu xí tồi tàn chứ không phải thứ đồ chơi xinh xắn như những khẩu Colts. Anh đi vào phòng tắm, nhìn thấy cái chậu rửa đít bằng sứ, mà anh chưa bao giờ hình dung ra cách sử dụng như thế nào hay là chỉ để cho đàn bà. Kẻ nào lại ngu ngốc đi phí tiền sắm cái thứ trông chả ra cái quái gì cả đó? Bắn bỏ nó đi cho rồi. Anh tuôn vào đấy một loạt đạn. Rốp, rốp, rốp cái chậu vỡ dòn tan. Một mảnh sứ xẹt qua, rạch một vết dài và sâu vào má anh nhưng anh hầu như không cảm nhận.
Anh nhìn vào bóng mình trong chiếc gương của phòng tắm. Anh nã một phát đạn vào phản ảnh cái đầu hói của mình trong gương. Rồi anh bắn luôn cái gương gắn trên trần ngay chỗ giường nằm. Cơn mưa mảnh vỡ thủy tinh lấp lánh trông thật ngoạn mục. Đời anh cho đến nay đã là cái gì ngoài bốn mươi ba năm toàn vận rủi? Nếu có sống thêm mươi, mười lăm năm nữa, sẽ là cái gì chờ đợi ta đây?
Fredo nhìn đồng hồ. Một ngày đã qua, đã rời xa ta. Anh đã dự định gặp Jules Segal và một vài nhà đầu tư tiềm năng tại một nhà hàng của Gussie Cicero trong khoảng một giờ. Fredo gọi đến quầy tiếp tân và nói rằng hôm qua hai vợ chồng vì vui quá nên đã quậy tưng bừng. “Bạn có thể gửi người lên kiểm kê thiệt hại,” anh nói. “Cứ tính vào phiếu thanh toán cho tôi. Cứ tính cho đúng, tôi sẵn sàng trả, không thắc mắc gì đâu.”
Thư kí hỏi Fredo có nghe tiếng súng không?
“Ồ, chuyện đó,” Fredo nói. “Tôi mở hết volume xem phim cao bồi.”
Anh gác máy. Anh đá một phát vào chiếc Tivi hư nát. Anh đi vào phòng tắm ngập nước lênh láng và khóa nước bồn toa -lét. Anh nhìn quanh dãy phòng. Một cảnh tượng bừa bãi ngổn ngang trông đến khiếp, nhưng cuối cùng, tất cả những gì anh hoang phí về chuyện này là một ngày. Anh đã tiêu mất bốn mươi ba năm vào cái đống hoang tàn mà anh tạo ra từ cuộc đời mình. Anh túm lấy chiếc áo tuxedo và những điếu thuốc tẩm ma túy. Anh có thể thay đồ ở nhà hàng của Cicero.
Sau hai lần yêu cầu của khán thính giả, J.J. White Jr. rời sân khấu, người đẫm mồ hôi trong khi khán giả đứng dậy hoan hô. Fredo và Jules Segal ngồi ở một bàn phía trước, cùng với hai luật sư ở Beverly
Hills, Jacob Lawrence và Allen Barclay - những người bạn của Segal và cũng là những người chủ sở hữu đăng kí của một casino ở Vegas vốn thực ra là thuộc về Vincent Forlanza. Fredo đã phân bổ hai tiểu minh tinh trẻ đẹp để cặp bồ với hai luật sư đã có vợ. Còn đào của Segal là Lucy Mancini trước kia vốn là bồ ruột của Sonny Corleone.
Figaro và Capra ngồi ở bàn kế bên với các em gà của mình, nhìn vào lưng Fredo. “Xong rồi, Bác sĩ,” Fredo nói, ngồi xuống. “Tôi có lí thuyết này.”
“Tôi biết anh sắp nói gì,” Segal nói. “J.J. hay hơn khi anh ta hát solo và không chạy theo luồn cuối Johnny Fontane.”
“Lí thuyết của tôi,” Lawrence nói, “đó là người Do thái là những nghệ sĩ giải trí hay nhất. Điều đó đã ăn sâu vào trong máu của chúng tôi.”
Câu này không làm cho Barclay và Segal vui cho lắm. Còn White là một chàng Da đen kết hôn với một cô nàng Do thái và cải sang Do thái giáo. Lawrence, Barclay và Segal đều là dân Do thái từ khi mới lọt lòng.
Fredo nhíu mày. “J.J. hay đấy nhưng tôi đâu có nói gì về chuyện hát hỏng đâu,” anh nói. “Tôi đang muốn nói đến chuyện thu xếp công việc làm ăn của chúng ta ở New Jersey. Lí thuyết của tôi là, cái mẹo để lôi kéo người ta vào bất kỳ chuyện gì là bạn khiến cho họ nghĩ rằng, trước tiên, đó là ý tưởng của chính họ.”
“Anh vừa mới hình dung ra điều ấy?” Segal hỏi. “Anh bao nhiêu tuổi rồi?” Mới mấy năm trước đây thôi, tóc anh đã xám bạc. Giờ đây tóc anh mang màu sô-cô-la sữa. Khuôn mặt rám nắng của anh chỉ sáng hơn bóng râm một tí.
Fredo gượng cười. “Điểm chính yếu là, tôi có thể xoay lắc mọi chuyện và làm cho người ta nghĩ rằng họ là người đã nghĩ ra chuyện nghĩa trang đó, nhưng đó không phải là cách tôi làm ăn. Tôi không khiến bạn phải hao tốn tiền của công sức vô ích đâu. Bạn không muốn tham gia vào dự án này? Tin tôi đi, tôi biết có hàng trăm người muốn đấy. Nhưng Jules này, bạn đã giúp tôi giải quyết hậu quả để thoát khỏi hàng lố vụ rắc rối với các bà các cô; điều tối thiểu mà tôi có thể làm là đem lại cơ hội này cho bạn. Cả những người bạn của bạn nữa. Bạn của Jules thì cũng là bạn của tôi. Tôi cũng là bạn với những người bạn ở Cleveland của bạn nữa. Tôi và Nick Geraci, có lẽ bạn biết anh chàng ấy, chúng tôi rất tâm huyết với dự án này. Đến thời điểm thích hợp, anh ta sẽ hợp tác chặt chẽ với tôi trong chuyện này, tin tôi đi. Còn ông trùm Do thái?anh nói, ý chỉ Forlenza. Chỗ quen thân từ lâu mà.” Thực ra Fredo chưa từng để mắt đến nhân vật này. “Nói vắn tắt là, đây là ý tưởng của tôi, đúng không? Nhưng tạm để qua một bên lòng tự hào của bạn, và bạn sẽ thấy rằng nếu bạn tham gia vào chuyện này thì tất cả bọn ta sẽ lập ra một Sở Đúc Tiền đấy.”
Capra vùi đầu vào mái tóc của cô bạn. Tiếng Anh của chàng ta quá”liêu xiêu” để có thể nắm bắt những gì đang được bàn bạc ở bàn kế bên. Đàng khác Figaro lại ngạc nhiên là Fredo lại có vẻ hạ mình đi nài
nỉ kẻ khác vì tiền bạc - mặc dầu Geraci từng tiên đoán rằng có lẽ đây là chuyện sẽ xảy ra. Trước đây Figaro thường cắt tóc cho Geraci; mối quan hệ đầu tiên của anh ta với Gia đình Corleone là qua Tessio (một khách quen khác). Càng sống lâu ở Nevada và California Figaro càng tin chắc rằng những đứa con của Vito đang phá hỏng hết mọi sự. Căn cứ địa quyền lực của Gia đình này là ở New York - nơi Figaro được sinh ra và nơi mà tình cảm của anh ta mãi lưu luyến sâu đậm. Vả chăng anh ta là người của Nick Geraci mà.
Gussie Cicero và Figaro nháy mắt nhau ngang qua phòng. Figaro gật đầu. Gussie đi nói với Mortie Whiteshoes và Johnny Ola rằng họ đã có sự mở đầu cần thiết để khiến Fredo giúp họ làm cho ông chủ của họ và Michael tiến hành những cuộc thương lượng hai bên cùng có lợi. Theo như Gussie hiểu, chính anh ta đang làm một ân huệ vô hại, và Figaro vừa xác định rằng Fredo đang nói về bất kỳ điều gì mà anh ta dự định đến đây để nói về. Theo như Gussie Cicero hiểu, ý tưởng đặt Ola và Whiteshoes cùng với Fredo Corleone - dầu vì lí do gì - đã đến từ Jackie Ping-Pong. Theo như Jackie Ping-Pong hiểu, ý tưởng là của Louie Russo. Theo như Russo biết, đó là ý tưởng của lão Do thái Vincent.
“Rất có thể đó là một ý tưởng hay, Fredo à,” Segal nói. “Nhưng những ý tưởng hay cũng chẳng để làm gì.”
Fredo gãi đầu.
“Cái làm cho một ý tưởng có giá trị,” Segal nói, “là biết làm gì với ý tưởng đó.”
Đây quả là một biểu lộ bất kính khó nuốt trôi từ một tên Do thái tự cho mình quan trọng, một kẻ lẽ ra đã không bao giờ có lại được mảnh bằng y khoa nếu như nhà Corleones không đề nghị với người đứng đầu hội đồng xét lại một món quà mà ông ta không thể từ chối. “Tôi biết,” Fredo nói gần như thì thầm, cố tình bắt chước vẻ đe dọa yên lặng mà bố anh và em anh vận dụng một cách rất tự nhiên,” làm gì với ý tưởng đó.”
Những người ngồi cùng bàn không tỏ ra dấu hiệu gì là bị đe dọa.
“Có thể là thế,” Lawrence nói, “nhưng chúng ta cần xem xét các chi tiết. Những sắc luật sẽ khó có thể được thông qua. Ngay cả nếu bạn tiến hành, thì những nghĩa trang hiện có và những doanh nghiệp liên quan chắc chắn sẽ tìm cách vận động để khiến cho những luật mới bị đánh đổ. Tôi không biết mọi chuyện diễn ra như thế nào ở San Francisco hay tại sao như thế, nhưng chuyện ấy không thành vấn đề. Bởi vì bang khác, thời thế khác. New York khác San Francisco. Và chuyện cách nay ba bốn mươi năm là đã cách nhau hai thế kỉ rồi. Ngày nay làm chuyện gì lớn bạn phải cần sự tư vấn của các luật sư, các chuyên gia, các chính trị gia nhiều hơn. Nhiêu khê lắm. Tốn kém lắm”
“Các bạn khác có ý kiến gì?” Fredo đánh tiếng.
Lawrence nhún vai. Mấy chị em phụ nữ đã trở lại bàn sau khi tìm chỗ để sửa sang trang điểm. “Còn có những vấn đề khác,” Segal nói. “Trình bày đi, Allen.”
“Các nghĩa trang,” Barclay nói,” phải có thể được duy trì cho đến tận cùng thời gian chỉ với niềm tin. Nói cách khác, anh đang đặt tất cả sự nghiệp anh vào dự án này, điều mà từ những gì tôi biết về công việc của anh, tôi không tưởng tượng là anh lại muốn làm như thế. Vả lại, đừng tiến hành chuyện này theo con đường bất chính, Ông Corleone à, mà phải làm sao cho đồng tiên làm ra sạch sẽ đến độ anh có thể yên tâm mà nuốt nó.”
“Đừng lo lắng về chuyện đó,” Fredo nói. Anh không thể tin rằng họ lại cứ tiếp tục bô bô về chuyện này trước mặt những cô nàng nọ. “Tôi sẽ giữ kín mọi chuyện.” Mặc dầu thực ra anh đã hở hơi khá nhiều.
Các cô nàng vào chỗ ngồi và hôn bạn tình của mình.
“Tôi sẽ không dính dáng cả đến những vấn đề mà anh sẽ phải đương đầu,” Lawrence nói. “Tìm cách vận chuyển hàng triệu tử thi qua những biên giới bang. Hay tính bất khả thi của việc thiết lập bất kỳ loại độc quyền nào về chuyện này ở New Jersey.”
“Những tử thi!” Lucy Mancini la lên.
Fredo bắn một tia nhìn về phía những người khác, họ ít ra cũng có đủ ý thức để không giảng giải thêm chuyện gì. Những phụ nữ khác quay mắt đi. Lucy mắc cỡ, mặt đỏ hơn cả loại phấn hồng Singapore Sling mà nàng vừa điểm lên má. Cô nàng cũng thuộc loại từng trải, đâu phải nai tơ ngơ ngác để không biết điều gì nên nói điều gì không nên. Cô nàng tất nhiên là biết điều ấy nhưng người ta làm sao tránh khỏi những lúc hớ hênh lỡ lời. Thánh cũng có khi còn nói bậy, trách chi nàng!
Segal vòng một tay quanh Fredo và vỗ lên vai chàng. “Nói về những kế hoạch làm giàu nhanh,” Segal nói, “thì đây là kế hoạch rắc rối nhất mà tôi từng nghe.”
Segal đưa một cánh tay về phía những người bạn và họ bảo Fredo rằng Segal đúng.
Fredo đứng lên. Anh gọi mấy cô tiếp viên mang đến một chầu thức uống khác. “Thưa quí bà,” anh nói, “quí vị thứ lỗi tôi nhé?” Anh làm như thể anh sắp đi đái, nhưng anh không hề có ý quay trở lại bàn. Đấy cũng sẽ là một cách tốt để thoát khỏi các vệ sĩ và qua một đêm thích thú ở thành phố.
Bên kia phòng, Johnny Ola - người của Hyman Roth - đứng lên và giữ một khoảng cách kín đáo, đi theo Fredo đến phòng vệ sinh quí ông.
Có lẽ, Fredo nghĩ, mình nên về nhà. Nhưng mà nhà anh ở đâu? Một mái ấm gia đình? Anh đã dành phần lớn khoảng mười hai năm vừa qua tại các dãy phòng khách sạn. Bố anh đã mất. Mẹ anh hiện ở Tahoe, nơi Fredo cũng có một căn nhà. Nhưng không phải là tổ ấm. Đó chỉ là căn lều bên hồ ở đồng quê. Một buồng câu cá. Fredo Corleone là một chàng trai thành phố, thấy ngột ngạt ở Vegas, nhưng còn ở Tahoe? Nghẹt thở luôn!
Anh thấy Gussie Cicero và nhét vội cho hắn một Cleveland (tờ ngàn đô). Để thanh toán chầu uống vừa
rồi. Gussie bảo với Fredo là tiền của anh không tốt ở đây. “Ồ, vậy thì đem mua hoa tặng người yêu của bạn hay đại khái là cái gì đó,” Fredo nói. “Hay đưa vào thùng lạc hiến tại lễ mi -sa ngày mai.
“Lễ mi -sa ngày mai!” Gussie nói, nhét tờ ngàn đô vào túi.’Anh làm tôi nhụt chí đấy.”
Lúc đứng ở bồn tiểu, anh thắc mắc không biết Deanna sẽ làm gì nếu nàng quay về với cái đống đổ nát của căn phòng trước anh. Ý nghĩ đó truyền một luồng khí lạnh qua người anh. Mặc dầu có lẽ chỉ là thoáng rùng mình khi vừa đái xong.
Fredo kéo phéc -mơ -tuya, nhìn quanh và đấm vào Johnny Ola mạnh đến nỗi chiếc mũ của anh chàng này văng ra xa và Fredo ngã dúi mặt vào mông anh ta. Người trực phòng vệ sinh chạy đến để giúp đỡ, nhưng Ola đã xin lỗi và giúp Fredo đứng lên.
“Có phải tôi gây ra không?” Ola nói, vừa chỉ vào vết sướt trên má Fredo. Fredo lắc đầu. “Mình làm đứt khi cạo mặt đó.”
“Anh là Frederico Corleone phải không? Tôi, Johnny Ola,” chàng ta nói, chìa tay ra.
“Chúng ta có vài người bạn chung. Tôi từng hy vọng có ngày tình cờ gặp anh. Tôi không ngờ là chuyện lại xảy ra đúng y như thế, bạn thấy thế không?” Chàng ta cười cầu thân. “Có lẽ chúng ta sẽ nói chuyện nhau. Hy vọng là sớm thôi.”
Chắc chắn là Deanna đã về lại phòng, và đã thấy những gì anh đã làm. Nếu Fredo đã không ngần ngại với ý nghĩ đi đến đối mặt với chuyện đó, thì có lẽ điều đó đã cứu mạng sống của anh.
“Không có thời nào giống như hiện nay,” Fredo nói.
Một hồi sau, anh ngồi vào xe, đi theo Ola và Mortie Whiteshoes đến Hollywood. Họ dừng lại trước Quán Nướng Musso & Frank. Quán đã chật ních người nhưng một trong những quầy bằng gỗ gụ với những ghế ngồi bọc da màu đỏ, may thay, vẫn còn trống.
“Nơi chốn yêu thích của tôi,” Fredo nói. “Những ly martinis ngon nhất ở L.A. nếu không nói quá là khắp thế giới. Khuấy lên, chứ không phải lắc, điều này, đối với dân chơi Ý mới là đúng điệu thưởng thức martinis.”
Ở một nơi với ít rượu martinis hơn hay ít những quầy riêng tư hơn, vào một ngày tốt cho Fredo hơn là ngày này, ai biết được điều gì có thể đã xảy ra? Fredo không nghĩ về mình như một con người yếu đuối nhưng anh chắc chắn sẽ nhìn lại thời khắc này như một lúc yếu lòng. Ola và Whiteshoes giải thích rằng ông chủ của họ và người em của Fredo đang bàn tính liên kết nhau trong một cuộc làm ăn lớn nào đó. Họ nói rằng họ không biết đó là chuyện gì; không nhắc đến Cuba. Ola nói rằng Michael đang rất là không biết điều trong các cuộc thương lượng. Vào một ngày tốt hơn, Fredo có lẽ đã hiểu đó là một cách nói bóng gió rằng Roth muốn trừ Michael. Nhưng lúc đó Fredo chỉ nghĩ được rằng, nói đến ông
em của mình, thì Michael không biết điều trong mọi chuyện chứ chẳng riêng chuyện nào. Fredo cố làm mặt lạnh như tiền khi nghe mấy chàng kia nói vậy, nhưng ngay cả trong tình huống tốt nhất, anh cũng không giỏi làm mặt lạnh.
Ola nói rằng nếu Fredo có thể giúp vài chuyện - chỉ một ít thông tin đơn giản có thể giúp xác nhận vài điều về vị thế và tài sản của Gia đình, không có gì lớn lao, thì sẽ có phần cho anh. Họ sẵn sàng nói chuyện cởi mở thẳng thắn về khoản đó có thể là gì. Có thể là một phần thưởng bằng tiền mặt.
Đó là lúc Whiteshoes chen vào và nói rằng một con chim nhỏ đã hót với anh ta bài ca chim chơ -rao về thành phố của người chết mà Fredo đang dự tính ở New Jersey. “Tôi chỉ biết những gì mà ông bạn Jules Segal nói với tôi,” Mortie nói,” nhưng từ âm thanh của nó, tôi xin nói rằng, tôi thích âm thanh của nó.”
(Từ Sô Fred Corleone, Tháng ba 23,1959[đoạn cuối].)
FRED CORLEONE: Thưa quí bà, quí ông, trong sô diễn tối nay lẽ ra chúng tôi có một khách mời rất đặc biệt, nhưng như quí vị có thể thấy, chúng tôi lại không có. Chúng tôi sắp có một khách mời, đó là, và tôi nói sai khi mặc hàm rằng vị khách mời khác này là không đặc biệt. Thật ra thì người ấy cũng thuộc hàng đặc biệt đấy... Điều tôi có ý muốn nói đó là mặc dầu những gì báo chí đã loan báo rầm rộ, song khách mời của chúng tôi tối nay không phải Miss Deanna Dunn. (Nhìn vào ngoài sân khấu.) Tôi không cần phải nói nhiều hơn thế, đúng không?
TIẾNG CỦA GIÁM CHẾ: (Không nghe được)
FRED CORLEONE: Không hẳn thế.(Quay lại đối mặt camera). Không sao cả, xin quí khán thính giả an tâm, chúng ta hãy chào đón người khách đầu tiên của chúng ta. Anh ấy đây rồi, một diễn viên tài ba, người đang thực hiện một bộ phim với Johnny Fontane và toàn bộ dàn diễn viên sao, về vụ cướp các casinos. Xin một tràng pháo tay nồng nhiệt để chào đón Robert Chadwick!
(Ghi lại tràng pháo tay)
ROBERT CHADWICK: (Vẫy tay chào khán giả không hiện hữu): Cám ơn tất cả quí vị; cám ơn Freddie.
FRED CORLEONE: Không dám, cám ơn bạn, Bobby. Bạn là cái phao cứu sinh cho chương trình hôm nay đấy, đã đến vào phút cuối.
ROBERT CHADWICK: Xin đừng quá lời. Tin tôi đi, tôi vẫn thường là lựa chọn thứ nhì cho những ngôi sao điện ảnh còn kém tính huyền thoại rất xa so với Deanna Dunn.
FRED CORLEONE: Rõ ràng là bạn đang vận dụng mỹ từ pháp kiểu mỉa mai đây và tôi thấy thú vị với khiếu hài hước của bạn. Mặc dầu, nói một cách nghiêm chỉnh, một anh chàng nom đẹp giai ra phết, hào hoa phong nhã khiến các nàng nhìn vào là mê mệt, lại nói tiếng Anh chuẩn theo phong cách quí tộc như
bạn, thì tôi nghĩ rằng đấy không phải là trường hợp. Hầu hết các vai mà bạn được nhận, thì bạn vẫn là lựa chọn đầu tiên, đúng không nào?
ROBERT CHADWICK: Những kịch bản mà tôi thấy đã được rất nhiều diễn viên khác đọc rồi đến độ chúng có nhiều vết cà-phê trên các trang giấy nhiều hơn là chữ viết nữa. Nhưng tôi phải tự nhủ rằng, tự ái làm gì, phải làm để kiếm sống thôi.
FRED CORLEONE: Cái gì?
ROBERT CHADWICK: Tôi nói, chỉ là chuyện kiếm sống. FRED CORLEONE: Xin lỗi, thành thật xin lỗi. Tôi chỉ -
ROBERT CHADWICK: Được rồi, không có gì đâu. Nhân tiện xin được chia buồn về việc thân mẫu của bạn mới qua đời. Tôi cũng mới mất mẹ năm rồi nên tôi biết bạn đang trải qua tâm trạng đau buồn như thế nào. Đây là nỗi đau người ta khó mà nguôi ngoai.
FRED CORLEONE: (nhíu mày) Bạn biết những gì tôi đang -? (nhắm mắt lại, gục gặt đầu, ngưng nhíu mày). Được. Tất nhiên... cám ơn.
ROBERT CHADWICK: Dầu vậy, tôi vẫn xin nói với bạn những gì tôi thực sự tin. Một triết lí sống, nếu bạn muốn gọi là thế. Giữa việc mất mẹ mình và - tôi biết bạn không muốn nói về chuyện đó để gió mang đi khắp bốn phương nhưng tôi chỉ muốn nói tôi cũng rất buồn là mọi chuyện không được suôn sẻ, liên quan đến vợ bạn.
FRED CORLEONE: Cám ơn.
ROBERT CHADWICK: Nhưng giữa hai điều bất hạnh đó, tôi có thể bảo đảm với bạn rằng thời vận của bạn sắp thay đổi.
FRED CORLEONE: Sắp, thế hở?
ROBERT CHADWICK: (Nhìn vào camera): Nào, quí bà, hãy sắp hàng! Anh chàng khả ái ở bên cạnh tôi hiện nay lại được bày hàng trên thị trường mở! Ai nhanh tay nhạy miệng trả giá cao thì vớ được! Xin mời! Xin mời!
FRED CORLEONE: Hượm đã nào! Tôi còn phải -
ROBERT CHADWICK: Chắc thế rồi. Nhưng cá trong biển vô số kể là nhiều!
FRED CORLEONE: Người ta vẫn bảo thế. Theo những gì tôi được nghe, bạn là người đàn ông có được cuộc hôn nhân hạnh phúc.
ROBERT CHADWICK: Ơn Trời, quả có vậy! Thực tế là đã được bảy năm, tính đến tháng này.
FRED CORLEONE: Với một người phụ nữ tuyệt vời. Cô ấy là bào muội của Thống đốc Jimmy Shea, nếu tôi không nhầm.
ROBERT CHADWICK: Vâng, đúng thế.
FRED CORLEONE: Bạn nghĩ gì về vị Tổng thống nhiệm kì tới của chúng ta? ROBERT CHADWICK: Margareth?
FRED CORLEONE: Ồ không, tôi muốn nói Thống đốc Shea kìa! Đúng thế. Một chọn lựa tốt đấy.
ROBERT CHADWICK: Tôi cũng nghĩ thế. Chắc chắn tôi hy vọng như thế. Thực sự tôi quen biết anh ấy từ thời dự bị đại học. Anh ấy là một lãnh đạo tài ba, là người bạn tốt. Một anh hùng trong thời chiến, như bạn hẵn đã biết. Anh ấy đã làm nhiều việc ích quốc lợi dân cho bang New Jersey, và tôi nghĩ với tất cả sự thành thật, rằng nước Mỹ hiện đang cần một con người như thế, một kẻ tuổi trẻ tài cao có huyền lực gợi cảm hứng cho dân chúng và đưa chúng ta vào thời đại không gian, đến những biên cương mới...
FRED CORLEONE: Tôi nhất trí hoàn toàn với bạn. Đây không phải là một sô diễn chính trị, nhưng tôi là công dân Mỹ và như thế tôi được quyền có ý kiến về những vấn đề của đất nước mình. Những ý kiến được nêu ra bởi các vị khách mời hay ngay cả bởi người dẫn chương trình không tất yếu đại diện cho phe nhóm nào cả. Dầu được diễn tả như thế nào. Dầu sao có lẽ chúng ta nên đi vào chủ đề khác.
ROBERT CHADWICK: Tôi cũng là người Mỹ đây, bạn già ạ. FRED CORLEONE: Thế à? Tôi cứ nghĩ -
ROBERT CHADWICK: Từ khi tôi mười hai tuổi.
FRED CORLEONE: Tuyệt quá. Tôi muốn nghe về chuyện làm thế nào mà bạn và Fontane và tất cả nhóm của bạn - Gene Jordan, J.J.White Jr. -
ROBERT CHADWICK: Morrie Streator, Buzz Fratello.
FRED CORLEONE: Đúng. Tất cả các bạn đứng suốt đêm để diễn trên sân khấu của casino đó mà lúc này tôi chưa muốn nêu tên -
ROBERT CHADWICK: The Kasbah.
FRED CORLEONE: -và rồi quay một bộ phim suốt cả ngày?
ROBERT CHADWICK: Nghe rộn chuyện lắm nhưng thật ra là... rỗng tuếch. FRED CORLEONE: Các bạn làm gì trong một buổi diễn ở nightclub?
ROBERT CHADWICK (cười xòa): Khá là ít việc! FRED CORLEONE: Nghiêm chỉnh đấy chứ?
ROBERT CHADWICK: Tôi không hát và tôi cũng chẳng biết múa may, nhảy nhót gì cả. Những gì tôi làm là, đi lên sân khấu, uống vài ve gợi hứng cho rượu vào lời ra, ứng tác vài ba câu chuyện tiếu lâm mặn loại tục hết chỗ chê. Tôi khẳng quyết với bạn đó là những câu chuyện rất ẹ. Nhưng nhờ tôi có chút duyên hài nên vẫn có người cười. Mà cười là bệnh hay lây, cũng như đi đái vậy, anh biết đấy! Tục ngữ có câu Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Vậy mà xem chúng tôi diễn khán thính giả chỉ tốn tiền bằng độ một thang thuốc bổ thôi lại được cười thỏa thích. Thế là lời chán rồi còn gì!
FRED CORLEONE: Tôi sẽ trở lại đề tài đó trong vòng một phút nữa thôi, nhưng trước khi chúng ta đi đến phần thương mại, tôi muốn hỏi bạn về bộ phim mà các bạn đang làm, bởi vì tôi nghe rằng bạn và Fontane, Gino, Buzz, tất cả đều là chí cốt của bạn - rằng các bạn nghĩ rằng các bạn sắp sửa đi cướp tất cả các casinos ở Vegas.
ROBERT CHADWICK: Chỉ là chuyện trên xi -nê thôi, bạn già ơi. FRED CORLEONE: Không, tôi hiểu rằng, hiển nhiên là -
ROBERT CHADWICK: Nhân tiện xin nói là bạn diễn xuất sắc trongMai phục ở Durango. Làm tôi nhiều phen lạnh gáy đấy.
FRED CORLEONE: Cám ơn. Điều tôi định nói là tôi tự hỏi làm thế nào mà các bạn thực hiện thành công cuộc đánh cướp cừ khôi của các bạn. Cách suy nghĩ của tôi là hoặc là các bạn sẽ làm điều đó theo một cách không bao giờ khả thi trong đời sống thực, trong trường hợp đó, bộ phim sẽ có vẻ tức cười đối với khán giả. Hoặc là, theo cách khác - và đây là câu hỏi tôi đặt ra - các bạn có một phương cách hiện thực để làm việc đó, nhưng lúc đó các bạn phải đối mặt nguy cơ có ai đó sao chép phương pháp của các bạn để ăn cướp thật, chứ không phải diễn trò ăn cướp để mua vui, thì e rằng các bạn sẽ bị lương tâm cắn rứt đấy.
ROBERT CHADWICK: Bạn đang lập luận theo kiểu thuyết phục để đùa tôi đấy à? Đấy có phải là một câu hỏi không?
FRED CORLEONE: (nhún vai): Đó là một luận điểm có cơ sở, tôi nghĩ vậy.
ROBERT CHADWICK: Bạn muốn tôi kể cho bạn nghe chúng tôi làm phim đó như thế nào? Họ làm như thế nào? Trong phim?
FRED CORLEONE: Đúng vậy. Sẽ thú vị đấy.
ROBERT CHADWICK: Thú vị là cái chắc. Nhưng mà sau đó có ma nào còn muốn đi xem phim nữa?
FRED CORLEONE: Vô khối người sẽ thích xem một bộ phim như vậy. Quí vị nói sao, quí vị có muốn nghe họ thực hiện vụ vụ... ấy, nói thế nào đây nhỉ? À, à, NGHIÊN CỨU KHẢ THI DỰ ÁN CƯỚP SÒNG BÀI. Tôi nghĩ đó là nhóm từ tuy lai tạp giữa bác học và bình dân nhưng lại rất chính xác. Thế nào, quí vị thích không?
(Tràng vỗ tay rào rào được ghi lại)
ROBERT CHADWICK: Thông minh láu lỉnh lắm! Nhưng vấn đề là, Freddie à - và tất cả mọi người đàng kia nữa - vấn đề là tôi có thể kể cho quí vị nghe, nhưng sau đó tôi sẽ phải, có lẽ thế, đừng giật mình nhé, (gào lên)giết hết tất cả, không để sót một mống nào! (gấp cả hai bàn tay lại thành hình hai khẩu súng chỉa vào đám đông bắn lia lịa)
FRED CORLEONE: (trừng mắt nhìn Bobby, nhíu mày, tạo một khoảng lặng đáng sợ lâu đến ngạt thở).
ROBERT CHADWICK: Eo ôi, em hãi quá! (Gọi vọng ra) Người đâu? Mang cho ta đôi giày chạy bộ nhe! Gửi phiếu tính tiền cho anh bạn này đây.
FRED CORLEONE: Chúng tôi sẽ gặp lại quí vị.
ROBERT CHADWICK: Ít ra là một trong hai người chúng tôi sẽ -
Hai ngày sau Fredo Corleone đi đến Hồ Tahoe để dự lễ tang mẹ mình. Anh cũng đã hứa đưa cháu Anthony đi câu cá.
Cậu bé sống bên hồ nhưng chính bố cậu lại không bao giờ dẫn cậu đi câu. Bác Fredo mang cậu đi bất cứ khi nào bác đến đây. Anthony lên tám tuổi và rất mê Bác Fredo.
Anthony thích đi câu nhưng cậu chưa bao giờ muốn đi câu hơn ngày hôm đó. Bố mẹ cậu đang ly thân nhau, và cậu có mối nghi ngờ len lén tâm tư rằng hình như chuyện ấy có phần do lỗi của cậu. Nếu như cậu là một đứa bé ngoan hơn, có lẽ không một chuyện tồi tệ nào xảy ra như đã xảy ra. Bây giờ cậu và cô em bé bỏng ngay cả sống với mẹ cũng không được phép. Mẹ cậu đang thu xếp hành lí để đi xa. Cậu phải ở lại nơi đây, với ông bố đi đâu biền biệt chẳng mấy khi về nhà, nơi ngôi nhà đáng sợ này mà mấy tháng trước đây đã bị những người mang súng tiểu liên bắn phá. Rất nhiều lỗ đạn vẫn còn ghi dấu đối với người nào tinh mắt biết nhìn vào nơi đáng nhìn. Anthony là loại đứa bé tinh mắt đó.
Một giờ sau khi mẹ cậu nói lời tạm biệt cậu, Anthony bước xuống thuyền với Bác Fredo và Al Neri, người làm việc cho bố của Anthony. Ông Neri đã bảo cậu gọi ông ta là Chú Al, nhưng thực ra ông ta đâu phải là chú bác gì của Anthony. Cậu bé nghĩ rằng đấy có thể là một tội lỗi nên chẳng bao giờ cậu
chịu gọi ông ta như thế. Đó là cách Qủi bẫy người ta đấy, cậu đã học trong những giờ giáo lí vào ngày Chủ nhật. Với những mẹo nho nhỏ như thế.
Ông Neri nổ máy thuyền. Bác Fredo có bí quyết riêng để bắt cá mà họ sắp thử ứng dụng. Anthony không thích ý tưởng để cho ông Neri dự phần vào bí mật, nhưng vì cậu quá háo hức được vui chơi với nước cho nên cậu không than phiền gì. Anthony thật hạnh phúc trong mức độ mà một đứa bé khốn khổ như cậu có thể được như thế.
Ngay lúc họ sắp sửa đẩy thuyền ra khỏi bờ, Cô Connie chạy đến bến tàu, kêu lớn lên rằng bố của Anthony cần đem cậu đi Reno. Anthony bắt đầu than phiền, nhưng Bác Fredo nhìn nghiêm khắc vào mặt cậu và bảo rằng Anthony phải đi. Bác hứa là thay vì hôm nay thì ngày mai bác sẽ dẫn cậu đi câu. Cậu bé, qúa buồn, gật đầu và cố gắng không để lộ ra.
Cô Connie dắt Anthony trở về nhà. Mọi người đã nói nhiều điều không hay về cô cho đến mấy tháng trước đây. Giờ đây cô sẽ là người chăm sóc cho Anthony và cô em của cậu hàng ngày. Cô chẳng rành chuyện chăm sóc trẻ con, ngay cả là chính các con của cô, như Anthony đã có thể thấy.
Một khi họ vào nhà, Cô Connie bảo cậu về phòng riêng của cậu. Cậu hỏi về chuyện đi Reno. Cô nói cô không biết gì về Reno, cứ đi về phòng riêng đi. Cậu nghe theo.
Từ cửa sổ phòng ngủ của mình, cậu bé nhìn theo Bác Fredo và ông Neri chạy ra xa. Sau khi họ khuất tầm mắt, cậu vẫn đứng đó, mặc dầu không còn gì để nhìn. Anthony đơn độc. Cậu không khóc. Cậu đã tự hứa với lòng sẽ không bao giờ khóc, dầu bất kỳ chuyện gì xảy ra cho mình. Cậu sẽ luôn luôn là đứa bé ngoan và có lẽ bố mẹ cậu sẽ lại yêu nhau như trước.
Mấy phút sau, cậu nghe tiếng súng nổ.
Ngay sau đó, ông Neri trở về trong thuyền một mình.
Anthony bật khóc. Cậu không nín khóc được trong nhiều ngày sau đó.
Trong cuộc li hôn gây tranh cãi của bố mẹ cậu, cậu bé thu hết can đảm đối đầu với bố mình với những gì cậu đã thấy. Michael Corleone đưa ra yêu cầu nuôi hai con, vốn đã được tòa giao cho Kay Adams Corleone.
Nước rất lạnh của Hồ Tahoe thường ngăn sự hình thành những luồng hơi bên trong, điều khiến cho những tử thi nổi lên. Xác của Frederico Corleone không bao giờ được tìm thấy. Chú nhóc cháu anh ta cả đời không bao giờ chịu đi câu cá nữa.
Bố Già Trở Lại! Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner Bố Già Trở Lại!