Nguyên tác: Catch 22
Số lần đọc/download: 0 / 21
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:45 +0700
Thị Trưởng Milo
Đ
ó chính là trận mà Yossarian đã trở nên hèn nhát. Yossarian trở nên hèn nhát trong trận Avignon bởi vì Snowden đã mất dũng khí, và Snowden mất dũng khí bởi vì phi công lái máy bay bữa đó là Huple, thằng nhóc này mới chỉ mười lăm tuổi, và phụ lái là Dobbs, gã này còn tệ hơn, đã thế lại còn muốn Yossarian cùng tham gia mưu sát đại tá Cathcart. Huple là một phi công giỏi, Yossarian biết điều đó, nhưng cậu ta chỉ là một đứa trẻ, và Dobbs cũng không tin tưởng cậu ta một chút nào nên đã không báo trước mà giật lấy cần điều khiển sau khi họ thả xong bom, phát điên ngay giữa trời mà lật ngược máy bay lại khiến nó bổ nhào xuống một cú chí tử, đứng tim, inh óc, hết hồn không sao tả xiết, cú bổ nhào đã giật tai nghe của Yossarian ra khỏi giắc cắm và treo y lơ lửng trong tuyệt vọng, đỉnh đầu dán chặt vào trần khoang mũi.
Ôi Chúa ơi! Yossarian thét không ra tiếng khi y cảm thấy tất cả bọn họ đều đang rơi. Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi! Y thét lên cầu xin qua cặp môi không thể mở trong lúc chiếc máy bay rơi và y cứ đung đưa trên đỉnh đầu của mình ở trạng thái không trọng lượng như vậy cho đến khi Huple giành lại được cần điều khiển và đưa máy bay thăng bằng trở lại khi đã rớt xuống giữa một vực thẳm toàn đạn phòng không đang phát nổ chằng chịt, hung hiểm, điên rồ, từ đó họ lại phải bay vút lên cao để có cơ chạy thoát. Gần như ngay khi đó bỗng có một tiếng thịch và một cái lỗ to như quả đấm bự chảng hiện ra ở mặt kính máy bay. Hai má Yossarian nhói rát những mảnh thủy tinh lấp lánh. Không có máu.
“Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy?” y kêu lên, run bần bật khi tai không nghe được tiếng của chính mình. Y sợ phát khiếp cái lặng im trống rỗng của hệ thống điện đàm nội bộ và kinh hãi tới mức gần như không dám động đậy trong lúc chống tay và đầu gối núp mình như một con chuột mắc bẫy và chờ đợi mà không dám thở cho đến khi rốt cuộc cũng phát hiện ra đầu dây hình trụ sáng bóng của bộ tai nghe đang đu đưa trước mắt và cắm nó trở lại bằng những ngón tay lập cập vì run. Ôi, Chúa ơi! y cứ thế hét trong kinh hoàng không ngớt khi đạn phòng không cứ quất lên và vãi ra như trấu khắp quanh y. Ôi, Chúa ơi!
Khi Yossarian cắm dây lại vào hệ thống điện đàm nội bộ và có thể nghe được tiếng mọi người thì thấy Dobbs đang khóc.
“Cứu anh ta với, cứu anh ta với,” Dobbs nức nở. “Cứu anh ta với, cứu anh ta với.”
“Cứu ai? Cứu ai?” Yossarian gào lên hỏi lại. “Cứu ai?”
“Người cắt bom, người cắt bom,” Dobbs hét. “Anh ta không trả lời. Cứu người cắt bom, cứu người cắt bom.”
“Tôi là người cắt bom đây,” Yossarian hét đáp. “Tôi là người cắt bom. Tôi không sao. Tôi không sao.”
“Thế thì hãy cứu anh ta, cứu anh ta với,” Dobbs nức nở. “Cứu anh ta với, cứu anh ta với.”
“Cứu ai? Cứu ai?”
“Người phụ trách điện đàm,” Dobbs cầu xin. “Người phụ trách điện đàm.”
“Tôi lạnh,” Snowden yếu ớt rên rỉ qua hệ thống điện đàm nội bộ, rồi sau đó chuyển thành một loạt tiếng be be não nùng đau đớn. “Làm ơn cứu tôi với. Tôi lạnh.”
Yossarian bèn thận trọng bò qua lối trườn, trườn lên qua khoang chứa bom rồi xuống chui vào phần đuôi máy bay nơi Snowden đang nằm trên sàn, bị thương và lạnh cóng giữa tung tóe nắng vàng, bên cạnh một tay súng đang nằm sõng sượt bất tỉnh.
Dobbs là phi công dở nhất thế giới và gã biết điều đó, một thân xác tan nát tả tơi từng là một gã trai trẻ khỏe hùng dũng luôn tìm cách thuyết phục thượng cấp rằng gã không đủ sức để lái máy bay nữa. Không có thượng cấp nào của gã đồng ý, và chính vào ngày số trận phải bay tăng lên thành sáu mươi, Dobbs đã lén lút chui vào lều của Yossarian, trong lúc Orr ra ngoài đi kiếm dây thừng, để tiết lộ về kế hoạch mà gã đã lập ra nhằm mưu sát đại tá Cathcart. Gã cần sự trợ giúp của Yossarian.
“Anh muốn chúng ta thẳng tay giết đại tá sao?” Yossarian phản đối.
“Đúng vậy,” Dobbs đồng ý với nụ cười lạc quan, phấn khởi khi thấy Yossarian nắm tình hình rất nhanh. “Chúng ta sẽ bắn chết hắn bằng khẩu Luger mà tôi đã mua hồi ở Sicily mà không ai biết là tôi có.”
“Tôi không nghĩ mình có thể làm được việc đó đâu,” Yossarian kết luận, sau một hồi im lặng cân nhắc.
Dobbs kinh ngạc. “Tại sao lại không?”
“Nghe này. Không có gì khiến tôi hài lòng hơn là được thấy tên khốn đó bị gãy cổ hoặc bị rơi máy bay chết hoặc bị ai đó bắn chết. Nhưng tôi không nghĩ là tôi có thể giết hắn.”
“Hắn sẽ giết anh,” Dobbs tranh luận. “Thực ra, chính anh là người đã nói với tôi rằng hắn đang giết chúng ta khi bắt chúng ta phải thực hiện lắm nhiệm vụ đến vậy.”
“Nhưng tôi không nghĩ là tôi có thể giết hắn. Hắn cũng có quyền được sống, tôi e là vậy.”
“Hắn không thể có quyền đó khi hắn cứ cố cướp đi quyền được sống của cả anh và tôi. Anh sao vậy?” Dobbs sửng sốt. “Tôi đã nghe anh tranh luận về chuyện này với Clevinger. Giờ thì hãy xem điều gì đã xảy ra với anh ấy. Mất hút luôn vào đám mây đó.”
“Đừng có hét lên như vậy nữa được không?” Yossarian bảo Dobbs nói nhỏ đi.
“Tôi đâu có hét!” Dobbs còn hét to hơn, mặt gã đỏ lên đầy khí thế cách mạng. Mắt và mũi gã chảy nước, môi dưới đỏ au rần rật đẫm nước bọt. “Lúc hắn nâng chỉ tiêu lên sáu mươi thì đã phải có đến gần một trăm người trong liên đoàn này hoàn thành năm mươi lăm nhiệm vụ. Và phải có ít nhất gần một trăm người nữa chỉ cần bay thêm vài trận là đủ năm mươi lăm, như anh. Nếu cứ để hắn tiếp diễn mãi như thế thì hắn sẽ giết sạch mọi người mất. Ta cần phải giết hắn trước.”
Yossarian gật đầu hờ hững, bản thân chẳng tỏ vẻ hứa hẹn gì. “Anh có nghĩ là chúng ta trót lọt được không?”
“Tôi đã tính hết rồi. Tôi…”
“Đừng có hét lên như vậy, vì Chúa!”
“Tôi đâu có hét. Tôi đã…”
“Anh làm on đừng hét lên nữa!”
“Tôi đã tính hết cả rồi,” Dobbs thì thầm, nắm chặt tay vào mép giường xếp của Orr đến mức nổi cả khớp trắng chỉ để giữ cho chúng khỏi vung lên. “Sáng thứ Năm khi hắn trở về từ nông trại trời đánh thánh vật đó ở trên đồi, tôi sẽ đi luồn qua rừng đến chỗ khúc quanh chữ U trên đường và nấp trong bụi rậm. Đến đó hắn sẽ phải lái xe chậm lại, và ở đó tôi cũng có thể quan sát được cả hai phía của con đường để chắc chắn không có ai khác xung quanh. Khi thấy hắn tới, tôi sẽ xô một khúc gỗ lớn ra đường buộc hắn phải dừng xe lại. Sau đó tôi sẽ bước ra khỏi bụi rậm với khẩu Luger trên tay, rồi bắn vào đầu hắn cho đến khi hắn chết thì thôi. Tôi sẽ chôn súng, quay lại qua đường rừng trở về phi đoàn và làm công việc của tôi giống như tất cả những người khác. Liệu có thể xảy ra chuyện gì không?”
Yossarian chú ý lắng nghe từng chi tiết một. “Vậy tôi xuất hiện ở đâu?” y băn khoăn hỏi.
“Tôi sẽ không thể làm được chuyện này nếu như không có anh,” Dobbs giải thích. “Tôi cần anh bảo tôi làm tới đi.”
Yossarian thấy thật khó mà tin. “Tất cả những gì anh muốn tôi làm chỉ có thế thôi à? Chỉ cần bảo anh làm tới?”
“Đó là tất cả những gì tôi cần ở anh,” Dobbs trả lời. “Chỉ cần bảo tôi làm tới đi, và rồi tự tôi sẽ bắn vỡ sọ hắn vào ngày kia.” Giọng gã to dần lên vì xúc động và lại vút lên lần nữa. “Tôi cũng muốn bắn vỡ sọ trung tá Korn nữa, nhân tiện vụ này, mặc dù thiếu tá Danby thì tôi lại muốn tha, nếu như anh đồng ý. Sau đó tôi cũng sẽ hạ sát Appleby và Havermeyer, và sau khi chúng ta khử xong Appleby và Havermeyer thì tôi muốn giết McWatt.”
“McWatt ư?” Yossarian kêu lên, suýt thì nhảy dựng lên trong kinh hoàng. “McWatt là bạn tôi. Anh muốn gì ở McWatt?”
“Tôi cũng không biết nữa,” Dobbs thú nhận với vẻ ngượng ngùng lúng túng. “Tôi chỉ nghĩ là nếu ta giết Appleby và Havermeyer thì hay là giết McWatt luôn một thể. Anh không muốn giết McWatt à?”
Yossarian nêu rõ quan điểm. “Này, tôi có thể có hứng thú với vụ này đấy nếu như anh đừng có hét lên cho cả đảo này nghe nữa và nếu như anh chỉ giết mỗi đại tá Cathcart. Nhưng nếu anh biến vụ này thành trận tắm máu thì anh có thể quên tôi đi.”
“Được rồi, được rồi,” Dobbs tìm cách xoa dịu y. “Chỉ mình đại tá Cathcart thôi. Tôi có nên làm không? Hãy bảo tôi làm tới đi.”
Yossarian lắc đầu. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể nói anh làm tới được.”
Dobbs phát hoảng. “Tôi sẵn sàng thỏa hiệp mà,” gã vật vã cầu xin. “Anh không cần phải bảo tôi làm tới nữa vậy. Chỉ cần nói rằng đó là một ý hay. Được không? Đó có phải là một ý hay không?”
Yossarian vẫn lắc đầu. “Lẽ ra nó đã có thể là một ý hay nếu như anh cứ làm tới và xử xong vụ này mà không nói với tôi. Giờ thì đã quá muộn rồi. Tôi không nghĩ là tôi có thể nói gì với anh. Hãy cho tôi thêm thời gian. Có thể tôi sẽ đổi ý.”
“Vậy thì sẽ quá muộn mất.”
Yossarian vẫn lắc đầu. Dobbs thất vọng. Gã ngồi đó một lúc ra chiều xấu hổ, sau đó đứng vụt dậy và giậm chân bước đi để cố công, thêm một lần nữa, thuyết phục bác sĩ Daneeka cho phép gã ở lại mặt đất, hông gã va vào giá rửa mặt của Yossarian khi lảo đảo đi vòng qua mà vẫn vấp phải đường dẫn ga cho cái lò sưởi mà Orr đang lắp đặt. Bác sĩ Daneeka kiên cường trước cuộc tấn công bằng miệng ầm ĩ và chân tay khua khoắng của Dobbs bằng một loạt những cái lắc đầu sốt ruột rồi tống gã tới lều quân y để tả triệu chứng bệnh cho Gus và Wes, đến đó gã chỉ vừa mở miệng thì đã bị hai người này bôi đẫm thuốc tím lên lợi. Họ cũng bôi tím ngón chân gã luôn và khi gã mở miệng lần nữa toan kêu ca thì họ nhồi luôn thuốc xổ vào họng gã, thế rồi họ đuổi gã đi.
Dobbs thậm chí còn trong tình trạng thê thảm hơn cả Hungry Joe, kẻ ít nhất còn có thể bay ra trận được khi đêm ngủ không gặp phải ác mộng. Dobbs thảm gần bằng Orr, kẻ dường như lúc nào cũng hạnh phúc như một chú chim chiền chiện nhỏ bé, nhăn nhở với tiếng cười rúc rích loạn trí và khích động cùng hàm răng thỏ mấp mô run rẩy, kẻ từng được điều đi nghỉ cùng chuyến đi Cairo mua trứng của Milo và Yossarian nhưng Milo đã không mua trứng mà mua bông, lại còn cất cánh bay đi Istanbul ngay rạng sáng với một máy bay đầy ặc tới tận ụ súng toàn những con nhện kỳ quái và những quả chuối đỏ xanh. Orr là một trong những gã lập dị quê kệch nhất mà Yossarian từng gặp, đồng thời cũng là một trong những kẻ hấp dẫn nhất. Gã có khuôn mặt phị thô kệch, cùng đôi mắt màu hổ phách ép mãi mới lộ ra được khỏi hốc mắt như hai nửa viên bi đá màu nâu và bộ tóc dày nhiều màu bồng bềnh đổ dốc xuống từ đỉnh đầu như một mái lều bóng sáp thơm. Hầu như lần nào bay lên Orr cũng bị bắn rơi xuống nước hoặc trúng đạn hỏng động cơ, và gã bắt đầu quấy rầy Yossarian như một gã điên sau khi họ cất cánh bay đi Naples và hạ cánh xuống Sicily để kiếm một thằng nhóc ma cô mười tuổi lắm mưu nhiều mẹo, phì phèo xì gà, cùng hai cô chị mười hai tuổi còn trinh đang đợi họ trong thành phố, ngay trước cửa khách sạn mà ở đó chỉ có phòng cho mỗi Milo. Yossarian dứt khoát lùi lại đứng tách khỏi Orr, chăm chú nhìn với chút lo lắng xen lẫn hoang mang vào đỉnh Etna chứ không phải đỉnh Vesuvius và tự hỏi họ đang làm gì ở Sicily thay vì ở Naples trong khi Orr vẫn khẩn nài y trong rối rít dâm dục, lắp bắp, hinh hích, để được cùng y theo thằng nhóc ma cô mười tuổi lắm mưu nhiều mẹo đi gặp hai cô chị mười hai tuổi còn trinh của nó, những cô nàng không hẳn còn trinh mà cũng không hẳn là chị nó, và thực ra mới chỉ hai mươi tám xuân xanh.
“Cứ đi với anh ta,” Milo ngắn gọn ra lệnh cho Yossarian.
“Hãy nhớ nhiệm vụ của anh.”
“Được rồi,” Yossarian chịu thua với một tiếng thở dài, nhớ lại nhiệm vụ của mình. “Nhưng ít nhất cũng để tôi cố tìm lấy một phòng khách sạn trước đã, để xong việc tôi có thể có một đêm ngủ ngon.”
“Anh sẽ có được một đêm ngủ ngon với các cô gái,” Milo đáp lời vẫn với đầy ẩn ý như cũ. “Hãy nhớ nhiệm vụ của anh.”
Nhưng họ chẳng ngủ được chút nào, bởi vì Yossarian và Orr đã bị nhồi vào chung một giường đôi cùng hai cô gái điếm mười-hai-mà-thực-ra-là-hai-mươi-tám tuổi hóa ra lại béo phì và nhớp nháp, đã thế lại còn liên tục đánh thức họ dậy cả đêm để đòi đổi người tình. Nhận thức của Yossarian nhanh chóng trở nên mờ nhạt tới mức y không để ý tới chiếc khăn turban màu be mà cô gái béo ú ngủ với y cứ đội cho tận đến sáng hôm sau khi thằng nhóc ma cô mười tuổi lắm mưu nhiều mẹo hút xì gà Cuba giật nó ra trước mặt bàn dân thiên hạ trong một cơn bốc đồng man dã và phơi ra dưới ánh ngày Sicily rực rỡ cái sọ trần trụi méo mó kinh khủng của cô. Đám hàng xóm đầy thù hận đã cạo trụi tóc cô đến tận sát cái xương sọ sáng bóng bởi vì cô đã ngủ với lính Đức. Cô gái kêu ré lên trong cơn oán giận đậm nữ tính và lạch bạch tức cười đuổi theo thằng nhóc ma cô mười tuổi lắm mưu nhiều mẹo, bộ da đầu ghê tởm, trống trải vừa bị xâm phạm của cô trượt lên trượt xuống một cách lố bịch quanh khuôn mặt đen sạm như cái mụn cóc kỳ cục của cô chẳng khác gì một thứ gớm ghiếc được tẩy trắng. Yossarian chưa từng chứng kiến cái gì trần trụi như thế. Thằng nhóc ma cô đang xoáy chiếc khăn turban quanh ngón tay giương cao như một chiến lợi phẩm, giữ khoảng cách vài phân với những đầu ngón tay cô để dẫn cô chạy nguyên một vòng quanh quảng trường chật ních người đang hú hét cười trêu và chỉ tay vào Yossarian đầy vẻ khinh miệt thì Milo sải bước đi tới với vẻ khẩn trương nghiêm trang và cau có mím môi bất bình trước cảnh tượng khó coi, đồi bại và tầm phào đó. Milo khăng khăng đòi ngay lập tức rời đi Malta.
“Bọn tôi đang buồn ngủ lắm,” Orr than vãn.
“Tại các anh chứ tại ai,” Milo khiển trách cả hai người bọn họ, tự thấy mình có đạo đức. “Nếu tối qua bọn anh chịu ngủ trong phòng khách sạn thay vì với đám gái mất nết này thì có phải đều đã cảm thấy thoải mái như tôi ngày hôm nay rồi không.”
“Chính anh đã bảo bọn tôi đi với họ,” Yossarian phản bác. “Mà chúng tôi còn không có phòng khách sạn. Anh là người duy nhất có phòng.”
“Đó cũng không phải là lỗi của tôi,” Milo ngạo mạn giải thích. “Làm sao tôi biết được rằng tất cả khách hàng đều có mặt ở thành phố này để mua đậu gà?”
“Anh biết,” Yossarian cáo buộc. “Điều đó giải thích tại sao chúng ta lại ở Sicily thay vì ở Naples. Có khi thậm chí anh đã nhồi đầy đậu gà vào cái máy bay chết tiệt này rồi.”
“Suỵt!” Milo nghiêm khắc cảnh cáo, liếc nhìn về phía Orr đầy ẩn ý. “Hãy nhớ nhiệm vụ của anh.”
Khoang đựng bom, phần sau và phần đuôi của máy bay, và hầu hết khoang ụ súng phía trên, tất cả đều được chất đầy những giạ đậu gà khi họ đến phi trường để cất cánh đi Malta.
Nhiệm vụ của Yossarian trong chuyến đi này là đánh lạc hướng Orr để gã này không biết Milo mua trứng ở đâu, mặc dù Orr cũng nằm trong xanh đi ca của Milo và, như mọi thành viên khác của xanh đi ca ấy, Orr cũng có phần. Nhiệm vụ của y thật ngớ ngẩn, Yossarian cảm thấy như vậy, bởi vì ai cũng biết Milo mua trứng ở Malta với giá bảy xu một quả và bán lại cho các nhà ăn trong xanh đi ca với giá năm xu một quả.
“Tôi chỉ không tin tưởng anh ta,” Milo ủ ê nói ở trên máy bay, hất hàm ra sau chỉ Orr, gã này đang cuộn tròn như một sợi dây thừng rối trên những giạ thấp đựng đậu gà, vật vã cố gắng ngủ. “Và tôi muốn mua trứng ngay khi anh ta không ở cạnh để biết được bí quyết làm ăn của tôi. Có còn gì anh không hiểu nữa không?”
Yossarian đang ngồi bên cạnh Milo, ngay ghế lái phụ. “Tôi chỉ không hiểu tại sao anh mua trứng với giá bảy xu một quả ở Malta và bán lại với giá năm xu.”
“Tôi làm vậy để có lời.”
“Nhưng làm sao anh kiếm lời được? Anh mất hai xu cho mỗi quả trứng.”
“Nhưng tôi kiếm lời được ba phẩy hai lăm xu mỗi quả bằng việc bán lại chúng với giá bốn phẩy hai lăm xu mỗi quả cho người ở Malta mà tôi đã mua trứng với giá bảy xu một quả. Tất nhiên là tôi không kiếm được lời. Xanh đi ca mới kiếm được lời. Và tất cả mọi người đều có phần.”
Yossarian đã bắt đầu hơi hiểu ra vấn đề. “Và những người mà anh bán trứng cho với giá bốn phẩy hai lăm xu một quả sẽ kiếm lời hai phẩy bảy lăm xu một quả khi bán lại cho anh với giá bảy xu một quả. Có phải như vậy không? Tại sao anh không bán luôn trứng cho anh và dẹp luôn những người kia đi?”
“Bởi vì tôi cũng chính là người bán trứng cho tôi,” Milo giải thích. “Tôi kiếm lời ba phẩy hai lăm xu một quả khi tôi bán trứng cho tôi và lời hai phẩy bảy lăm xu một quả khi tôi mua lại chúng từ tôi. Tổng lợi nhuận sẽ là sáu xu một quả trứng. Tôi chỉ mất hai xu một quả khi tôi bán chúng cho các nhà ăn với giá năm xu một quả, và đó là cách tôi kiếm lời từ việc mua trứng với giá bảy xu một quả và bán chúng với giá năm xu một quả. Tôi chỉ phải trả một xu một quả khi tôi mua từ chỗ những con gà mái ở Sicily.”
“Ở Malta chứ,” Yossarian chữa lại. “Anh mua trứng ở Malta chứ không phải ở Sicily.”
Milo cười như nắc nẻ với đầy vẻ tự hào. “Tôi không mua trứng ở Malta,” gã thú nhận, hơi có vẻ coi thường và thích thú kín đáo, đó là lần chệch hướng duy nhất khỏi kiểu điềm đạm siêng năng mà Yossarian vẫn luôn thấy gã tỏ ra. “Tôi mua chúng ở Sicily với giá một xu một quả và bí mật chuyển chúng tới Malta với giá bốn xu rưỡi một quả để đẩy giá trứng ở đó lên tới mức bảy xu một quả khi mọi người tới Malta mua trứng.”
“Tại sao mọi người lại tới Malta mua trứng khi mà giá ở đó đắt tới vậy?”
“Bởi vì họ luôn làm như thế.”
“Tại sao họ lại không tìm mua trứng ở Sicily?”
“Bởi vì họ chưa bao giờ làm như thế.”
“Giờ thì tôi thực sự không hiểu. Tại sao anh không bán cho các nhà ăn của anh với giá bảy xu một quả mà lại là năm xu một quả?”
“Bởi vì khi đó các nhà ăn của tôi sẽ không cần có tôi nữa. Tất cả mọi người đều có thể mua được loại trứng bảy-xu-một-quả với giá bảy xu một quả.”
“Tại sao họ lại không bỏ qua anh và mua trứng trực tiếp từ anh ở Malta với giá bốn phẩy bảy lăm xu một quả?”
“Bởi vì tôi sẽ không bán cho họ.”
“Tại sao anh lại không bán cho họ?”
“Bởi vì nếu vậy thì sẽ không có nhiều cơ hội để kiếm lời nữa. Ít nhất theo cách này thì tôi sẽ kiếm được một chút cho riêng mình với vai trò trung gian.”
“Vậy thì anh đúng là có kiếm lời cho riêng mình,” Yossarian tuyên bố.
“Tất nhiên là vậy. Nhưng tất cả đều chuyển cho xanh đi ca. Và tất cả mọi người đều có phần. Anh không hiểu à? Chuyện tôi bán cà chua mận cho đại tá Cathcart cũng giống hệt như vậy đó.”
“Mua chứ,” Yossarian chữa lại. “Anh không bán cà chua mận cho đại tá Cathcart và trung tá Korn. Anh mua cà chua từ bọn họ.”
“Không, tôi bán đấy,” Milo chữa lại lời Yossarian. “Tôi phân phối cà chua mận của mình ở các chợ trên khắp Pianosa dưới một tên giả để cho đại tá Cathcart và trung tá Korn có thể dùng tên giả của họ mà mua lại từ tôi với giá bốn xu một quả và hôm sau lại bán lại cho tôi, dưới danh nghĩa xanh đi ca, với giá năm xu một quả. Họ kiếm lời một xu một quả, tôi kiếm lời ba xu rưỡi một quả, và tất cả mọi người đều có lời.”
“Tất cả mọi người ngoại trừ xanh đi ca,” Yossarian hừ mũi nói. “Xanh đi ca trả năm xu cho một quả cà chua mà anh chỉ chi có nửa xu. Làm thế nào mà xanh đi ca có lời được?”
“Xanh đi ca được lời khi tôi được lời,” Milo giải thích, “bởi vì tất cả mọi người đều có phần. Và xanh đi ca được đại tá Cathcart và trung tá Korn ủng hộ nên họ đã cho tôi bay những chuyến như thế này. Anh sẽ thấy kiếm lời được bao nhiêu sau mười lăm phút nữa khi chúng ta hạ cánh xuống Palermo.”
“Malta chứ,” Yossarian chữa lời. “Chúng ta đang bay tới Malta, không phải Palermo.”
“Không, chúng ta đang bay tới Palermo,” Milo trả lời. “Tôi sẽ phải gặp một nhà xuất khẩu rau diếp ở Palermo trong khoảng một phút để bàn về vụ nấm chuyển đến Bern bị mốc hỏng.”
“Milo, làm sao anh có thể làm như vậy được?” Yossarian bật cười hỏi đầy kinh ngạc và thán phục. “Anh đăng ký một lịch trình bay tới một địa điểm và rồi lại bay đến chỗ khác. Mấy người ngồi trong đài kiểm soát không lưu đó không bao giờ nhặng lên phản đối à?”
“Tất cả bọn họ đều thuộc xanh đi ca,” Milo nói. “Và họ hiểu rằng cái gì tốt cho xanh đi ca thì sẽ tốt cho đất nước, bởi vì đó chính là những gì làm cho nước Mỹ chúng ta vận hành. Những nhân viên kiểm soát không lưu cũng có phần, và đó là lý do tại sao họ luôn phải làm bất cứ điều gì có thể để giúp cho xanh đi ca.”
“Tôi có phần không?”
“Ai cũng có phần.”
“Orr có phần không?”
“Ai cũng có phần.”
“Thế Hungry Joe thì sao? Anh ta cũng có phần chứ?”
“Ai cũng có phần.”
“Chà, quỷ tha ma bắt tôi đi,” Yossarian suy tư, lần đầu tiên y thấy ấn tượng sâu sắc với ý tưởng “có phần”.
Milo quay về phía y, phảng phất ánh lên vẻ ranh mãnh. “Tôi có một kế hoạch chắc chắn thành công để lừa chính phủ liên bang một khoản sáu nghìn đô. Chúng ta có thể kiếm được mỗi người ba nghìn đô mà không gặp rắc rối gì cả. Anh có hứng thú không?”
“Không.”
Milo nhìn Yossarian mà xúc động sâu sắc. “Đó chính là cái tôi thích ở anh,” gã thốt lên. “Anh rất trung thực! Anh là người duy nhất tôi quen mà tôi có thể thật sự tin tưởng. Đó là lý do tôi muốn anh giúp tôi nhiều hơn. Tôi thực sự thất vọng khi anh chuồn mất cùng với hai con điếm ấy ở Catania hôm qua.”
Yossarian trợn mắt kinh ngạc nhìn Milo. “Milo, chính anh bảo tôi đi cùng với họ. Anh không nhớ à?”
“Đó không phải là lỗi của tôi,” Milo trang trọng trả lời. “Một khi đến thành phố thì tôi luôn phải làm sao đó để thoát khỏi Orr. Nhưng ở Palermo thì sẽ khác nhiều. Khi chúng ta hạ cánh xuống Palermo, tôi muốn anh và Orr rời đi cùng với các cô gái ngay từ sân bay.”
“Với những cô gái nào?”
“Tôi đã điện đàm trước và đã thu xếp công việc với một thằng bé ma cô bốn tuổi để cung cấp cho anh và Orr hai trinh nữ tám tuổi mang một nửa dòng máu Tây Ban Nha. Thằng bé sẽ đợi sẵn ở sân bay trong một chiếc limousine. Xuống máy bay một cái thì anh hãy đi vào trong xe luôn nhé.”
“Dĩ nhiên là không,” Yossarian nói, lắc đầu. “Nếu phải đi thì tôi chỉ có đi ngủ.”
Milo tím mặt vì phẫn nộ, cái mũi dài mỏng quẹt của gã chấp chới co giật giữa cặp lông mày đen và bộ ria màu nâu cam mọc lệch như ngọn lửa nhợt nhạt mong manh của một cây nến đơn độc. “Yossarian, hãy nhớ nhiệm vụ của anh,” gã nhắc nhở nghiêm trang như cha xứ.
“Quỷ tha ma bắt nhiệm vụ ấy của tôi đi,” Yossarian bất cần bật lại. “Và quỷ tha ma bắt luôn cả xanh đi ca ấy đi nữa, mặc dù tôi cũng có phần ở đó. Tôi không cần trinh nữ tám tuổi nào cả, kể cả họ mang một nửa dòng máu Tây Ban Nha.”
“Tôi không trách anh. Nhưng các trinh nữ tám tuổi này thật ra mới chỉ ba mươi hai. Và họ không thực sự mang một nửa dòng máu Tây Ban Nha mà chỉ một phần ba dòng máu Estonia.”
“Tôi không quan tâm tới bất cứ trinh nữ nào.”
“Và họ thậm chí cũng không phải là trinh nữ đâu mà,” Milo tiếp tục nói đầy vẻ thuyết phục. “Người tôi chọn cho anh đã từng có chồng một thời gian ngắn, chồng cô ta là một thầy giáo già chỉ ngủ với cô ta vào Chủ nhật, do vậy thực ra thì cô ta vẫn gần như còn gin.”
Nhưng Orr cũng buồn ngủ, nên cả Yossarian và Orr vẫn kè kè ở bên Milo khi họ đi xe vào thành phố Palermo từ sân bay và phát hiện ra rằng ở đó cũng không còn phòng cho hai người bọn họ, và, quan trọng hơn nữa, rằng Milo là thị trưởng.
Buổi đón tiếp kỳ cục đáng ngờ dành cho Milo đã bắt đầu từ ngay sân bay, khi dân lao động ở đó nhận ra gã và ngừng tay để cung kính nhìn gã bằng vẻ mặt tràn đầy hồ hởi và bợ đỡ chừng mực. Tin gã đến đã bay vào thành phố từ trước khi gã đến, và ở ngoại ô này đã chen chúc những công dân chào đón khi họ phóng vào thành phố trên chiếc xe tải không mui bạt. Yossarian và Orr rất bối rối, câm lặng đứng dựa sát vào Milo mong được bảo vệ.
Bên trong thành phố, màn chào đón Milo càng trở nên ồn ã hơn khi chiếc xe tải đi chậm lại và tiến sâu vào trong phố. Các cô bé, cậu bé được thả ra từ trường học, đang đứng xếp hàng trên vỉa hè trong những bộ quần áo mới, vẫy những lá cờ nhỏ xíu trong tay. Yossarian và Orr không thốt lên lời. Đường phố chật ních người vui mừng đón chào, trên đầu họ giương cao những áp phích khổng lồ có in hình Milo. Milo trong những bức hình đó mặc một màu nâu xám cổ cao kiểu nhà nông, nét mặt kiểu người cha già tận tâm của gã thật độ lượng, thông thái, sắc sảo và uy mãnh, đăm đắm phóng tầm mắt nhìn xuống quần chúng như đức Chúa trời với bộ ria mọc lệch và đôi mắt lác xệch. Những người tàn phế giấu mình sau cửa sổ gửi tới gã những nụ hôn gió. Những người bán hàng đeo tạp dề ngây ngất hoan hô từ những ngưỡng cửa hẹp dẫn vào cửa hàng. Kèn tuba thổi inh ỏi. Đâu đó có người ngã xuống và bị giẫm đạp đến chết. Các cụ bà vừa khóc nức nở vừa quyết liệt chen nhau tới quanh chiếc xe tải đang chậm rì di chuyển để chạm vào vai Milo hay siết được tay gã. Milo chịu đựng những nghi thức đón chào hỗn loạn ấy với vẻ lịch thiệp, nhân từ. Gã vẫy tay chào đáp lễ tất cả mọi người một cách tao nhã, hai tay hào phóng vung ra hàng vốc sô cô la Hershey giấy thiếc như mưa rào xuống đám đông hoan hỉ. Các cậu bé, cô bé tràn đầy sức sống xếp thành hàng, khoác tay nhau nhảy theo sau gã, miệng khản cổ hô vang và mắt đờ đẫn tôn thờ, “Mi-lo! Mi-lo! Mi-lo!”
Giờ thì bí mật đã lộ, Milo tỏ ra thư giãn hơn với Yossarian và Orr và căng tràn một vẻ tự hào bẽn lẽn vô bờ. Má gã đỏ ửng sống động. Milo đã được bầu làm thị trưởng của Palermo - và của cả các thành phố lân cận bao gồm Carini, Monreale, Bagheria, Termini Imerese, Cetali, Mistretta và cả Nicosia nữa - bởi vì gã đã đem rượu Scotch tới Sicily.
Yossarian kinh ngạc. “Dân ở đây thích uống Scotch đến vậy sao?”
“Họ không uống một chút Scotch nào cả,” Milo giải thích, “Scotch quá đắt, trong khi dân ở đây lại quá nghèo.”
“Vậy thì tại sao anh lại cho nhập nó vào Sicily trong khi không có ai uống?”
“Để đẩy giá lên. Tôi sẽ chuyển Scotch từ đây sang Malta để kiếm thêm lời khi tôi bán nó lại cho chính tôi dưới danh nghĩa ai đó khác. Tôi đã tạo ra cả một ngành công nghiệp mới ở đây. Ngày nay Sicily là nơi xuất khẩu Scotch lớn thứ ba thế giới, và đó chính là lý do tại sao họ lại bầu tôi làm thị trưởng.”
“Vậy thì kiếm cho chúng tôi một phòng khách sạn đi nếu anh tài đến vậy?” Orr xấc xược lầm bầm, giọng như líu cả lại vì kiệt sức.
Milo đáp lại với vẻ hối lỗi. “Đó chính là việc mà tôi sắp làm đây,” gã hứa hẹn. “Tôi thật lòng xin lỗi vì đã quên gọi điện đặt phòng trước cho hai anh. Hãy đi cùng tôi về văn phòng và tôi sẽ nói ngay với phó thị trưởng về chuyện này.”
Văn phòng của Milo là một cửa hiệu cắt tóc và phó thị trưởng là một thợ cắt tóc béo lùn với cặp môi xun xoe sùi ra những lời đón chào thân mật dạt dào như đám kem bọt mà gã đang đánh lên để chuẩn bị cạo râu cho Milo.
“Này, Vittorio,” Milo nói trong khi lười biếng ngả lưng vào một trong những chiếc ghế cắt tóc của Vittorio, “trong thời gian tôi đi vắng, mọi việc thế nào?”
“Rất buồn, thưa ngài Milo, rất buồn. Nhưng giờ thì ngài đã trở về, tất cả mọi người bèn vui trở lại.”
“Tôi đang thắc mắc về quy mô của đám đông hôm nay. Tại sao tất cả các khách sạn đều hết chỗ vậy?”
“Bởi vì có quá nhiều người từ các thành phố khác đến đây để đón ngài, thưa ngài Milo. Và bởi vì chúng ta đón rất nhiều khách hàng đến tham dự buổi đấu giá atisô.”
Tay Milo vụt vút lên như một con đại bàng túm lấy chổi cạo râu của Vittorio. “Atisô là cái gì?” gã hỏi.
“Atisô ấy mà, ngài Milo? Atisô là một loại cây ngon lành mọc ở khắp nơi. Nếu đã tới đây thì ngài phải dùng thử một ít atisô mới được, thưa ngài Milo. Chúng tôi trồng những cây atisô ngon nhất thế giới.”
“Thật vậy sao?” Milo nói. “Năm nay giá atisô bán là bao nhiêu?”
“Có vẻ năm nay atisô sẽ được giá. Mất mùa mà.”
“Thật vậy à?” Milo suy tư, rồi biến mất, lướt ra khỏi chiếc ghế nhanh tới mức tấm khăn phủ kẻ sọc thường dùng che người khi cắt tóc vẫn giữ nguyên hình hài gã trong một, hai giây rồi mới xẹp hẳn xuống. Khi Yossarian và Orr đuổi theo ra tới cửa thì Milo đã mất hút.
“Người tiếp theo?” phó thị trưởng của Milo trịch thượng quát lên. “Ai tiếp đây?”
Yossarian và Orr thất thểu đi ra khỏi tiệm cắt tóc. Bị Milo bỏ rơi, họ lang thang lê bước qua những đám đông ồn ào đi tìm chỗ ngủ trong tuyệt vọng. Yossarian kiệt sức. Đầu y rần rật đau nhức âm ỉ và kiệt quệ, và y cáu kỉnh với Orr, không hiểu gã này đã kiếm đâu ra hai quả táo dại và vừa đi vừa ngậm chúng trong mồm cho đến khi bị Yossarian phát hiện và bắt nhè ra. Thế rồi Orr lại nhặt được ở đâu đó hai hạt dẻ và lén bỏ vào miệng cho đến khi Yossarian phát hiện ra và quát tháo bắt nhả hai quả táo dại đó ra ngay. Orr nhăn nhở cười và nói rằng đó không phải là quả táo dại mà là hạt dẻ và rằng chúng không ở trong miệng mà đang ở trong tay, nhưng Yossarian không thể hiểu nổi một từ nào gã nói bởi vì gã đang vừa nói vừa ngậm hạt dẻ nên dù sao đi nữa y cũng bắt gã nhả chúng ra cái đã. Một tia ranh mãnh lóe lên trong mắt Orr. Gã dùng khớp đốt ngón tay day mạnh lên trán, như một kẻ say rượu đờ đẫn, đoạn hinh hích cười dâm đãng.
“Anh còn nhớ cô gái đó không…” Gã tạm ngừng để hinh hích cười tiếp. “Anh còn nhớ cô nàng đã phang giày vào đầu tôi trong căn hộ ở Rome đó không, khi cả hai bọn tôi cùng trần như nhộng ấy?” gã hỏi, ranh mãnh chờ một lúc. Gã chờ cho đến khi Yossarian thận trọng gật đầu. “Nếu anh để tôi cho lại hạt dẻ vào mồm thì tôi sẽ nói với anh tại sao cô ấy lại đánh tôi. Thỏa thuận vậy được không?”
Yossarian gật đầu, và Orr đã kể cho y toàn bộ câu chuyện dị thường về việc tại sao cô nàng khỏa thân trong căn hộ của cô điếm của Nately lại phang giày lên đầu gã, nhưng Yossarian không thể hiểu nổi một từ nào bởi vì gã đã lại nhét những hạt dẻ đó vào miệng. Yossarian cười rống lên tức tối vì bị lừa, nhưng rốt cuộc thì khi màn đêm buông xuống họ cũng chẳng còn gì khác để làm ngoài việc ăn một bữa tối chán ngắt trong một quán ăn bẩn thỉu và vẫy xe đi nhờ trở lại sân bay, ở đó họ ngủ trên sàn kim loại lạnh ngắt của máy bay, trằn trọc trở mình rên rỉ cho đến khi, chưa đầy hai tiếng sau, đám tài xế xe tải bóp còi inh ỏi tới cùng những thùng atisô, đuổi cả hai xuống đất để chất hàng lên máy bay. Một cơn mưa nặng hạt đổ xuống. Khi những chiếc xe tải rời đi thì Yossarian và Orr đã ướt như chuột lột và chẳng còn cách nào khác là lại cố nhét mình vào trong máy bay và co người lại như hai con cá com run rẩy giữa những góc thùng atisô xóc nẩy khi Milo cất cánh bay tới Naples lúc bình minh để đổi lấy những miếng vỏ quế, đinh hương, quả va ni và quả hồ tiêu để rồi sau đó cùng ngày lại phi vội xuống phía Nam tới Malta, ở đó hóa ra gã chính là trợ lý toàn quyền. Ở Malta cũng không có phòng cho Yossarian và Orr. Milo là Ngài Thiếu tá Milo Minderbinder ở Malta và có một văn phòng khổng lồ ngay trong tòa nhà của vị toàn quyền. Gã có một bàn làm việc bằng gỗ gụ to bự. Trên một khoảng tường gỗ sồi, giữa hai lá cờ Anh quốc chéo nhau, treo một bức ảnh hoành tráng thu hút mọi ánh nhìn của chính Ngài Thiếu tá Milo Minderbinder trong bộ lễ phục của Trung đoàn Bộ binh Hoàng gia xứ Wales. Bộ ria của gã trong bức ảnh này được tỉa gọn và mỏng, cằm chẻ, cặp mắt sắc sảo như gai nhọn. Milo đã được phong tước Hiệp sĩ, nhậm chức thiếu tá trong Trung đoàn Bộ binh Hoàng gia xứ Wales và được phong làm trợ lý toàn quyền xứ Malta bởi vì gã đã mang ngành buôn trứng tới đây. Gã hào phóng cho phép Yossarian và Orr được ngủ qua đêm trên lớp thảm dày trải trong văn phòng gã, nhưng chỉ một lúc sau gã đã điều một lính gác trong quân phục chiến đấu tới và cầm lưỡi lê gí lưng đuổi họ ra khỏi tòa nhà, họ đành trở lại sân bay trong tình trạng kiệt quệ trên một chiếc taxi với tay tài xế gắt gỏng, đã thế còn tính cước cắt cổ, rồi lại chui vào trong máy bay toan ngủ, lúc này máy bay đã đầy ặc những bao đay thủng đựng hạt ca cao và cà phê mới xay đang rỉ ra một thứ mùi nồng tới mức cả hai phải phi ra ngoài tựa vào bộ phận hạ cánh mà nôn mửa sặc sụa, thế rồi Milo xuất hiện vào sáng hôm sau, được tài xế riêng đưa tới, trông khỏe như vâm, và lập tức lái máy bay đi Oran, ở đó lại không có phòng cho Yossarian và Orr, còn Milo thì là phó vương. Milo có cả một khu nhà rộng rãi xa hoa nằm trong một cung điện màu hồng cá hồi, nhưng Yossarian và Orr không được phép đi cùng vào bên trong bởi vì họ là những kẻ tà đạo. Họ bị đám cảnh vệ người Berber khổng lồ tay cầm mã tấu chặn lại tại cửa rồi đuổi đi. Orr khụt khịt và hắt xì vì nhiễm phải một cơn cảm lạnh khốn khổ. Tấm lưng to bản của Yossarian thì đang bị dúi còng xuống và trở nên đau nhức. Y đã định bẻ cổ Milo, nhưng Milo là phó vương của Oran, và thân thể gã là bất khả xâm phạm. Và hóa ra Milo không những là phó vương của Oran mà còn là quốc vương của Baghdad, lãnh tụ Hồi giáo của Damascus, và là tộc trưởng của Araby. Milo là thần ngũ cốc, thần mưa và thần lúa ở những vùng sâu vùng xa nơi mấy vị thần kiểu này vẫn được những người dân dốt nát và mê tín thờ phụng, và sâu trong những khu rừng rậm châu Phi thì gã lại làm thân bằng việc trở nên khiêm tốn, có thể tìm thấy hình khuôn mặt để ria của gã được chạm khắc bự chảng cao bên trên những bệ thờ đá nguyên sơ vấy máu người. Bất cứ nơi nào họ đến, gã đều được tôn vinh, hết những lần tung hô chiến thắng này đến những lần khác, từ thành phố này đến thành phố khác, cho đến khi họ quay lại qua Trung Đông một lần nữa, hạ cánh xuống Cairo, nơi Milo đầu cơ mua sạch số bông mà ngoài gã ra không còn ai khác trên đời này muốn mua nữa và việc này đã lập tức khiến gã suýt thì phá sản. Ở Cairo cuối cùng cũng đã có phòng khách sạn cho Yossarian và Orr. Có những chiếc giường êm với những chiếc gối bông mềm và những chiếc chăn sạch, khô ráo. Có những ngăn tủ kèm mắc áo để treo quần áo của họ. Có nước để rửa ráy. Yossarian và Orr ngâm tấm thân hôi hám thô thiển ngập trong bồn tắm nước nóng đến trắng hồng rồi sau đó đi cùng Milo ra ngoài khách sạn để ăn món cocktail tôm và phi lê thăn bò trong một nhà hàng rất sang trọng có cả máy in báo giá cổ phiếu ở ngoài sảnh, Milo còn đang hỏi tay tiếp viên trưởng nhà hàng xem đó là máy gì thì tình cờ nó lại tin tít in ra báo giá mới nhất của bông Ai Cập. Milo chưa từng hình dung ra được lại có một chiếc máy nào đẹp đẽ như chiếc máy in báo giá hàng hóa đó.
“Thật vậy sao?” gã thốt lên khi tiếp viên trưởng giải thích xong. “Thế bông Ai Cập bán với giá bao nhiêu?” Tay tiếp viên trưởng cho gã biết, và Milo bèn mua cả vụ bông.
Nhưng với Yossarian thì bông Ai Cập mà Milo mua vẫn không đáng sợ bằng những nải chuối đỏ còn xanh mà Milo đã phát hiện ra ở khu chợ địa phương trên đường lái xe vào thành phố, và nỗi lo sợ của y đã được chứng minh là có lý khi Milo lay y dậy giữa giấc ngủ sâu vừa sau mười hai giờ và ấn quả chuối đã bóc một nửa về phía y. Yossarian cố nén một tiếng khóc nấc.
“Nếm thử đi này,” Milo giục, cương quyết gí quả chuối vào sát bộ mặt nhăn nhó đang cố lảng tránh của Yossarian.
“Milo, anh là đồ chó đẻ,” Yossarian rên lên, “Tôi cần được ngủ một giấc.”
“Ăn và nói với tôi xem có ngon không đi đã,” Milo kiên nhẫn thuyết phục. “Đừng nói với Orr là tôi đưa nó cho anh. Tôi sẽ đòi anh ta hai đồng bạc một quả.”
Yossarian thúc thủ mà ăn quả chuối và nhắm mắt lại sau khi bảo với Milo rằng nó rất ngon, nhưng Milo lại lay y dậy và đòi y mặc quần áo vào càng nhanh càng tốt, bởi vì họ sẽ rời đi Pianosa ngay lập tức.
“Anh và Orr sẽ phải chuyển chuối lên máy bay ngay bây giờ,” gã giải thích. “Người kia dặn hãy cẩn thận lũ nhện trong lúc các anh vận chuyển các nải chuối.”
“Milo, chúng ta không thể đợi tới sáng được hay sao?” Yossarian nài nỉ. “Tôi cần phải ngủ một chút.”
“Chúng chín rất nhanh,” Milo trả lời, “và chúng ta không được phép để lỡ một phút nào cả. Hãy nghĩ xem mọi người ở phi đoàn sẽ vui như thế nào khi họ được ăn những quả chuối này.”
Nhưng những người ở phi đoàn chẳng bao giờ được nhìn thấy một quả chuối nào cả, bởi vì ở Istanbul bán chuối đang rất có lời, và ở Beirut đang có thể mua được hạt carum giá rẻ, sau khi bán chuối Milo mua hạt carum rồi phi vội đến Bengasi bán, và khi họ hùng hục quay lại Pianosa thì kỳ nghỉ sáu ngày của Orr đã đến hồi kết thúc, chiếc máy bay khi đó đã chứa đầy những quả trứng trắng tốt nhất từ Sicily mà Milo nói là từ Ai Cập và bán chúng cho các nhà ăn của gã với giá chỉ có bốn xu một quả khiến cho tất cả các sĩ quan chỉ huy trong xanh đi ca phải cầu khẩn gã quay ngay về Cairo để mua thêm những nải chuối đỏ còn xanh để bán ở Thổ Nhĩ Kỳ rồi mua hạt carum đi Bengasi bán vì ở đó đang có nhu cầu cao. Và tất cả mọi người đều có phần.