A book must be an ice-axe to break the seas frozen inside our soul.

Franz Kafka

 
 
 
 
 
Tác giả: Toni Morission
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Beloved
Dịch giả: Hồ Như
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Hải Trần
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 868 / 20
Cập nhật: 2016-02-29 20:21:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần II – Chương 1
24 ầm ĩ. Stamp Paid có thể nghe thấy tiếng nó từ tận ngoài đường. Ông bước đến căn nhà, đầu ngẩng cao hết mức để không ai có thể nói là ông lén lút mặc dù trí óc lo âu của ông khiến ông cảm thấy mình đang thầm lén. Từ lúc ông đưa cho Paul D xem mảnh báo và biết anh dọn ra khỏi 124 trong cùng ngày, Stamp cảm thấy bứt rứt. Đã vật lộn với câu hỏi có nên nói cho một người đàn ông biết hay không về người đàn bà của anh ta, và rồi đã tự thuyết phục rằng ông nên nói, lúc ấy ông lại bắt đầu lo cho Sethe. Phải chăng ông đã ngăn cản cơ hội hạnh phúc duy nhất của chị với một người đàn ông tốt? Sự mất mát, lời đồn đại khơi khơi nổi lên trở lại từ người đàn ông đã giúp chị vượt sông, bạn của chị cũng như bạn của Baby Suggs, có làm cho chị bực mình?
"Mình già quá rồi," ông nghĩ, "mình nghĩ không rõ ràng nữa. Mình đã quá già và đã thấy quá nhiều." Ông nằng nặc rằng ông không muốn ai biết chuyện ông thổ lộ ở sân lò mổ - bây giờ ông tự hỏi ông đang bảo vệ ai. Paul D là người duy nhất trong thị trấn không biết chuyện. Tại sao tin tức đã đăng báo lại trở thành một bí mật phải thì thầm trong một sân lò mổ? Một bí mật đối với ai? Chính là với Sethe. Ông đã làm chuyện sau lưng chị, như một kẻ lén lút. Nhưng lén lút là nghề của ông - cuộc đời của ông. Mặc dù luôn luôn vì một mục đích rõ ràng và thánh thiện. Trước Cuộc Chiến tất cả những việc ông làm đều là lén lút: đưa kẻ chạy trốn đến chỗ ẩn náu, đưa tin mật đến chỗ công cộng. Bên dưới rau quả hợp lệ của ông là người ông chở qua sông lậu. Ngay cả mấy con lợn ông làm thịt trong mùa xuân cũng phục vụ mục đích của ông. Có những gia đình sống bằng xương và lòng vụn ông chia cho họ, ông viết và đọc thư cho họ, ông biết ai bị bệnh phù và ai cần củi đốt, đứa trẻ nào có quà và đứa nào cần chỉnh đốn. Ông biết bí mật của sông Ohio và hai bên bờ của nó, những căn nhà trống và có người, người nhảy múa giỏi nhất, người nói dở nhất, ai có giọng hay và ai không hát nổi. Không có điều gì thú vị giữa hai chân ông nhưng ông nhớ ông đã từng có - khi sự thúc đẩy ấy thúc đẩy người bị thúc đẩy - và đây là lý do tại sao ông cân nhắc rất kỹ và rất lâu trước khi mở chiếc hộp gỗ của ông và tìm mảnh báo mười tám năm trước cho Paul D xem làm bằng chứng. Sau đó - chứ không phải trước - ông mới cân nhắc đến cảm giác của Sethe. Và sự cân nhắc muộn màng này khiến ông tự trách mình. Có lẽ ông nên im lặng có thể dần dà Sethe sẽ tự mình nói cho Paul D biết, có thể ông không phải là người Chiến Binh cao thượng của Christ như ông nghĩ, mà là một kẻ lắm chuyện bình thường và chất phác, đã nhân danh sự thật và lời cảnh báo, những điều ông cho là quan trọng, để cắt ngang một chuyện đang diễn ra tốt đẹp. Bây giờ 124 đã trở lại như trước khi Paul D đến thị trấn - khiến Sethe và Denver lo lắng vì lũ quỷ ám mà ông có thể nghe thấy từ ngoài đường. Dù cho Sethe có thể xoay sở sống được với hồn ma đã trở về, Stamp không tin là con gái chị làm được. Denver cần một người bình thường trong đời nó. Do may mắn ông đã có mặt lúc nó mới sinh ra - trước khi nó biết nó sống - và ông ưu ái nó là vì thế. Chính vì nhìn thấy nó còn sống, và trông khỏe mạnh bốn tuần sau đó mà ông đã vui đến nỗi ông gom hết những trái dâu đen ngon nhất trong hạt mà ông có thể mang được và trước hết đút hai cái vào miệng nó, rồi mới biếu phần gặt hái nhọc nhằn của ông cho Baby Suggs. Cho đến hôm nay ông vẫn tin rằng dâu của ông (đã nhen nhóm bữa tiệc và việc bổ củi sau đó) là lý do Denver còn sống. Nếu ông không chẻ củi ở đấy. Sethe đã trét óc con mình lên gỗ ván. Lẽ ra ông nên nghĩ đến Denver, nếu không nghĩ đến Sethe trước khi ông cho Paul D biết câu chuyện đã đuổi anh ra khỏi nhà, người bình thường duy nhất trong cuộc đời con bé từ lúc Baby Suggs qua đời. Và cái gai nhọn là ở ngay đấy.
Sâu sắc hơn và đau đớn hơn mối quan tâm muộn màng ông dành cho Denver hoặc Sethe là ký ức về Baby Suggs - ngọn núi trong bầu trời của ông - cháy lòng ông như đồng đô la bạc trong túi một tên khờ. Chính là ký ức về bà và niềm kính trọng mà bà xứng đáng làm ông ngẩng cao đầu bước vào sân 124, mặc dù ông nghe tiếng căn nhà từ ngoài đường.
Ông chỉ đặt chân vào nhà này một lần sau Nỗi Khốn Khổ (tên ông gọi sự phản ứng dữ dội của Sethe trước Đạo luật Đào tẩu 1 để mang Baby Suggs thánh thiện ra khỏi nhà. Khi ông nhấc bà lên trong tay ông, bà nhìn ông như một cô gái và ông hiểu nỗi vui thích bà hẳn phải cảm thấy khi biết rằng bà không phải trẹo nghiến xương hông nữa - rằng cuối cùng là đã được nâng nhấc. Nếu bà chỉ đợi một chút thôi bà sẽ được thấy Cuộc Chiến chấm dứt và sự hào nhoáng ngắn ngủi ngay sau đó. Họ đã có thể ăn mừng với nhau, thỉnh thoảng đi nghe những bài giảng hay. Chuyện xảy ra là ông đi một mình từ căn nhà vui vẻ này đến căn nhà hân hoan khác, uống những gì được mời. Nhưng bà đã không đợi và ông giận hờn nhiều hơn tiếc thương khi dự đám tang bà. Lần đó Sethe và con gái mắt ráo hoảnh, Sethe không có chỉ dẫn nào ngoài "Mang bà đến Chỗ Quang" và ông đã gắng làm, nhưng ông bị cản trở vì luật lệ dân da trắng đặt ra về nơi chốn yên nghỉ của người chết. Baby Suggs nằm xuống cạnh đứa bé bị cắt cổ - sự gần gũi mà Stamp không chắc khiến Baby Suggs hài lòng.
Buổi lễ diễn ra trong sân vì ngoài ông ra không ai muốn vào 124 - một xúc phạm mà Sethe trả lời bằng một xúc phạm khác khi chị từ chối không dự buổi lễ do mục sư Pike chủ trì. Thay vì thế chị đến phần mộ, thi đua im lặng với nó trong khi chị đứng đấy, không hát chung những bài thánh ca mà những người khác hát với tất cả tâm hồn. Sự lăng mạ ấy làm nảy sinh một lăng mạ khác từ những người đi đám tang: về lại sân nhà 124, họ ăn thức ăn họ mang đến và không đụng đến thức ăn của Sethe, người không đụng vào thức ăn của họ và cấm Denver đụng vào. Thế nên Baby Suggs thánh thiện, đã cống hiến cuộc đời tự do của mình cho sự hòa hợp, bị chôn cất giữa điệu múa thường tình của lòng kiêu hãnh, sự sợ hãi, sự kết án và nỗi hằn học. Gần như tất cả mọi người trong thị trấn mong Sethe sẽ gặp lúc khó khăn. Những lời tuyên bố quá đáng của chị, tính tự lập của chị dường như đòi hỏi chuyện ấy. Và Stamp Paid, người chưa từng cảm thấy một giọt ác ý nào trong cuộc sống trưởng thành của mình tự hỏi phải chăng sự mong đợi của dân thị trấn rằng trường hợp của Sethe là "kiêu hãnh trước suy tàn" 2 không rõ cách nào đã lây sang ông - điều ấy sẽ giải thích được tại sao chưa cân nhắc về cảm giác của Sethe hay nhu cầu của Denver, ông đã đưa cho Paul D xem mảnh báo. Ông hoàn toàn không biết sẽ nói gì hoặc làm gì khi và nếu Sethe mở của và nhìn vào mắt ông, ông sẽ sẵn sàng ngỏ ý giúp đỡ chị, nếu chị muốn ông giúp hay nhận lấy cơn giận dữ của chị, nếu chị có ẩn chứa nỗi giận hờn nào về ông. Hơn thế, ông tin vào trực giác của mình để sửa lại những cư xử không phải nếu có của ông với những người thân của Baby Suggs, và dẫn dắt ông vào trong và xuyên qua sự quỷ ám ngày càng mạnh hơn mà 124 đang phải chịu, chứng cớ cho sự quỷ ám ấy là những tiếng nói ông nghe thấy từ ngoài đường. Ngoài ra, ông sẽ dựa vào quyền năng của Chúa Jesus để đối phó với những thứ cổ xưa hơn nhưng không mạnh hơn chính bản thân Ngài.
Ông không hiểu được nhưng điều ông nghe thấy trong lúc ông bước đến gần hàng hiên. Ở ngoài đường Bluestone ông tưởng mình nghe thấy những tiếng nói vội vã hòa lẫn vào nhau - ầm ĩ. bức xúc, tất cả nói cùng lúc nên ông không thể hiểu họ đang nói gì và về ai. Lời nói không hẳn là vô nghĩa, và ngôn ngữ cũng không lạ. Nhưng thứ tự các chữ có cái gì sai và ông không sao diễn tả hay giải thích chúng được. Ông chỉ nghe rõ được hai chữ của tôi. Phần còn lại ngoài tầm với của đầu óc ông. Dù vậy ông vẫn bước tiếp. Khi ông đến bậc thềm, những giọng nói đột nhiên giảm đi thành nhỏ hơn tiếng thì thầm. Ông là dừng lại. Nhưng giọng nói đã thành những tiếng lẩm bẩm ngắt quãng - như những âm thanh riêng tư của một người đàn bà khi tưởng mình đang có một mình và không ai nhìn mình làm việc, tiếng tắc lưỡi khi chị hụt lỗ xâu kim, tiếng rên khẽ khi chị thấy một miếng mẻ nữa trên cái đĩa tốt duy nhất của chị, tiếng cãi vả nho nhỏ, thân thiết khi chị chào lũ và mái. Không có gì gay gắt hay làm giật mình. Chỉ là cuộc đối thoại riêng tư mãi mãi xảy ra giữa phụ nữ và những việc làm của họ.
Stamp Paid giơ nắm tay để gõ vào cánh cửa ông chưa bao giờ gõ (vì nó luôn mở hay được mở cho ông) và không thể làm được. Tất cả sự đền bù ông trông đợi từ những người da đen đã chịu ơn ông là quyền được bỏ qua nghi thức gõ cửa ấy. Một khi Stamp Paid đã mang cho ai một chiếc áo choàng, lấy tin cho ai, cứu mạng ai, hay sửa thùng chứa nước của ai, ông tự cho mình cái quyền bước vào cửa nhà người ấy như là cửa nhà ông. Vì những cuộc thăm viếng của ông mang lại lợi ích, bước chân ông hay tiếng ông gọi qua cửa được chào đón vui vẻ. Thay vì bỏ qua đặc quyền duy nhất ông tự cho mình, ông hạ tay xuống và rời hàng hiên.
Ông cố gắng nhiều lần: quyết định thăm Sethe, vượt qua những giọng nói vội vã, ầm ĩ, đến tiếng lẩm bẩm sau đó và ngừng lại, cố nghĩ xem ông phải làm gì ở cửa nhà. Sáu lần trong sáu ngày ông bỏ lối ông thường đi và cố gõ cửa 124. Nhưng sự lạnh lẽo của cử chỉ gõ cửa - dấu hiệu ông thực là kẻ lạ ở cổng nhà - làm ông choáng ngợp. Lần bước đi trở ra trong tuyết, ông thở dài. "Tinh thần sẵn sàng, nhưng xác thịt yếu đuối." 3 Trong khi Staml Paid quyết định thăm viếng 124 vì Baby Suggs, Sethe đang cố gắng làm theo lời khuyên của bà: Bỏ tất cả xuống, gươm và khiên. Không chỉ xác nhận lời khuyên của bà, nhưng thật sự làm theo. Bốn ngày sau khi Paul D nhắc chị nhớ chị có mấy chân, Sethe lục trong đống giày của những người lạ tìm đôi giày trượt băng chị chắc chắn có trong ấy. Trong khi bới tìm, chị ghét mình vì đã quá tin tưởng, quá nhanh chóng nhượng bộ khi Paul D hôn lưng chị bên bếp lò. Đáng lẽ chị phải biết rằng một khi biết chuyện, anh sẽ cư xử như những người khác trong thị trấn. Hai mươi tám ngày có bạn bè phụ nữ, mẹ chồng và tất cả con cái của chị cùng một nơi, hai mươi tám ngày chị là một thành viên của lối xóm, thật ra có lối xóm của riêng chị - tất cả đã qua lâu rồi và sẽ không bao giờ trở lại. Không còn nhảy múa ở Chỗ Quang hay những lần cho ăn vui vẻ. Không còn những cuộc bàn bạc, ào ạt hay bình lặng, về ý nghĩa đích thực của Đạo luật Đào tẩu, Lệ phí Bồi thường 4, Con đường của Chúa và ghế quỳ của người da đen 5, chống nô lệ, giải phóng nô lệ, luật bầu cử, những người Cộng hòa, Dred Scott, học chữ, xe ngựa bánh to của Sojourner 6, Hội Phụ nữ Da đen ở Delaware, Ohio, và những vấn đề hệ trọng khác đã giữ họ ngồi trong ghế, cào xước ván lót sàn nhà hoặc khiến họ đi lại trong đau khổ hay mừng rỡ. Không còn bồn chồn đợi tờ Sao Phương Bắc, hay tin tức về một vụ tấn công bị đẩy lùi. Không còn thở dài thêm vì một sự phản bội hay vỗ tay mừng một chiến thắng nhỏ. Tiếp theo hai mươi tám ngày vui sướng ấy là mười tám năm chê trách và một cuộc sống đơn độc. Rồi vài tháng của cuộc sống đầy ánh nắng mà mấy chiếc bóng nắm tay nhau trên đường đã hứa hẹn với chị, những lời chào ướm thử từ những người da đen khác khi chị ở bên cạnh Paul D, một cuộc sống gối chăn cho chị. Ngoại trừ bạn của Denver, tất cả vết tích nhỏ nhất của cuộc sống ấy đã biến mất. Phải chăng đấy là khuôn mẫu? Chị tự hỏi. Mỗi mười tám hay hai mươi năm, cuộc sống không chịu nổi của chị sẽ bị xáo lên bằng một hào quang ngắn ngủi?
Ôi chao, nếu chuyện đã thế - thì chuyện là như thế.
Chị đang quỳ gối, cọ sàn nhà, Denver theo sau chị với mấy tấm giẻ lau, thì Thương hiện ra và nói: "Mấy thứ này làm gì?"
Quỳ gối, tay cầm bàn cọ, chị nhìn cô gái và đôi giày trượt băng cô đang giơ lên. Sethe không trượt băng được lấy một bước, nhưng ngay lúc ấy chị quyết định theo lời khuyên của Baby Suggs: để tất cả xuống. Chị để thùng nước lại. Bảo Denver lấy khăn choàng và bắt đầu tìm những chiếc giày trượt băng khác chị chắc chắn ở đâu đó trong đống giày. Ai thương hại chị, ai đi ngang liếc vào nhìn xem chị sống thế nào (kể cả Paul D, sẽ khám phá ra người đàn bà đã bị quăng vào đống rác lần thứ ba vì yêu con mình - người đàn bà ấy đang lướt đi vui vẻ trên một dòng suối đóng băng.
Cẩu thả, vội vã, chị quăng giày ra xung quanh. Chị tìm thấy một lưỡi giày trượt - của đàn ông.
"Ôi dào." chị nói. "Mình thay phiên. Một ngươi hai giày trượt, một người một giày trượt và giày thường cho người kia."
Không ai thấy họ ngã.
Nắm tay chống đỡ cho nhau, họ xoay tròn trên băng, Thương mang đôi này trượt, Denver mang một chiếc giày trượt, lướt một chân qua lớp băng trơn láng. Sethe nghĩ hai chiếc giày của chị sẽ giữ cho chị vững vàng và giúp chị bám vào mặt băng. Chị đã lầm. Bước hai bước lên trên mặt dòng suối chị mất thăng bằng và ngã ngồi xuống. Hai cô gái cười thét lên, nhập bọn với chị trên mặt băng. Sethe cố đứng dậy. Xương chị trồi lên ở những chỗ không ngờ và tiếng cười cũng thế. Trượt theo vòng tròn hay đường thẳng, cả ba người không thể đứng thẳng một phút, nhưng không ai thấy họ ngã. Mỗi người dường như đang giúp hai người kia đứng thẳng, thế nhưng mỗi cú ngã tăng gấp đôi niềm vui thích của họ. Cây sồi và thông xào xạc hai bên bờ bao quanh họ và thấm đẫm tiếng cười của họ trong khi họ chống chọi với trọng lực của quả đất để nắm lấy tay nhau. Váy họ mặc bay tung như những đôi cánh và da họ đổi thành màu xám chì trong cái lạnh và ánh sáng đang phai.
Không ai thấy họ ngã.
Cuối cùng, mệt nhoài họ đặt lưng nằm xuống và thở dốc. Bầu trời trên đầu họ là một cõi khác. Những ngôi sao mùa đông, gần đến nỗi như liếm được đã mọc trước hoàng hôn.
Trong một lúc khi nhìn lên, Sethe bước vào sự an bình mà chúng trao tặng. Rồi Denver đứng dậy và thử lướt một mình một đường dài. Mũi chiếc giày trượt duy nhất của nó đụng vào một chỗ băng gồ lên, và trong khi nó ngã, hai tay nó vung vẩy loạn xạ và vô vọng đến nồi cả ba người - Sethe, Thương và chính Denver - cười cho đến phát ho. Sethe nhổm người bò dậy, tiếng cười vẫn rung động lồng ngực, làm ướt đôi mắt chị. Chị giữ như vậy một lúc, bò hai tay hai chân. Nhưng khi tiếng cười của chị tắt đi, dòng nước mắt không ngưng chảy và một lúc sau Thương và Denver mới biết chị đang khóc. Khi biết ra chúng vuốt nhẹ lên vai chị.
Từ khu rừng đi về, Sethe quàng tay qua hai cô gái đi hai bên chị. Cả hai cùng ôm eo chị. Lần lối qua mặt tuyết đông cứng họ va vấp và phải giữ chặt lấy nhau, nhưng không ai thấy họ ngã.
Vào nhà họ thấy lạnh. Họ cởi giày, tất ướt, và mang tất len khô. Denver bỏ củi vào lửa. Sethe hâm nóng một chảo sữa và trộn mật mía và va-ni vào đó. Quấn mình trong chăn trước bếp lò họ uống, quệt mũi và lại uống.
"Mình nướng vài củ khoai tây đi." Denver nói.
"Để mai," Sethe nói. "Đến giờ đi ngủ rồi." Chị cho mỗi đứa thêm một chút sữa nóng ngọt. Lửa bếp bùng lên.
"Mắt dì khô chưa?" Thương hỏi.
Sethe mỉm cười. "Rồi. Mắt dì khô rồi. Uống đi. Đến giờ đi ngủ rồi."
Nhưng không ai muốn rời cái ấm áp của chăn, lửa và mấy chiếc tách để đến cái lạnh lẽo của chiếc giường không sưởi. Họ tiếp tục nhấm nháp và nhìn lửa. Khi có tiếng "tách" Sethe không biết đấy là cái gì. Sau đó, đã rõ ràng như ban ngày rằng tiếng "tách" đến ngay từ lúc đầu - gần như một nhịp đập, trước khi tiếng "tách" bắt đầu (trước khi chị nghe ba nốt nhạc, thậm chí trước khi giai điệu thành rõ ràng. Hơi nghiêng người đến phía trước Thương âm ư nho nhỏ.
Lúc Thương âm ư xong là lúc Sethe nhớ lại tiếng tách - tiếng những mảnh rời đang nằm vào chỗ của mình. Sữa không đổ ra khỏi tách của chị vì tay chị không run. Chị chỉ quay đầu và ngắm nhìn khuôn mặt nghiêng của Thương: cằm miệng, mũi, trán; được sao chép lại và phóng lớn thành chiếc bóng khổng lồ được ánh lửa ném lên bức tường đằng sau cô. Tóc cô, Denver tết lại thành hai mươi hay ba mươi bím, lượn về hai vai cô như những cánh tay. Từ chỗ chị ngồi Sethe không thể xem xét mái tóc cô, đường chân tóc, hoặc lông mày, hoặc đôi môi, hoặc...
"Mẹ chỉ nhớ", Baby Suggs nói "nó thích cạnh bánh mì cháy như thế nào. Hai bàn tay nhỏ của nó, dù chúng đập vào mẹ, mẹ cũng không nhận ra."
...vết bớt, hoặc màu lợi răng, hình dáng đôi tai, hoặc...
"Này. Nhìn này. Đây là mẹ con. Nếu con không nhận ra mẹ bằng cách nhìn mặt, thì nhìn ở đây."
...những ngón tay hoặc móng tay, hoặc thậm chí...
Nhưng chị còn nhiều thời gian. Tiếng "tách" đã kêu "tách", mọi thứ đã ở đúng chỗ của nó hay đang chực chờ và sẵn sàng để trượt vào chỗ.
"Dì nghĩ ra bài hát đó," Sethe nói. "Dì nghĩ ra bài hát và hát cho con dì nghe. Không ai biết bài hát đó ngoại trừ dì và con của dì."
Thương quay nhìn Sethe. "Con biết." cô nói.
Một cái hộp đựng đầy châu báu tìm thấy trong một hốc cây phải được vuốt ve trước khi mở ra. Ổ khóa có thể bị gỉ sét hay đã gẫy rời khỏi chốt cài. Dù vậy người ta nên sờ đầu đinh, và thử sức nặng của thùng. Không nên đập vỡ thùng bằng rìu trước khi nó được đào lên đàng hoàng từ ngôi mộ che giấu nó bao lâu nay. Không nên nghẹt thở trước một điều huyền diệu thật sự huyền diệu vì sự kỳ diệu đến từ nhận thức rằng phép lạ đã chờ đợi bạn ở đấy từ lâu.
Sethe chùi lớp sữa trắng bóng bám trong lòng chảo, mang gối từ phòng khách ra cho hai cô gái kê đầu. Giọng nói của chị không run khi chị bảo chúng giữ lửa - còn nếu không thì lên gác.
Với những lời chỉ bảo ấy chị quàng chăn quanh khuỷu tay và leo lên những bậc thang trắng như một cô dâu. Bên ngoài tuyết đông lại thành những hình dạng duyên dáng. Sự an bình của những ngôi sao mùa đông dường như vĩnh cửu.
o O o
Mân mê sợi dây vải và ngửi mùi da. Stamp Paid tiến lại 124 lần nữa.
Xương cốt mình mỏi rồi, ông nghĩ. "Ngày nào mình cũng mệt, mệt tận xương, nhưng bây giờ cái mệt ngấm vào trong tủy. Baby Suggs chắc đã cảm thấy như thế khi bà nằm xuống và nghĩ đến màu sắc suốt quãng đời còn lại." Khi bà nói với ông mục đích của bà, ông nghĩ bà xấu hổ và xấu hổ đến nỗi không nói được rằng bà xấu hổ. Uy quyền của bà trên bục giảng, điệu múa của bà ở Chỗ Quang, Tiếng Gọi mạnh mẽ của bà (bà không thuyết giảng - nhất quyết rằng bà không biết đủ để giảng - bà đã gọi và đã được nghe) - tất cả đã bị nhạo báng và dè bỉu vì những giọt máu đổ ra trong sân sau nhà bà. Chúa khiến bà bối rối và bà xấu hổ vì Ngài đến nỗi không nói được. Thay vì thế bà bảo Stamp bà sẽ vào giường nằm để nghĩ về màu sắc của mọi thứ. Ông đã cố làm bà đổi ý. Sethe đang ở trong tù với đứa bé còn bú, đứa trẻ ông cứu. Hai đứa con trai chị đang nắm tay nhau trong sân, sợ không dám rời nhau ra. Người lạ và quen ghé qua để nghe thêm lần nữa chuyện đã xảy ra như thế nào, và đột nhiên Baby Suggs tuyên bố hòa bình. Bà bỏ cuộc. Đến lúc Sethe được thả ra bà đã nghĩ hết màu xanh dương và gần hết màu vàng.
Thoạt tiên ông thỉnh thoảng thấy bà trong sân, hoặc mang thức ăn đến nhà giam, hoặc mang giày vào thị trấn Rồi dần dần ít đi. Lúc ấy ông tưởng nỗi xấu hổ làm bà liệt giường. Bây giờ, tám năm sau đám tang thiếu hòa khí của bà và mười tám năm sau Nỗi Khốn Khổ, ông đổi ý. Xương cốt của bà đã mệt và đáng khen cho quả tim nuôi sống nó rằng phải mất tám năm bà mới gặp được sắc màu ao ước. Sự mệt mỏi đã lấn chiếm bà, như đã lấn chiếm ông, một cách bất ngờ, nhưng kéo dài nhiều năm. Sau sáu mươi năm bị mất con cho những kẻ đã nhai nát đời bà và nhổ nó ra như một cái xương cá, sau năm năm tự do nhờ con út của bà, người mua tương lai bà bằng tương lai của mình, đổi chác, hay đại loại như thế để bà có được một tương lai cho dù anh có tương lai hay không - để rồi cũng mất anh; có được một cô con gái và cháu nội và thấy cô con gái ấy giết bọn trẻ (hay gắng giết); thuộc về một cộng đồng của những người da đen tự do - yêu và được họ yêu lại, khuyên và được khuyên, bảo vệ và được bảo vệ, cho ăn và được mời ăn - và rồi thấy cộng đồng đó lùi ra xa - ôi, những chuyện ấy có thể làm mỏi mòn ngay cả Baby Suggs thánh thiện.
" Nghe này", ông bảo bà. "Bà không được bỏ Lời Chúa. Bà được cho lời để nói. Tôi không cần biết cái gì xảy ra cho bà, bà không thể bỏ Lời Chúa."
Họ đang đứng trên đường Richmond, gót chân ngập trong lá vàng. Cửa sổ sáng đèn ở tầng dưới của những ngôi nhà rộng làm buổi chiều tối thêm tối. Mùi lá đốt gay gắt. Tình cờ, lúc ông bỏ túi một xu tiền thưởng cho món hàng ông giao, ông liếc sang bên kia đường và nhận ra người phụ nữ đang khập khiễng đi là bạn cũ. Đã nhiều tuần rồi ông chưa gặp bà. Ông lẹ làng băng qua đường, chân lội trong lá vàng. Khi ông chặn bà lại với một lời chào, bà đáp lại với một khuôn mặt vô hồn. Như thể bà là một cái đĩa. Với một cái giỏ đựng đầy giày trong tay, bà đợi ông bắt đầu, dẫn lối hay chia sẻ trò chuyện. Nếu mắt bà buồn bã ông có thể hiểu được, nhưng chỗ đáng lẽ có buồn rầu, chỉ có thờ ơ.
"Đã ba thứ Bảy liền bà không đến Chỗ Quang", ông bảo bà.
Bà quay đầu nhìn những căn nhà trên đường.
"Người ta đến," ông nói.
"Người ta đến, người ta đi," bà trả lời.
"Đây, để tôi mang cho". Ông cầm lấy cái làn của bà nhưng bà không chịu.
"Tôi phải giao hàng cho một nhà trên đường này", bà nói. "Tên là Tucker."
"Đằng kia," ông nói "Hai cây hạt dẻ trong sân. Có bệnh."
Họ bước đi một chốc, ông đi chậm lại để chờ bà khập khiễng.
"Sao?"
"Sao cái gì?"
"Thứ bảy sắp tới. Bà có định Gọi không?"
"Nếu tôi gọi họ và họ đến, tôi biết nói cái gì đây?"
"Nói Lời Chúa", ông kìm lại tiến la của mình, quá trễ.
Hai người đàn ông da trắng đang đốt lá quay đầu về phía ông. Cúi thấp người, ông thì thầm vào tai bà, "Lời Chúa! Lời Chúa."
"Đó là thêm một điều tôi bị tước mất," bà nói, khi ông hô hào, năn nỉ bà dù sao đi nữa cũng đừng bỏ cuộc. Bà được ban cho Lời Chúa và bà phải nói. Phải nói.
Họ đã đến hai cây hạt dẻ và căn nhà trắng phía sau chúng.
"Bà hiểu tôi nói gì chưa?" ông nói. "Cây to như vậy. mà hai cây cộng lại không nhiều lá bằng cây dẻ gai non."
"Tôi biết rồi." bà nói, nhưng bà lại nhìn căn nhà trắng.
"Bà phải làm, ông nói. "Bà phải làm. Không ai có thể Gọi như bà. Bà phải đến."
"Điều tôi phải làm là vào giường nằm. Tôi muốn tập trung vào một điều gì đó vô hại trên cõi đời."
"Bà đang nói cõi đời nào vậy? Không có gì vô hại ở dưới này."
"Có Màu xanh dương. Nó không hại ai. Màu vàng cũng không."
"Bà vào giường để nghĩ về màu vàng?"
"Tôi thích màu vàng."
" Rồi sao? Khi bà xong với màu xanh dương và màu vàng, rồi sao?"
"Không nói được. Đấy không phải là thứ có thể tính trước được."
"Bà đổ lỗi cho Chúa," ông nói. "Bà đang làm thế."
"Không phải, Stamp. Không phải thế!"
"Bà nói là dân da trắng thắng rồi? Bà nói vậy?"
"Tôi nói họ vào sân nhà tôi."
"Bà nói là không có điều gì đáng kể."
"Tôi nói họ vào sân nhà tôi."
"Sethe là người làm chuyện ấy."
"Và nếu nó không làm?"
"Bà nói Chúa chịu thua? Không còn gì cho mình ngoài chuyện đổ máu của chính mình?"
"Tôi nói họ vào sân nhà tôi."
"Bà đang trừng phạt Ngài, phải không?"
"Không giống như Ngài trừng phạt tôi."
"Bà không thể làm thế, Baby. Như thế không đúng."
"Có lúc tôi đã biết đúng là như thế nào."
"Bà vẫn biết."
"Điều tôi biết là điều tôi thấy: một bà da đen đang vác giày."
"Ồ Baby." Ông liếm môi uốn lưỡi tìm lời đổi ý bà, làm nhẹ gánh cho bà. "Mình phải vững vàng. Những chuyện này cũng sẽ qua. Bà đang tìm cái gì? Một phép lạ?"
"Không," bà nói "Tôi tìm thứ Chúa bảo tôi ở đây để tìm: cái cửa sau," và khập khiễng đến ngay trước cửa sau. Họ không cho bà vào. Họ lấy giày khi bà đứng trên bậc thềm và bà tựa hông vào tay vịn bậc thềm trong khi người đàn bà da trắng đi tìm đồng mười xu.
Stamp Paid đổi đường đi. Giận đến mức không thể đưa bà về nhà và nghe thêm nữa, ông nhìn bà một lúc rồi quay đi trước khi khuôn mặt da trắng canh chừng ở cửa sổ nhà bên có kết luận gì.
Giờ đây, cố gắng đến 124 lần thứ nhì, ông hối tiếc buổi trò chuyện ấy: giọng cao kỳ của ông, việc ông không chịu thấy hậu quả của cái mệt mỏi tận trong xương tủy của người phụ nữ mà ông tin là một ngọn núi. Giờ đây ông hiểu bà thì quá trễ. Trái tim ban tình yêu, cái miệng nói Lời Chúa, chúng không đáng kể. Họ vẫn vào sân nhà bà và bà không thể tán thành hay lên án sự lựa chọn khó khăn của Sethe. Cái này hoặc cái kia có thể đã cứu bà. nhưng bị yêu sách của cả hai bên đánh gục, bà vào giường. Cuối cùng bọn da trắng đã làm bà mệt nhoài.
Và ông nữa. Bây giờ đã là năm 1874 và bọn da trắng vẫn lộng hành. Da đen bị quét sạch khỏi các thị trấn, tám mươi bảy vụ hành hình không luật pháp chỉ trong một năm ở Kentucky, bốn trường học da đen cháy rụi, đàn ông trưởng thành bị đánh như trẻ con, trẻ con bị đánh như người lớn, phụ nữ da đen bị cưỡng hiếp hội đồng, của cải bị lấy đi, cổ bị bẻ gẫy. Ông ngửi thấy mùi da, da và máu nóng. Da là một chuyện, nhưng máu người nấu trong lửa hành hình lại là chuyện khác. Thối inh. Xông lên từ những trang báo Sao Phương Bắc, từ miệng nhân chứng, hằn trong nét chữ ngoằn ngoèo của những lá thư đưa tay. Thối inh trong những chi tiết của các văn kiện và bản kiến nghị đầy những chữ Xét rằng và được đệ trình đến bất cứ cơ sở luật pháp nào chịu đọc. Nhưng những điều này không làm xương cốt ông mệt mỏi. Không một điều nào. Xương cốt ông mệt vì một sợi dây vải. Đang buộc hết sức chắc phà vào bờ sông Licking, ông nhìn thấy một cái gì màu đỏ dưới đáy phà. Với tay lấy nó, ông nghĩ nó là một chiếc lông chim đỏ kẹt vào phà. Ông kéo bật ra một sợi dây vải đỏ buộc một cuộn tóc xoăn ướt, vẫn còn dính vào mảng da đầu; ông tháo sợi dây vải để nó vào túi, và thả cuộn tóc vào đám cỏ dại. Trên đường về ông dừng bước, nghẹn thở và choáng váng. Ông đợi cơn choáng váng qua đi trước khi tiếp tục về nhà. Một lúc sau, ông lại nghẹn thở. Lần này ông ngồi xuống bên một hàng rào. Nghỉ xong ông đứng dậy, nhưng trước khi bước đi ông quay nhìn xuống con đường đang đi và nói, với lớp bùn đông cứng và dòng sông phía xa "Mấy người này là cái gì? Ngài bảo cho con biết đi, Jesus. Họ là gì?"
Khi về đến nhà ông mệt quá không ăn được thức ăn em gái và cháu trai ông nấu. Ông ngồi trên hàng hiên đến khuya trong cái lạnh và chỉ vào giường vì giọng em ông gọi đã bắt đầu lo âu. Ông giữ sợi dây vải. Mùi da đeo đẳng theo ông và xương cốt đã yếu đi của ông làm ông nghĩ nhiều đến ước nguyện của Baby Suggs, ước nguyện được ngẫm nghĩ về những điều vô hại trên đời. Ông hy vọng bà đã chú tâm vào màu xanh dương, màu vàng, có thể màu xanh lá cây, và không bao giờ chú tâm vào màu đỏ.
Hiểu lầm bà, trách bà, nợ bà, bây giờ ông cần cho bà biết rằng ông biết, và làm lành với bà và thân nhân của bà. Vì vậy mặc dù xương cốt ông mệt, ông tiếp tục đi qua những tiếng nói để gõ cửa 124 một lần nữa. Lần này, mặc dù ông chỉ hiểu được một chữ, ông tin mình biết ai đang nói. Những người bị gãy cổ, máu bị nấu trong lửa và những cô bé da đen đã mất dây vải buộc tóc.
Tiếng ồn lớn làm sao.
o O o
Sethe đã đi ngủ với nụ cười, náo nức muốn nằm xuống và lần mối chứng minh cho kết luận chị đã có. Nâng niu ngày và hoàn cảnh lúc Thương đến và ý nghĩa của nụ hôn ở Chỗ Quang. Thay vì thế chị ngủ và thức dậy, vẫn mỉm cười, trong buổi sáng rạng rỡ màu tuyết trắng, đủ lạnh để người ta nhìn thấy hơi thở của mình. Chị nấn ná một chút để thu can đảm gạt chăn ra và chạm vào sàn nhà lạnh lẽo. Lần đầu tiên, chị sẽ đi làm muộn.
Dưới nhà, chị thấy hai cô gái đang ngủ ở chỗ chị rời chúng đêm qua, nhưng tựa lưng vào nhau, cả hai quấn chặt trong chăn, thở vào gối. Ba chiếc giày trượt băng nằm bên cửa nhà. Tất phơi trên một cái đinh sau bếp lò chưa khô.
Sethe nhìn khuôn mặt Thương và mỉm cười.
Lặng lẽ, cẩn thận chị bước vòng quanh cô để khơi lại lửa.
Đầu tiên là chút giấy, rồi chút gỗ nhóm - không nhiều quá - chỉ chút xíu cho đến khi lửa đủ to để bỏ củi vào thêm. Chị cung cấp cho điệu vũ của nó cho đến lúc nó nhanh loạn cuồng. Khi ra ngoài lấy thêm củi trong kho, chị không để ý thấy những dấu chân đàn ông đông cứng. Chị vòng vội ra sau nhà, đến đống củi phủ đầy tuyết. Cạo tuyết xong, chị chất củi khô đầy hai tay. Thậm chí chị nhìn thẳng vào kho củi, mỉm cười, mỉm cười về những điều bây giờ chị sẽ không còn phải nhớ. Chị nghĩ, "Giận mình nó cũng không giận. Không tí nào."
Rõ ràng mấy chiếc bóng nắm tay nhau chị đã nhìn thấy trên đường không phải là Paul D, Denver và chị, mà là "ba chúng mình.". Ba người níu vào nhau trượt băng tối hôm trước, ba người nhấm nháp sữa ngọt. Và vì chuyện là thế - nếu con gái chị có thể về nhà từ chốn vĩnh hằng - chắc chắn con trai chị có thể, và sẽ trở về từ chỗ chúng đã đến.
Sethe dùng lưỡi che hàng răng cửa khỏi cái lạnh. Cúi lom khom với gánh nặng trong tay, chị vòng quanh nhà trở lại hàng hiên - không hề để ý những dấu chân đông cứng chị đặt chân vào.
Trong nhà, hai cô gái vẫn ngủ, mặc dù đã đổi vị trí cho nhau trong lúc chị vắng mặt, cả hai nhích gần đến lửa hơn. Đổ đống củi trên tay vào thùng làm chúng cựa quậy, Sethe nấu bếp hết sức nhẹ nhàng, không muốn làm hai chị em thức giấc, sung sướng thấy chúng ngủ bên chân chị trong lúc chị nấu điểm tâm. Đáng tiếc là chị sẽ đi làm muộn - thật đáng tiếc. Một lần trong mười sáu năm? Thật là đáng tiếc.
Chị đánh hai quả trứng vào nồi cháo ngô ngày hôm qua, nặn cháo thành bánh và rán chúng bằng vài miếng thịt lợn muối trước khi Denver tỉnh ngủ và rên lên.
"Đau lưng?"
"Vâng."
"Ngủ trên sàn nhà chắc là tốt cho con. Người con đau như dần ấy," Denver nói.
"Có thể là tại con bị ngã."
Denver mỉm cười "Tối qua vui ghê."
Nó quay người nhìn xuống Thương đang ngáy nhè nhẹ. "Con có nên đánh thức chị ấy không?"
"Đừng, để nó nghỉ."
"Chị muốn tiễn mẹ đi buổi sáng."
"Chắc chắn nó sẽ được tiễn mẹ đi," Sethe nói, và nghĩ. Nghĩ trước là tốt, trước khi mình nói chuyện với nó, để nó biết rằng mình biết. Nghĩ tới mọi điều mình không phải nhớ đến nữa. Làm như Baby nói: ngẫm nghĩ rồi để xuống hết - vĩnh viễn. Paul D thuyết phục mình rằng có thế giới ngoài kia và mình có thể sống trong thế giới ấy. Đáng lẽ mình phải biết rõ hơn. Đã biết rõ hơn. Những điều diễn ra ngoài cửa nhà mình không phải là chuyện của mình. Thế giới ở trong phòng này. Tất cả mọi điều, và mọi điều cần phải có, ở ngay đây.
Chúng ăn như đàn ông, ngấu nghiến và chăm chú. Nói ít, bằng lòng với sự bầu bạn của đứa kia và cơ hội nhìn vào mắt chị.
Giữa buổi sáng Sethe mới quàng khăn lên đầu và mặc áo ấm để chuẩn bị vào thị trấn. Và khi rời căn nhà chị không thấy những dấu chân hay nghe những tiếng nói vòng quanh 124 như một nút thòng lọng.
Lê bước trong những vết bánh xe, Sethe thích thú đến choáng váng vì những điều chị không còn phải nhớ.
Mình không cần phải nhớ gì hết. Mình cũng không cần cả giải thích. Nó hiểu hết. Mình có thể quên trái tim của Baby Suggs suy sụp như thế nào, làm cách nào mình và Baby Suggs đồng ý bệnh của bà là lao phổi khi không có dấu hiệu nào của nó trên đời. Mình có thể quên đôi mắt bà khi bà mang thức ăn cho mình, và bà bảo mình Howard và Buglar không sao nhưng không chịu rời tay nhau ra như thế nào. Chơi đùa như thế, nhất là ngủ như thế. Bà đưa thức ăn trong giỏ cho mình, những gói nhỏ để lọt qua được chấn song, thì thầm những tin tức: ông Bodwin sẽ đến gặp quan tòa - trong phòng làm việc của quan tòa, bà lặp đi lặp lại, trong phòng làm việc của quan tòa, như thể mình hay bà biết nó có nghĩa là gì. Hội Phụ nữ da đen ở Delaware, Ohio đã viết bản kháng nghị xin cho mình không bị treo cổ. Rằng hai mục sư da trắng đến và nói họ muốn nói chuyện với mình, cầu nguyện cho mình. Rằng một ông nhà báo cũng đến. Bà nói cho mình nghe tin tức và mình nói mình cần một cái gì đó để đối phó với lũ chuột. Bà muốn đem Denver ra khỏi tù và đập tay khi mình không chịu để nó đi. "Hoa tai của con đâu?" Bà nói. "Mẹ sẽ giữ cho con." Mình bảo bà tên cai ngục đã lấy đi, để bảo vệ mình khỏi chính mình. Hắn nghĩ mình có thể làm chuyện gì tai hại với cọng dây. Baby Suggs lấy tay che miệng "Thầy giáo đi rồi," bà nói. "Đệ đơn và cưỡi ngựa đi. Họ sẽ cho con ra dự lễ an táng," bà nói, "không phải lễ tang, chỉ có chôn cất." Và họ cho thật. Cảnh sát trưởng đi với mẹ và nhìn đi chỗ khác khi mẹ cho Denver bú trong xe ngựa. Cả Howard lẫn Buglar đều không cho mẹ lại gần, ngay cả sờ vào tóc chúng cũng không. Mẹ chắc có nhiều người ở đấy, nhưng mẹ chỉ nhìn thấy cái hộp. Mục sư Pike nói thật to, nhưng mẹ không nghe được chữ nào - ngoài hai chữ đầu; và ba tháng sau khi Denver ăn được thức ăn đặc và họ thả mẹ ra, mẹ đi mua cho con một bia mộ, nhưng mẹ không đủ tiền thuê đẽo đá nên mẹ trao đổi (có thể gọi là đổi chác) cái mẹ có và cho đến hôm nay mẹ tiếc là đã không hề nghĩ đến việc yêu cầu hắn tất cả mấy chữ: tất cả những gì mẹ nghe mục sư Pike nói. Thương Mến, con là như thế đối với mẹ và mẹ không cần phải tiếc vì đã mua có một chữ, và mẹ không phải nhớ lò mổ và những cô gái thứ Bảy hành nghề ở trong sân lò mổ. Mẹ có thể quên rằng điều mẹ làm đã thay đổi cuộc sống của Baby Suggs. Không còn Chỗ Quang, không còn bạn bè. Chỉ có đồ giặt và giày. Giờ đây mẹ có thể quên hết vì ngay sau khi mẹ dựng bia mộ cho con, con đã cho mọi người thấy sự hiện diện của con trong nhà và khiến mọi người lo nghĩ muốn điên đầu. Lúc ấy mẹ không hiểu. Mẹ tưởng con giận mẹ. Và bây giờ mẹ biết nếu đã giận mẹ, bây giờ con không còn hận nữa vì con đã trở về với mẹ. Và bấy lâu nay mẹ đã đúng: không có thế giới nào ở ngoài cửa nhà của mẹ. Mẹ chỉ cần biết một chuyện. Cái sẹo có xấu lắm không?
Trong khi Sethe đi bộ đến chỗ làm, lần đầu tiên muộn giờ trong mười sáu năm, được ấp ủ trong một hiện tại vĩnh cửu, thì Stamp Paid chống chọi với nhọc mệt và thói quen của một đời người. Baby Suggs không chịu đến Chỗ Quang vì bà tin họ đã thắng, ông không chịu chấp nhận chiến thắng đó. Baby không có cửa sau, vì thế ông phải chịu cái lạnh và bức tường tiếng nói để gõ vào cánh cửa bà có. Ông nắm chặt dải dây đỏ trong túi để lấy thêm sức mạnh, mới đầu nhè nhẹ, rồi chặt hơn. Cuối cùng ông đập cửa rầm rầm - không tin nổi chuyện như vậy có thể xảy ra. Rằng cánh cửa của một căn nhà dân da đen ở không mở tung ra khi ông có mặt. Ông đến bên cửa sổ và muốn khóc. Họ quả thực có nhà, nhưng không ai đi về phía cửa chính. Vò mảnh dây vải đến gần rách, ông già quay xuống mấy bậc thềm. Bây giờ nỗi tò mò nhập chung lại với xấu hổ và nợ nần của ông. Hai tấm lưng khom quay về phía ông lúc ông nhìn vào cửa sổ. Một tấm lưng có cái đầu ông nhận ra, tấm lưng kia làm ông bối rối. Ông không biết cô ta, và không biết cô ta có thể là ai. Không có ai, đâu có ai thăm viếng căn nhà ấy.
Sau bữa điểm tâm không ngon miệng, ông đến gặp Ella và John để tìm xem họ biết những gì. Có lẽ ở đấy ông có thể biết phải chăng sau từng đó năm sáng suốt, ông đã đặt nhầm tên mình và ông còn một món nợ nữa. Sinh ra với tên Joshua, ông tự đặt lại tên khi trao vợ mình cho con trai ông chủ. Trao bà vợ có nghĩa là ông không biết ai hết, kể cả chính mình, vì vợ ông đòi ông phải còn sống. Nếu không, bà lý luận, khi đứa con trai ông chủ đã chơi bà chán rồi, bà biết về đâu, với ai? Với món quà ấy, ông quyết định ông không còn nợ ai cái vì nữa. Bất kể nghĩa vụ của ông đã là gì, hành động ấy đã trả xong nợ. Ông nghĩ rằng tình trạng không nợ nần sẽ làm ông dễ cáu, phản bội - thậm chí say sưa, và theo một khía cạnh nào đó ông quả thật như thế. Nhưng ông không biết phải làm gì trong tình trạng không nợ nần ấy. Làm việc giỏi, làm việc dở. Làm việc ít, không làm việc. Rõ ràng là lộn xộn. Ngủ, thức dậy. Thích một người, không thích những người khác. Sống như thế dường như không hay ho gì và không mang lại cho ông sự thỏa mãn nào. Vì vậy ông nới rộng chuyện không nợ nần đến người khác bằng cách giúp họ trả và trả dứt những gì họ nợ vì khốn cùng. Kẻ chạy trốn bị đánh đập? Ông đưa họ qua sông và xem như họ đã trả hết nợ nần, đại loại là xóa nợ cho họ. "Bạn trả xong rồi, bây giờ cuộc đời nợ bạn." Và cái mà ông nhận được, thật ra là cánh cửa chào đón mà ông không bao giờ phải gõ, như cửa nhà John và Ella, ông đứng trước cửa và nói, "Ai trong đó?" một lần thôi là chị đã kéo bản lề.
"Bấy lâu nay ông ở đâu? Tôi bảo John nếu Stamp ở nhà thì trời chắc phải lạnh."
"Ồ tôi Có ra ngoài", ông cởi mũ và xoa da đầu.
"Ra ngoài chỗ nào? Đâu có ngang qua đây." Ella treo hai bộ đồ lót trên dây phơi sau bếp lò.
"Tôi qua bên Baby Suggs sáng nay."
"Ông muốn cái gì ở đó?" Ella hỏi. "Có ai mời ông vào không?" Đó là thân nhân của Baby. Tôi không cần phải được mời để chăm sóc người nhà của bà Chạc Ella không lay chuyển. Chị đã là bạn của Baby Sug9s và cũng là bạn của Sethe cho đến lúc khó khăn. Ngoại trừ một cái gật đầu ở buổi hội chợ, chị không màng đến Sethe.
"Có người mới ở đó. Phụ nữ. Tôi nghĩ không chừng cô biết."
"Không có ai da đen mới trong thị trấn mà tôi không biết", chị nói. "Cô ta như thế nào? Ông chắc không phải là Denver chứ?"
"Tôi biết Denver. Cô này gầy."
"Ông có chắc không?"
"Tôi biết mình thấy cái gì."
"Ở 124 ông có thể thấy đủ thứ."
"Đúng thế."
"Tốt hơn là hỏi Paul D," chị nói.
"Tôi không biết hắn ở đâu" Stamp nói, và đấy là sự thật mặc dù ông không cố gắng tìm Paul D cho lắm. Ông chưa sẵn sàng để đối diện với người đàn ông có cuộc sống đã bị ông thay đổi bằng tin tức ông mang đến vào lúc ca đêm.
"Anh ta đang ngủ trong nhà thờ," Ella nói.
"Nhà thờ!" Stamp kinh ngạc và cảm thấy rất tổn thương.
"Ờ. Anh ấy đã hỏi mục sư Pike xem anh ấy có được phép ở trong tầng hầm không."
"Trong đó lạnh như lòng từ thiện!"
"Tôi chắc anh ấy biết vậy."
" Tại sao hắn làm thế?"
"Có lẽ anh ấy hơi tự ái."
"Hắn không cần làm thế. Nhà nào cũng sẵn lòng cho hắn ở."
Ella quay lại nhìn Stamp Paid. "Không ai đọc được ý nghĩ từ xa. Anh ấy chỉ cần hỏi ai đó."
"Tại sao? Tại sao hắn phải hỏi? Không ai có thể mời sao? Chuyện gì xảy ra vậy? Từ lúc nào một người da đen đến thị trấn phải ngủ trong tầng hầm như một con chó?"
"Bớt bực đi, Stamp."
"Không. Tôi sẽ còn bực cho tới khi có người hiểu biết và ít nhất cư xử như một người Cơ Đốc."
"Anh ấy mới ở đó vài ngày."
"Đáng lẽ phải là không có ngày nào! Cô biết hết chuyện mà cô không giúp đỡ anh ấy? Chuyện này nghe không giống cô. Ella. Tôi và cô đã kéo dân da đen ra khỏi sông nước hơn hai mươi năm. Bây giờ cô bảo là cô không thể cho một người chỗ ngủ? Một người đang có việc làm. Một người có thể tự lo được."
"Anh ấy mà hỏi, thì cái gì tôi cũng cho."
" Tại sao bỗng nhiên người ta lại phải hỏi cô?"
"Tôi không biết rõ về anh ấy lắm."
"Cô biết hắn là da đen."
" Stamp, đừng làm phiền tôi sáng nay. Tôi không thích đâu."
" Là do cô ấy, phải không?"
"Cô nào?"
"Sethe. Hắn thích cô ấy và ở đó và cô không muốn dính dáng..."
" Khoan đã. Đừng có nói bừa."
"Cô em, nhận đi. Mình bạn bè đã lâu, đừng giả vờ."
"Ôi ai biết được cái gì xảy ra ở đó? Coi này, tôi không biết Sethe hay người của chị ấy là ai."
"Cái gì?!"
"Tôi chỉ biết là chị ấy lấy con trai của Baby Suggs và tôi không chắc đó là chuyện thật. Anh ấy ở đâu, hả? Baby chưa bao giờ thấy chị ấy cho đến khi John mang chị ấy đến trước cửa với đứa nhỏ tôi buộc vào ngực chị ấy."
"Tôi buộc đứa nhỏ đó! Và cô quá lắm rồi. Cho dù nếu cô không biết, con của cô ấy biết cô ấy là ai."
"Thì sao? Tôi đâu có nói chị ấy không phải mẹ tụi nó, nhưng ai nói được tụi nó có thật là cháu của Baby Suggs? Làm sao chị ấy đi mà chồng chị ấy không đi? Và ông nói tôi nghe xem, làm sao chị ấy sinh được đứa nhỏ một mình ở trong rừng? Nói cô da trắng ra khỏi đám cây và giúp chị ấy, ông tin không? Cô da trắng? Ôi, tôi biết đó là loại da trắng nào rồi."
"Thôi đi, Ella."
"Bất cứ cái gì màu trắng trôi dạt trong rừng - nếu nó không có súng thì nó vẫn là thứ tôi không muốn chút nào."
"Sethe và cô là bạn mà."
"Ồ, cho đến khi chị ấy lộ nguyên hình."
"Ella."
"Tôi không có bạn nào lấy cái cưa tay để xẻ con mình."
"Cô quá trớn rồi."
"Không phải. Tôi có lý lẽ, ông mới là không có."
"Mấy chuyện cô đang nói dính gì đến Paul D?"
"Cái gì làm anh ấy bỏ chạy? Ông nói tôi nghe."
"Tôi làm hắn bỏ chạy."
"Ông?"
"Tôi nói cho hắn nghe - tôi cho hắn xem tờ báo, về chuyện Sethe làm. Đọc cho hắn nghe. Hắn rời nhà Sethe cùng một ngày."
"Ông không nói cho tôi nghe. Tôi tưởng anh ấy biết."
"Hắn không biết gì ngoài chuyện hắn đã biết Sethe, từ lúc họ ở chỗ Baby Suggs ở trước kia."
"Anh ấy biết Baby Suggs?"
"Dĩ nhiên hắn biết. Biết Halle con bà ấy nữa."
"Và đi khỏi khi anh ấy biết chuyện Sethe làm?"
"Có vẻ cuối cùng hắn sẽ có chỗ ở."
"Chuyện ông nói thay đổi tất cả. Tôi nghĩ..."
Nhưng Stamp Paid biết điều chị nghĩ.
"Ông không đến đây để hỏi về anh ấy, Ella nói. "Ông đến vì cô gái mới."
"Đúng vậy."
"Vậy Paul D phải biết cô ta là ai. Hay là cái gì."
"Đầu cô toàn là chuyện ma quỷ. Nhìn đâu cô cũng thấy ma."
"Ông cũng biết như tôi là người chết dữ thì không ở yên dưới đất."
Ông không thể chối cãi điều ấy. Chính Jesus Christ đã không nằm yên. Vì vậy Stamp ăn một miếng giò thủ của Ella để tỏ rằng ông không giận dỗi rồi đi tìm Paul D. Ông tìm thấy anh trên bậc thềm của nhà thờ Đấng Cứu Thế, hai tay kẹp giữa hai gối, mắt đỏ ngầu.
o O o
Sawyer la hét khi chị vào bếp, nhưng chị chỉ xoay lưng lại và với tay lấy khăn tạp dề. Bây giờ không có lối vào. Không có kẽ hở hay đường nứt. Chị đã cẩn thận không để cho bọn chúng vào nhưng biết rõ rằng bất cứ giây phút nào bọn chúng cũng có thể rung chuyển chị, giật rời chị khỏi neo buộc của mình, thả những con chim ríu rít vào lại trong tóc chị. Bọn chúng đã rút cạn sạch sữa mẹ chị. Đã xẻ lưng chị thành cây sống. Đã đẩy chị vào rừng lúc bụng chị đang to. Tất cả tin về bọn chúng là tin xấu. Họ trét bơ vào mặt Halle, nhét sắt cho Paul D ăn, nướng dòn Sixo, treo cổ mẹ chị. Chị không muốn có thêm tin tức của người da trắng nữa, không muốn biết Ella và John và Stamp Paid biết gì, về thế giới được sắp xếp theo cách người da trắng thích. Tất cả tin tức về bọn chúng đáng lẽ phải chấm dứt với mấy con chim trong tóc chị.
Đã có lần, lâu lắm, chị dịu dàng, tin tưởng. Chị tin bà Garner và chồng bà nữa. Chị buộc đôi hoa tai vào váy lót để mang theo, để đeo thì ít mà để giữ thì nhiều. Đôi hoa tai làm chị tin mình có thể phân biệt bọn họ. Rằng cứ mỗi thầy giáo sẽ có một Amy, rằng cứ mỗi học trò sẽ có một Garner, hoặc Bodwin, hoặc thậm chí một ông cảnh sát trưởng, người đã dịu dàng chạm vào khuỷu tay chị và nhìn đi chỗ khác khi chị cho con bú. Nhưng dần dà chị đã tin tất cả những lời cuối cùng của Baby Suggs và chôn vùi tất cả hồi tưởng về bọn họ và may mắn. Paul D đào bới nó lên, trả lại cho chị thân thể của chị, hôn lưng bị cắt xẻ của chị, khuấy động ký ức của chị và mang thêm tin cho chị: tin sữa chua, sắt, gà trống mỉm cười. Nhưng khi anh nghe tin của chị, anh đếm chân chị và thậm chí không nói một lời từ biệt.
"Đừng nói với tôi, ông Sawyer. Đừng nói gì với tôi sáng nay."
"Cái gì? Cái gì? Cái gì? Chị cãi lại tôi à?"
"Tôi nói là ông đừng nói với tôi."
"Chị khôn hồn thì làm bánh đi."
Sethe lấy trái cây và cầm con dao nhỏ lên. Khi nước trái cây rớt vào đáy lò và kêu xèo xèo. Sethe đã làm gần xong món khoai tây trộn. Sawyer vào và nói đừng làm ngọt quá, chị làm ngọt quá người ta không ăn.
"Tôi làm như tôi vẫn làm."
"Phải rồi, ngọt quá,"
Không một miếng xúc xích nào. Đầu bếp có bí quyết làm xúc xích và quán Sawyer không bao giờ thừa xúc xích. Nếu Sethe muốn thì chị phải cất riêng ra ngay khi chúng chín.
Nhưng có chút thịt hầm ăn tạm được. Vấn đề là bánh nướng của chị cũng đã bán hết. Chỉ còn bánh gạo và nửa chảo bánh gừng nấu hỏng. Nếu chị chú ý thay vì mơ mộng suốt buổi sáng chị sẽ không phải thu lượm xung quanh như một con cua để tìm thức ăn bữa tối. Chị không biết xem đồng hồ, nhưng chị biết khi hai kim chụm lại như cầu nguyện ở trên đỉnh của mặt đồng hồ là chị xong việc ngày hôm ấy. Chị lấy một cái hũ có nắp kim loại, đổ đầy thịt hầm vào và gói bánh gừng trong giấy gói thịt. Mấy thứ này chị bỏ vào túi váy ngoài và bắt đầu dọn rửa. Không có thứ nào giống như những món đầu bếp và hai bồi bàn mang đi. Ông Sawyer kèm thêm bữa ăn trưa vào tiền lương - cùng với 3 đô la 40 xu một tuần - và ngay từ đầu chị nói cho ông hiểu là chị sẽ mang bữa ăn về nhà. Nhưng diêm quẹt, đôi khi chút dầu lửa, chút muối, bơ nữa - những thứ này chị cũng lấy, và cảm thấy xấu hổ, vì chị có tiền để mua. Chị chỉ không muốn phải ngượng ngùng khi đợi đằng sau tiệm Phelps, cùng với những người khác. Tất cả dân da trắng ở Ohio được phục vụ rồi người chủ mới quay về phía những khuôn mặt da đen túm tụm nhìn qua lỗ cửa sau. Chị cũng xấu hổ vì lấy chúng là ăn cắp, và luận cứ của Sixo trong vấn đề này làm chị thấy thú vị nhưng không thay đổi điều chị cảm thấy. Cũng như luận cứ ấy không làm được thầy giáo đổi ý.
"Mày đã ăn cắp con lợn con đó phải không? Mày đã ăn cắp con lợn con đó."
Thày giáo trầm tĩnh nhưng cả quyết, như thể hắn chỉ hỏi cho có lệ - không chờ đợi một câu trả lời đáng nghe. Sixo ngồi đấy, thậm chí không buồn đứng dậy để xin xỏ hay chối cãi. Anh chỉ ngồi đấy, miếng thịt nạc trong tay, xương sụn túm tụm trong chiếc đĩa thiếc như những viên đá quý, thô, chưa đánh bóng, nhưng dù sao vẫn là của ăn cắp.
"Mày đã ăn cắp con lợn sữa đó, phải không?"
"Dạ không." Sixo nói, nhưng anh biết đủ phép tắc để nhìn xuống miếng thịt.
"Mày dám bảo tao là mày không ăn cắp, trong khi tao đang nhìn thẳng vào mày?"
"Dạ không. Tôi không ăn cắp."
Thầy giáo mỉm cười. "Mày có giết nó không?"
"Dạ có. Tôi giết nó."
"Mày có xẻ thịt nó không?
"Dạ có."
"Mày có nấu nó không?"
"Dạ có."
"Thế thì, mày có ăn nó không?"
"Dạ có. Tôi có ăn"
"Và mày nói với tao đó không phải là ăn cắp?"
"Dạ không."
"Vậy nó là cái gì?"
"Cải thiện tài sản của ông."
"Cái gì?
"Sixo trồng lúa mạch để vùng đất cao tốt hơn, Sixo bón đất cho ông có nhiều thu hoạch hơn, Sixo cho Sixo ăn cho ông thêm sức làm việc."
Khôn khéo đấy nhưng thầy giáo vẫn đánh anh để cho anh biết rằng định nghĩa là của những người tạo ra định nghĩa - không phải của những kẻ bị định nghĩa. Sau khi ông Garner mất đi vì cái lỗ ở trong tai ông mà bà Garner nói là do màng nhĩ bị nổ vì đột quỵ và Sixo nói vì thuốc súng, tất cả mọi thứ họ đụng vào bị xem như là ăn cắp. Không chỉ là một bắp ngô, hay hai quả trứng trong sân mà chính con gà mái cũng không còn nhớ, tất cả mọi thứ. Thầy giáo lấy đi mấy khẩu súng của bọn đàn ông Tổ ấm và, không còn thú rừng để đệm vào thức ăn của họ gồm có bánh mì, đậu, cháo ngô, rau và thêm một chút lúc mổ thịt, họ bắt đầu trộm cắp thực tình và chuyện ấy không những trở thành quyền lợi của họ, mà là bắt buộc.
Lúc ấy Sethe hiểu, nhưng bây giờ với công việc được trả tiền và ông chủ khá tốt bụng đã chịu mướn một cựu phạm, chị khinh mình đã vì tự ái nên thấy trộm cắp tốt hơn đứng xếp hàng ở cửa sổ tiệm tạp hóa với những người da đen khác. Chị không muốn chen lấn với họ hay bị họ chen lấn. Cảm thấy sự phán xét hay lòng thương hại của họ, nhất là bây giờ. Chị dùng lưng cổ tay chậm mồ hôi trên trán. Ngày làm việc đã hết và chị đã cảm thấy náo nức. Từ lần trốn đi trước kia chị chưa bao giờ cảm thấy kích động như thế. Cho lũ chó trong ngõ ăn, nhìn chúng điên cuồng, chị bặm môi. Ngày hôm nay là ngày chị sẽ nhận lời đi nhờ xe nếu ai trên xe ngựa ngỏ lời mời. Sẽ không có ai mời, và trong mười sáu năm qua tự ái của chị đã không cho phép chị hỏi. Nhưng ngày hôm nay, ồ, ngày hôm nay. Giờ đây chị muốn nhanh chóng bỏ qua được quãng đường dài đi bộ về nhà và ở đấy.
Khi Sawyer cảnh cáo chị về chuyện đi muộn lần nữa chị hầu như không nghe thấy. Trước kia ông là người dễ mến, kiên nhẫn, dịu dàng trong cách cư xử với người làm công. Nhưng sau cái chết của con ông trong Cuộc Chiến, mỗi năm ông càng lúc càng kỳ quặc hơn. Như thể ông đổ lỗi cho khuôn mặt da sậm của Sethe.
"Ừ", chị nói, tự hỏi làm sao chị có thể đẩy thời gian đi qua nhanh và đến nơi không-có-thời gian đang chờ đợi chị.
Chị không cần phải lo lắng. Quấn chặt trong khăn quàng, cúi khom người, khi chị cất bước đi về nhà, đầu chị bận rộn với những điều chị có thể quên.
Tạ ơn Chúa, mẹ không phải nhớ hay nói điều nào vì con đã biết. Tất cả. Con biết mẹ không bao giờ muốn rời con. Không bao giờ. Mẹ chỉ nghĩ mẹ không được rời con. Khi xe lửa đến mẹ phải sẵn sàng. Thầy giáo đang dạy mẹ và những người kia những điều mẹ và họ không thể học. Mẹ không cần biết dây đo là gì. Ai cũng cười chuyện ấy - trừ Sixo. Anh ấy không cười chuyện gì hết. Nhưng mẹ không cần. Thầy giáo buộc sợi dây đo quanh đầu mẹ, ngang qua mũi mẹ, vòng ra sau lưng. Đếm răng mẹ. Mẹ nghĩ hắn khùng. Và những câu hắn hỏi khùng nhất đời.
Rồi mẹ và hai anh con đã khai hoang cánh đồng thứ nhì. Cánh đồng thứ nhất, gần nhà có những thứ ăn ngay: đậu, hành, đậu ngọt. Cánh đồng kia xa hơn cho những thứ để lâu hơn, khoai tây, bí đỏ, đậu, bắp, xà-lách. Chưa có bao nhiêu thứ mọc lên ở đấy. Vẫn còn sớm. Có thể có vài đám cải non, chỉ thế thôi. Mẹ và hai anh con nhổ cỏ dại và xới tơi đất để cho cây mọc được tốt. Sau đó mẹ và hai anh con đi về nhà. Mặt đất cao lên ở cánh đồng thứ nhì. Không hẳn là một ngọn đồi nhưng gần gần như vậy. Đủ cho Buglar và Howard chạy lên và lăn xuống, chạy lên và lăn xuống. Trong giấc mơ mẹ thường thấy tụi nó như vậy, đang cười vang, đôi chân ngắn mập mạp chạy lên đồi. Bây giờ mẹ chỉ còn thấy lưng tụi nó đang bước xuống đường ray xe lửa. Xa rời mẹ. Luôn luôn xa rời mẹ. Nhưng ngày hôm ấy tụi nó vui vẻ, chạy lên và lăn xuống. Vẫn còn sớm - mùa trồng trọt đã đến nhưng chưa có bao nhiêu thứ mọc lên.
Mẹ nhớ cây đậu vẫn còn hoa. Cỏ thì mọc cao, đầy những nụ trắng và những đóa hoa đỏ cao người ta gọi là Diane và thứ gì đó màu xanh dương rất nhạt - màu sáng như hoa ngô nhưng nhạt, nhạt hơn. Rất nhạt. Lẽ ra mẹ phải vội vã vì mẹ bỏ con trong cái rổ ngoài sân nhà. Xa chỗ mấy con gà bới nhưng ai biết đâu được. Mẹ nhẩn nha về nhưng hai anh con sốt ruột với mẹ vì cứ hai ba bước mẹ lại nhìn hoa, nhìn trời. Chúng chạy đằng trước và mẹ để mặc chúng. Có cái gì dịu ngọt trong không gian vào khoảng thời gian ấy trong năm. Và nếu ngọn gió nhẹ thổi, rất khó ở lại trong nhà. Khi về đến nơi mẹ có thể nghe Howard và Buglar cười gần khu nhà ở. Mẹ đặt cuốc xuống và đi cắt ngang sân bên để đến với con. Bóng râm đã xê dịch, vì thế đến lúc mẹ về mặt trời đang rọi ngay vào con. Ngay vào mặt con, nhưng con không thức dậy. Vẫn ngủ. Mẹ muốn ẵm con lên nhưng cũng muốn nhìn con ngủ. Không biết nên chọn cái gì, con có khuôn mặt dễ yêu nhất. Đằng kia, không xa lắm là giàn nho ông Garner làm. Lúc nào cũng có nhiều dự định lớn. Ông muốn làm lấy rượu để uống say. Chưa bao giờ giàn nho cho quả nhiều hơn một thùng mứt. Mẹ nghĩ đất ở đấy không hợp để trồng nho. Ba con nói là tại mưa, không phải tại đất. Sixo nói là tại sâu bọ. Quả nho nhỏ và cứng, chua như dấm nữa. Nhưng ở đấy có cái bàn nhỏ. Vì vậy mẹ ôm rổ đựng con và mang con đến giàn nho. Trong ấy mát và có bóng râm. Mẹ để con xuống trên cái bàn nhỏ và suy tính rằng nếu mẹ có một miếng vải mỏng thì sâu bọ và mọi thứ sẽ không chạm vào con được. Và nếu bà Garner không cần mẹ ở trong bếp mẹ có thể lấy một cái ghế, mẹ và con sẽ ở đấy trong khi mẹ nhặt rau. Mẹ đi đến cửa sau để lấy miếng vải mỏng xếp trong máy nhồi bột. Mẹ thích cảm thấy cỏ dưới chân mẹ. Mẹ đến gần cửa và mẹ nghe tiếng nói. Mỗi chiều thầy giáo bắt mấy đứa học trò ngồi học sách một lúc. Nếu trời đẹp, bọn họ ngồi trên hàng hiên bên hông nhà. Cả ba đứa. Hắn nói và tụi nó viết. Hay hắn đọc và tụi nó chép lại điều hắn nói. Mẹ chưa bao giờ nói cho ai nghe điều này. Không nói cho ba con, hay bất cứ ai. Suýt nữa mẹ đã nói cho bà Garner nghe, nhưng lúc đó bà đã rất yếu và đang yếu hơn. Đây là lần đầu mẹ kể chuyện này và mẹ kể cho con nghe vì nó có thể giải thích được cho con một điều, mặc dù mẹ biết con không cần mẹ giải thích. Không cần mẹ kể lại hay thậm chí nghĩ đến. Con không cần phải nghe, nếu con không muốn nghe. Nhưng mẹ không thể không lắng nghe điều mẹ nghe ngày hôm đó. Hắn đang nói chuyện với học trò của hắn và mẹ nghe hắn nói. "Con đang làm đứa nào?" Và một trong hai đứa con trai nói "Sethe." Lúc ấy mẹ ngừng lại vì mẹ nghe tên mình, và rồi mẹ bước vài bước đến chỗ mẹ có thể thấy bọn họ đang làm gì. Thầy giáo đang đứng gần một đứa học trò, một tay để sau lưng. Hắn liếm ngón tay trỏ một hai lần và lật vài trang, chậm rãi. Mẹ sắp quay đi và tiếp tục đến chỗ miếng vải, thì mẹ nghe hắn nói: "Không, không. Không phải vậy. Bác nói để tính người của nó bên trái, tính thú của nó bên phải. Và đừng quên viết cho thẳng hàng."
Mẹ bắt đầu đi lùi lại, không cả nhìn phía sau để xem mẹ đang đi đâu. Mẹ chỉ nhấc chân và lùi ra sau. Khi mẹ đụng vào một thân cây, da đầu mẹ rát bỏng. Một trong mấy con chó đang liếm một cái chảo trong sân. Mẹ đến giàn nho khá nhanh nhưng không có miếng vải. Ruồi đậu đầy trên mặt con, chúng đang xoa hai chân trước vào nhau. Đầu mẹ ngứa ghê gớm. Như có ai đâm những chiếc kim nhỏ vào da đầu me. Mẹ chưa bao giờ nói với Halle hay bất cứ ai. Nhưng cùng ngày hôm đó mẹ hỏi bà Garner một phần. Lúc ấy bà yếu. Không yếu như sau này, nhưng đang suy sụp. Dưới cằm bà mọc ra một cái bọng. Nó có vẻ không làm bà đau, nhưng làm bà yếu đi. Thoạt tiên bà thức dậy và nhanh nhẹn vào buổi sáng nhưng đến lần vắt sữa thứ nhì bà không đứng nổi. Kế đến bà bắt đầu ngủ dậy muộn. Ngày mẹ lên phòng bà, bà nằm trên giường cả này, và mẹ nghĩ mẹ sẽ mang cho bà xúp đậu và hỏi bà luôn thể. Khi mẹ mở cửa phòng ngủ, bà nhìn mẹ, đầu đội mũ đi ngủ. Lúc ấy mắt bà đã không còn bao nhiêu sức sống. Giày và tất của bà ở trên sàn vì thế mẹ biết bà đã thử cố gắng mặc quần áo.
"Con mang cho bà xúp đậu này." mẹ nói.
Bà nói "Ta nghĩ ta không nuốt nổi."
"Bà hãy thử một chút." mẹ bảo bà.
"Đặc quá. Ta chắc là xúp đặc quá."
"Bà có muốn con lấy chút nước để pha loãng xúp ra không?"
"Không. Mang nó đi đi. Chỉ mang cho ta chút nước mát, thế thôi."
"Dạ. Con hỏi bà một điều được không?"
"Cái gì đó, Sethe?"
"Tính chất là gì?"
"Cái gì?"
"Một chữ. Tính chất."
"Ồ". Đầu bà trăn trở trên gối. "Đặc điểm". Ai dạy con chữ đó?"
"Con nghe thầy giáo nói."
"Đổi nước đi, Sethe. Nước này ấm."
"Dạ. Đặc điểm?"
"Nước. Sethe. Nước mát"
Mẹ để bình nước trên khay với xúp đậu trắng và xuống gác.
Khi mẹ mang nước mát trở lại mẹ nâng đầu bà trên tay trong lúc bà uống. Phải mất một lúc bà mới uống xong vì cục bướu làm bà khó nuốt. Bà lại nằm xuống và chùi miệng. Bà có vẻ hài lòng vì được uống nước nhưng bà cau mày và nói: "Có vẻ như ta không thức dậy nổi, Sethe. Dường như ta chỉ muốn ngủ."
" Vậy thì bà ngủ đi" mẹ bảo bà. "Con sẽ lo mọi chuyện."
Rồi bà tiếp tục: cái này thì sao? cái kia thì sao? Bà nói bà biết Halle sẽ không gây phiền phức, nhưng bà muốn biết thầy giáo có biết cách điều khiển mấy anh em Paul và Sixo không.
"Dạ thưa bà." mẹ nói. "Có vẻ ông ấy biết."
"Tụi nó có làm theo lời ông ấy bảo không?"
"Họ không cần lời sai bảo."
"Tốt. Đó là ơn phước. Chắc một hai ngày nữa ta sẽ xuống gác được. Ta chỉ cần nghỉ ngơi thêm. Bác sĩ sắp trở lại. Ngày mai, phải không?"
"Bà nói đặc điểm, thưa bà?"
"Cái gì?"
"Đặc điểm?"
"Ừm. Thí dụ như, đặc điểm của mùa hè là cái nóng. Tính chất là đặc điểm. Một điều gì tự nhiên của một thứ."
"Người ta có thể có nhiều hơn một đặc điểm không?"
"Người ta có thể có nhiều đặc điểm. Con biết đấy. Chẳng hạn một em bé mút ngón tay cái. Đấy là một đặc điểm, nhưng em bé còn có những đặc điểm khác nữa. Giữ con Billy xa con Red Cora. Ông Garner không bao giờ để nó sinh con hai năm một lần. Sethe, con có nghe không? Rời khỏi cửa sổ và lắng nghe này."
"Dạ."
"Mời em chồng ta lên đây sau bữa ăn tối nhé."
"Vâng."
"Nếu con gội đầu con có thể hết chấy."
"Đầu con không có chấy thưa bà."
"Đầu con có cái gì cũng thế, nó cần được gội rửa, không cần gãi. Con đừng nói với ta là mình hết xà bông rồi."
"Dạ không."
"Được rồi. Ta nói xong rồi. Nói nhiều ta sẽ mệt."
"Dạ".
"Và Sethe, cám ơn con."
"Vâng."
Lúc ấy con còn nhỏ không nhớ được khu nhà ở. Hai anh con ngủ bên dưới cửa sổ. Mẹ, con và ba con ngủ cạnh tường. Tối hôm sau ngày mẹ nghe tại sao thầy giáo đo mẹ, mẹ ngủ không được. Khi Halle vào mẹ hỏi ba nghĩ gì về thầy giáo. Ba nói không có gì để nghĩ. Ba nói, "Hắn là người da trắng, có phải không?" Mẹ nói, "Nhưng ý em là hắn có giống ông Garner không?"
"Em muốn biết cái gì, Sethe?"
"Ông bà Garner," mẹ nói, "họ không giống những người da trắng em đã gặp trước đây. Mấy người da trắng ở chỗ trại lớn trước khi em tới đây."
"Mấy người này khác thế nào?" ba hỏi mẹ.
"Ôi," mẹ nói. "chẳng hạn họ ăn nói nhỏ nhẹ."
"Không ăn thua gì. Sethe. Điều họ nói giống nhau. To hay nhỏ cũng thế."
"Ông Garner cho phép anh chuộc mẹ anh" mẹ nói.
"Phải."
"Vậy thì sao?"
"Nếu ông ta không cho, mẹ anh sẽ rớt vào bếp lò của ông."
"Dù sao đi nữa. ông ấy chịu để anh làm việc trả nợ."
"Ờ".
"Thức dậy đi, Halle."
"Ờ".
"Ông ấy có thể nói không, ông ấy đã không nói không với anh."
" Không, ông ta không nói không với anh. Mẹ anh đã làm ở đây mười năm. Nếu bà làm thêm mười năm nữa, em nghĩ bà có làm nổi không? Anh trả nợ cho ông ta vì những năm cuối cùng của bà và bù lại ông ta có em, anh và thêm ba đứa đang lớn Anh còn thêm một năm làm trả nợ, một năm nữa. Thầy giáo trong kia nói anh thôi đi. Lý do anh đi làm thêm không vững. Anh phải làm thêm nhưng làm thêm ở tại đây. Ở Tổ âm."
"Hắn có trả tiền thêm cho anh không?"
"Không."
"Vậy thì làm sao anh trả hết nợ? Còn bao nhiêu?"
"123 đô la 70 xu."
"Hắn không muốn được trả tiền lại sao?"
"Hắn muốn một thứ."
"Cái gì?"
"Anh không biết. Một thứ gì đó. Nhưng hắn không muốn anh ra khỏi Tổ ấm nữa. Hắn nói rằng để anh làm việc chỗ khác.trong lúc bọn trẻ còn nhỏ không có lợi."
"Còn tiền anh nợ thì sao?"
"Chắc hắn phải có cách khác để lấy lại."
"Cách gì?"
"Anh không biết."
"Vậy thì câu hỏi duy nhất là làm thế nào? Làm thế nào hắn lấy được?"
"Không. Đó là một câu hỏi. Còn một câu hỏi nữa."
"Câu gì?"
Ba nhổm dậy và xoay người lại, vuốt những khớp ngón tay lên má mẹ "Câu hỏi bây giờ là: Ai sẽ chuộc em ra? Hay anh? Hay nó?" Ba chỉ về phía con đang nằm.
"Cái gì?"
"Nếu tất cả lao động của anh là cho Tổ ấm kể cả việc làm thêm, anh còn vì để bán?"
Lúc đó ba quay người và ngủ lại, và mẹ nghĩ mẹ sẽ không ngủ nhưng mẹ cũng ngủ một lúc. Mẹ thức dậy vì một điều gì ba đã nói, có lẽ, hay một điều gì ba không nói. Mẹ ngồi dậy như bị ai đánh, và con cũng thức dậy và bắt đầu khóc. Mẹ đu đưa con một chút, nhưng trong nhà không có nhiều chỗ, thế nên mẹ bước ra ngoài cửa để ẵm con đi dạo. Mẹ đi lên đi xuống. Đi lên đi xuống. Tất cả tối đen trừ ánh đèn trong khung cửa sổ cao nhất của căn nhà. Bà chắc vẫn còn thức. Mẹ không thể không nghĩ đến điều làm mẹ thức dậy: "Trong lúc bọn trẻ còn bé." Ba nói thế và điều ấy khiến mẹ giật mình thức giấc. Nó theo mẹ suốt ngày, lúc nhổ cỏ, vắt sữa, lấy củi. Trong lúc này. Trong lúc này.
Đấy là lúc đáng lẽ ba mẹ phải bắt đầu toan tính. Nhưng ba mẹ không làm thế. Mẹ không biết ba mẹ nghĩ gì - nhưng rời khỏi Tổ ấm đối với ba mẹ là vấn đề tiền bạc. Mua lấy tự do. Ba mẹ không nghĩ đến chuyện chạy trốn. Tất cả mọi người? Vài người? Đến đâu? Làm sao đi được? Rốt cuộc Sixo chính là người nhắc đến chuyện ấy, sau chuyện của Paul F. Bà Garner đã bán Paul F để cố gắng xoay sở. Bà đã sống hai năm bằng tiền bán Paul F. Nhưng mẹ đoán tiền hết rồi vì vậy bà viết thư gọi thầy giáo đến quản lý trại. Đã có bốn người đàn ông Tổ ấm mà bà vẫn tin rằng bà cần người em chồng và hai đứa cháu trai vì người ta nói bà không nên ở một mình với người da đen. Vì thế hắn đến, đội mũ lớn và đeo kính mắt, mang theo một xe ngựa đầy giấy tờ. Nói nhỏ nhẹ và canh chừng kỹ. Hắn đánh Paul A. Không nặng và không lâu, nhưng đấy là lần đầu tiên có người làm như thế vì ông Garner không cho phép chuyện ấy. Lần kế tiếp mẹ thấy hắn, hắn có những cây roi đẹp chưa từng thấy. Sixo bắt đầu ngắm bầu trời. Bác là người duy nhất lẻn đi ban đêm và Halle nói vì thế bác biết về xe lửa.
"Hướng đó." Halle chỉ tay về phía chuồng ngựa. "Chỗ ông đưa mẹ tôi đi." Sixo nói hướng đó là tự do. Cả một đoàn xe lửa đi và nếu mình có thể đến đấy, không cần phải mua tự do."
"Xe lửa? Nó là cái gì vậy?" Mẹ hỏi bác. Lúc ấy họ thôi không nói chuyện trước mặt mẹ. Ngay cả Halle. Nhưng họ thì thầm với nhau và Sixo theo dõi bầu trời. Không phải khoảng trời trên cao, mà phía thấp nơi bầu trời sát với hàng cây. Người ta có thể biết đầu óc bác đã rời khỏi Tổ ấm.
Kế hoạch của họ hay, nhưng khi thời điểm đến, bụng mẹ mang thai Denver đã lớn. Vì thế mẹ và các bác thay đổi kế hoạch một chút. Một chút thôi. Chỉ đủ để trét bơ vào mặt Halle, và rốt cuộc khiến Sixo cười, như Paul D đã nói với mẹ.
Nhưng bé con, mẹ mang được con đi. Hai anh con nữa. Khi tín hiệu xe lửa đến, chỉ có ba đứa con sẵn sàng Mẹ không tìm thấy Halle hay ai hết. Mẹ không biết Sixo bị thiêu và Paul D đeo cái gông khó mà tin nổi. Mãi sau này mẹ mới biết những chuyện ấy. Vì thế mẹ gửi các con đến xe ngựa với người đàn bà đợi trong ruộng ngô. Ha ha. Sẽ không có cuốn sổ tay nào cho con mẹ và cũng không có dây đo. Những gì mẹ đã phải vượt qua sau đó, mẹ vượt qua được là vì con. Đi ngang qua mấy người đàn ông treo trên cây. Một người mặc áo sơ mi của Paul A nhưng không có chân hoặc đầu của bác. Mẹ đi luôn không dừng lại vì chỉ mình mẹ có sữa cho con, và thể theo ý Chúa mẹ sẽ mang sữa đến cho con. Con nhớ điều ấy, phải không, rằng mẹ đã mang sữa đến? Rằng khi mẹ đến đây mẹ có đủ sữa cho tất cả?
Một khúc quanh nữa trên đường, và Sethe có thể thấy ống khói nhà chị. Trông nó không còn đơn độc nữa. Làn khói bốc lên từ một ngọn lửa, ngọn lửa đã sưởi ấm một thân thể, và thân thể ấy đã được hoàn trả lại cho chị - tựa hồ thân thể ấy chưa bao giờ rời khỏi, chưa bao giờ cần một tấm bia mộ. Và như thể trái tim đập trong thân thể ấy chưa ngừng đập một giây phút nào trong tay chị. Chị mở cửa nhà, bước vào và khóa chặt cửa sau lưng.
o O o
Ngày Stamp Paid thấy hai tấm lưng qua cửa sổ và rồi xuống vội mấy bậc thềm ông tin ngôn ngữ không hiểu được đang ầm ào quanh căn nhà là những lời lẩm bẩm của những người chết da đen giận dữ. Rất ít người da đen chết trên giường như Baby Suggs, và ông chưa biết người nào, kể cả Baby, đã được sống một cuộc đời dễ dàng. Ngay cả những người da đen có học thức, bác sỹ, thầy giáo, nhà báo và nhà buôn, tất cả đều có cuộc sống khó khăn. Ngoài chuyện phải dùng đầu óc để tiến lên, họ mang trong đầu sức nặng của cả giống nòi. Họ cần phải có hai cái đầu. Dân da trắng tin rằng dù người da đen có phong cách như thế nào, dưới làn da đen vẫn là rừng rú. Dòng nước chảy xiết không lèo lái được, khỉ đong đưa gào thét, rắn đang ngủ, cây nhựa đỏ sẵn sàng uống dòng máu da trắng ngọt ngào của họ. Trong một khía cạnh nào đó, ông nghĩ, họ đúng. Người da đen càng ra sức thuyết phục dân da trắng rằng người da đen hiền lành bao nhiêu, lanh lợi và thương yêu bao nhiêu, có nhân tính bao nhiêu, họ càng phí sức thuyết phục dân da trắng một điều người da đen tin là chuyện đương nhiên bao nhiêu, thì rừng rậm càng trở nên sâu thẳm và rối rắm hơn bấy nhiêu.
Nhưng người da đen đã không mang rừng rậm từ chỗ khác (sống được) đến chỗ này. Dân da trắng đã trồng rừng rậm ở bên trong người da đen. Và rừng rậm lớn lên. Rừng rậm lan rộng. Trong suốt cuộc đời và sau cái chết, nó lan ra, cho đến khi nó xâm lấn vào dân da trắng, người đã trồng nó. Chạm vào từng người một. Thay đổi và biến hóa họ. Làm họ máu me, ngớ ngẩn, tệ hơn chính họ muốn, vì họ quá sợ rừng rậm họ tạo ra. Con khỉ đang gào thét sống dưới làn da trắng của họ. Cây nhựa là cây của họ.
Trong lúc ấy, sự lan rộng bí mật của thứ rừng rậm mới của dân da trắng thầm kín, lặng lẽ, ngoại trừ thỉnh thoảng người ta có thể nghe tiếng nó lầm bầm ở những chỗ như 124.
Stamp Paid thôi cố gắng hỏi thăm Sethe, sau khi khổ sở gõ cửa và không được vào, và khi ông bỏ cuộc, 124 bị để mặc tự xoay sở. Khi Sethe khóa cửa nhà, rốt cuộc những người đàn bà trong nhà được tự do là người mà họ muốn, nhìn bất kỳ điều gì họ thấy và nói bất kỳ điều gì họ nghĩ.
Gần như thế. Trộn lẫn với những tiếng nói chung quanh căn nhà, mà Stamp Paid nhận biết được nhưng không hiểu được, là những ý nghĩ của những người đàn bà của 124, những ý nghĩ không nói nên lời, không nói thành lời.
Thương Thương - Toni Morission Thương