Nguyên tác: The Borrowers (The Borrowers #1)
Số lần đọc/download: 2675 / 62
Cập nhật: 2018-03-18 01:33:44 +0700
Chương 18
C
ậu bé nằm trong chăn, hơi run rẩy. Cái tua vít ở dưới đệm. Cậu bé đã nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức; cậu đã nghe thấy bà Driver thốt lên trên cầu thang và cậu đã bỏ chạy. Cây nến bên cạnh giường cậu vẫn hơi tỏa mùi và sáp nến chắc hẳn còn đang nóng. Cậu bé nằm đó chờ đợi; nhưng họ đã không lên gác. Sau nhiều giờ đồng hồ, có vẻ thế, cậu nghe thấy tiếng đồng hồ điểm một giờ. Ở dưới nhà có vẻ hoàn toàn yên ắng, và cuối cùng cậu bé lẻn ra khỏi giường và bò theo hành lang đến đầu cầu thang. Ở đó cậu ngồi một lúc, khẽ run vì lạnh, và nhìn chằm chằm xuống hành lang tối đèn. Không có tiếng động gì ngoài tiếng tích tắc đều đặn của chiếc đồng hồ và thỉnh thoảng có tiếng lào xào thì thầm mà có thể là tiếng gió, nhưng cậu bé biết đó là tiếng động của chính ngôi nhà - tiếng thở dài của các sàn nhà mệt mỏi và cơn đau nhức nhối của các mấu gỗ. Yên lặng tới nỗi mãi cậu bé mới lấy được can đảm để di chuyển, nhón chân xuống cầu thang và đi dọc hành lang bếp. Cậu bé lắng nghe một lát ở cánh cửa bọc vải len tuyết dài, và từ từ, rất nhẹ nhàng, cậu bé đẩy cánh cửa mở. Phòng bếp im lặng và đầy ắp bóng tối xám xám. Cậu bé lần sờ, như bà Driver đã làm, dọc theo giá tường tìm hộp diêm rồi bật lửa lên. Cậu bé nhìn thấy cái lỗ toang hoác trên sàn nhà và các đồ vật chồng chất lên nhau bên cạnh nó và, cùng lúc đó, cậu nhìn thấy một cây nến trên giá tường. Cậu lóng ngóng thắp nến lên bằng đôi bàn tay run rẩy. Đúng, chúng đang nằm kia - những đồ vật của ngôi nhà bé nhỏ - lung tung bừa bãi trên những tấm ván và cái kẹp ở bên cạnh. Bà Driver đã đem đi hết tất cả những gì bà coi là có giá trị và để lại “đồ bỏ đi”. Và mọi thứ trông như rác rưởi khi vứt lăn lóc thế này - những cuộn len, củ khoai tây cũ, chiếc bàn ghế lẻ của búp bê, những hộp diêm, ống chỉ bông, những vuông giấy thấm bị vò nhàu...
Cậu bé quỳ xuống. Chính “ngôi nhà” cũng ngổn ngang - các bức vách ngăn đã bị đổ, nền đất lộ ra (nơi ông Pod đã đào xuống để các căn phòng cao lên), những que diêm, một bánh răng cũ kỹ, vỏ hành tây, nắp chai rải rác... Cậu bé nhìn trân trân, chớp mí mắt và nghiêng nến làm cho sáp nóng hổi chảy xuống tay cậu. Rồi cậu đứng lên và, nhón chân qua phòng bếp, cậu đóng cửa phòng rửa bát. Cậu bé quay lại cái lỗ và, cúi xuống, cậu khẽ gọi, “Arrietty... Arrietty!” Sau giây lát cậu lại gọi. Cái gì đó khác nong nóng rớt xuống tay cậu: đó là một giọt nước mắt. Tức giận, cậu quệt nó đi, và, cúi xuống sâu hơn về phía cái lỗ, cậu bé gọi lần nữa. “Pod,” cậu bé thì thầm. “Homily!”
Họ xuất hiện vô cùng lặng lẽ đến nỗi ban đầu, trong ánh nến chập chờn, cậu bé không nhìn thấy họ. Họ đứng câm lặng, nhìn lên cậu bé với những khuôn mặt tái nhợt kinh hãi, từ chỗ đã từng là hành lang bên ngoài các phòng kho.
“Mọi người đã ở đâu thế?” cậu bé hỏi.
Ông Pod hắng giọng. “Ở cuối hành lang. Dưới cái đồng hồ.”
“Tôi phải đưa các bạn ra khỏi đây,” cậu bé nói.
“Để đi đâu?” ông Pod hỏi.
“Tôi không biết. Gác mái có được không?”
“Chỗ đó không được đâu,” ông Pod nói. “Tôi nghe họ nói chuyện. Họ sẽ gọi cảnh sát, một con mèo và thanh tra vệ sinh cùng với một người bắt chuột từ tòa thị chính ở Leighton Buzzard.”
Tất cả cùng im lặng. Những đôi mắt nhỏ nhìn chằm chằm vào đôi mắt lớn.
“Sẽ tuyệt chẳng có nơi nào trong ngôi nhà này an toàn cả,” cuối cùng ông Pod nói. Và không ai động đậy.
“Thế còn ngôi nhà búp bê ở giá tường cao nhất trong phòng học thì sao?” cậu bé đề xuất. “Ngay cả mèo cũng không lên trên đó được.”
Bà Homily thốt lên một tiếng đồng ý nho nhỏ. “Phải,” bà nói, “ngôi nhà búp bê...”
“Không,” ông Pod nói vẫn với cái giọng đờ đẫn, “ta không thể sống được trên một cái giá tường. Có thể con mèo không lên đó được, nhưng ta cũng không thể xuống. Ta sẽ bị kẹt ở đó. Ta cần có nước.”
“Cháu sẽ mang nước cho mọi người,” cậu bé nói. “Và ở đây vẫn còn giường với các thứ khác.” Cậu sờ vào đống “đồ bỏ đi”.
“Không,” ông Pod nói, “một cái giá tường không được đâu. Hơn nữa, họ bảo cậu sắp đi, hay đại loại thế.”
“Ôi, ông Pod,” bà Homily van xin với giọng thì thầm khàn khàn, “ở trong ngôi nhà búp bê có cầu thang, hai phòng ngủ, một phòng ăn và một bếp. Và một phòng tắm,” bà nói.
“Nhưng nó ở trên tận trần nhà,” ông Pod giải thích với vẻ mệt mỏi. “Ta phải ăn, đúng không,” ông hỏi, “và uống nữa?”
“Phải, ông Pod, tôi biết. Nhưng...”
“Không nhưng gì cả,” ông Pod nói. Ông hít một hơi dài. “Chúng ta phải di cư,” ông nói.
“Ôi,” bà Homily khẽ than thở và Arrietty bắt đầu khóc.
“Thôi, đừng có bắt đầu nữa,” ông Pod nói với giọng mệt mỏi.
Arrietty lấy tay che mặt và những giọt nước mắt chảy qua kẽ ngón tay; cậu bé, đang quan sát, nhìn thấy chúng lóng lánh trong ánh nến. “Con có bắt đầu đâu,” cô bé thốt lên, “Con rất vui... vui.”
“Ý bác là,” cậu bé nói với ông Pod, nhưng với một mắt vẫn nhìn Arrietty, “gia đình ta sẽ chuyển đến hang con lửng?” Cậu bé cũng cảm thấy sự khích động dâng lên.
“Còn chỗ nào khác nữa?” ông Pod hỏi.
“Ôi, trời ơi là trời!” bà Homily than vãn, và ngồi xuống trên một cái tủ ngăn kéo hỏng làm bằng hộp diêm.
“Nhưng mọi người sẽ phải tìm một chỗ nào đó cho đêm nay,” cậu bé nói. “Mọi người phải có chỗ nghỉ trước khi trời sáng.”
“Ôi, trời ơi!” bà Homily lại than thở.
“Cậu ta nói đúng đấy,” ông Pod nói. “Không thể băng qua những cánh đồng khi trời tối. Băng qua đồng trong ánh sáng ban ngày cũng đủ khó khăn lắm rồi.”
“Con nghĩ ra rồi,” Arrietty kêu lên. Khuôn mặt ướt của cô bé bóng sáng lên trong ánh nến; gương mặt sáng lên lung linh và cô bé hơi nhấc hai cánh tay lên như sắp bay, và cô bé đung đưa khi giữ thăng bằng trên các ngón chân. “Hãy ở trong nhà búp bê đúng đêm nay thôi và ngày mai...” cô bé nhắm mắt lại trước cái ảo tưởng rực rỡ - “ngày mai cậu bé sẽ đưa chúng ta đi - đưa chúng ta...” và cô bé không nói được là đi đâu.
“Đưa chúng ta đi?” bà Homily kêu lên với giọng trống rỗng lạ kỳ. “Bằng cách nào?”
“Ở trong túi của cậu ấy,” Arrietty thốt lên, “đúng không?” cô bé lại đung đưa, với nét mặt rạng rỡ ngước lên.
“Phải,” cậu bé nói, “và tôi sẽ đem hành lý đến sau - trong một cái giỏ đựng cá.”
“Ôi, trời ơi!” bà Homily than vãn.
“Tôi sẽ lọc tất cả đồ đạc nội thất từ cái đống này. Hoặc gần tất cả. Họ chắc sẽ không để ý. Và bất cứ thứ gì khác mọi người cần.”
“Trà,” bà Homily thì thầm. “Đủ cho cả đời chúng ta.”
“Được rồi,” cậu bé nói. “Cháu sẽ lấy nửa cân trà. Và cà phê nữa nếu bác muốn. Và ấm đun. Và diêm. Mọi người sẽ ổn thôi,” cậu bé nói.
“Nhưng họ ăn gì?” bà Homily rền rĩ. “Sâu bướm ư?”
“Thôi đi, bà Homily,” ông Pod nói, “đừng ngốc thế. Lupy luôn là người giỏi xoay xở.”
“Nhưng Lupy không có ở đó,” bà Homily nói. “Quả mọng. Họ ăn quả mọng ư? Họ nấu như thế nào? Ở ngoài trời à?”
“Thôi đi, bà Homily,” ông Pod nói, “ta sẽ lo tất cả những việc ấy khi ta đến đó.”
“Tôi sẽ không đánh được lửa bằng cành cây,” bà Homily nói, “khi có gió thổi. Mà mưa thì sao chứ?” bà hỏi. “Họ nấu ăn thế nào khi trời mưa?”
“Thôi đi, bà Homily...” ông Pod lên tiếng - ông bắt đầu mất kiên nhẫn - nhưng bà Homily vẫn tiếp tục.
“Cháu có thể lấy cho chúng ta hai hộp cá mòi để đem theo không?” bà hỏi cậu bé. “Và một chút muối? Vài cây nến? Và diêm? Và cháu có thể lấy được cái thảm từ ngôi nhà búp bê không?”
“Có,” cậu bé nói, “cháu có thể. Tất nhiên là cháu có thể. Bất cứ thứ gì bác muốn.”
“Được rồi,” bà Homily nói. Bà trông vẫn có vẻ rối bời, một phần vì có những sợi tóc tuột ra khỏi cái lô cuốn tóc, nhưng bà có vẻ dịu đi. “Và cháu sẽ đưa chúng ta lên tầng trên bằng cách nào? Lên phòng học ấy?”
Cậu bé nhìn xuống chiếc áo ngủ không có túi của mình. “Cháu sẽ ẵm mọi người lên,” cậu bé nói.
“Bằng cách nào?” bà Homily hỏi. “Trong tay cháu ư?”
“Vâng,” cậu bé nói.
“Ta thà chết còn hơn,” bà Homily nói. “Ta thà ở lại ngay đây để kẻ bắt chuột từ tòa thị chính ở Leighton Buzzard ăn thịt.”
Cậu bé nhìn xung quanh bếp; cậu có vẻ bối rối. “Cháu sẽ mang mọi người lên trong cái túi đựng cặp phơi quần áo nhé?” cuối cùng cậu hỏi khi nhìn thấy cái túi đang treo ở chỗ thường ngày trên nắm cửa phòng rửa bát.
“Được,” bà Homily nói. “Cháu bỏ cặp phơi quần áo ra trước đã.”
Nhưng bà đã khá can đảm bước vào trong túi khi cậu bé trải nó ra sàn nhà. Chiếc túi mềm nhẹ và được may bằng sợi cọ dệt. Bà Homily thét lên rồi túm lấy ông Pod và Arrietty khi cậu bé nhấc túi lên. “Ôi,” bà thở hổn hển trong khi chiếc túi hơi đung đưa, “Ôi, tôi không thể! Dừng lại! Thả tôi ra! Ối! Ối!” Rồi, bám và trượt, họ xô vào nhau thành một đống ở đáy túi.
“Im lặng đi, bà Homily, không được sao!” ông Pod kêu lên giận dữ, và nắm chặt mắt cá chân của bà. Không dễ dàng điều khiển bà vì ông đang nằm ngửa với khuôn mặt bị đẩy lên phía trước ngực và một chân, bị dựng ngược lên trên cạnh túi, đâu đó phía trên đầu ông. Arrietty thì trèo lên, cách xa bố mẹ mình, bám vào các mấu sợi cọ, và nhìn ra ngoài qua cạnh túi.
“Ôi, tôi không thể! Tôi không thể!” bà Homily kêu lên. “Dừng lại, ông Pod. Tôi sắp chết đây. Bảo cậu bé đặt chúng ta xuống.”
“Đặt chúng tôi xuống,” ông Pod nói với vẻ kiên nhẫn, “chỉ một lát thôi. Đúng thế. Trên sàn nhà,” và, khi túi lại được đặt xuống cạnh cái lỗ, tất cả họ đều chạy ra.
“Nghe đây,” cậu bé nói với giọng không vui với bà Homily, “bác phải cố gắng.”
“Tất nhiên là bà ấy sẽ cố gắng,” ông Pod nói. “Cho bà ấy nghỉ một lát, và hãy nhấc cái túi nhẹ nhàng hơn, nếu cháu hiểu ý bác.”
“Được thôi,” cậu bé đồng ý, “nhưng không còn nhiều thời gian đâu. Đi thôi,” cậu bồn chồn nói, “hãy nhảy vào đi.”
“Nghe này!” ông Pod đột nhiên kêu lên, và cứng đờ.
Cậu bé, khi nhìn xuống, thấy ba khuôn mặt ngẩng lên trong khoảng sáng - họ trông như những viên sỏi, lặng như đá, trong bóng tối của cái lỗ. Và rồi nhanh như chớp họ biến mất - sàn nhà trống rỗng và cái lỗ không có gì. Cậu bé cúi xuống cái lỗ. “Bác Pod!” cậu bé thì thầm gọi cuống cuồng. “Bác Homily! Quay lại đây!” Và lúc đó cậu bé cũng cứng đờ, giữ nguyên tư thế đang cúi xuống lỗ của mình. Cánh cửa phòng rửa bát mở kèn kẹt đằng sau cậu bé.
Đó là bà Driver. Bà ta đang đứng đó im lặng, lần này mặc váy ngủ. Quay lại, cậu bé nhìn lên bà ta. “Chào bà,” cậu bé nói, ngập ngừng, sau giây lát.
Bà ta không cười, nhưng có cái gì đó sáng lên trong mắt bà ta - một tia sáng hiểm độc, một vẻ mặt chiến thắng. Bà ta cầm một cây nến hắt sáng lên mặt, làm khuôn mặt có những vệt sáng tối kỳ lạ. “Cháu đang làm gì ở đây?” bà ta hỏi.
Cậu bé nhìn bà ta chằm chằm nhưng cậu không nói gì.
“Trả lời ta đi,” bà ta nói. “Và cháu đang làm gì với cái túi đựng cặp phơi quần áo?”
Cậu bé vẫn tiếp tục nhìn bà chằm chằm, gần như với vẻ ngớ ngẩn. “Cái túi đựng cặp phơi quần áo?” cậu bé nhắc lại và nhìn xuống như thể ngạc nhiên khi nhìn thấy cái túi trong tay mình. “Cháu có làm gì đâu,” cậu bé nói.
“Có phải cháu đã để cái đồng hồ vào cái lỗ?”
“Không,” cậu bé vừa nói vừa lại nhìn lên bà ta chằm chằm, “nó đã ở đó từ trước.”
“À,” bà nói và mỉm cười, “thế cháu biết là nó đã ở đó à?”
“Không,” cậu bé nói, “Ý cháu là vâng.”
“Mày có biết mày là gì không?” bà Driver hỏi, nhìn cậu bé chằm chằm. “Mày là một kẻ lén lút, trộm cắp, độc hại, nhỏ mọn, xấu xa vô tích sự!”
Khuôn mặt cậu bé giật giật. “Tại sao?” cậu bé hỏi.
“Mày biết tại sao đấy. Mày là kẻ trộm cắp vô tích sự, tồi tệ, với trái tim đen tối. Mày là như thế đấy. Và chúng cũng vậy. Bọn chúng là một lũ kinh tởm, tinh quái, bệnh tật, kêu chin chít...”
“Không, họ không phải như thế,” cậu bé nhanh chóng xen vào.
“Và mày cũng cùng phe với chúng!” Bà ta bước đến bên cậu bé và, nắm lấy bắp tay của cậu, rồi kéo cậu đứng dậy. “Mày có biết người ta làm gì với kẻ ăn cắp không?” bà hỏi.
“Không,” cậu bé nói.
“Người ta nhốt chúng lại. Đó là việc họ làm với những kẻ ăn cắp. Và đó là việc sẽ xảy ra với mày!”
“Cháu không phải là kẻ ăn cắp,” cậu bé kêu lên, đôi môi run run, “cháu là người đi mượn.”
“Người gì?” Bà ta quay người cậu bé lại bằng cách siết chặt cánh tay cậu hơn.
“Người đi mượn,” cậu bé nhắc lại; có những giọt nước mắt trên mí mắt; cậu bé mong chúng không rơi xuống.
“Thế ra mày gọi nó là thế!” bà ta thốt lên (giống như cậu bé đã làm ngày hôm đó với Arrietty - chuyện ấy giờ như đã xa xôi lắm rồi).
“Đó là tên của họ,” cậu bé nói. “Họ là giống loài đó - họ là những Người Vay Mượn.”
“Những Người Vay Mượn hả?” bà Driver nhắc lại với vẻ kinh ngạc. Bà ta cười. “Hừm, chúng đã mượn đủ trong cái nhà này rồi!” Bà ta bắt đầu kéo cậu bé về phía cửa.
Những giọt lệ tràn qua mí mắt của cậu bé và chảy xuống má. “Bà đừng làm hại họ,” cậu bé van xin. “Cháu sẽ chuyển họ đi. Cháu hứa với bà. Cháu biết cách mà.”
Bà Driver lại cười và đẩy mạnh cậu bé qua cái cửa bọc len màu lục. “Rồi họ sẽ phải chuyển đi thôi,” bà ta nói. “Không phải lo. Người bắt chuột sẽ biết cách. Con mèo già của Crampfurl sẽ biết cách. Cả ông thanh tra vệ sinh cũng biết. Và đội cứu hỏa, nếu cần. Cảnh sát sẽ biết cách, ta không ngạc nhiên. Không cần phải lo việc chuyển chúng đi. Một khi đã tìm thấy ổ của chúng,” bà ta nói tiếp, giọng hạ xuống thành thì thầm độc ác khi họ đi qua cửa phòng bà dì Sophy, “thì việc còn lại rất dễ dàng!”
Bà ta đẩy cậu bé vào phòng học rồi khóa cửa lại và cậu bé nghe thấy những tấm ván hành lang kêu cọt kẹt dưới chân bà, khi đã hài lòng, bà ta đi khỏi. Cậu bé trèo lên giường vì bị lạnh, và khóc sưng mắt trong chăn.