Tài năng thường bộc lộ trong những hoàn cảnh khó khăn và ngủ yên trong hoàn cảnh thuận lợi.

Horace

 
 
 
 
 
Tác giả: Cao Hành Kiện
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Trần Đĩnh
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 82
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7882 / 156
Cập nhật: 2015-08-05 20:17:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16
hi ta tới Đại Linh Nham, hòn đá hồn lớn, đêm chưa buống xuống hẳn. Ta đã đi suốt ngày trên đường núi, men theo một khe hẻm dài, sâu, những vách đá dựng đứng, mầu nâu, phủ rêu xanh viền bên. Đầu vực, đỏ như lưỡi lửa, ánh mặt trời lặn cuối cùng cháy rực lên ở trên các chỏm núi.
Dưới chân vách đá, sau một rừng cây thủy sam, dưới những cây bạch quả già nghìn tuổi, dựng lên một ngôi miếu đã được cải tạo thành trung tâm đón tiếp khách đi đường. Bên kia cổng chính, mặt phủ đầy lá bạch quả màu vàng nhạt. Không một tiếng người. Ta đi thẳng đến sân sau, bên trái tòa nhà, nơi cuối cùng ta tìm ra một đầu bếp đang cọ rửa nồi. Ta xin anh cho một bữa ăn nhưng chẳng ngẩng đầu lên, anh trả lời rằng đã quá giờ ăn.
- Ở đây nói chung ăn tối đến mấy giờ?
- Sáu giờ.
Ta mời anh ta nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ kém hai mươi.
- Nói với tôi chả tích sự gì, anh nói, vẫn tiếp tục cọ nồi. Anh đi gặp người quản lý ấy. Tôi chỉ căn cứ vào phiếu ăn chia ra.
Ta lại đi qua các hành lang uốn khúc ở trong tòa nhà lớn trống không, chẳng thấy một ai chỉ còn cách lớn tiếng gọi:
- Ơi! Có ai trực ở đây không?
Sau nhiều lần gọi, một tiếng đáp lại, giọng kéo dài, tiếng bước chân vang lên và một cô phục vụ mặc tạp dề trắng hiện ra trong hành lang. Cô nhận tiền cho căn phòng và bữa ăn, tiền đặt cược cho chiếc chìa khóa. Cô mở một căn phòng cho ta rồi bỏ đi. Bữa tối chỉ có một đĩa những món ăn thừa và một bát canh trứng âm ấm, không có tí khói nào bốc lên. Ta tiếc đã không ngủ ở nhà nàng.
Nàng, ta đã gặp trên con đường núi, ở lối ra của Long Đàm, Vực Rồng. Nàng đi bình thản trước ta, mặc quần vải hoa, hai bó dương xỉ to đùng treo trên đòn gánh. Vào hai, ba giờ chiều, mặt trời chính thu vẫn còn nguyên sức nóng. Lưng nàng đã đẫm mồ hôi và áo nàng dính bết vào từng chiếc xương sườn. Nàng giữ lưng rất thẳng, chỉ có eo oằn ngả xuống. Ta theo sát nàng. Rõ ràng nàng đã nghe thấy tiếng chân ta. Nàng đổi đòn gánh, một đầu có mũi sắt nhọn, để cho ta đi qua, nhưng các bó dương xỉ móc trên đòn gánh vẫn chăn con đường mòn hẹp.
- Cô đừng ngại, ta nói, cô cứ đi đi, chớ bận cho tôi.
Sau đó, để qua một con suối, nàng phải đặt quang gánh. Ta có thể thấy những lọn tóc bị mồ hôi làm dính vào má, đôi môi mọng và khuôn mặt trẻ thơ của nàng nhưng ngực nàng đã đọi cao. Ta hỏi tuổi nàng. Nàng nói mười sáu; song nàng không hề có tất cả cái vẻ nhút nhát mà các cô gái vùng núi bày ra khi gặp một người lạ. Ta nói với nàng:
- Đi một mình ở đường mòn này mà không sợ ư? Không có ai, không có làng mạc nào trước mắt cả.
Náng liếc vào cái đòn gánh nhọn đầu ở trong các bó dương xỉ:
- Khi đi một mình trên đường mòn, chỉ cần mang một cái gậy để đuổi sói.
Nàng còn nói nàng ở không xa, ngay trong lòng núi.
Ta hỏi nàng: Cô còn đi học?
Nàng nói nàng đã đi nhưng bây giờ đến lượt em trai nàng.
Ta nói: Tại sao bố cô không để cho cô học tiếp?
Nàng nói bố nàng đã chết.
Ta hỏi nàng: Trong nhà cô còn lại ai?
Nàng nói nàng còn mẹ.
Ta hỏi: Cái gánh này phải nặng đến một nửa tạ chứ, đúng không?
Nàng nói để đun nấu mà không còn củi nữa thì phải trông vào dương xỉ.
Nàng để ta đi lên trước. Vừa vượt qua chỏm núi, ta đã thấy một ngôi nhà gạch lẻ loi, nép ở sườn núi.
- Anh nhìn kia! Cái nhà với cây mận trắng trước mặt ấy, là nhà em.
Lá cây gần như đã rụng hết. Chỉ còn vài chếc đỏ sậm run rẩy trên các cành màu tím sáng bóng.
- Cây mận trước cửa nhà em rất lạ. Nó đã nở hoa vào mùa xuân, rồi nó lại nở hoa vào mùa thu, hoa của nó trắng như tuyết, mới rụng mấy ngày vừa qua thôi. Nhưng không như vào mùa xuân, không cho ra một quả nào cả.
Khi ta đi qua cạnh nhà nàng, nàng muốn ta vào uống trà. Ta leo các bậc đá và ngồi xuống cái cối xay trước cửa. Nàng đem các bó dương xỉ vào sau nhà.
Một lát sau, nàng mở cửa lớn giữa nhà và đi ra, với một ấm trà bằng gốm, đổ đầy trà vào một cái bát vại có nền màu lam. Ấm trà chắc vẫn để trên than hồng bếp lò vì nước trà nóng.
Tựa vào cái giường bằng xơ cọ của cái căn phòng ở trung tâm đón tiếp, ta rét. Cửa sổ đóng nhưng trên tầng một, không khí lạnh dễ dàng đi qua bức tường bằng ván. Dẫu sao đây cũng là một tối giữa mùa thu trong lũng núi. Ta còn nhớ nàng đã cười như thế nào khi rót trà cho ta, thấy ta hai tay bưng cái bát lên miệng. Môi nàng hé ra. Môi dưới rất mọng, như sưng sưng. Nàng vẫn mặc chiếc áo vét ngắn đẫm mồ hôi. Ta bảo nàng:
- Như thế này cô bị lạnh mất.
- Các anh thì có, các anh người thành phố ấy. Ngay mùa rét, em vẫn tắm nước lạnh, nàng nói. Anh không muốn ngủ ở đây sao?
Thấy ta ngạc nhiên, nàng vội nói ngay:
- Mùa hè khi khách đi đường nhiều, nhà em cho họ trọ.
Ta đã vào trong nhà, theo con mắt nàng dẫn đi. Các bức tường bằng ván che một nửa bằng những bức ảnh mầu kể chuyện Phàn Lê Huê, một nữ tướng thời cổ xưa. Lúc bé ta có nghe nói đến nữ anh hùng này nhưng ta đã quên mất.
- Cô thích đọc tiểu thuyết à? Ta hỏi, chỉ vào các bức tranh.
- Em đặc biệt thích kịch hát.
Ta hiểu rằng nàng nói đến các tiết mục hí kịch đài phát thanh truyền đi.
- Anh không muốn rửa mặt sao? Em mang cho anh một thau nước nóng nhé? Nàng hỏi.
Ta nói không cần, ta có thể ra bếp. Nàng bèn lập tức đưa ta đi ngay, cầm lấy một cái thau mà rất nhanh nàng múc một gáo nước trong cóng ra rồi cọ nó. Nàng đổ đầy nước nóng vào thau, đưa cho ta và nhìn ta nói:
- Anh vào xem phòng, sạch lắm.
Ta không chịu được ánh mắt ươn ướt của nàng. Ta quyết định ở lại.
- Ai đấy?
Môt tiếng trầm trầm của đàn bà cất lên sau bức vách gỗ.
- Mẹ, một người khách, nàng kêu lên trước khi nói với ta. Mẹ ốm, nằm liệt giường đã một năm rồi.
Ta cầm lấy chiếc khăn tay nóng nàng đưa cho rồi nàng vào trong buồng. Ta nghe thấy họ thì thầm. Ta lau mặt, cảm thấy tỉnh táo đôi chút, nhấc ba lô lên, đi ra cửa, đến ngồi lên chiếc cối ở sân. Khi nàng chở ra, ta hỏi:
- Bao nhiêu tiền nước?
- Không phải tiền.
Ta lấy ở trong túi ra chỗ tiền lẻ nhét vào tay nàng. Nàng cau mày lại đăm đăm nhìn ta. Ta xuống đường mòn và chỉ ngoái lại lúc đã xa hơn một chút. Nàng vẫn đứng bên cối, nắm chặt món tiền trong tay.
Ta cần một ai đó để nguôi vợi nỗi niềm. Ta xuống giường, đi ở trong phòng.
Bên cạnh, ván sàn cũng cọt kẹt. Ta gõ vào vách:
- Có ai không?
- Ai đấy? Một tiếng nói trầm trầm của đàn ông hỏi
- Anh cũng đến chơi núi sao?
- Không, tối đến làm việc, sau một phút ngập ngừng, giọng ấy đáp.
- Tôi có thểm quấy quả anh được không?
- Tùy.
Ta ra gõ vào cửa phòng bên cạnh. Khi anh ta mở cửa, ta phát hiện thấy nhiều tranh sơn dầu và ký họa dặt ở trên bàn và thành cửa sổ. Anh ta hẳn đã lâu chưa đụng đến râu tóc. Chắc là cố ý. Ta nói:
- Lạnh thê chứ!
- Nếu có rượu thì dễ chịu hơn, nhưng không có ai ở cửa hàng bách hóa cả.
Ta chửi thề: Cái xó chết tiệt này...!
- Nhưng con gái ở đây - anh ta chỉ cho ta một kí họa về một cô gái môi mọng - gợi dục lắm.
- Anh nói đến môi của họ?
- Họ gợi dục không đồi trụy.
- Anh tin có cái dâm không đồi trụy?
- Tất cả đàn bè đều gợi dục nhưng họ luôn cho anh một cảm giác về đẹp mà nghệ thuật thì cần có cái ấy, anh nói.
- Vậy anh không nghĩ là có một cái đẹp không dính đến đồi trụy sao?
- Có lẽ là người ta tự lừa người ta thôi! Anh nói không quanh co.
- Anh không muốn ra ngoài làm một vài vòng, xem chút ít núi ban đêm sao?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên, anh ta nói. Nhưng bên ngoài chẳng nhìn thấy gì nữa đâu, tôi đã làm một vòng rồi. Anh ta lại ngắm đôi môi mọng.
Ta ra sân. Vươn lên từ suối, các cây bạch quả đồ sộ che khuất những cây đèn mà ánh sáng đem cho lá một màu nhợt nhạt. Ta quay đầu lại, núi và trời ban đêm mờ đi trong sương mù u tối trong đó các ngọn đèn sáng lên yếu ớt. Duy nhất nổi bật lên mái chìa của tòa nhà. Giam cầm trong cái ánh sáng lạ lùng này, ta hơi choáng váng.
Cổng chính đã đóng. Ta mò mẫm kéo chốt. Vừa bước qua ngưỡng cửa, ta lập tưc ngập vào bóng tối, ta nghe thấy tiếng một con suối rỉ rả.
Được vài bước, ta quay lại. Dưới chân vách đá, các ngọn đèn biến mất, sương mù xám phơn phớt lam cuộn lại trên các đỉnh núi. Dưới đáy vực, một con dế cất lên tiếng rúc ngập ngừng. Tiếng suối lúc dội lúc chìm, lại giống như gió, mà gió thì lại đang xuyên đi qua giữa khe sâu.
Sương mù ẩm tràn lấn cái khe, xa xa, hình bóng các cây bạch quả to tướng được ánh đèn chiếu vào đang nhòa lẫn trong sương mù nặng hạt. Bóng núi hiện lên dần dần. Ta đi xuống hẻm núi với các vách đá dựng đứng. Sau cái khối mờ mờ đen của núi, chập chờn một ánh sáng yếu ớt, nhưng ta đang bị bóng tối dày đặc bủa vây và dần siết chặt gọng kìm của nó lại.
Ta nhìn lên cao, một hình thù khổng lồ đen ngòm vụt dựng lên vào bầu trời uy hiếp ta. Ỏ chính tâm của nó, ta nhận ra đầu một con đại bàng đồ sộ, cánh thu lại, tựa như đang lấy đà bay. Dưới những móng vuốt to tướng của con ma núi hung dữ này, ta ngộp thở.
Xa hơn nữa, trong rừng cây thủy sam dựng lên đến một chiều cao chóng mặt ở hai bên, bóng tối hoàn toàn đặc sệt đến mức nó tạo thành một bức tường dầy mà người ta có cơ va phải nếu đi lên một bước. Ta quay lại một cách bản năng. Đằng sau ta, qua bóng tối cây cối, ánh đèn sáng nhỏ xíu của một ngọn đèn không rõ rệt, như một mảng ý thức lờ mờ, một kỉ niệm xa khó tìm lại thấy. Tựa hồ ta đang ở tại một nơi không xác định quan sát cái nơi ta đã đến từ đó, mà cũng chẳng có đường; cái mảng ý thức chưa biến mất này cứ chờn vờn trước mặt ta.
Ta giơ tay lên để yên chí ta tồn tại thật nhưng ta chẳng thấy gì hết. Ta đánh bật lửa, nhận thấy tay ta giơ lên quá cao, tựa như vung một bó đuốc. Nhưng mầm lửa lập tưc tắt ngấm ngay, dù không có gió. Cả đến tiếng rúc của dế cũng câm bặt. Tai ta đầy bóng tối, một bóng tối nguyên khai. Theo bản năng, con người thờ lửa là để thắng cái sợ bên trong mình.
Ta lại đánh bật lửa. Ánh lửa yếu ớt run rẩy và lập tức bị một làn gió đen ngòm vô hình diệt luôn. Trong bóng tối man dại, nỗi kinh hoàng dần nuốt chửng ta, nó làm ta mất tự tin, mất trí nhớ với phương hướng. Ta thầm nhủ mi sẽ rơi vào vực nếu mi cứ đi thẳng tiếp nữa. Ta quay lại thì chẳng còn đường dưới chân. Ta ngập ngừng dò vài bước. Trong rừng, một dải ánh sáng yếu ớt như một hàng rào nhấp nháy ra hiệu cho ta rối tắt. Ta nhận ra mình đang ở trong khu rừng bên trái con đường, vậy đường chắc phải là ở bên phải ta. Loay hoay lần mò ta có ý chỉnh hướng đi, trước hết ta cần tìm lại được Hòn Đại bằng tăm tối, dựng đứng và cô độc.
Sương mù mịt mùng cỏ, lại giống như một làn khói dâng lên hạ xuống theo những mấp mô của mặt đất, trong đó lấp lánh vài ba ánh sáng. Cuối cùng ta đã quay lại dưới Hòn Đại bằng mà cái màu đen ngòm của nó đè ụp lên ta. Thình lình ta phát hiện ở giữa hai cánh giáng rộng của nó, một cái ức xam xám, có hình một bà già, một áo khoác lớn vắt vai, nom vẻ không có chút nào tốt lành, cung cách đúng là một mụ phù thủy, đầu cúi xuống, thân hình khô xác. Dưới lớp áo khoác của mụ, một người đàn bà trần truồng quỳ, trên lưng chỉ thấy lờ mờ các dấu xương sườn. Một mặt quay về con vật ma quái kia, người đàn bà như đang than khóc, hai tay chắp lại, khuỷu tay xa người càng để lộ rõ hơn thân hình trần trụi. Mặt vẫn không cho rõ nét nhưng đường viền má phải thì thấy thanh tú và mềm mại.
Bộ tóc rủ xuống vai và hai tay làm nổi thêm thân người lên, Quỳ trên hai gối, đầu cúi, đó là một cô gái. Cô như kinh hoàng cầu khẩn kêu van. Đôi khi cô đổi dạng nhưng ngay tức thì lấy lại dáng vẻ thiếu phụ, một người đàn bà than khóc, hai bà tay chắp nhau. Chỉ cần quay người lại, cô lại trở ra ngay thành một cô gái với những đường nét kiều diễm hơn. Đường lượn vú trái trong khoảnh khắc vụt hiện ra, rồi lại không thấy nữa.
Qua cửa miếu, bóng tối tan hoàn toàn. Ta trở lại dưới ánh sáng mờ mờ các cây đèn. Những chiếc lá cuối cùng chưa rụng của các cây bạch quả già vươn lên từ suối đã hòa lẫn vào trong đêm. Chỉ các hành lang và các mái chìa được chiếu sáng là thực tại.
Linh Sơn Linh Sơn - Cao Hành Kiện Linh Sơn