Nguyên tác: Kidnapped
Số lần đọc/download: 410 / 22
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Chương 16 - Tôi Lội Bộ Qua Vùng Morven Với Chiếc Khuy Bạc Của Alan
G
iữa Torosay và Kinnlochaline trên đất liền có một chiếc phà chạy hàng ngày. Bờ biển Mull và Morven thuộc vùng nằm dưới quyền của đạo quân hùng mạnh của Maclean. Hầu như tất cả những người cùng đi phà với tôi vượt eo biển Sund là lính của đội quân này. Người lái phà tên là Neil Roy Macrob. Vì cái tên Macrob chỉ rõ anh ta thuộc phía Alan và tự Alan đã yêu cầu tôi đến đây, nên tôi sốt ruột chờ cơ hội nói chuyện tay đôi đối với Neil Roy.
Trên chiếc phà đông quá mức này, tất nhiên chuyện đó không thể được và phà đi thì rất chậm. Trời lặng gió và chiếc phà trang bị rất thô sơ, ở một bên chỉ có hai tay chèo và ở phía bên kia thậm chí chỉ có một. Những người chạy phà đã làm hết nếu mình và khách đi nhiều lần đổi chỗ, giải phóng cho họ và tạo nhịp chèo bằng những bài hát Gaelic. Trong không khí trong lành của biển, sự thoải mái phấn khởi và tiếng hát của tất cả những người có mặt làm chuyến đi đáng ghi nhớ. Ngoài ra, thời tiết lại tuyệt vời.
Nhưng không khí vui vẻ bị giảm đi chút ít. Ở cửa sông Loch Aline chúng tôi nhìn thấy một con tàu lớn đang bỏ neo, ban đầu tôi nghĩ đó là một tàu chiến Anh, chúng thường đậu dọc bờ biển quanh năm để ngăn cản sự liên lạc với nước Pháp. Lúc đến gần tôi mới biết đó là một tàu buôn và điều làm tôi ngạc nhiên hơn nhiều là không chỉ trên boong mà trên bờ đầy người và các con thuyền liên tục chạy đi chạy lại giữa bờ biển và tàu. Khi đến gần hơn, chúng tôi nghe thấy đám người ở trên bờ kêu khóc, than vãn làm ai cũng đau lòng.
Lúc đó tôi hiểu đây là con tàu chở người đi cư sang thuộc địa châu Mỹ. Phà chạy dọc theo tàu buôn và những người bị đày biệt xứ cúi người qua thành tàu, họ vừa khóc vừa giơ tay về phía những người khách trên phà trong đó có một số là người thân của họ. Tôi không biết chuyện đó kéo dài bao lâu, vì những con người này đã mất hết khái niệm về thời gian và thế giới xung quanh. Cuối cùng, viên thuyền trưởng, chịu hết nổi sự hỗn độn và những lời than khóc chia ly này, đã đi ra mạn tàu và yêu cầu chúng tôi tiếp tục đi.
Liền đó Niel chen ra và danh ca chính trên phà chúng tôi cất vang tiếng hát bằng một giọng đa sầu, được cả những người đi đày lẫn người thân của họ ở trên bờ hát theo làm cho khắp nơi vang lên như người khóc than người chết ấy. Tôi nhìn thấy những người đàn ông, đàn bà trên chiếc tàu buôn và những người bơi chèo trên phà chúng tôi nước mắt chảy dòng dòng trên má. Cái cơ hội tuyệt vọng này và giai điệu của bài hát nó tên là Vĩnh biệt biển quê hương thật là đúng với tâm trạng của tôi.
Xuống phà ở Kinnlochaline, tôi kéo Neil Roy theo mình và nói rằng tôi biết chắc anh ta là người của Appin.
— Tại sao vậy? – Anh hỏi.
— Tôi tìm một người – Tôi nói – và tôi biết ngài biết chút ít về anh ta. Anh ta tên là Stuart, được gọi là Alan Breck.
Đáng lẽ chỉ cho anh chiếc khuy bạc, tôi như một thằng khùng, lại nhét một đồng bảng vào tay anh ta.
Anh ta ném trả và kêu lên:
— Tôi coi đó là sự sỉ nhục, là một quân tử, tôi không đối xử với người khác như vậy. Con người mà anh hởi đang ở Pháp. Nhưng mà, nếu anh ta có ở chỗ tôi và ngài có đem cả đống tiền ra cũng không động được vào sợi tóc anh ta đâu.
Tôi hiểu ra tôi đã làm sai và không mất thời giờ trong lúc xin lỗi, tôi chỉ cho anh ta cái khuy bạc trên bàn tay mở rộng.
— Như vậy thì được, – Neil đáp lại – đáng lẽ cậu phải bắt đầu như thế. Vì cậu là cậu bé có chiếc khuy bạc, mọi việc ổn rồi và tôi có trách nhiệm làm sao cậu có thể đi tiếp bình yên và nhanh chóng. Đừng khó chịu khi tôi nói thẳng – Anh ta tiếp – cậu không bao giờ được nói ra cái tên Alan Breck và không bao giờ cậu nên làm cái việc là đưa tiền hôi hám cho một quý tộc Scotland
Với tôi, xin lỗi anh ta thật khó vì tôi không thể nói thật với anh rằng ngay trong mơ tôi cũng không tin được anh ta là một quý tộc Scotland.
Neil hình như không muốn nói chuyện lâu hơn với tôi. Anh chỉ muốn làm xong trách nhiệm. Và thế là tốt. Anh nói rất nhanh tôi sẽ phải đi tiếp tục ra sao. Tôi phải ngủ lại ở quán trọ Kinnlochaline, ngày hôm sau đi từ Morven về Argdour, tại đấy có thể ngủ lại nhà một ông John nào đó, có thể hỏi thăm ông này tại đó. Ngày thứ ba tôi phải vượt biển bằng tàu Corran, sau đó lên một tàu khác ở Balakeelish và từ đó hỏi đường đến nhà ông James of Gians nằm ở Aucharn gần Durer vùng Appin. Điều này có nghĩa là tôi phải đi phà nhiều lần vì ở vùng này nên đất nước các con lạch của biển thường ăn sâu vào đất liền, thậm chí nhiều nơi chúng ôm lấy chân núi. Nhờ đó tuy đất nước thuận tiện cho việc tự vệ, nhưng phong cảnh thì hoang dã và dễ sợ. Neil chỉ khuyên tôi một điều: không nên nói chuyện với bất cứ ai trên đường, tránh xa các thành viên Whig, họ hàng Campbell và tất nhiên là lính Áo đỏ. Nếu từ xa nhìn thấy chúng đi tới thì tốt nhất là ẩn trong các bụi thạch thảo vì gặp tụi này đều không hay ho gì. Nói tóm lại là tôi phải hành động như một tên gián điệp Jakobit có lẽ Neil cũng nghĩ tôi là một người như vậy – hay là một tên cướp cũng được. Cái quán trọ bẩn thỉu thảm hại ở Kinnlochaline còn sợ hơn một cái chuồng lợn, nó đầy khói và sâu mọt. Những người cao nguyên im lặng ngồi trong quán. Tôi không chỉ không hài lòng với chỗ trọ và cả với cách đối xử không khéo léo của tôi với Neil Roy. Thực tế chắc không trầm trọng lắm, tôi nghĩ. Nhưng tôi đã nhầm và đã thấm ngay sau đó. Chưa đầy nửa tiếng trong nhà trọ, mà phần lớn thời gian tôi đứng ở cửa mở toang để tránh khói bếp sặc sụa, thì có một cơn giông ở ngay gần đó. Nước chạy quanh nhà và ngay sau đó một phần ngôi nhà ngập trong nước. Thời gian đó chưa có nhiều nhà trọ ở Scotland. Và khi đi từ lò sưởi về chỗ ngủ tôi rất ngạc nhiên là phải lội trong nước ngập đến khuỷu chân.
Sáng hôm sau tôi lên đường rất sớm, dọc đường tôi vượt lên một người thấp, mập đi bằng đầu ngón chân, trông đầy suy tư và nghiêm túc, vừa đi vừa đọc một quyển sách, thỉnh thoảng dùng ngón tay gạch dưới một đoạn nào đó. Bộ quần áo màu sẫm trông rất đơn giản nhưng đứng đắn chứng tỏ ông ta là một người giáo sĩ.
Ngay sau đó tôi biết ông ta cũng là một người dạy giáo lý truyền miệng nhưng thuộc loại hoàn toàn khác tay ma cà bông mù trên đảo Mull. Ông ta thuộc những nhà truyền giáo được Hội mở rộng đạo cơ đốc gửi đi tuyên truyền cho tôn giáo trong những vùng hoang vu của cao nguyên. Tên ông là Henderland. Ông ta nói giọng của người miền Nam và chỉ nghe giọng nói đó, tôi đã thấy nhớ quê vô cùng. Tôi phát hiện ra chúng tôi không chỉ là đồng hương mà còn gắn bó bởi một cái khác nữa. Người bạn phụ tử của tôi, vị mục sư vùng Essendean, trước đây đã dịch nhiều bài ca và sách sang tiếng Gaelic và Henderland đã dùng những bản dịch đó trong lúc truyền giáo. Đúng vậy, khi chúng tôi gặp nhau, ông ta đang cầm một trong những quyển sách đó trong tay và đọc say sưa.
Vì chúng tôi cùng tới Kingairloch nên quyết định cùng đi với nhau. Dọc đường, mỗi lần gặp hoặc vượt một người bộ hành ông đều đứng lại và nói chuyện với họ. Tất nhiên, tôi không hiểu họ nói gì, nhưng cũng nhận ra là người Henderland rất được yêu mến trong vùng này vì tôi thấy rất nhiều người lấy hộp thuốc lá của mình ra và mời người dạy giáo lý truyền miệng.
Giữ ở mức vừa phải và không nhắc đến Alan, tôi kể cho ông nghe cái gì đã đẩy tôi lại đây và tôi định làm gì. Tôi cũng nói rằng tôi muốn thăm một người bạn ở Balachulich. Tôi có cảm giác là nói đến Auchain hoặc Duror sẽ rất nguy hiểm, người dạy giáo lý truyền miệng có thể đoán ra ý đồ của tôi. Ngược lại ông kể cho tôi nghe rất nhiều về công việc của mình và những người mà ông lui tới. Ông cũng kể về những người truyền giáo phải ẩn mình, về những người Jakobit, về việc cấm vũ khí, về những khó khăn, về quần áo và rất nhiều việc lạ lùng khác của thời đại này, đất nước này.
Về chính trị, ông ta có vẻ mẫu mực, quở trách Quốc hội rất nhiều vì đạo luật nghiêm cấm quần áo dân tộc nghiêm ngặt hơn cả cấm vũ khí.
Cái cung cách đúng mực của ông làm tôi có ý định hỏi ông về Cáo đỏ và những người tá điền vùng Appin. Tôi nghĩ rằng với những người lần đầu tiên đến đất này, sự tò mò đó hoàn toàn tự nhiên.
— Đó là một lịch sử bi đát – người đồng hành của tôi đáp – Thật là khó hiểu, không biết những người tá điền đó lấy tiền ở đâu vì họ đang chịu đói… ngài Balfour, ngài có chút thuốc lá hít nào không? – Ông ngắt lời – không có à? Như vậy tốt hơn, nếu tôi không có thuốc. Như vậy, như tôi vừa nói, những người tá điền làm việc đó một phần chỉ do bị ép buộc. James Stuart ở Duror, cũng được gọi là James of Glens, là anh em cùng cha khác mẹ với thủ lĩnh Ardshiel, con người này rất có uy tín và gây sức ép với nông dân. Và ngoài ra còn có một người tên là Alan Breck…
— Ồ có chuyện gì với anh ta vậy? – Tôi kêu lên.
— Cũng giống như ngọn gió vậy, nó thổi về đâu nó muốn. – Hendeland nói. – Anh ta ở khắp nơi và chẳng ở đâu ca, hôm nay chỗ này, mai chỗ khác, đúng là một con mèo rừng. Nếu bây giờ anh ta đứng lên từ cái đám thạch thảo kia và đi về phía chúng ta, thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên chút nào… ngài không có một ít thuốc lá hít nào bên mình thật à?
Tôi trả lời không và nói rằng ông đã hỏi tôi nhiều lần rồi.
— Tôi tin như vậy – Ông nói và thở dài – nhưng mà kỳ lạ là anh không có thứ đó… Như vậy, như tôi đã nói, tay Alan Breck này là con người rất táo bạo. Tất cả thế giới biết rằng anh ta là cánh tay phải của James of Glens. Anh ta đã phải trả giá cho cuộc sống của mình nhưng vẫn không lùi bước. Rất có thể thỉnh thoảng anh ta lại đâm vào sườn một người tá điền nào đó còn thiếu tô…
— Ngài Henderland, ngài kể những chuyện rất thú vị. Nếu hai bên chỉ sợ lẫn nhau thì tốt hơn hết ta không nên nghe nữa. – Tôi đáp.
— Không chỉ sợ đâu – Người truyền giáo nói tiếp – có cả tình yêu và sự dối mình trong đó, thậm chí nhiều tới mức những người như ngài và tôi phải đỏ mặt và ngượng. Có một cái gì đó thiêng liêng trong chuyện này, không phái trong tinh thần công giáo mà hoàn toàn trong ý thức con người. Thậm chí Alan Breck, theo những câu chuyện kể về anh ta, là một người cầm mộc, một con người ta phải kính trọng. Một kẻ hèn nhát, đạo đức giả nào đó có thể có một vị trí chắc chắn trong nhà thờ ở đây và rất đáng kể trước mắt mọi người, nhưng có lẽ anh ta còn tồi hơn nhiều cái con người lầm đường đã nợ quá nhiều máu này. Đúng, đúng về con người đó chúng ta còn có thể biết rất nhiều ở những giáo dân.
Vừa mỉm cười, Henderland vừa bổ sung:
— Có lẽ ngài đang nghĩ rằng tôi đã ở lâu trên cao nguyên này?
Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ vậy và bản thân tôi cũng thấy trên cao nguyên nhiều điều kỳ lạ và cuối cùng thì ngài Campbell cũng là một người cao nguyên.
— Đúng vậy – người đồng hành của tôi nói – và ông ta xuất thân từ một dòng họ quý phái.
— Còn người quản lý của nhà vua thì sao? – Tôi hỏi.
— Ngài muốn nói đến Colin Campbell? – Hendrland đáp – ông ta đã giấu cái đầu trong một tổ ong.
— Hình như ông ta dùng bạo lực xua đuổi tá điền? – Tôi nhắc.
— Đúng như vậy. – Người dạy giáo lý truyền miệng nhấn mạnh – Nhưng việc này đã đi vào ngõ cụt. Đầu tiên James of Glens phóng ngựa đến Edinbouigh và trao nhiệm vụ cho một người cùng phe, chắc chắn là một người Stuart nào đó, vì họ gắn bó với nhau như nhựa thông và lưu huỳnh. Người này lo sao cho việc trên không được tiếp tục nữa. Nhưng sau đó Colin Campbell lại bắt đầu từ đầu. Ông ta thực hiện ở chỗ nam tước Shatzamf và như người ta kể với tôi, ngay ngày mai những người tá điền đầu tiên đã phải bay khỏi đây. Ở Durov, ngay dưới mũi của James of Glens công việc được bắt đầu mà theo ý tôi thì có lẽ không khôn ngoan lắm.
— Ngài tin là sẽ đánh nhau chứ? – Tôi hỏi.
— Chắc chắn. – Henderland nói – Họ đã bị tước vũ khí, ít ra người ta cũng tin như vậy, nhưng còn đủ thép lạnh ở những nơi cất dấu. Nhưng Colin Campbell đã yêu cầu gửi lính đến. Bây giờ, dù sao chăng nữa, nếu tôi là vợ ông ta, tôi sẽ không thể yên tâm trước khi ông ấy trở về nhà. Đám Appin Stuart là những người hoang dã…
Tôi hỏi liệu họ có nguy hiểm hơn những người khác không.
— Không. – Henderland nói – Và đó là điều nghiêm trọng nhất. Nếu Colin thực hiện được ý muốn của mình ở Appin, thì ở huyện bên cạnh là Mamone thuộc Cameron cũng phải làm lại từ đầu. Ông ta là quản lý của nhà vua ở hai huyện này và phải đuổi hết tá điền ở đây. Thật thà mà nói, ngài Balfour ạ, nếu ông ta muốn loại một người thì sẽ bị những người khác đánh chết.
Chúng tôi đã nói chuyện như vậy khi cùng đi với nhau suốt ngày. Cuối cùng, sau khi ngài Hendorland bảo đảm với tôi rằng sự có mặt của tôi làm ông dễ chịu và ông rất sung sướng đã gặp ngài Campbell.
— Tôi muốn gọi ông ta là danh ca ngọt ngào của vùng đất hứa Zion. – Ông ta nói. Con người vui vẻ này đã mời tôi nghỉ tạm một chút ở ngôi nhà nhỏ của ông nằm sát Kingairloch và ngủ đêm ở luôn đó.
Thật thà mà nói, tôi quá may mắn vì tôi hoàn toàn không muốn đến chỗ Jolan of Claymone – Từ lần trục trặc với tay dẫn đường, sau đó với người lái phà Neil Roy, xuất thân dòng dõi quý tộc và vẫn tự coi mình là quý tộc, tôi hơi ngại ngùng trước bất cứ người cao nguyên lạ mặt nào.
Chúng tôi cũng cố sự thỏa thuận bằng một cái bắt tay và buổi chiều đó thì tới ngôi nhà nhỏ nằm đơn độc ở Loch Linnhe.
Mặt trời đã khuất sau dãy núi đá Argdour, nhung các tia nắng của nó còn chiếu trên đồi Appin và các vùng xa xôi. Loch Linnhe nằm yên tĩnh như một cái hồ, chỉ có những con hải âu bay lượn. Phong cảnh trông có vẻ thiêng liêng và huyền bí.
Vừa tới nhà, trước sự ngạc nhiên của tôi, vì tôi đã quen cách đối xử ân cần của người cao nguyên, ông Henderland đã lao qua tôi một cách không lịch sự và nhào vào trong phòng, chộp lấy một cái hộp và một cái thìa bằng sừng, xúc một lượng rất lớn bột thuốc lá hít và nhét vào mũi. Sau đó ông bắt đầu hắt hơi liên tục và cuối cùng nhìn về phía tôi mỉm cười như mất trí.
— Đó là một lời hứa. – ông nói – Tôi đã thề không đem thuốc lá hít theo người. Tất nhiên là từ bỏ hắn khó lắm, nhưng cứ nghĩ đến những người tử vì đạo – không chỉ người Scotland mà nhiều người ở các nước công giáo khác – thì tôi thấy hổ thẹn dù chỉ nhắc đến sự yếu đuối đó thôi.
Ngay khi chúng tôi vừa ăn xong – bữa tối của một con người can đảm gồm có bột lúa mạch và sữa – chủ nhà của tôi làm bộ mặt trang trọng và nói rằng phái cho người Campbell biết tôi đã thương yêu Chúa như thế nào. Từ lúc xảy ra cảnh lấy thuốc lá hít, tôi luôn luôn mỉm cười về người bạn mới. Nhưng chưa nói được bao lâu thì nước mắt đã trào ra. Có hai sự việc – Ông nói – mà con người không nên bỏ qua: hãy tốt bụng và phục thiện, ở cái thế giới sóng gió của những con người trái tim chai sạn này, chưa bao giờ chúng ta có đủ hai điều trên. Và ngài Henderland đã nói những lời xúc động làm cho tôi, mặc dù rất tự phụ về ngọn cờ chiến thắng trong những chuyện phiêu lưu vừa qua, tôi đã kiềm chế được mình, quỳ gối trước người đàn ông, cảm thấy hạnh phúc và tự hào về điều đó.
Trước lúc đi ngủ người dạy giáo lý truyền miệng cho tôi một đồng nửa bảng để ăn đường, lấy trong số tiền ít ỏi cất trong cái tường nhà bằng cỏ nhồi của mình. Tôi không biết mình phải đối xử thế nào trước tính rộng rãi và nhiệt tình đó. Nhưng mà ông ta nói rất kiên trì và nghiêm túc và tôi cảm thấy tốt nhất là nhận lấy và thế là tôi ra đi để lại cho ông ta nghèo đi ít nhiều.