To acquire the habit of reading is to construct for yourself a refuge from almost all the miseries of life.

W. Somerset Maugham

 
 
 
 
 
Tác giả: Lauren Weisberger
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1403 / 21
Cập nhật: 2016-03-24 21:06:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11: Đắm Trong Rượu Nồng Với Gái Tơ
ulian cười lớn khi con tôm hùm bự phóng nhanh về phía trước. “Con sáu lạng đã lên dẫn đầu. Chúng đang vòng qua góc, thưa quý vị,” anh nói giả giọng tường thuật thể thao rất điệu nghệ. “Anh nghĩ là anh đã xí phần con này.”
Đối thủ của nó, một con tôm hùm nhỏ hơn có vỏ đen bóng và đôi mắt mà Brooke khẳng định là rất biểu cảm, hối hả phi lên trước để rút ngắn khoảng cách. “Không nhanh thế đâu,” cô nói.
Họ đang ngồi trên sàn bếp, lưng tựa vào bàn bếp, người nào cổ vũ cho đấu thủ của người ấy. Brooke cảm thấy hơi có lỗi vì cố đua con tôm hùm của mình trước khi thả nó vào nồi nước sôi, nhưng chúng có vẻ chẳng bận tâm. Chỉ đến khi Walter gí mũi vào một trong hai con tôm và con đó từ chối không tiến thêm một phân nào nữa thì Brooke mới nhảy bổ vào cứu con tôm của cô khỏi cuộc tra tấn tiếp theo.
“Chiến thắng vì có kẻ bỏ cuộc! Anh sẽ lấy nó,” Julian kêu, với cánh tay co lên và bàn tay nắm lại thể hiện niềm vui chiến thắng. Rồi anh tiến đến đập tay chúc mừng với cái càng dẻo dai của con tôm hùm thuộc về anh. Walter sủa gâu gâu.
“Người thắng cuộc sẽ cho chúng vào nước,” cô vừa bảo vừa chỉ cái nồi nấu tôm hùm mà họ moi ra được từ phòng để đồ bếp núc của nhà Alter. “Em không chắc em có thể xử lý được nó đâu.”
Julian đứng dậy chìa tay ra để giúp Brooke. “Em đi xem lò sưởi đi, để anh xử lý mấy gã này cho.”
Cô chấp nhận đề nghị của anh và đi về phía phòng khách, nơi vài giờ trước đó Julian đã dạy cô cách nhóm lửa. Đó là việc mà cha cô và Randy luôn làm, và cô đã rất vui khi phát hiện ra rằng thật thích thú biết bao khi sắp xếp những khúc củi một cách khéo léo và dùng que cời đảo chúng qua lại như vậy. Cô vớ lấy một khúc củi cỡ trung từ chiếc giỏ đựng rồi nhẹ nhàng gác chéo nó lên trên cùng; cô ngồi xuống đi văng, quan sát ngọn lửa như bị thôi miên. Cô nghe thấy tiếng chuông điện thoại di động của Julian văng vẳng từ phòng bên.
Anh từ bếp đi sang cùng hai ly rượu vang đỏ trên tay và ngồi xuống đi văng với cô. “Mười phút nữa thì chín. Anh thề là chúng không hề cảm thấy gì hết.”
“À há. Em chắc rằng chúng thích nữa là khác. Ai vừa gọi đấy anh?” cô hỏi.
“Gọi gì cơ? Ồ, anh không biết, chả quan trọng gì.”
“Chúc sức khỏe,” Brooke nói và cụng ly với anh.
Julian thở dài, hơi thở dài thật sâu, thật thỏa mãn như muốn nói rằng tất thảy mọi thứ trên đời đều ổn cả. “Thế này có dễ chịu không nào?” anh hỏi. Đó là cái thở dài đúng chỗ, cái tình cảm thích hợp, nhưng ở nó có cái gì đó làm Brooke sững sờ kinh ngạc. Anh quá đỗi ngọt ngào.
Mọi việc giữa hai người đã căng thẳng trông thấy trong những tuần gần đến bữa tiệc của Sony; Julian không ngừng trông đợi Brooke rũ bỏ trách nhiệm của cô tại trường Huntley, và khi cô không làm như vậy - là khi anh bay đến Hamptons không hẹn ngày về - anh có vẻ thực sự bị sốc vì việc đó. Trong mười ngày kể từ bữa tiệc đó, họ đã bàn bạc về nó với cố gắng cao nhất, nhưng Brooke không thể gạt bỏ cái cảm giác rằng Julian vẫn không hiểu được quan điểm của cô, và bất chấp nỗ lực ghê gớm của cả hai bên để cho qua chuyện này và hành động như thể mọi việc vẫn mọi việc dường như vẫn không ổn.
Cô nhấp một ngụm rượu vang và cảm thấy hơi ấm quen thuộc thường lệ khi rượu trôi xuống bụng. “Dễ chịu là nói nhẹ đi đấy. Thật đáng yêu,” cô nói với vẻ hơi trang trọng thiếu tự nhiên.
“Anh không hiểu tại sao cha mẹ anh không bao giờ đến đây vào mùa đông. Thật lộng lẫy khi tuyết xuống, họ có cái lò sưởi đẹp lạ lùng này, và chẳng có một ai ở xung quanh.”
Brooke cười nụ. “Chẳng có một ai ở xung quanh - đó chính là điều mà họ không chịu nổi. Đi ăn ở tiệm Nick & Toni mà làm gì nếu chẳng có một ai ở đó chứng kiến ta lấy được bàn đẹp nhất?”
“Ừ, vậy thì đảo Anguilla hẳn phải hoàn hảo ục đích đó. Anh chắc chắn họ đang vui vẻ chiến đấu với những đám đông đi nghỉ lễ ở đó. Thêm nữa, lúc này mọi thứ đắt gấp đôi gấp ba ngày thường, mà họ thì thích thế lắm. Làm họ cảm thấy mình đặc biệt mà. Anh cá là họ đang sướng hết ý.”
Mặc dù không ai trong hai người bọn họ muốn thừa nhận, nhưng cả hai đều rất biết ơn vì ông bà Alter sở hữu ngôi nhà ở Đông Hampton này. Họ chưa bao giờ nghỉ cuối tuần với cha mẹ Julian hay dám đến chơi trong mùa hè – thậm chí lễ cưới của họ là vào đầu tháng Ba, khi tuyết hãy còn trên mặt đất – nhưng suốt sáu tháng mỗi năm nó cho họ một nơi chốn miễn phí và sang trọng để trốn khỏi thành phố. Vài năm đầu họ thường xuyên tận dụng nó, đến đó để ngắm hoa xuân hoặc đi thăm vườn nho hay tản bộ trên bờ biển vào tháng Mười khi thời tiết bắt đầu chuyển mùa, nhưng vì lịch làm việc của cả hai đều bận rộn đến điên cuồng nên đã hơn một năm nay họ không đến nơi này. Chính Julian đã nảy ra ý tưởng đón năm mới ở đó, chỉ hai người bọn họ, và dù cô ngờ rằng đó là một đề nghị dàn hòa hơn là mong muốn thật lòng được cùng nhau chạy trốn, nhưng Brooke vẫn sẵn sàng nhận lời.
“Em đi làm món xa lát đây,” cô vừa nói vừa đứng lên. “Anh có cần gì không?”
“Anh sẽ giúp em.”
“Anh đã làm gì với ông chồng của em thế nhỉ?”
Điện thoại của anh lại reo chuông. Anh liếc nhìn rồi đút nó trở lại túi.
“Ai gọi thế?”
“Anh không biết. Số cá nhân. Anh không biết ai có thể gọi vào lúc này cả,” anh vừa nói vừa theo cô đi vào bếp, và chẳng cần được nhờ anh đã chắt nước nồi khoai luộc rồi bắt đầu nghiền khoai.
Câu chuyện trong bữa ăn tối của họ dễ chịu và thoải mái hơn, chắc hẳn là nhờ rượu vang. Dường như ngầm hiểu ý nhau thế nào đó nên họ không đả động đến công việc một tẹo nào, cả công việc của anh lẫn của cô; thay vì thế họ chuyện vãn về Nola và việc cô nàng vừa mới được đề bạt, về Randy sung sướng thế nào khi quanh quẩn với bé Ella, và việc liệu họ có thể cùng nhau lẻn đi một chuyến cuối tuần đến nơi nào đó ấm áp trước khi lịch lưu diễn của Julian nóng lên vào dịp đầu năm mới.
Những chiếc bánh sô cô la hạnh nhân mà Brooke làm để tráng miệng dẻo dính hơn cô muốn, phủ đầy kem tươi đánh bông, kem lạnh vani và sô cô la bào, trông giống như món bò hầm màu nâu nóng sốt, nhưng ăn rất ngon. Julian mặc nguyên cả bộ đồ trượt tuyết để dẫn Walter ra ngoài đi vệ sinh lần cuối trong lúc Brooke rửa dọn và pha cà phê. Họ gặp lại nhau bên lò sưởi. Điện thoại di động của anh đổ chuông, nhưng thêm một lần nữa anh tắt chuông mà không hề nhìn vào màn hình.
“Anh có cảm giác thế nào khi tối nay không biểu diễn? Hẳn là kỳ lắm khi từ bỏ buổi diễn,” Brooke hỏi và gối đầu lên lòng anh.
Julian được mời biểu diễn trong chương trình đêm giao thừa của MTV trên quảng trường Thời Đại rồi từ nửa đêm trở đi sẽ chủ trì một bữa tiệc với toàn những người nổi tiếng ở Khách Sạn Phố Rivington. Từ đầu mùa thu khi nghe Leo bảo với anh về chương trình này anh đã thích mê, nhưng đêm giao thừa càng đến gần thì lòng nhiệt tình của Julian càng giảm dần. Rốt cuộc tuần trước chỉ thị cho Leo hủy toàn bộ, và không ai choáng hơn - hoặc mừng hơn - là Brooke. Đặc biệt là khi anh quay lại nhìn cô và hỏi xem cô có muốn đi cùng anh đến Hamptons hưởng một đêm hẹn hò tại gia hay không.
“Chúng mình không buộc phải nói những chuyện như thế vào đêm nay,” Julian nói. Cô có thể nói rằng anh đang cố gắng đồng cảm với cô, nhưng hiển nhiên có gì đó đang làm anh bứt rứt.
“Em biết thế,” Brooke trả lời. “Em chỉ muốn biết chắc là anh không hối tiếc chuyện đó.”
Julian vuốt tóc cô. “Cái cô này, cô có điên không đấy? Với tấn kịch xảy ra trong chương trình Today và tất cả những chuyến đi đi lại lại đó, mà nhìn đến năm tới sẽ bận kinh khủng hơn đến mức nào thì anh cũng cần nghỉ ngơi một chút chứ. Chúng mình cần nghỉ ngơi một chút.”
“Chúng mình quả thực rất cần đấy,” cô lẩm nhẩm mà cảm thấy đã nhiều tháng nay mình mới được hài lòng đến thế. “Em đoán Leo chẳng thích thú gì, nhưng em thì chắc chắn là rất thích rồi.”
“Leo đã lên chuyến bay đầu tiên tới Punta del Este. Chắc chắn giờ gã đang đắm trong rượu tequilla với gái mười tám. Đừng tiếc cho Leo.”
Họ uống nốt rượu. Julian cẩn thận kéo lớp màn chắn rồi đến những cánh cửa kính trên lò sưởi đang tàn dần, và tay trong tay họ lên cầu thang. Lần này thì điện thoại cố định đổ chuông, và trước khi Julian kịp nói lời nào Brooke đã nhấc máy lẻ trong phòng dành cho khách mà cô và Julian thường ở.
“Brooke phải không? Samara đây. Nghe này, xin lỗi vì gọi vào đêm nay, nhưng tôi cứ cố gọi cho Julian mãi. Cậu ấy bảo sẽ tới đó, nhưng mãi cho đến giờ cậu ấy vẫn không nghe điện thoại của tôi.”
“Ồ, chào Samara. Vâng, anh ấy ở ngay đây rồi. Xin chờ máy một giây nhé.”
“Chờ chút đã, Brooke. Nghe này, tôi biết cô không đến dự lễ trao giải Grammy vì bận công việc, và tôi chỉ muốn khẳng định với cô rằng sẽ có những bữa tiệc rất hoành tráng ở New York mà tôi sẽ đưa hai người đến đấy nhé.”
Brooke nghĩ rằng cô nghe nhầm. “Gì cơ ạ?”
“Lễ trao giải Grammy. Julian biểu diễn ở đó.”
“Samara, chị chờ máy chỉ một phút thôi được không?” Cô nhấn phím tắt tiếng rồi đi vào phòng tắm, nơi Julian đang mở nước cho đầy bồn.
“Lúc nào thì anh mới nói cho em biết về lễ trao giải Grammy?” cô hỏi mà phải cố kiềm chế nỗi kích động trong giọng nói.
Anh nhìn lên cô. “Anh định đợi đến mai. Anh không muốn nó ảnh hưởng đến một đêm trọn vẹn mình ở bên nhau.”
“Ồ thôi nào, Julian! Anh không muốn em đi, thế nên anh chẳng nói một lời.”
Nghe câu này Julian trông thật sự hoảng. “Sao mà em lại nghĩ thế được? Tất nhiên là anh muốn em đi chứ!”
“Ờ, nghe không giống như Samara nghĩ nhỉ. Chị ta vừa bảo em rằng chị ta hoàn toàn thông cảm vì em quá bận công việc nên không thể đến được. Anh có đùa không đấy? Chồng em sẽ biểu diễn ở lễ trao giải Grammy mà chị ta lại nghĩ rằng em không thể rời công việc để dự à?”
“Brooke à, anh đoán rằng chị ấy nghĩ thế chỉ vì em đã không thể, ờ, xin nghỉ để dự bữa tiệc ngày lễ của Sony, hiểu không? Nhưng anh thề rằng lý do tại sao anh chưa nói với em là vì anh nghĩ chúng mình có thể hưởng một đêm hoàn toàn không nói về công việc. Anh sẽ nói với chị ấy rằng em sẽ đến.”
Brooke quay lưng đi về phòng ngủ. “Em sẽ tự mình nói với chị ta.”
Cô nhấn phím mở tiếng và nói, “Chị Samara à, hẳn là đã có sự hiểu nhầm nào đó, vì tôi chắc chắn sẽ đi cùng với Julian.”
Một khoảng im lặng dài trước khi Samara lên tiếng, “Cô biết rằng đó là một tiết mục biểu diễn, không phải tiết mục được đề cử giải, phải không?”
“Tôi hiểu.”
Một khoảng lặng nữa. “Và cô chắc chắn rằng lần này những nghĩa vụ riêng của cô không cản trở gì đấy chứ?”
Brooke những muốn hét lên với chị ta rằng chị ta thì biết cái gì, nhưng cô buộc mình phải giữ im lặng.
“Ờ, thế thì được. Chúng tôi sẽ lo việc đó,” Samara nói.
Brooke cố gắng phớt lờ sự ngần ngại - hay là sự thất vọng? - trong giọng nói của chị ta. Sao mà cô lại phải quan tâm Samara nghĩ gì cơ chứ? “Vâng, tuyệt lắm. Vậy tôi nên mặc cái gì nhỉ? Ý tôi là tôi chẳng có bộ nào diện đẹp cả. Chị có nghĩ rằng tôi nên đi thuê thứ gì đó không?”
“Đừng! Cứ để chúng tôi xử lý tuốt, được không? Chúng tôi chỉ cần cô đến trước buổi diễn sáu tiếng và chúng ta sẽ có váy đầm, giày, đồ lót, túi xách, đồ trang sức, tóc tai và trang điểm. Trước đó hai mươi tư giờ đừng gội đầu, đừng tắm nắng bằng đèn cực tím trừ phi chuyên gia tạo mẫu của chúng tôi giới thiệu một nhà thẩm mỹ chuyên nghiệp, hãy làm móng thật đẹp và dùng sơn loại Allure của hãng Essie hoặc Bubble Bath của hãng OPI ấy nhé, hãy tẩy lông chân tay trước khoảng năm đến bảy ngày, và dưỡng tóc kỹ trước bảy mươi hai giờ. Về màu tóc tôi sẽ giới thiệu cho cô một mỹ viện mà chúng tôi hợp tác ở New York. Tuần tới cô sẽ bắt đầu một quy trình highlight tóc.”
“Ối chà chà. Thôi được, chị có thể…”
“Đừng lo, tôi sẽ viết tất cả những việc này vào một email và chúng ta sẽ điểm lại từng mục. Nghe này, cô biết là các máy quay sẽ toàn quay Julian, và tôi biết là Leo đã gợi ý một người tập huấn cho cả hai người - cô cậu đã có thời gian cân nhắc điều đó chưa? - vậy hãy để tôi đặt lịch hẹn cho cô ở chỗ chúng tôi làm răng cho Julian nhé. Ông đó là thiên tài luôn, cô không thể nhận ra đó là răng bọc, trông tự nhiên lắm. Cô sẽ kinh ngạc khi thấy hiệu quả của việc đó à xem.”
“Ừm, được ạ. Chỉ cần chị cho tôi biết cái...”
“Chúng tôi đã yêu cầu họ lo xong việc đó rồi. Tôi sẽ sớm gọi lại cho cô, Brooke ạ. Chúng ta sẽ giải quyết hết những vấn đề này. Tôi có thể nói chuyện với Julian được không? Tôi hứa chỉ hỏi nhanh một câu thôi.”
Brooke gật đầu một cách ngớ ngẩn, hoàn toàn không nhớ rằng Samara chẳng thể nhìn thấy cô, và đưa máy cho Julian, anh đã vào phòng ngủ để cởi quần áo. Anh nói, “Có”, “Không” và “Nghe được đấy, mai tôi sẽ gọi lại cho chị,” rồi anh quay sang cô.
“Em đi tắm bồn được chưa? Đi mà em!”
Cặp mắt anh van nài, và cô buộc mình gạt Grammy ra khỏi đầu. Họ đang có một đêm đẹp đến thế; cô quyết định không thể để bất cứ chuyện vớ vẩn nào kéo dài phá hỏng nó. Cô theo anh vào phòng tắm và trút bỏ áo quần.
Họ không bao giờ ngủ trên giường của cha mẹ Julian - quá sởn gáy nhưng họ rất thích dùng nhà tắm của phòng ngủ chính. Đó là thiên đường dưới hạ giới, rất mực xa xỉ. Nền nhà được sưởi ấm, bồn sục ngâm mình khổng lồ với buồng tắm hơi riêng, và tuyệt nhất là một lò sưởi ga nhỏ. Mặc dù Julian không thể bắt mình trèo vào bồn nước nóng bỏng đó, anh luôn mở nước đầy bho Brooke và sau khi tắm vòi sen xong anh bật lò sưởi rồi trèo lên bệ bồn sục, mình quấn độc chiếc khăn tắm, để bầu bạn với cô.
Brooke xúc thêm muối oải hương vào bồn nước và nằm gối đầu lên chiếc gối vải bông xù trên bồn. Julian đang hồi tưởng lại lần đầu tiên họ tắm bồn cùng nhau, trong một chuyến đi cuối tuần khi mới yêu. Anh nhớ lại vụ anh khổ sở với bồn nước nóng bỏng nhưng vẫn âm thầm chịu đựng để cố gây ấn tượng, và Brooke chỉ đăm đắm nhìn anh lúc anh nói, lòng tràn ngập trạng thái vừa cực kỳ thư giãn vừa mệt mỏi cực độ do bồn nước nóng giãy gây nên.
Sau đó, quấn mình bằng một chiếc khăn nhung lông to tướng, Brooke cùng Julian đi về phòng ngủ của họ, nơi anh đã thắp sẵn trên mỗi bên tủ đầu giường một ngọn nến và mở một bản nhạc êm đềm nào đó. Họ làm tình dịu dàng, từ tốn, như những đôi đã ở bên nhau nhiều năm và biết nhau đến chân tơ kẽ tóc, và lần đầu tiên sau hàng năm ròng họ ôm chặt nhau ngủ thiếp đi.
Họ ngủ đến xế trưa và thức giấc khi tuyết đã rơi dày đến mười lăm phân, báo hiệu chắc chắn họ sẽ phải ở Hamptons thêm một đêm nữa. Lòng hân hoan, Brooke quấn những lọn tóc xòa ra thành một búi, xỏ đôi bốt bánh mì, khoác chiếc áo ấm chần múi phồng và trèo lên phía cửa bên của chiếc xe Jeep mà ông bà Alter để đó suốt cả năm. Julian trông ngồ ngộ trong chiếc mũ ấm của cha anh mà anh tìm thấy trong tủ áo; trên đỉnh nó có một quả bông, và có hai sợi dây đính ở tai mũ để buộc dưới cằm. Anh dừng ở quán cà phê Starbucks ở Đông Hampton để Brooke có thể chạy vào mua một tờ Times, nhưng họ đi đến tiệm Golden Pear Café để ăn sáng.
Ngồi thu lu với cả hai tay bọc lấy cốc cà phê nóng, Brooke thở dài mãn nguyện. Nếu cô có thể lên kịch bản một đêm Giao thừa hạnh phúc nhất đời, thì nó sẽ y chang như hai mươi tư giờ vừa qua của họ. Julian đang đọc cho cô nghe bài báo về một người bị tù hai mươi tư năm thì được minh oan nhờ bằng chứng ADN thì điện thoại của cô đổ chuông.
Anh nhìn lên.
“Nola đấy,” Brooke nói trong lúc nhìn chằm chằm vào màn hình điện thoại.
“Em không định trả lời à?”
“Anh có phản đối không? Em đoán là cô nàng sẽ dốc bầu tâm sự với em về đêm giao thừa của cô nàng đấy.”
Julian lắc đầu. “Ngồi đây đọc báo là anh vui rồi. Anh chẳng thấy phiền gì cả.”
“Chào, Nol,” Brooke nói khẽ hết sức. Cô không thể chịu được khi người ta nói như hét vào điện thoại di động.
“Brooke à, các cậu đang ở đâu thế?”
“Cậu hỏi chúng tớ đang ở đâu là sao? Chúng tớ đang ở Hamptons, cậu biết rồi mà. Thậm chí tớ nghĩ rằng trời tuyết như thế này thì chúng tớ sẽ phải ở lại cho đến...”
“Cậu đã đọc số mới Last night trên mạng chưa?” Nola ngắt lời.
“Last night á? Chưa, mạng Wi-Fi ở ngôi nhà ấy không hoạt động. Tớ có tờ Times đây...”
“Nghe này, tớ nói với cậu điều này chỉ vì tớ không muốn cậu nghe được từ ai khác. Sáng nay tạp chí Last night ra cả một bài khủng khiếp đưa ra mọi giả thiết về những nguyên nhân có thể làm Julian hủy sô diễn năm mới của anh ấy đêm qua.”
“Họ làm gì cơ?”
Julian nhìn cô và nhướng mắt lên có ý hỏi.
“Tất nhiên tất cả những giả thiết đó thật nhố nhăng. Nhưng tớ nhớ ra rằng cậu bảo Leo đang nghỉ đâu đó ở Nam Mỹ, và, ờ, tớ chỉ nghĩ là các cậu có thể muốn biết nếu như các cậu vẫn chưa biết thôi.”
Brooke hít một hơi sâu. “Tốt quá. Thật hết sảy. Cậu có thể kể cho tớ nghe bài báo nói gì không?”
“Cậu hãy lướt web trên điện thoại của Julian, được không? Tớ thực lòng xin lỗi vì phá hỏng buổi sáng của cậu, nhưng bài báo đó còn nói rằng bọn cậu chắc hẳn đang ‘trốn lánh’ ở Hamptons, vì thế tớ muốn báo trước cho các cậu biết rằng các cậu có thể có khách đến thăm đấy.”
“Ôi không,” Brooke rên lên.
“Tớ rất tiếc, bồ ạ. Hãy cho tớ biết nếu tớ có thể giúp được gì, nhé?”
Họ chào tạm biệt và lúc họ cúp máy rồi Brooke mới nhớ ra rằng cô còn chưa hỏi gì về đêm giao thừa của Nola cả.
Julian bắt đầu tìm bài báo của Last night trên điện thoại di động của anh thậm chí trước khi cô kể tóm tắt xong với anh. “Đây, anh thấy nó rồi.”
“Anh đọc to lên nào.”
Mắt Julian lướt tới lướt lui. “Chà,” anh lẩm bẩm và gõ nhẹ ngón tay trỏ lên màn hình. “Bọn họ moi những thứ này ở đâu ra mới được chứ?”
“Julian! Anh đọc ngay đi không thì đưa nó đây!”
Một cô gái trẻ chỉ mười sáu tuổi là cùng bê hai chiếc đĩa rụt rè đến bên bàn họ. Cô bé nhìn Julian, nhưng Brooke không chắc cô bé có nhận ra anh hay không. “Lòng trắng trứng cuộn rau tráng và bánh mì của ai ạ?” cô bé hỏi gần như là thầm thì.
“Bên này đây,” Brooke vừa nói vừa giơ một tay lên.
“Em đoán thế có nghĩa là anh sẽ ăn suất ăn sáng hỗn hợp phải không ạ?” cô bé nói với Julian mà miệng nhoẻn cười tươi rói đến mức chẳng còn phải ngờ gì nữa. “Bánh mì nướng kiểu Pháp với đường bột, hai trứng ốp la lòng đào và thịt muối xông khói chín kỹ đây ạ. Em có thể phục vụ gì thêm cho anh chị không?”
“Cảm ơn, chúng tôi đủ rồi,” Julian nói và ngay lập tức chọc nĩa của anh vào miếng bánh mì phồng xốp nướng kiểu Pháp. Cô thì mất hết cả sự ngon miệng rồi.
Anh chiêu một ngụm cà phê sau khi ngốn hết mọi thứ và cầm điện thoại của mình lên. “Em sẵn sàng chưa?”
Brooke gật đầu.
“Được rồi. Tít báo là ‘Julian Alter đang ở đâu?’ và ngay dưới tít đó là bức ảnh chụp anh trông nhễ nhại và phê phê mà có Chúa mới biết là ở đâu ra.” Anh chìa cho cô xem màn hình.
Brooke nhai miếng bánh mì nướng khô của cô, thầm nghĩ giá mình chọn bánh lúa mạch thì hơn. “Em nhận ra bức ảnh ấy. Nó được chụp ba mươi giây sau khi anh rời sân khấu sau tiết mục biểu diễn ở bữa tiệc của Kristen Stewart ở Miami. Trời hôm đó nóng đến ba mươi lăm độ và anh đã hát đến gần tiếng đồng hồ.”
Julian bắt đầu đọc. “ ‘Mặc dầu các nguồn tin cho chúng tôi biết chàng ca sĩ nổi tiếng đang lánh mặt tại ngôi nhà của cha mẹ anh ở Đông Hampton sau khi hủy lịch diễn tại chương trình đêm giao thừa của MTV đêm qua, nhưng điều mà dường như không ai có thể được là vì sao. Nhiều người ngờ rằng có trục trặc trên đỉnh cao đối với chàng ca sĩ nhạc nhẹ gợi tình đã đột nhiên trở nên nổi tiếng với album đầu tay For the Lost của anh. Một nguồn tin am hiểu ngành âm nhạc khẳng định rằng bây giờ là ‘thời cám dỗ’ khi rất nhiều những ngôi sao lên nhanh đầu hàng trước sự cám dỗ của ma túy. Mặc dù không có báo cáo cụ thể nào về việc lạm dụng ma túy, nhưng nguồn tin trong ngành âm nhạc đó nói ‘trung tâm phục hồi chức năng là một trong những nơi đầu tiên mà tôi tìm kiếm nếu một nghệ sĩ mới biệt tăm’.”
Julian nhìn lên cô, miệng anh há hốc vì kinh ngạc, chiếc điện thoại đung đưa hờ trên tay anh. “Họ ám chỉ rằng anh đang ở trong trung tâm hồi phục chức năng ư?” anh hỏi.
“Em không nghĩ rằng họ ám chỉ anh đang ở trong một trung tâm thực thụ,” Brooke nói dằn từng tiếng. “Thật ra em cũng không biết chắc họ định nói gì. Đọc tiếp đi anh.”
“‘Một nguồn tin am hiểu ngành âm nhạc à’?” Julian nhắc lại. “Họ có đùa không đấy?”
“Thôi đọc tiếp đi anh,” Brooke xúc một nĩa đầy trứng tráng ăn và cố giữ vẻ không lo lắng.
“ ‘Những người khác cả quyết rằng Julian và Brooke, người vợ là bác sĩ dinh dưỡng mà anh yêu chung thủy, đã và đang cảm thấy căng thẳng vì danh tiếng. ‘Tôi không thể tưởng tượng ra đôi nào còn thắm thiết được trong những hoàn cảnh căng thẳng như thế cả,’ bác sĩ tâm lý nổi tiếng Ira Melnick ở Beverly Hills phát biểu, cá nhân ông không điều trị cho gia đình Alter nhưng ông có nhiều kinh nghiệm với “những cặp bán-nổi-danh” như vậy (tức là một trong hai người nổi tiếng và người kia vô danh). ‘Nếu quả thực là ngay lúc này họ đang được tư vấn hôn nhân,’ bác sĩ Melnick nói tiếp, ‘thì chí ít họ còn có một cơ hội ngàn vàng’.”
“ ‘Một cơ hội ngàn vàng’ ư?” Brooke kêu lên. “Lão bác sĩ Melnick đó là lão chết tiệt nào và tại sao lão lại nhận xét về chúng mình khi mà chúng mình còn chưa gặp lão bao giờ?”
Julian chỉ lắc đầu. “Mà ai nói rằng chúng mình đang ‘cảm thấy căng thẳng vì danh tiếng’ thế nhỉ?” anh hỏi.
“Em không biết. Có thể họ ám chỉ toàn bộ chương trình Today và chuyện bầu bí chăng? Đọc tiếp đi anh.”
“Chà chà,” Julian nói, hiển nhiên anh đang tiếp tục đọc. “Anh vẫn luôn biết rằng những bài báo lá cải này toàn chuyện nhảm nhí rồi, nhưng bài này càng ngày càng kinh khủng hơn. ‘Khi mà trung tâm phục hồi chức năng hoặc tư vấn hôn nhân rất có khả năng là nguyên do Julian biến mất’” - Julian xổ ra từ cuối một cách đầy châm biếm - “‘hãy còn một khả năng thứ ba nữa. Theo một nguồn tin gần gũi với gia đình họ, chàng ca sĩ đang bị các tín đồ nổi tiếng của Khoa Luận giáo (1) ve vãn, nhất là John Travolta. ‘Tôi không rõ đó chỉ là một cử chỉ bè bạn hay là sự liên lạc để chiêu mộ, nhưng tôi có thể nói chắc chắn rằng họ vẫn đang giữ liên lạc vói nhau,” nguồn tin gia đình cho biết. Những điều này làm tất cả chúng ta không khỏi băn khoăn: Liệu JBro có noi gương TomKat (2) và giữ vững niềm tin hay không? Hãy tiếp tục theo dõi...”
“Không hiểu em nghe anh có đúng không đấy? Có phải anh vừa nói ‘Jbro’ không?” Brooke hỏi mà tin rằng anh đã bịa ra chỗ đó.
“Khoa Luận giáo!” Julian nói như thét lên trước khi Brooke suỵt anh. “Họ nghĩ chúng mình là tín đồ Khoa Luận giáo!”
Đầu óc Brooke hoạt động hết tốc lực để tiếp thu tất cả những điều này. Trung tâm phục hồi chức năng ư? Tư vấn hôn nhân ư? Khoa Luận giáo ư? JBro ư? Việc tất cả những điều đó là bịa đặt cũng chả đáng bực lắm, thế nhưng những sự thật nhỏ nhoi làm nên cốt lõi của bài báo thì sao? “Nguồn tin gia đình” nào đã đề cập đến John Travolta, một người mà đúng là Julian có liên lạc, mặc dù việc đó chẳng hề dính dáng gì đến Khoa Luận giáo? Và ai đã nói bóng gió - lần thứ hai trong chính tạp chí này - rằng cô và Julian đang trục trặc trong quan hệ? Brooke lăm le chực hỏi điều đó, nhưng nhìn thấy mặt Julian đầy vẻ tức giận nên cô buộc mình xoa dịu tình hình.
“Nghe này, em không biết anh thế nào, nhưng đằng sau tất cả những Khoa Luận giáo, lão bác sĩ tâm thần lừng danh thế giới chưa từng gặp chúng ta và JBro đó, em thấy là anh đã cực kỳ thành công. Em muốn nói rằng nếu đó không phải là những dấu hiệu của sự nổi tiếng thì không hiểu nó là cái gì.” Cô cười tươi rói nhưng Julian vẫn nguyên vẻ buồn nản.
Brooke thấy ánh sáng chớp lên qua khóe mắt và một ý nghĩ vụt thoáng qua trong đầu cô rằng thật quái lạ sao giữa cơn bão tuyết thế này mà lại thấy ánh chớp lòe được. Trước khi cô kịp nói lên nhận xét đó thì cô phục vụ trẻ tuổi lại xuất hiện bên bàn của họ.
“Tôi, ờ, chà,” cô bé lẩm bẩm, tỏ ra vừa lúng túng vừa háo hức. “Tôi xin lỗi về những tay thợ ảnh ở ngoài kia...” giọng cô bé nhỏ dần đúng lúc Brooke quay ra và thấy bốn người tì máy ảnh lên bậu cửa sổ quán cà phê. Julian chắc hẳn đã nhìn thấy họ trước cô, vì anh chìa tay qua bàn nắm lấy tay cô và nói, “Chúng mình phải đi ngay thôi.”
“Người, ờ, quản lý bảo họ rằng họ không được vào bên trong, nhưng chúng tôi không thể bắt họ rời khỏi vỉa hè được,” cô bé phục vụ nói. Cô bé có cái vẻ Chỉ hai giây nữa tôi sẽ hỏi xin chữ ký của anh trên mặt, và Brooke biết rằng họ phải đi ngay lập tức.
Cô lôi trong ví ra hai tờ hai mươi đô la, dúi vào tay cô bé và hỏi, “Ở kia có cửa sau không?” Khi cô bé gật đầu, Brooke nắm chặt tay Julian và nói, “Đi thôi.”
Họ chộp lấy áo khoác, găng tay, khăn rồi tiến thẳng tới phía sau tiệm cà phê. Brooke cố gắng không nghĩ trông cô tệ hại đến mức nào, rằng cô cực kỳ mong cả thế giới đừng thấy những bức ảnh chụp cô trong chiếc quần thụng và tóc buộc đuôi ngựa biết bao, nhưng cô còn mong muốn bảo vệ Julian hơn thế nhiều. Do phép mầu may mắn nào đó chiếc Jeep của họ đỗ ở bãi sau, và họ đã lên được xe, nổ máy và quay xe ngay ra khỏi bãi đỗ xe trước khi những tay săn ảnh nhìn thấy họ.
“Chúng mình làm gì đây?” Julian thảng thốt hỏi. “Mình không thể về nhà vì họ sẽ theo mình. Họ sẽ đóng đô ở đấy mất.”
“Thế anh không nghĩ rằng có khi họ đã biết nó ở đâu rồi à? Chẳng phải vì thế mà họ ở đây ư?”
“Anh không biết nữa. Chúng mình đang ở giữa làng Đông Hampton. Nếu muốn tìm ai đó ta biết chắc rằng đang ở Hampton giữa mùa đông tháng giá này, thì đây chính là nơi thích hợp để bắt đầu. Anh nghĩ rằng họ chỉ ăn may thôi.” Julian lái xe trên xa lộ 27 về phía Đông, xa khỏi ngôi nhà của cha mẹ anh. Ít nhất có hai chiếc xe theo sau họ.
“Chúng mình có thể chạy thẳng về thành phố...”
Julian vỗ tay lên vô lăng. “Tất cả đồ đạc của mình còn để trong ngôi nhà đó. Hơn nữa, thời tiết thay đổi thế này - chúng ta sẽ tự giết mình mất.”
Họ im lặng một thoáng trước khi Julian bảo, “Hãy quay số trực không khẩn cấp của cảnh sát địa phương và bật loa lên em.”
Brooke không rõ Julian định làm gì, nhưng cô không muốn tranh luận. Cô quay số và Julian bắt đầu nói khi nghe một nữ điều vận trả lợi điện thoại.
“Xin chào, tên tôi là Julian Alter và tôi đang lái xe về hướng Đông trên xa lộ 27, vừa mới đi qua làng Đông Hampton xong. Có một số ô tô -người săn ảnh - đang đuổi theo xe tôi với tốc độ không an toàn. Tôi sợ rằng nếu tôi về nhà họ sẽ xông vào nhà tôi. Có cách nào để một sĩ quan cảnh sát có thể đến gặp tôi tại nhà để nhắc nhở họ rằng họ đang xâm phạm tư gia không?”
Người phụ nữ đồng ý cử người đến trong hai mươi phút nữa và sau khi cung cấp địa chỉ nhà cha mẹ anh cho chị ta, anh cúp máy.
“Thế là thông minh đấy,” Brooke nhận xét. “Sao anh lại nghĩ ra cách ấy?”
“Anh không nghĩ ra. Đó là điều Leo đã bảo anh làm nếu chúng mình ở bất kỳ đâu ngoài Manhattan và bị đeo bám. Xem nó có hiệu quả thực sự không nhé.”
Họ tiếp tục lái lòng vòng trong suốt hai mươi phút, rồi Julian nhìn đồng hồ và rẽ vào một đường làng nhỏ hẹp dẫn tới đồng cỏ rộng nơi ngôi nhà của ông bà Alter tọa lạc trên một mẫu rưỡi đất. Sân trước rộng rãi và cảnh quan được kiến tạo khá đẹp, nhưng ngôi nhà không đủ xa để tránh ống kính viễn vọng của máy ảnh. Cả hai người đều cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy một chiếc xe cảnh sát đỗ ở giao lộ giữa con đường trang trại và đường xe chạy. Julian đỗ xe ngay cạnh rồi hạ kính thấp xuống; hai chiếc xe đi theo họ giờ đã thành bốn chiếc, và tất cả đều đỗ ngay sau họ. Họ có thể nghe thấy tiếng máy ảnh bấm tanh tách trong lúc viên sĩ quan cảnh sát tiến đến chiếc Jeep.
“Chào ngài sĩ quan. Tôi là Julian Alter và đây là Brooke vợ tôi. Chúng tôi chỉ cố gắng về nhà một cách yên lành mà thôi. Anh có thể giúp chúng tôi được không?”
Viên sĩ quan cảnh sát còn trẻ tuổi, chắc hẳn mới gần ba mươi, và trông anh ta chẳng có vẻ gì bực bội khi bị quấy rầy vào sáng mùng một Tết cả. Brooke thầm tạ ơn trời và thấy mình chỉ mong viên cảnh sát nhận ra Julian.
Anh ta không làm cô thất vọng.
“Julian Alter hả? Người yêu tôi rất hâm mộ anh đấy. Một số người chúng tôi có nghe đồn rằng gia đình anh sống ở đâu đây, nhưng chúng tôi không chắc lắm. Đây là nhà của cha mẹ anh phải không?”
Julian liếc nhìn tấm thẻ tên của anh ta. “Chính thế, thưa ngài sĩ quan O’Malley,” anh trả lời. “Tôi rất vui khi biết bạn gái anh là một người hâm mộ. Anh có nghĩ rằng cô ấy sẽ thích một album được ký tặng không?”
Tiếng tanh tách từ các máy ảnh tiếp diễn, và Brooke lăn tăn không biết những bức ảnh đó sẽ giật cái tít như thế nào. “Julian Alter bị bắt trong một cuộc đua xe của những kẻ phê ma túy” chăng? Hay là “Sĩ quan cảnh sát nói với Alter: Chúng tôi không muốn thấy loại người như anh ở đây”. Hoặc giả là cái tít khiến mọi người thích thú “Alter cố gắng cải đạo cho sĩ quan cảnh sát thành tín đồ Khoa Luận giáo”.
Mặt O’Malley sáng lên khi nghe lời gợi ý đó. “Tôi chắc cô ấy sẽ thích lắm,” anh ta vừa nói vừa thổi phù phù vào tay mình, đôi tay trông đỏ ửng và nứt nẻ. “Tôi nghĩ cô ấy sẽ thích mê.”
Trước khi Julian kịp thốt ra lời nào, Brooke mở ngăn đựng găng tay trên xe và đưa cho Julian một chiếc đĩa For the Lost. Họ để một chiếc mới tinh ở đó để xem cha mẹ Julian có nghe nó trước khi mùa hè tới thật hay không, nhưng cô nhận thấy dùng nó vào việc này còn tốt hơn nhiều. Cô lục lọi trong túi và moi ra một chiếc bút.
“Tên cô ấy là Kristy,” viên sĩ quan nói và cẩn thận đánh vần cái tên này đến hai lần.
Julian xé vỏ bao ni lông khỏi đĩa CD, bỏ những tờ lót album ra, và ngoáy bút, “Tặng Kristy, thân ái, Julian Alter.”
“Này, cảm ơn nhé. Cô ấy sẽ sướng điên,” O’Malley nói và cẩn thận đút đĩa CD vào túi áo khoác. “Nào, tôi có thể làm được gì cho anh chị đây?”
“Bắt mấy anh chàng đó chăng?” Julian nói và cười nửa miệng.
“Sợ rằng tôi không thể, nhưng tôi chắc chắn có thể bảo họ rút lui và nhắc nhở họ các quy định về bất động sản sở hữu tư nhân. Anh chị cứ đi đi. Tôi sẽ chỉ dẫn tường tận cho những người bạn này của anh chị ở đây. Cứ gọi cho tôi nếu có vấn đề gì nữa nhé.”
“Cảm ơn!” cả Brooke và Julian đồng thanh nói. Họ chào tạm biệt O’Malley và không ngoái đầu nhìn, họ đánh xe vào ga ra rồi đóng cửa lại.
“Anh ta thật tốt bụng,” Brooke nói trong lúc họ bước vào sảnh và đá văng đôi bốt ra.
“Anh sẽ gọi cho Leo ngay bây giờ,” Julian nói trong lúc đã đi được nửa chừng đến phòng đọc của cha anh phía sau nhà. “Chúng mình đang bị bao vây mà gã thì nằm ườn trên bãi biển nào đó.”
Brooke nhìn theo anh rồi đi từ phòng này sang phòng khác để kéo rèm che cửa. Xế chiều trời đã bắt đầu xám xịt lại, và cô thấy những ánh đèn flash bắn thẳng vào cô trong lúc cô đi từ cửa sổ này sang cửa sổ khác. Từ phía sau một trong những tấm mành che phòng dành cho khách trên tầng hai, cô hé nhìn ra ngoài và suýt nữa thì thét lên khi thấy một người đàn ông với ống kính phóng cỡ bằng quả bóng đá chĩa thẳng vào cô. Chỉ có một phòng không có màn che cửa sổ - một phòng vệ sinh của phòng nhỏ chưa bao giờ có người sử dụng trên tầng ba - nhưng Brooke không dám bỏ liều. Cô dùng băng keo dán một túi ni lông đựng rác công nghiệp to và chắc che nó đi rồi quay trở lại tầng dưới để xem Julian thế nào.
“Anh ổn chứ?” cô hỏi và đẩy cửa phòng đọc ra sau khi không nghe tiếng trả lời khi cô gõ cửa.
Julian từ laptop ngước lên. “Ừ, ổn cả. Còn em? Xin lỗi vì tất cả những phiền phức này,” anh nói mà Brooke chẳng thể nhận ra sắc thái trong giọng anh. “Anh biết nó phá hỏng hết mọi thứ.”
“Nó đâu có phá hỏng thứ gì,” cô nói dối.
Lại không có câu trả lời. Anh tiếp tục nhìn chằm chằm vào màn hình.
“Em đi nhóm lò sưởi rồi chúng mình cùng xem phim nhé? Anh thấy thế nào?”
“Được. Tốt lắm. Vài phút nữa anh sẽ ra, được không?”
“Tuyệt,” cô nói với vẻ hân hoan gượng gạo. Cô nhẹ nhàng khép cửa đằng sau mình và rủa thầm cái bọn săn ảnh trời đánh thánh vật đó, cả cái bài báo khốn nạn trên tờ Last night nữa, và - một phần thôi nhé - đầu tội là sự nổi tiếng của chồng cô. Cô sẽ cố gắng hết sức vững vàng vì Julian, nhưng anh đã đúng một điều: nơi ẩn náu thanh bình, hạnh phúc và rất đỗi cần thiết của họ đã không còn. Không một ai lái xe vào đường xe chạy hoặc đi bộ qua bãi cỏ, nhưng đám đông bên ngoài càng lúc càng đông thêm. Đêm hôm đó họ ngủ trong văng vẳng tiếng người chuyện trò cười nói, tiếng máy ô tô nổ rồi tắt, và mặc dù họ cố hết mức để phớt lờ nhưng cả hai đều không thể. Hôm sau, lúc tuyết đã tan đủ để khởi hành được, họ mới chỉ chợp mắt được một hai tiếng đồng hồ và cảm thấy như vừa chạy việt dã hai cua liền, và họ hầu như chẳng nói một lời trên đường về thành phố. Họ bị đeo bám suốt đường về nhà.
Chú thích
(1) Tức Scientology, một tổ chức tôn giáo tín ngưỡng sáng lập năm 1952 bởi nhà văn viết truyện huyền ảo và khoa học viễn tưởng L. Ron Hubbard, dựa trên hệ thống các quan điểm về sự tự cứu ông viết năm 1950. Rất nhiều người nổi tiếng gia nhập giáo phái này.
(2) JBro và TomKat: viết tắt kết hợp tên Julian và Brooke cùng đôi vợ chồng diễn viên điện ảnh Mỹ nổi tiếng Tom Cruise và Katie Holmes. Cặp vợ chồng diễn viên này cũng là tín đồ Khoa Luận giáo.
Đêm Qua Anh Ở Đâu? Đêm Qua Anh Ở Đâu? - Lauren Weisberger Đêm Qua Anh Ở Đâu?