I love to lose myself in other men's minds.... Books think for me.

Charles Lamb

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2020 / 37
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:33 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14 - Bốn Bề Tuyết Hãm
ác con phố lát đá cuội trong làng Adlington đang bị lấp dưới gần cả sáu phân tuyết. Trong ánh sáng đang mờ dần, đám trẻ con hân hoan đổ ra hàng đàn, cười đùa, gào rú la thét, quẳng từng tảng từng vạt bóng tuyết vào nhau. Những người khác thì kém vui vẻ hơn. Đôi ba người phụ nữ quấn khăn sam đi ngang qua tôi, bồn chồn bước qua vỉa hè đóng đầy tuyết, đầu cúi gằm, mắt chăm chắm nhìn xuống chân. Họ đang cắp chặt mấy chiếc làn rỗng trong tay xuôi về phía ngõ Babylon để vội mua sắm lúc cuối ngày. Tôi đi cùng theo hướng ấy cho đến khi tới được cửa hiệu của ông Andrew.
Khi tôi nhấc then cài đẩy cửa mở ra, một tiếng chuông lanh lảnh vang lên. Cửa hiệu không có ai nhưng tôi nghe thấy ai đó từ phía sau tiến ra. Tiếc cộc cộc cộc của đôi giày mũi nhọn vang lên, và thật kinh ngạc làm sao, Alice bước đến quầy, gương mặt rạng rỡ nụ cười.
“Tom ơi, gặp lại cậu thật mừng quá! Tớ đang băn khoăn cậu sẽ mất bao lâu mới tìm ra tớ....”
“Cậu đang làm gì ở đây thế?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Làm việc cho bác Andrew chứ còn sao nữa! Bác ấy cho tớ một công việc lẫn một mái nhà,” cô bé đáp lại cùng nụ cười. “Tớ trông coi cửa hiệu để bác ấy có thêm thời gian làm việc trong xưởng. Tớ còn làm hầu hết mọi chuyện nấu nướng giặt giũ nữa cơ. Bác ấy tốt bụng lắm, bác Andrew ấy.”
Trong một đỗi tôi lặng câm và Alice hẳn đã đọc được vẻ mặt tôi bởi lẽ nụ cười của cô nhanh chóng nhạt đi và cô trông lo lắng hẳn. “Bố cậu...” cô nói.
“Khi tớ về đến nơi thì bố tớ đã qua đời. Tớ đã về quá muộn, Alice à.”
Tôi không thể nói thêm gì, giọng tôi đã lạc đi và một cục nghẹn dâng lên trong họng. Nhưng trong nháy mắt, Alice đã rướn người tới đặt tay lên vai tôi. “Ôi Tom! Tớ rất tiếc,” cô bảo tôi. “Cậu hãy vào sau nhà sưởi ấm bên lò sưởi nào.”
Căn phòng khách thật ấm cúng, có một trường kỷ, hai chiếc ghế bành êm ái và trong lò sưởi đầy nhóc những than đang hừng hực cháy. “Tớ muốn lửa cháy thật giòn cơ,” Alice vui vẻ nói. “Bác Andrew dè sẻn than hơn là tớ nhưng bác ấy đang đi xa làm việc và mãi đến tối mịt mới về. Khi chủ vắng nhà thì...”
Tôi tựa thanh trượng vào góc nhà trước khi ngồi phịch xuống trường kỷ, ghế đặt đối diện ngay lò sưởi. Thay vì ngồi xuống bên cạnh tôi, Alice quỳ xuống bên lò sưởi, đầu gối tì lên thảm lò, quay mặt nghiêng trái về phía tôi.
“Sao cậu lại rời bỏ gia đình Hurst thế?” tôi hỏi.
“Tớ phải bỏ đi thôi,” Alice cau có đáp. “Tên Morgan cứ mãi mè nheo ép tớ giúp hắn thế nào ấy, nhưng lại không nói rõ ra. Hắn đang hằn học cái gì đấy. Đang có kế hoạch sao đó để trả đũa lại Lão Gregory.”
Tôi nghĩ mình chắc chắn đã biết Alice đang nói đến chuyện gì nhưng tôi quyết định không nói gì với cô gái. Tôi đã hứa với Morgan là tôi sẽ không tiết lộ cho ai biết về các kế hoạch của hắn. Hắn là pháp sư gọi hồn chuyên sử dụng các linh hồn để moi ra thông tin. Tôi không thể mạo hiểm. Tôi không thể nói cho Alice biết phòng trường hợp hắn phát hiện ra rồi lại làm cho bố tôi phải đau khổ thêm.
“Hắn mãi không chịu để tớ yên,” Alice nói tiếp. “Vì thế tớ bỏ đi. Tớ không chịu được phải nhìn thấy mặt hắn thêm một phút nào nữa. Thế là tớ nghĩ đến bác Andrew. Nhưng kể về tớ thế là quá đủ rồi đấy Tom à. Tớ rất tiếc về chuyện bố cậu nhé. Cậu có muốn nói về chuyện ấy không?”
“Đau đớn lắm, Alice à. Tớ thậm chí còn lỡ luôn tang lễ của bố nữa chứ. Rồi mẹ thì đã bỏ đi đâu đó mà không ai biết là bà đi đâu. Có lẽ bà đã quay về cố hương và có khả năng tớ không bao giờ được gặp lại bà nữa. Tớ thấy cô độc quá...”
“Này Tom, gần như cả đời tớ đã phải cô độc rồi. Nên tớ hiểu cái cảm giác ấy lắm. Nhưng chúng mình lại có nhau mà, đúng không?” cô vừa hỏi vừa đưa tay sang nắm lấy tay tôi. “Chúng ta sẽ luôn ở bên nhau. Ngay cả Lão Gregory cũng sẽ không thể nào ngăn được điều này.”
“Lúc này thì Thầy Trừ Tà đang ở vào thế không thể làm gì rồi,” tôi nói. “Khi tớ quay lại, Meg đã lật ngược tình thế. Giờ thì thầy mới là người bị nhốt. Tớ cần bác Andrew làm cho tớ chiếc chìa khóa để tớ có thể đem Thầy Trừ Tà ra khỏi đấy. Tớ cần sự giúp đỡ của cậu. Cậu và bác Andrew là hai người duy nhất mà tớ có thể nhờ đến.”
“Tớ thấy có vẻ như rốt cuộc lão ta cũng phải gánh chịu lấy những gì đang giáng xuống,” Alice bảo, rụt phắt tay về khỏi tay tôi, một nụ cười khẽ nhếch lên bên khóe miệng. “Chắc đã phải uống lấy một đống thứ thuốc của chính tay lão ta chứ gì!”
“Tớ không thể để thầy ở lại đấy,” tôi nói với Alice. “Với lại còn mụ phù thủy nữ yêu kia nữa chứ? Cái mụ hoang dã ấy? Chị của Meg ấy? Mụ đã thoát ra khỏi hố và được tự do lông rông quanh những bậc thang đằng sau cánh cổng rồi. Lỡ mụ ta thoát được ra khỏi nhà thì sao? Mụ ta có thể mò xuống tận đây, vào trong làng này. Sẽ chẳng còn ai được an toàn, mà trong làng này lại có lắm con nít.”
“Thế còn Meg thì sao?” Alice hỏi lại. “Không đơn giản chút nào, phải không nhỉ? Bà ấy không đáng phải bị nhốt xuống hố. Cũng không đáng phải sống nốt quãng đời còn lại uống lấy cái thứ trà thảo dược ấy nữa! Giá nào thì việc ấy cũng phải chấm dứt.”
“Vậy cậu sẽ không giúp chứ gì?”
“Tớ nào có bảo thế đâu Tom. Chỉ là cần phải suy nghĩ chút thôi.”
Ngay sau khi trời tối hẳn thì ông Andrew quay về nhà. Tôi ngồi ngoài cửa hiệu chờ ông ấy khi ông bước vào.
“Chuyện gì nữa đây hả Tom?” ông Andrew vừa hỏi vừa giẫm chân rũ tuyết ra khỏi ủng và xoa xoa hai tay vào nhau để cho máu huyết lưu thông bình thường trở lại. “Giờ thì ông em trai của ta lại muốn gì nào?”
Ông Andrew lúc nào cũng trông như một con bù nhìn ăn vận tươm tất, tay chân lỏng khỏng vụng về, nhưng ông ấy là người xuề xòa tốt bụng lại còn rất thạo nghề nữa.
“Thầy lại gặp rắc rối ạ,” tôi đáp. “Cháu cần bác làm cho cháu chiếc chìa để bọn cháu có thể đem thầy ra khỏi đấy. Mà việc này cấp bách lắm.”
“Chìa à? Chìa gì thế?”
“Chìa mở cánh cổng chắn các bậc thang dẫn xuống hầm trong nhà thầy đấy ạ. Meg đã giam thầy xuống đó rồi.”
Ông Andrew lắc đầu chậc lưỡi. “Ta không hề ngạc nhiên gì cả. Việc ấy bắt buộc phải xảy ra một ngày nào đó thôi. Chỉ là khó tin vì mãi mới xảy ra đấy! Ta luôn nghĩ rốt cuộc rồi Meg sẽ thắng thế. Thầy con trước nay cứ mãi quan tâm quá nhiều đến bà ta. Hẳn là chú ấy đã mất đề cao cảnh giác.”
“Nhưng bác sẽ giúp chứ ạ?”
“Dĩ nhiên là có chứ. Chú ấy là em của ta mà, đúng không nào? Nhưng gần như cả ngày hôm nay ta đã ở ngoài đường trong giá lạnh rồi nên ta chẳng thể làm được gì nhiều cho đến khi xương cốt ta ấm áp trở lại và dạ dày được lót chút thức ăn nóng sốt đã. Sau khi ăn xong con hẵng bàn với ta về chuyện này nhé.”
Lâu nay tôi chưa nếm qua nhiều tài nấu ăn của Alice, trừ món thịt thỏ lụi tro ngoài trời, nhưng đánh giá theo mùi vị ngon lành của món hầm đang bốc ra từ bếp, tôi biết mình sẽ được thết một bữa ra trò đây.
Và tôi không phải thất vọng. “Ngon thật đấy Alice,” tôi nói, rồi ngay lập tức đánh chén.
Alice mỉm cười. “Phải rồi, phải ngon hơn thứ rác rưởi mà cậu cho tớ ăn hồi ở Anglezarke chứ.”
Chúng tôi phá ra cười, rồi lặng lẽ ăn cho đến khi chẳng còn sót lại tí vụn thức ăn nào. Ông Andrew là người lên tiếng trước.
“Ta không có chìa mở cánh cổng đó đâu,” ông bảo tôi. “Cả ổ và chìa khóa ấy được một người thợ khóa ở Blackrod tạo ra cách đây dễ hơn bốn mươi năm ấy chứ. Người đó giờ đã mất rồi nhưng danh tiếng ông ta là độc nhất vô nhị, nên chúng ta đang phải đối mặt với một cơ cấu vô cùng phức tạp đây. Ta cần phải đích thân vào nhà quan sát. Với ta cách dễ nhất là thử phá khóa để con đi qua bên kia cổng.”
“Chúng ta đi ngay tối nay được không ạ?” tôi hỏi.
“Càng sớm càng tốt,” ông Andrew đáp. “Nhưng ta muốn biết chúng ta đang chống lại chính xác là với thứ gì. Meg có khả năng hay ở nơi nào nhất?”
“Bà ta thường ngủ trên ghế đu cạnh lò sưởi trong bếp. Nhưng ngay cả nếu như chúng ta có an toàn vượt qua được Meg và qua luôn cánh cổng đi chăng nữa, vẫn còn có một rắc rối khác...”
Thế là tôi phải kể cho ông Andrew nghe về mụ phù thủy nữ yêu đang tự do đi lại dưới tầng hầm. Ông Andrew liên tục lắc lắc đầu như thể ông ấy không tin được rằng mọi chuyện lại tồi tệ đến thế.
“Con sẽ đối phó với mụ ta như thế nào? Dùng sợi xích bạc của con ấy à?”
“Cháu không có xích ạ,” tôi đáp. “Xích đang ở trong túi cháu. Mà túi thì chắc là vẫn còn ở nơi như mọi khi là trong phòng làm việc của Thầy Trừ Tà. Nhưng cháu có trượng đây. Trượng làm bằng gỗ thanh hương trà, và nếu cháu may mắn thì thanh trượng sẽ giữ cho mụ ta tránh ra xa thôi.”
Ông Andrew lại lắc đầu và trông không vui vẻ gì cho lắm. “Tom này, như thế không hẳn là kế hoạch hay ho gì đâu. Quá nguy hiểm. Ta không thể ngồi bẻ khóa trong khi con phải chiến đấu chống lại hai mụ phù thủy. Nhưng có một cách khác đấy,” ông nói. “Chúng ta có thể huy động khoảng một tá thanh niên trong làng đi cùng chúng ta để tiêu diệt Meg một lần dứt điểm.”
“Không được,” Alice cương quyết nói. “Đấy không phải là cách. Làm thế tàn ác quá.”
Tôi biết Alice đang nhớ về lúc đám người từ Chipenden tấn công vào ngôi nhà cô bé đang sống với dì Lizzie Xương Xẩu của mình. Alice cùng dì đã đánh hơi ra được đám người và chỉ có đủ thời gian để trốn khỏi đấy, nhưng mọi thứ đều bị thiêu rụi và hai người họ đã mất sạch tư trang.
“Thầy Gregory sẽ không muốn như thế đâu ạ, điều này thì cháu bảo đảm,” tôi nói.
“Quả thế thật,” ông Andrew tiếp lời. “Đấy là cách an toàn nhất, nhưng chắc hẳn rồi John sẽ không bao giờ tha thứ cho ta. Được rồi, có vẻ như chúng ta phải quay lại kế hoạch ban đầu.”
“Đây là một điều mà cả hai người đã không nghĩ đến này,” Alice bảo. “Một phù thủy như thế không thể đánh hơi ra cậu khi cậu ở xa xa đâu Tom à. Cách này không có tác dụng với người con trai thứ bảy của người con thứ bảy, đúng chửa? Có lắm khả năng là tớ cũng không sao – đấy là nếu như tớ quyết định đi cùng cậu. Nhưng bác Andrew thì khác. Một khi bác ấy đến gần ngôi nhà thì bà ta sẽ đánh hơi ra và chuẩn bị sẵn sàng ngay.”
“Nếu bà ta đang ngủ gật thì chúng ta có thể thoát qua mà,” tôi nói, nhưng lòng không cảm thấy tự tin đến vậy.
“Ngay cả khi bà ta còn ngủ thì vẫn mạo hiểm vô cùng,” Alice nói. “Chỉ có cậu và tớ nên đi thôi Tom à. Biết đâu chúng ta có thể tìm ra chìa khóa và không cần phải phá khóa làm gì. Thầy Trừ Tà cất chìa ở đâu thế?”
“Thường là trên đầu kệ sách, nhưng có thể hiện tại Meg đang giữ lấy nó rồi.”
“À, nếu chìa không có đấy thì chúng ta sẽ lấy lại túi đồ của cậu từ phòng làm việc rồi ta trói bà ta lại bằng xích bạc để moi chìa từ bà ta ra. Mà có cách nào đi nữa thì chúng cháu không cần đến bác đâu, bác Andrew ạ. Cháu và Tom có thể làm được.”
Ông Andrew mỉm cười. “Thế thì hợp ý ta quá,” ông nói. “Ta muốn tránh xa ngôi nhà cùng tầng hầm ấy lắm. Nhưng ta không thể để cho hai đứa tự ra tay mà không có trợ giúp. Tốt nhất là ta sẽ để cho hai đứa ra tay trước rồi sau đấy ta sẽ theo bước. Nếu hai đứa không ra đến cửa trong vòng nửa tiếng đồng hồ, ta sẽ quay về Adlington và kêu gọi một tá những anh to con trong làng. Rồi John sẽ phải chấp nhận những hệ quả của chuyện này thôi.”
“Được rồi,” tôi nói. “Nhưng hễ càng nghĩ đến thì tớ càng e là việc đi vào qua cửa sau rất nguy hiểm,” tôi bảo với Alice. “Như tớ nói đấy, buổi tối thì Meg ngủ trong bếp, trên ghế cạnh lò sưởi. Bắt buộc bà ta phải nghe thấy chúng ta khi chúng ta bước ngang qua bà ta để đi vào phòng làm việc thôi. Cửa trước có thể khả dĩ hơn chút nhưng vẫn còn rủi ro đánh thức Meg dậy. Không – còn có cách khác hay hơn nhiều. Chúng ta có thể đi vào qua một trong những cửa sổ phòng ngủ phía sau. Cửa sổ tốt nhất là cánh cửa trên tầng ngay dưới rầm thượng, nơi mấy mỏm đá sát kề ngay bậu cửa sổ ấy. Mấy then cài trong phòng ngủ đa phần là hoen gỉ hay gãy hết rồi. Tớ nghĩ tớ có thể rướn tới thúc mở cửa sổ mà leo vào trong ấy.”
“Điên rồ quá,” ông Andrew thốt lên. “Ta từng ở trong phòng ngủ ấy và đã nhìn thấy khoảng cách giữa mỏm đá và bậu cửa sổ. Khoảng cách quá rộng. Với lại, nếu con lo đến chuyện xoay chìa khóa ở cửa hậu, thì con cứ tưởng tượng con sẽ gây ra biết bao là tiếng ồn khi con thúc mở cửa sổ ấy chứ!”
Alice cười toe, như thể tôi vừa mới nói lên điều gì ngu xuẩn lắm vậy, nhưng tôi nhanh chóng xóa đi nụ cười trên mặt cô gái.
“Meg sẽ không nghe thấy chúng cháu nếu có ai đó đến gõ cửa sau thật mạnh vào ngay lúc cháu đang thúc mở cửa sổ...” tôi bảo.
Tôi quan sát mồm ông Andrew há hốc ra khi những gì tôi vừa nói từ từ thấm vào đầu ông.
“Không chứ,” ông bảo, “con không phải muốn nói là...”
“Sao lại không hả bác Andrew?” tôi hỏi lại. “Dù sao thì bác là anh trai của thầy Gregory cơ mà. Bác có lý do ghé thăm ngôi nhà ấy.”
“Ây dà, nhưng rồi ta có thể bị nhốt ngay xuống hầm ấy, làm tù nhân như John mất!”
“Cháu không nghĩ thế đâu ạ. Cháu đoán là Meg thậm chí còn không ra mở cửa nữa ấy chứ. Bà ta không muốn bất cứ ai trong làng biết là bà ta đang tự do bằng không thì bà ta sẽ thu hút cả một đám người đến đấy. Bác có thể gõ cửa bốn năm lần gì đấy rồi bỏ đi, cho cháu đủ thời gian cháu cần để chui qua cửa sổ.”
“Như thế cũng có thể được đấy ạ,” Alice bảo.
Ông Andrew đẩy đĩa ra xa ngồi yên không nói một lúc lâu. “Vẫn còn một chuyện làm ta băn khoăn,” rốt cuộc ông cũng lên tiếng. “Khoảng cách giữa mỏm đá và bậu cửa sổ. Ta không nghĩ làm sao con lại có thể leo qua. Lại sẽ rất trơn trợt nữa chứ.”
“Cũng đáng thử một lần mà bác,” tôi nói, “nhưng nếu cháu không làm được thì sau đấy chúng cháu có thể quay lại đánh liều thử vào bằng cửa sau vậy.”
“Chúng ta có thể làm mọi chuyện dễ dàng hơn bằng cách sử dụng một miếng ván mỏng,” ông Andrew gợi ý. “Ta có một tấm phía sau nhà có thể có ích đấy. Alice sẽ phải dùng chân giữ chặt miếng ván xuống bậu cửa trong khi con bò qua. Không dễ làm đâu, nhưng ta còn có một thanh xà beng thích hợp cho việc này lắm,” ông nói thêm.
“Vậy thì cũng đáng thử xem sao,” tôi cố ra vẻ can đảm hơn trong lòng mình đang cảm thấy.
Vậy là thỏa thuận xong, và dường như Alice cũng đã quyết định sẽ theo giúp. Ông Andrew ra sau sân lấy tấm ván. Nhưng khi chúng tôi mở cửa trước để lên đường, một cơn bão tuyết đang hoành hành bên ngoài. Ông Andrew lắc đầu.
“Giờ mà hai đứa ra đi thì thật điên rồ,” ông bảo. “Trận bão tuyết này cuồng nộ như chính thần Golgoth ấy chứ. Tuyết sẽ đùn thành đống và trên vùng đồng hoang ấy sẽ rất nguy hiểm. Hai đứa có thể bị lạc đường rồi rét cóng đến chết mất. Thôi, tốt nhất là đợi đến sáng mai đã. Đừng lo,” ông bấu tay lên vai tôi. “Em trai của ta là kẻ sống sót mà, ta đều biết cả rồi đấy thôi. Bằng không thì chú ấy đã không sống lâu đến từng này.”
Bên trên cửa hiệu chỉ có hai phòng ngủ; một phòng của ông Andrew và một phòng cho Alice, nên tôi đành ngủ trên trường kỷ trong phòng khách, quấn mình trong chăn vậy. Lửa trong lò sưởi đã lụi đi và thoạt đầu căn phòng trở nên lạnh se se, rồi lạnh quay quắt. Tôi chịu không đếm xuể số lần mình thức dậy trong đêm. Lần thức giấc cuối cùng, ánh bình minh đã bắt đầu lấp ló qua rèm cửa, thế là tôi quyết định dậy hẳn.
Tôi duỗi tay duỗi chân, ngáp dài rồi đi lên đi xuống chút ít để giãn các khớp xương. Đúng lúc ấy tôi nghe thấy tiếng động ở phía trước. Nghe như thể có ai đó gõ ba lần lên cửa sổ cửa hiệu.
Khi tôi bước vào trong hiệu, cả gian phòng tràn ngập ánh sáng phản chiếu từ tuyết. Đêm qua đúng là có tuyết đùn thật và tuyết đã chất đống cao lên tận mép dưới cửa sổ. Và ở ngay đấy, tựa vào cửa kính, là một chiếc phong bì màu đen. Phong bì được đặt trong tư thế hiển hiện đến nỗi tôi có thể đọc lấy những gì viết trên ấy. Thư được gửi đến cho tôi! Nhất định là từ Morgan mà thôi.
Một phần trong tôi chỉ muốn mặc kệ phong thư tại đấy. Nhưng rồi tôi nhận ra đường phố sẽ sớm đông người qua lại và bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua và trông thấy bì thư. Biết đâu họ lại nhặt lên mà đọc, còn tôi thì không muốn người lạ biết đến việc của mình.
Ngoài cửa trước tuyết chất nhiều đến mức tôi không thể mở cửa được mà phải đi ra ngoài qua cửa sau, mở cổng ngoài sân ra mà đi vòng. Chỉ đến khi chuẩn bị nhào mình ra đụn tuyết thì tôi mới để ý thấy một điều rất kỳ quặc. Không có dấu chân nào cả. Đối diện với tôi là một đụn tuyết to tướng mà trên bề mặt không vương chút dấu tích gì. Bức thư đã đến đây bằng cách nào vậy nhỉ?
Tôi thu lấy phong thư, và khi làm thế, đã khoét thành một rãnh sâu trên tuyết. Tôi lại đi vòng ra phía sau nhà để vào trong bếp, xé mở phong thư và đọc.
Ta sẽ có mặt tại sân nhà thờ Thánh George, phía tây làng này. Nếu mi muốn điều tốt lành nhất cho cả bố mi lẫn lão thầy của mi, đừng bắt ta phải chờ lâu. Đừng bắt ta phải tìm đến mi. Mi sẽ không thích thế đâu.
Morgan G.
Trước đây tôi không để ý đến chữ ký nhưng giờ thì chữ ký ấy đập vào mắt tôi. Morgan đã đổi tên à? Chữ cái viết hoa họ của hắn đáng lẽ phải là chữ H viết tắt cho Hurst chứ.
Chẳng hiểu ra làm sao, tôi gấp thư nhét vào túi. Tôi tính đến chuyện đánh thức Alice cho cô xem lá thư. Có lẽ tôi nên mang cô theo mình. Nhưng hiện thời Alice chẳng hề muốn gặp Morgan. Alice đã bảo cô rời khỏi nông trại Cảnh Bờ Hoang là vì không thể chịu đựng Morgan thêm một phút nào nữa. Và tôi biết mình thật sự không thể nói cho Alice biết dù có muốn lắm: tôi sợ Morgan, sợ những điều hắn có thể gây ra cho bố tôi. Nói thật ra thì, tôi cũng sợ những điều hắn có thể gây ra cho tôi nữa. Với quyền năng đến thế kia, hắn thực sự rất nguy hiểm: không phải là kẻ mà ta không tuân lời được. Thế nên tôi tròng áo choàng vào, nhặt trượng lên đi ra ngoài, thẳng tiến đến sân nhà thờ.
Đây là một nhà thờ xưa cũ, gần như bị đám cây thủy tùng cổ thụ túm tụm lại che khuất. Vài phiến đá đánh dấu nấm mồ của những người trong vùng đã qua đời từ những thế kỷ trước. Tôi nhìn thấy Morgan từ xa, dáng hình đen tối nổi bật trên nền trời xám, đang tựa người lên trượng, mũ trùm được dựng lên ngăn chặn cái lạnh. Hắn là thành phần trẻ trung nhất trong cái sân nhà thờ này, nơi những người mới mất khá gần đây được chôn cất.
Thoạt tiên hắn không nhận biết đến tôi. Đầu hắn chúi về phía nấm mồ, mắt hắn nhắm lại như thể đang cầu nguyện. Tôi cũng chăm chú nhìn xuống trong kinh ngạc. Không những sân nhà thờ này không bị chìm dưới lấy một phân tuyết, kết cục của cơn gió lốc tối qua, mà nấm mồ còn sạch trơn không vương chút tuyết nào, chỉ là một vuông đất hình chữ nhật ẩm ướt. Cứ như thể nấm mồ này vừa mới được đào. Tôi nhìn quanh nhưng không thấy bóng dáng cái thuổng hay bất cứ dụng cụ nào khác có thể đã được dùng để xúc tuyết cả.
“Hãy đọc những dòng khắc trên bia một đi!” Morgan ra lệnh, giờ mới cất mắt lên nhìn tôi lần đầu tiên.
Tôi làm theo. Có bốn xác người được chôn trong cùng nấm mồ này, xác này chồng lên xác kia theo như truyền thống của Hạt, nhằm tiết kiệm không gian cho sân nhà thờ đồng thời bảo đảm rằng những người ruột thịt được ở cùng nhau khi chết. Ba cái xác là trẻ con nhưng xác cuối cùng là mẹ của cả ba. Mấy đứa trẻ đã chết từ khoảng năm mươi năm trước, có tuổi từ hai, một và ba từ dưới lên trên. Người mẹ mới qua đời gần đây và tên bà ta là Emily Burns, người phụ nữ mà Thầy Trừ Tà đã từng đem lòng yêu mến. Người phụ nữ thầy đã cướp đi từ tay trai mình, cha Gregory.
“Bà ấy đã có một cuộc đời cơ cực,” Morgan bảo. “Sống chủ yếu là ở Blackrod, nhưng khi biết được mình sắp lìa đời, bà đến đây để sống những tháng ngày sau cuối cùng em gái mình. Mất đi ba đứa con như thế đã làm tim bà tan nát, và mặc cho đã qua bao nhiêu năm chuyển tiếp thế rồi mà bà ấy vẫn không hoàn toàn hồi phục được. Nhưng bốn đứa con khác thì vẫn còn sống. Hai đứa đang làm việc tại Horwich và đã con đàn cháu đống. Người con cả mười năm trước đã bỏ Hạt mà đi và từ đấy ta đã chẳng nghe thấy tin tức gì của ông ấy nữa. Ta là người con thứ bảy và cũng là con út...”
Phải mất một đỗi lâu sau mọi điều mới bắt đầu ăn khớp lại với nhau. Tôi nhớ lại Thầy Trừ Tà đã bảo với Morgan trong phòng ngủ của gia đình nhà Hurst:
“Ta quan tâm đến anh và ta quan tâm đến mẹ anh. Ta từng một thời yêu bà ấy, như anh đã biết quá rõ rồi còn gì...”
Tôi cũng nhớ ra cách hắn ký cuối lá thư gửi cho tôi bằng chữ cái đầu tên “G”.
“Phải,” hắn nói. “Không lâu sau khi ta chào đời, cha ta đã rời bỏ gia đình vĩnh viễn. Lão không bao giờ cưới mẹ ta. Không bao giờ cho chúng ta một cái họ. Nhưng dù sao ta cũng lấy họ ấy rồi.”
Tôi kinh ngạc nhìn lên hắn.
“Phải,” Morgan buồn bã mỉm cười. “Emily Burns là mẹ ruột ta. Ta là con trai của John Gregory.”
Morgan nhìn xa xăm vào khoảng không trong khi nói. “Lão đã rời bỏ chúng ta. Rời bỏ con ruột của lão. Đấy không phải là điều một người bố nên làm, phải không nào?”
Tôi những muốn bảo vệ cho Thầy Trừ Tà nhưng lại không biết nói gì. Thế nên tôi chẳng nói gì sất.
“Nhưng đúng là lão có chu cấp tiền bạc cho chúng ta,” Morgan nói. “Chuyện này thì ta công nhận. Bọn ta sống được một thời gian, nhưng rồi mẹ ta lâm trọng bệnh và không thể nào hồi phục. Từng người bọn ta được giao cho từng gia đình nuôi nấng. Ta xui xẻo bị đưa vào nhà gia đình Hurst. Nhưng khi ta mười bảy tuổi, cha ta quay trở lại nhận ta vào làm chân học việc.
“Trong một thời gian ta đã được hạnh phúc vô ngần. Ta đã từng mong có một người cha từ biết bao lâu rồi và giờ đây ta đã có, nên ta một mực chỉ muốn làm cho lão vui lòng. Ban đầu ta đã cố gắng hết sức, nhưng chắc là do ta không thể quên được những gì lão đã gây ra cho mẹ ta, nên dần dà ta bắt đầu nhìn thấu chân tướng lão. Sau ba năm lão ta bắt đầu lặp lại lời mình. Ta đã biết hết những gì lão làm và còn biết nhiều hơn thế nữa. Ta biết ta có thể giỏi giang hùng mạnh hơn lão ấy. Ta là người con thứ bảy của người con thứ bảy của người con thứ bảy. Những ba lần bảy.”
Tôi nghe thấy vẻ kiêu ngạo trong giọng nói của Morgan và cái vẻ ấy làm tôi bực mình. “Có phải đấy là lý do vì sao ông đã không viết tên mình lên tường phòng ngủ tại Chipenden như tất cả những người học việc khác không?” tôi nổi xung. “Là vì ông nghĩ ông giỏi hơn tất cả bọn tôi à? Tài hơn cả Thầy Trừ Tà à?”
Morgan cười khẩy. “Ta không phủ nhận điều ấy đâu. Đấy là lý do vì sao ta bỏ đi theo con đường của riêng mình. Chủ yếu là ta tự đào tạo mình nhưng ta vẫn còn đang học hỏi. Và ta có thể làm được những điều mà lão già gàn kia chưa từng mơ đến. Những điều mà lão sợ phải thử qua. Nghĩ xem coi! Những kiến thức và quyền năng như của ta – và sự bảo đảm rằng cha ngươi sẽ được thanh thản yên nghỉ. Đấy là những thứ ta trao cho ngươi để đổi lấy chút ít giúp đỡ thôi...”
Tôi sửng sốt khi nghe thấy những điều mà Morgan đang kể. Nếu những gì hắn nói là đúng, thì hình ảnh Thầy Trừ Tà xấu xa thật. Tôi đã biết là thầy bỏ rơi Emily Burns để theo Meg. Nhưng giờ tôi vừa phát hiện ra là thầy cũng là một người bố, có đến những bảy người con trai nhưng thầy đã bỏ rơi tất. Tôi thấy trong lòng đau đớn lẫn thất vọng. Tôi mãi nghĩ về bố mình, bố đã gắn bó với gia đình và lao động lam lũ suốt cuộc đời. Và giờ đây bố có thể phải chịu đau đớn tùy hứng của Morgan. Tôi cay cú và tức giận. Bãi tha ma dường như đảo điên lên đến tận trời xanh khiến tôi suýt nữa té nhào.
“Rồi nhé, tay học việc mới của ta, mi có mang thứ ấy đến cho ta không?”
Hẳn mặt tôi trông thộn ngớ ra.
“Thì là cuốn thần chú ấy. Ta đã yêu cầu mi đem nó đến cho ta cơ mà. Ta hy vọng mi vâng theo lời ta bằng không bố của mi sẽ thật đau đớn lắm lắm đấy.”
“Tôi chưa thể lấy được. Thầy Gregory tinh ý lắm,” tôi đáp, lòng hối hận vô cùng.
Chắc chắn là tôi sẽ không nói cho Morgan biết là thầy mình hiện đang nằm trong tay Meg. Nếu hắn nghĩ Thầy Trừ Tà đã bị gạt sang một bên rồi thì có thể hắn lại tự mình đi mà lấy cuốn thần chú ấy thôi. Phải, có thể thầy tôi đã có những bí mật tăm tối tày trời nào đấy, nhưng tôi vẫn là chân học việc của thầy và tôi phải tôn trọng thầy. Tôi cần thêm thời gian. Thời gian để giải cứu thầy mình rồi kể cho thầy nghe về Morgan. Hiệp sức cùng nhau, thầy trò tôi đã đả bại tên kẹ ném đá; chắc chắn khi cùng nhau hiệp lực chúng tôi sẽ có thể ngăn chặn tên Morgan này.
“Tôi cần thêm thời gian,” tôi nói. “Tôi có thể làm việc này nhưng tôi cần phải chờ đến thời cơ mới được.”
“Hừ, vậy thì đừng chờ lâu quá đấy. Đem cuốn sách đến cho ta vào tối thứ Ba, ngay sau khi mặt trời lặn. Còn nhớ ngôi nhà nguyện trong bãi tha ma chứ?”
Tôi gật đầu.
“Đấy, đấy là nơi ta sẽ chờ.”
“Tôi không nghĩ mình có thể ra tay nhanh như thế...”
“Tìm cách đi!” Morgan gầm lên. “Mà phải ra tay sao cho lão Gregory không biết là cuốn sách đã biến mất ấy.”
“Ông sẽ làm gì với cuốn thần chú thế?” tôi hỏi.
“À Tom, khi mi mang nó đến cho ta thì mi sẽ biết ngay thôi mà, đúng không? Đừng làm ta thất vọng! Nếu mi cứ lần lữa, hãy nghĩ đến ông bố tội nghiệp của mi và những gì mà ông ta có thể phải đau đớn hứng chịu...”
Tôi biết tên Morgan có thể tàn độc đến thế nào. Tôi đã chứng kiến cách hắn đã khiến ông lão Hurst đáng thương phải bật khóc; đã nghe Alice kể cái cách hắn lôi xềnh xệch ông lão vào phòng hắn rồi khóa nhốt ông trong đấy. Nếu Morgan có thể hành hạ bố tôi, hắn sẽ ra tay thôi, chuyện này thì tôi không nghi ngờ gì cả.
Và thế là, trong lúc tôi đang đứng run lập cập ở đấy, một lần nữa tôi nghe thấy trong chính đầu mình giọng nói thống thiết của bố tôi, và chung quanh tôi, bầu không khí xoay vần rúng động.
“Ôi, con ơi, bố xin con, hãy làm theo những gì hắn yêu cầu bằng không bố sẽ bị hành hạ đến muôn đời muôn kiếp mất. Con trai, xin con đấy, cứ đi lấy thứ ấy cho hắn đi.”
Khi giọng nói ấy lịm dần, Morgan mỉm cười cương quyết. “Sao, mi đã nghe thấy lời bố mi rồi đấy. Nên tốt hơn mi phải làm thằng con có tinh thần trách nhiệm đi nào...”
Dứt lời hắn mỉm cười dứt khoát, rồi quay gót bỏ đi khỏi nghĩa trang.
Tôi biết rằng việc đánh cắp cuốn thần chú cho Morgan rõ ràng là sai trái, nhưng trong lúc nhìn theo hắn bỏ đi, tôi cũng biết mình chẳng còn lựa chọn nào. Bằng cách nào đấy tôi phải lấy cho được cuốn thần chú này trong lúc chúng tôi giải cứu Thầy Trừ Tà.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 3 - Đêm Của Kẻ Đánh Cắp Hồn Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 3 - Đêm Của Kẻ Đánh Cắp Hồn - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 3 - Đêm Của Kẻ Đánh Cắp Hồn