Nguyên tác: Disgrace
Số lần đọc/download: 1076 / 18
Cập nhật: 2017-04-06 08:43:37 +0700
Chương 14
M
ột ngày mới. Ettinger gọi điện tới, đề nghị cho họ mượn một khẩu súng “trong một thời gian”.
- Cảm ơn ông – ông đáp – Chúng tôi sẽ suy nghĩ.
Ông lấy một chiếc ghế của Lucy và chữa cánh cửa bếp. Họ phải lắp chấn song, làm cổng bảo vệ, lắp một hàng rào có máy đo tầm nhìn như Ettinger đã làm. Họ phải biến nông trại thành một pháo đài. Lucy phải mua một khẩu súng lục và một máy thu phát hai chiều và tập bắn. Nhưng cô có nhất trí thế không? Cô ở đây vì cô yêu mảnh đất này và yêu cách sống cổ xưa. Nếu cách sống ấy bị đày đọa, liệu tình yêu có rời bỏ cô không?
Katy được dỗ dành và để ở trong bếp. Nó quá sợ sệt nên cứ quấn lấy chân Lucy, lẵng nhẵng theo cô. Cuộc sống đôi lúc không như trước kia. Căn nhà cảm thấy thật xa lạ, bị xâm hại; họ tiếp tục cảnh giác, lắng nghe những âm thanh.
Rồi Petrus trở về. Một chiếc xe tải lạ lẫm rên rỉ trên con đường đầy vết bánh xe và đỗ cạnh chuồng ngựa. Petrus xuống xe, mặc bộ complê quá chật, theo sau là vợ anh ta và người lái xe. Hai người đàn ông ở phía sau xe, dỡ những hộp các tông, những cái cọc tẩm creozôn, những tấm thép mạ kẽm, một cuộn ống bằng chất dẻo, và cuối cùng là hai con cừu đang lớn kêu ầm ỹ; Petrus buộc chúng vào cọc hàng rào. Chiếc xe tải lượn một vòng rộng quanh chuồng ngựa và gầm rú quay lại con đường. Petrus và vợ biến vào trong nhà. Một cuộn khói bốc lên từ ống khói bằng amiăng.
Ông tiếp tục quan sát. Lát sau, vợ Petrus xuất hiện và dốc ngược một cái giỏ, cử động phóng khoáng, thoải mái. Một người đàn bà đẹp với chiếc váy dài và tấm khăn quấn cao theo kiểu nông thôn, ông tự nhủ. Một người đàn bà đẹp và một người đàn ông may mắn. Nhưng họ đã ở đâu nhỉ?
- Petrus đã về, mang theo một đống vật liệu xây dựng – ông bảo Lucy. - Tốt.
- Tại sao anh ta không bảo con là sắp đi? Con không thấy việc anh ta biến mất đúng lúc này là ám muội sao?
- Con không ra lệnh cho Petrus được. Anh ta có việc riêng của mình.
Một lập luận không nhất quán, nhưng ông bỏ qua. Với Lucy, ông đã quyết định cho qua mọi việc trong thời gian này.
Lucy vẫn thu mình lại, không cảm xúc, không tỏ ra quan tâm đến thứ gì xung quanh. Chính ông, dốt nát về công việc đồng áng, nhưng phải lùa vịt ra khỏi chuồng, nắm được hệ thống đóng mở cửa cống và dẫn nước tưới vườn cho khỏi khô nẻ. Hết giờ này sang giờ khác, Lucy nằm dài trên giường, nhìn đăm đăm vào khoảng không hoặc xem các tạp chí cũ, hình như cô có một kho vô tận. Cô sốt ruột giở lướt từng trang như để tìm một cái gì đó mà không thấy. Không có dấu hiệu gì hơn về Edwin Drood.
Ông theo dõi Petrus ra ngoài đập, mặc bộ quần áo làm việc. Có vẻ kỳ quặc là người đàn ông này không tiếp xúc với Lucy. Ông tản bộ, trao đổi những lời thăm hỏi.
- Chắc anh đã nghe hôm thứ Tư, trong lúc anh đi vắng, chúng tôi bị một vụ cướp lớn.
- Có, tôi có nghe. Thật tệ quá. Nhưng bây giờ ông đã khỏe – Petrus nói.
Ông khỏe? Lucy khỏe? Petrus hỏi chăng? Nghe không như một câu hỏi, nhưng ông không thể hiểu khác đi. Câu hỏi thì thế, còn câu trả lời ra sao?
- Tôi còn sống – ông nói – Tôi cho rằng miễn là còn sống, người ta ắt sẽ khỏe.
Ông ngừng lại đợi, cho phép sự im lặng tiến triển, một sự im lặng mà Petrus sẽ lấp đầy bằng
câu hỏi tiếp theo: Lucy có khỏe không?
Ông đã nhầm.
- Ngày mai Lucy có đi chợ không? – Petrus hỏi.
- Tôi không biết.
- Nếu cô ấy không đi, có thể bị mất quầy hàng – Petrus nói.
Ông báo cho Lucy:
- Petrus muốn biết ngày mai con có đi chợ không. Anh ta ngại rằng con có thể mất quầy đấy.
- Sao hai người không đi đi – cô nói – Con không đủ sức đi đâu.
- Con có chắc không? Bỏ lỡ một tuần thật đáng tiếc.
Cô không đáp. Ông biết vì sao, thà cô giấu mặt đi còn hơn. Vì ô nhục. Vì hổ thẹn. Đó chính là điều những tên khách kia đã đạt được; đó là điều chúng đã làm với người phụ nữ trẻ hiện đại, tự tin này. Giống một vết nhơ, câu chuyện đang lan ra khắp quận. Không phải chuyện của cô mà là của chúng: chúng là chủ nhân của câu chuyện. Rằng chúng đã đặt cô đúng vào vị trí của cô ra sao, chúng đã chỉ cho cô biết một người đàn bà dùng để làm gì.
Với một con mắt và cái mũ trắng toát, ông có cách riêng để đo sự bẽn lẽn khi xuất hiện trước công chúng. Nhưng vì lợi ích của Lucy, ông làm đến cùng việc kinh doanh ở chợ, ngồi cạnh Petrus tại quầy, cam chịu những cái nhìn tọc mạch, lễ phép trả lời những người bạn của Lucy tỏ lòng trắc ẩn.
- Vâng, chúng tôi mất một chiếc ô tô – ông nói – Tất nhiên cả đàn chó, trừ một con. Không ạ, con gái tôi khỏe, chỉ hôm nay hơi khó ở một chút. Không, chúng tôi không dám hy vọng, tôi chắc là các vị biết cảnh sát đang làm việc hết sức. Vâng, nhất định tôi sẽ nói lại với cháu.
Ông đọc thuộc lòng câu chuyện của họ giống như bản tường thuật trong tờ Herald, Những kẻ tấn công vô danh, họ gọi bọn chúng như thế. “Ba kẻ vô danh đã tấn công cô Lucy Lurie và người cha có tuổi của cô trong trang trại nhỏ của họ ở ngoại ô Salem, lấy đi quần áo, đồ điện tử và một khẩu súng trường. Với bản tính tàn bạo kỳ lạ, những tên cướp đã bắn chết sáu con chó giữ nhà trước khi chạy trốn bằng chiếc xe Toyota Corolla 1993 mang biển số CA 507644. Ông Lourie bị thương nhẹ trong trận tấn công, đã được điều trị tại bệnh viện Settlers và qua khỏi.”
Ông lấy làm mừng là không có sự liên hệ nào giữa người cha có tuổi của cô Lurie với David Lurie, môn đệ của nhà thơ tự nhiên William Wordsworth và gần đây còn là giáo sư ở Đại học Kỹ thuật Cape.
Về chuyện buôn bán, ông làm được rất ít. Petrus là người nhanh nhẹn và giải quyết chỗ hàng hóa rất có kết quả, là người biết giá cả, nhận tiền, trao đổi. Petrus mới là người làm việc thật, trong khi ông ngồi và xoa hai bàn tay cho ấm. Trừ một việc ông không dám ra lệnh cho Petrus. Petrus làm việc cần phải làm, và đó mới thành chuyện.
Tuy vậy, doanh thu của họ thấp: chưa đến ba trăm rand. Không còn ngờ gì nữa, lý do chính là sự vắng mặt của Lucy. Phải chất các hộp hoa, bao rau quả lên chiếc kombi để chở về. Petrus lắc đầu:
- Không tốt – anh ta nói.
Petrus vẫn không giải thích sự vắng mặt của anh ta. Anh ta đến hoặc đi tùy ý, anh ta có quyền riêng của mình; anh ta có quyền im lặng. Nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi. Liệu Petrus có biết những kẻ lạ mặt không? Vì Ettinger đã chẳng thốt ra vài lời về Petrus, về những việc lẽ ra chúng làm với Lucy đó sao? Petrus có biết trước kế hoạch của bọn chúng không?
Giá như ngày xưa, đã có thể đuổi Petrus. Ngày xưa, trong cơn thịnh nộ có thể bắt Petrus gói ghém hành lý và thuê người khác. Nhưng dù Petrus được trả công, nói đúng ra Petrus không phải là người làm thuê. Nói cho đúng, khó mà gọi Petrus như thế. Từ đúng nhất có lẽ là hàng xóm. Petrus là một người hàng xóm hiện đang bán sức lao động, và từ đó là phù hợp với anh ta. Anh ta bán sức lao động theo một hợp đồng không viết ra, và hợp đồng đó không có điều khoản thải hồi vì lý do nghi vấn. Họ đang sống trong một thế giới mới, ông, Lucy và Petrus. Petrus biết điều đó, ông biết điều đó, và Petrus biết là ông biết.
Dù những điều ông cảm thấy về Petrus, dù đã chuẩn bị tư tưởng tuy thận trọng, ông vẫn thích anh ta. Petrus là người thuộc thế hệ ông. Chắc chắn Petrus đã từng trải nhiều, chắc chắn anh ta có cả một câu chuyện để nói. Ông không nghĩ có ngày lại nghe chuyện của Petrus. Nhưng đừng nói bằng tiếng Anh thì thích hơn. Càng ngày ông càng nhận ra rằng tiếng Anh là một thứ trung gian không thích hợp với thực tế ở Nam Phi. Phân tích các quy tắc tiếng Anh, các câu dài thật rắc rối, phát âm chẳng trong trẻo, rõ ràng gì. Giống một con khủng long đang thở hắt ra và ở trong bùn, lưỡi cứng lại. Nhồi nhét vào khuôn khổ tiếng Anh, câu chuyện của Petrus sẽ biến thành khô cứng và cổ lỗ.
Ông thấy Petrus hấp dẫn ở gương mặt và đôi bàn tay. Nếu như loại công việc như thế gọi là thực sự nặng nhọc, thì Petrus đã mang đủ dấu ấn của nó. Một người đàn ông bền chí, có nghị lực và kiên cường. Một nông dân, một con người của miền quê. Và không nghi ngờ gì nữa, cũng là một kẻ chủ mưu, một kẻ vạch kế hoạch và một kẻ dối trá, giống những người nông thôn ở bất kỳ nơi đâu. Làm việc cần cù thực sự và láu cá thực sự.
Ông ngờ vực những việc Petrus đã làm trong suốt một thời gian dài. Petrus sẽ không mãn nguyện với việc cấy cày trên mảnh đất một hecta rưỡi của mình. Lucy có thể chơi với những người bạn hippy, gypsy của cô lâu hơn, nhưng với Petrus, Lucy chỉ là một thứ tầm thường: một kẻ nghiệp dư, một người nhiệt tình với cuộc sống thôn quê hơn là một nông dân thực thụ. Petrus muốn sáp nhập cả mảnh đất của Lucy. Sau đó anh ta còn muốn cả đất của Ettinger nữa, đủ chỗ để anh ta chăn nuôi. Ettinger là một thằng cha khó chơi. Còn Lucy chỉ là một khách trọ ngắn ngày; Ettinger là một nông dân, là con người của đất đai, gan lỳ, bám chặt lấy đất. Nhưng một ngày nào đó Ettinger sẽ chết, mà con cái ông ta đã bỏ đi hết rồi. Về mặt này Ettinger là một kẻ ngu. Một nông dân cừ phải quan tâm đến việc có nhiều con trai.
Petrus có một tầm nhìn về tương lai, trong đó không có chỗ cho những người như Lucy. Nhu cầu đó đã tạo nên một kẻ thù như Petrus. Cuộc sống thôn dã luôn có chuyện hàng xóm chống
đối nhau, muốn gây hại lẫn nhau, mong mùa màng thất thu, tài chính be bét, rồi cao nhất là mượn bàn tay kẻ khác.
Tồi tệ nhất, đen tối nhất là Petrus thuê ba kẻ kia dạy cho Lucy một bài học, trả cho chúng bằng của cướp phá được. Nhưng ông không tin chuyện đó, nghe đơn giản quá. Ông ngờ rằng sự thật còn xa hơn thế; ông lục lọi tìm từ, nhân chủng học, chính nó đã mất nhiều tháng đào bới đến tận cùng, nhiều tháng chuyện trò kiên nhẫn, không sốt ruột với hàng tá người, có sự giúp đỡ của người phiên dịch.
Mặt khác, ông tin rằng Petrus biết có chuyện sắp xảy ra; ông tin rằng có thể Petrus đã cảnh báo Lucy. Chính vì thế ông không buông tha đề tài này. Chính vì thế ông tiếp tục mè nheo Petrus.
Petrus tháo cạn bể chứa nước bằng bê tông và dọn sạch tảo. Đây là một việc chẳng thú vị gì. Dù sao đi nữa, ông cũng đề nghị giúp đỡ. Nhét chân vào đôi ủng của Lucy, ông trèo vào bể, bước cẩn thận trên đáy bể trơn nhẫy. Ông và Petrus cọ, rửa, xúc bùn ra ngoài được một lúc. Rồi ông bỗng đột ngột ngừng lại.
- Anh biết không Petrus – ông nói – Tôi thấy khó mà tin rằng những kẻ đến đây là người lạ. Tôi thấy khó tin rằng chẳng biết chúng từ đâu tới, và làm xong mọi thứ, chúng biến mất như những bóng ma. Tôi cũng thấy khó tin rằng chúng chọn bố con tôi chỉ vì chúng tôi là những người da trắng đầu tiên chúng gặp trong ngày hôm đó. Anh nghĩ sao? Tôi có lầm không?
Petrus hút thuốc bằng một chiếc tẩu kiểu cổ, thân tẩu cong như một cái móc, một chiếc nắp xinh xắn bằng bạc đậy nõ tẩu. Lúc này anh ta đứng thẳng dậy, móc tẩu trong túi quần yếm ra, mở nắp, nhồi thuốc vào nõ và ngậm tẩu để châm lửa. Anh ta chăm chăm nhìn vào thành bể, nhìn những quả đồi, nhìn cảnh thôn dã rộng mở, vẻ nghĩ ngợi. Vẻ mặt anh ta hoàn toàn bình thản.
- Cảnh sát phải tìm ra bọn chúng – cuối cùng, anh ta nói – Cảnh sát phải tìm ra bọn chúng và nhốt chúng vào tù. Đấy là việc của cảnh sát.
- Nhưng cảnh sát sẽ không tìm được bọn chúng nếu không được giúp đỡ. Bọn chúng biết trạm kiểm lâm. Tôi tin chúng biết Lucy. Nếu chúng hoàn toàn xa lạ với quận này, làm sao chúng biết được?
Petrus chọn cách không coi đấy là một câu hỏi. Anh ta nhét tẩu vào túi, đổi xẻng lấy chổi.
- Đây không chỉ là một vụ trộm, Petrus – ông khăng khăng – Chúng không đến để ăn trộm. Tôi thấy chúng không đến để làm việc đó – Ông sờ lên lớp băng, sờ lên miếng che mắt – Chúng đến để làm một việc khác nữa. Anh biết tôi định nói gì chứ? Nếu không biết, chắc anh có thể đoán ra. Sau việc chúng đã làm, anh không thể mong Lucy bình tĩnh tiếp tục cuộc sống như trước kia. Tôi
là cha của Lucy. Tôi muốn những kẻ đó bị bắt và đưa ra trừng trị trước pháp luật. Tôi có sai không? Tôi có sai khi muốn sự công bằng không?
Ông không quan tâm đến việc làm thế nào cậy được răng Petrus, ông chỉ muốn nghe thấy lời anh ta.
- Không, ông không sai.
Một cơn giận chạy khắp người ông, đủ làm ông sửng sốt. Ông nhặt chiếc xẻng và xúc từng vệt bùn và cỏ dại khỏi đáy bể, hất qua vai, qua thành bể. Mình đang điên lên vì giận, ông tự răn mình. Ngừng lại đi! Lúc ấy, ông rất muốn nắm lấy cổ họng Petrus. Nếu không phải là con gái tao mà là vợ mày, ông muốn nói thế với Petrus, liệu mày có gõ tẩu và cân nhắc từng lợi một cách sáng suốt như thế không. Hãm hiếp: ông muốn buộc Petrus phải nói ra từ đó. Phải, đây là một vụ hãm hiếp, ông muốn nghe thấy Petrus nói: Vâng, đây là một vụ cưỡng hiếp.
Ông và Petrus cùng làm cho đến lúc xong việc, lặng lẽ.
Ông đã trải qua những ngày ở nông trại như thế này đây. Ông giúp Petrus dọn sạch hệ thống tưới. Ông giữ gìn cho khu vườn khỏi đổ nát. Ông đóng gói sản phẩm đem đi bán. Ông giúp Bev Shaw ở bệnh viện. Ông quét sàn, nấu ăn, làm tất cả những việc mà Lucy không làm nữa. Ông bận bịu từ rạng đông đến lúc nhá nhem tối.
Mắt ông lành nhanh đến lạ lùng: sau một tuần ông đã nhìn bình thường. Những vết bỏng lâu khỏi hơn. Ông vẫn giữ lớp băng trên da đầu như một cái mũ và lớp gạc trên tai. Cái tai không che phủ trông như một loại động vật thân mềm hồng hồng trần trụi, ông không biết bao giờ ông mới đủ gan phô nó ra trước những cái nhìn chòng chọc của người khác.
Ông mua một cái mũ để che nắng, và để giấu mặt đi phần nào. Ông cố làm ra vẻ kỳ cục, tệ hơn cả kỳ cục, trông đáng ghét – một trong những sinh linh thiểu não làm trẻ con phải trố mắt ra nhìn trên đường phố. “Sao cái ông kia trông buồn cười thế?”, chúng hỏi mẹ và bị suỵt bắt im.
Thỉnh thoảng ông đến cửa hàng ở Salem, và chỉ đến Grahamstown vào thứ Bảy. Rất nhanh chóng, ông thành một người ẩn dật, một người sống ẩn dật ở nông thôn. Kết cục của sự lang thang. Dẫu trái tim vẫn yêu thương và mặt trăng vẫn sáng soi. Ai ngờ được cái kết cục ấy lại đến sớm và bất ngờ đến thế: một người lang thang, một người đang yêu!
Ông chẳng có lý do gì tin rằng việc không may của bố con ông không thành chuyện ngồi lê đôi mách, lan đến Cape Town. Dù sao mặc lòng, ông muốn tin chắc rằng Rosalind không nghe thấy câu chuyện đã bị bóp méo. Ông cố gọi điện cho bà hai lần đều không thành công. Lần thứ ba,
ông gọi đến hãng du lịch nơi bà làm việc. Người ta nói Rosalind đang đi tuyển người ở Madagasca, và cho ông số fax của một khách sạn ở Antananarivo.
Ông soạn một thông báo: “Lucy và anh gặp chuyện không may. Xe của anh bị mất cắp, và trong cuộc ẩu đả anh bị đánh. Không có gì nghiêm trọng, cả hai bố con đều ổn tuy bị mất bình tĩnh. Anh nghĩ phải cho em biết, phòng những tin đồn đại. Chúc em nghỉ ngơi thoải mái”. Ông đưa tờ giấy đã được Lucy đồng ý và nhờ Bev Shaw gửi đi. Gửi cho Rosalind ở mãi vùng xa nhất của châu Phi.
Lucy không khá hơn. Cô thao thức suốt đêm, nói không sao ngủ được. Đến chiều, ông thấy cô ngủ trên chiếc xôpha, mút ngón tay cái như một đứa bé. Cô chán ăn mọi thứ; Muốn dỗ cô ăn, ông nấu nhiều món lạ miệng vì cô không động đến các món thịt.
Đây chẳng phải là thứ ông muốn làm – mắc kẹt ở một nơi biệt lập, tránh bọn người hung ác, nuôi nấng cô con gái, tham dự một công việc đang ngắc ngoải. Nếu ông làm mọi thứ, chỉ vì ông cố thu thập sức lực cho bản thân mình. Hết ngày này sang ngày khác, ông cảm thấy mình đang mất dần phương hướng.
Ma quỷ chẳng chịu buông tha ông. Ông có nhiều cơn ác mộng, trong đó ông đằm mình trong một cái giường đẫm máu, hoặc vừa thở hổn hển, gào thét không ra tiếng, vừa chạy trốn một người có bộ mặt như diều hâu, giống một chiếc mặt nạ của Benin, giống Thoth. Một đêm kia, nửa loạn trí nửa mộng du, ông lật cả giường, lật cả đệm lên tìm vết máu.
Lại còn tác phẩm về Byron nữa chứ. Ông chỉ còn hai tập thư từ trong số sách ông mang về từ Cape Town; số còn lại đã bị chất lên thùng chiếc xe mất cắp. Không thể yêu cầu gì ở Thư viện công cộng Grahamstown, ngoài những tuyển tập thơ. Nhưng ông cần tiếp tục đọc để làm gì? Ông cần biết kỹ hơn về Byron và những người quen biết dùng thời gian ở vùng Ravenna cổ kính ấy làm gì? Lúc này ông không thể hư cấu nên một Byron như Byron thực sự, cả Teresa cũng thế.
Nếu nói cho thực lòng, ông đã lần lữa việc này nhiều tháng trời: mỗi khi ngồi trước trang giấy trắng, ông lại xóa ngay những nốt đầu tiên, thấy chúng chẳng ra làm sao. Những trích đoạn của những khúc hát đôi của các cặp tình nhân, những giọng nữ cao và nam cao đã in sâu trong trí ông; cứ quấn quýt, cuộn lấy nhau như những con rắn, không sao diễn đạt được thành lời. Giai điệu không có đỉnh cao nhất; tiếng thì thào của những kẻ đê tiện trên những bậc thang bằng đá hoa, tiếng gõ ở phía sau, giọng nam trung của người chồng bị làm nhục. Bộ ba u ám này sẽ để ở đâu, để rồi cuối cùng hồi tỉnh: nếu không ở Cape Town thì ở Kaffraria có được không?