Trong lúc vươn tới các vì sao, có thể bạn sẽ không thể chạm tay tới ngôi sao nào cả, nhưng chắc chắn một điều chân tay bạn cũng không phải lấm lem vì bùn.

Leo Burnett

 
 
 
 
 
Tác giả: Mark Winegardner
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Godfather’S Returns
Dịch giả: Phan Quang Định
Biên tập: Bùi Thanh
Upload bìa: Bùi Thanh
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3191 / 128
Cập nhật: 2016-05-03 19:52:17 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
Mùa Thu - Giáng sinh 1955
Những cái chết của Toni Molinary và Frank Falcone - đến trong lúc họ đặt chân lên ngưỡng cửa của cái từng được nhìn như là một nền hòa bình lâu dài - đã truyền đi những làn sóng sốc xuyên suốt thế giới ngầm của cả nước. Đứng bên ngoài, thì bất kỳ ai có lẽ cũng giả định rằng cú rớt máy bay là một tai nạn: bão tố mạnh, những túi không khí do hiệu ứng mặt hồ (lake -effect air pockets) và thế là xong, vụ việc được xếp lại. Sự biến mất vẫn chưa được giải mã của Gerald O’Malley, người sống sót duy nhất từ tai nạn đó làm nổi lên những nghi ngờ, như những lời nói lộn xộn của anh ta truyền về tháp kiểm tra không lưu ở Cleveland đã gây nên, trong đó anh ta rõ ràng đã tự hỏi không biết máy bay có bị phá hoại hay không. Mặc dầu điều này, giọng của anh vẫn còn điềm tĩnh cho đến ngay trước cú va chạm, khi anh ta hét lên, “Sotto fottuto,” mà báo cáo của Cơ quan Quản lí Hàng không Liên bang dịch ra là “Tôi toi đời rồi!.” Những người điều tra không tìm thấy bằng chứng cụ thể nào của phá hoại Họ gán câu khẳng định của viên phi công vào sự thiếu kinh nghiệm của anh ta. Họ cho cú rớt máy bay là một tai nạn. Do lầm lẫn của phi công.
Xét theo bất kỳ thước đo nào thì sự kiện tang lễ cuối cùng mà bốn người vừa chết kia cùng tham dự, là đám ma của Vito Corleone, cũng chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Thế nhưng theo một niềm tin huyền bí của Mafia, mà những nguồn gốc được xác chứng ở Sicily từ thế kỉ mười chín cho đến nay, thì mọi hành vi của con người - dầu nhân từ độ lượng hay độc ác dữ dằn, có chủ tâm hay ngẫu nhiên, dầu phát sinh từ thói hung hăng hiếu chiến hay từ bản năng tự vệ để sinh tồn, từ đam mê mù quáng hay từ lí trí lạnh như băng - đều là một phần của mạng lưới tuy mong manh nhưng bao phủ xuyên suốt trong đó không một rung ngân xôn xao nào, không một rộn ràng xiết buốt nào là quá nhỏ để không tạo nên cảm ứng khắp nơi (Điều này khiến chúng ta - người đọc ở Đông phương - dễ liên tưởng đến những quan niệm Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất thất -Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt - của Đạo gia hay quan niệm một vi trần - hạt bụi rất nhỏ - cũng có tác động đến sáu cõi luân hồi của nhà Phật. Chú thích của ND.) Đối với một người Sicily - mà tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ duy nhất trong thế giới phương Tây không có thì tương lai - thờì quá khứ và hiện tại là một. Đối với một người Sicily mà dòng máu đã phải chịu đựng từ sáu ngàn năm bao cuộc xâm lăng và chiếm đóng, từ những đạo quân Sparte, rồi Carthage, đến những đạo quân Hồi giáo của đế quốc Ottoman rồi đến những đạo quân của Napoléon, của vương triều Bourbon... thì một tai nạn hay một trùng hợp ngẫu nhiên thì không vô nghĩa hơn cũng không có ý nghĩa hơn một hành vi có chủ ý. Mỗi một hành vi hay một sự cố đều không thể tách biệt với hành vi hay sự cố khác. Đối với một người Sicily, không có gì xảy ra mà ở bên ngoài một khung cảnh. Nói nôm na là mọi chuyện đều có dây mơ rễ má với nhau cả.
Những người cứu hộ của Lực lượng Phòng vệ Duyên hải đã đặt O’Malley lên xuồng cao tốc và đưa anh ta đến một bệnh viện gần đó, nơi mà cô điều dưỡng nhận bệnh nhân căn cứ vào giấy phép lái xe của bang Nevada cấp cho nạn nhân, tìm thấy trong túi áo trước của anh ta - đã tiếp nhận anh vào lúc
10.25 tối như là “Gerald O’Malley, nam, gốc Caucasian, 38 tuổi.” Cái chân gãy của anh ta được điều trị bằng phương pháp kéo giãn liên tục, những xương sườn gãy được băng bó, những vết thương khác được khâu lại. Anh ta không có vẻ bị bất kỳ nội thương nghiêm trọng nào nhưng còn cần thực hiện
những kiểm định. Anh ta vẫn bất tỉnh nhưng triển vọng lâu dài thì rất tốt. Tình trạng của anh ta được cải thiện từ nguy kịch đến nghiêm trọng. Theo phác đồ điều trị, các bác sĩ đã kết thúc việc điều trị cho anh vào lúc 4.18 buổi sáng. Ghi chú cuối cùng trên bệnh án là vào lúc 4.30 sáng - dầu ghi chú này có vẻ dường như là giả mạo. Không có gì khác được ghi nhận nhưng thời gian và một vài chữ cái không đọc được thì không một ai ở bệnh viện có thể nhận dạng.
Vào thời điểm đó, những mảnh linh tinh từ chiếc máy bay và từ bốn thi thể khác đã hoặc là tự nổi lên mặt nước hoặc được người ta trục vớt lên.trong ánh sáng xám nhạt của ban mai.
Những cái xác nọ vẫn chưa được nhận dạng - vì đều tung tóe ra thành nhiều mảnh chứ không xác nào còn nguyên vẹn, và cuộc bạo loạn giữa đám phóng viên và các viên chức thi hành pháp luật mà những cuộc nhận dạng kia sẽ kích hoạt, vẫn chưa được tháo ngòi nổ. Kế hoạch bay ở Detroit được chỉ ra như là đã được lập hồ sơ, nhưng không ai có thể tìm ra hồ sơ đó. Máy bay rời Detroit vào buổi sáng và như vậy ắt là đã dừng lại đâu đó trong mười hai giờ tiếp theo nhưng khi viên phi công tiếp xúc bằng sóng phát thanh với tháp kiểm soát không lưu ở sân bay Burke Lakefront, anh ta báo rằng anh bay trực tiếp từ Detroit đến đó. Tháp không lưu cố tìm cách có được lời thông báo rõ ràng hơn, nhưng những đợt truyền thanh của máy bay - có lẽ vì do sấm chớp - nên chỉ là những âm thanh nhiễu rồ rồ. Khi nghe rõ được lại chính là lúc máy bay sắp bị nạn, mọi chú ý của phi công chỉ còn dành cho việc làm thế nào đáp xuống an toàn nhất trong những điều kiện đó.
Công ty đóng gói thịt mà logo nằm ở một bên lườn máy bay có trụ sở bên ngoài Buffalo, New York. Chủ tịch công ty, giọng ngái ngủ, lúc đầu nói với viên chức điều tra rằng ông ta đã gọi nhầm số rồi, rằng công ty của ông không có máy bay nào, mặc dầu khi người điều tra hỏi gằn lại là ông có chắc về điều ấy không thì vị chủ tịch giữ yên lặng một lát rồi nói, “Ừ, đú-ú -úng, máy bay của chúng tôi đấy,” và gác máy. Vào thời điểm những cú gọi khác vang lên và các tay cảnh sát bang vù đến căn nhà trước mặt hồ của ông để mang ông về phỏng vấn, thì ông ta vừa mới tắm rửa, cạo râu xong, mặc vào bộ com- lê, ngồi đợi nơi phòng khách, bên cạnh có luật sư, vị này có thời từng là tổng chưởng lí bang. Nhân danh khách hàng của mình vị luật sư thông báo cho các sĩ quan cảnh sát biết rằng, việc sử dụng không giới hạn trong vòng một tuần chiếc máy bay đang được nói đến đã là một thứ quà tặng từ khách hàng của ông cho người bạn của ông ấy, Joseph Zaluchi - người hai lần được giải danh giá Michigan Philanthropist of the Year (Giải Người Nhân ái của Năm, bang Michigan) và là Thành viên Hội đồng Quản trị từ năm 1953 của Detroit, Hurray! - để hỗ trợ việc chở các khách mời đến dự đám cưới ái nữ của vị này vào dịp cuối tuần vừa rồi ở Detroit, mà vì có một cuộc hẹn khác trước đó nên thân chủ của ông đã không tham dự. Khách hàng của ông không biết gì về những người trên chuyến bay đó hay bất kỳ chi tiết nào khác về chuyến bay ngoài những gì mà bàn dân thiên hạ đều đã biết. Luật sư hỏi các viên chức cảnh sát liệu họ có trát của tòa để điều tra hay giam giữ không, sau đó cám ơn họ về thời gian họ đã bỏ ra và cám ơn về việc đã để cho khách hàng của ông một mình để ông ấy có thể bắt đầu than khóc cho cái bi kịch đầy bất hạnh này.
Một luật sư của Joseph Zaluchi nói rằng ông Zaluchi không biết gì về người đã làm rơi máy bay ngoài chi tiết anh ta là một phi công thương mại có giấy phép lái máy bay, làm việc cho một hãng cho thuê máy bay có tiếng tăm ở New York. Anh ta được một phụ tá của ông Zaluchi thuê qua điện thoại. Ông Zaluchi bày tỏ lòng tiếc thương sâu sắc đến các nạn nhân và gia đình của họ.
Gerald O’Malley biến mất khỏi bệnh viện trong khoảng thời gian giữa lời ghi chú lúc 4.18 trên bệnh án và khoảng năm giờ, khi một nhân viên tạp vụ đi vào phòng và thấy chiếc giường trống trơn và những ống truyền dịch đong đưa vốn trước đó được kết nối vào hai cánh tay bệnh nhân. Cái ròng rọc vốn được buộc vào cái chân gãy của bệnh nhân đã biến đâu mất và tài sản cá nhân của anh ta cũng thế.
Nick Geraci từng bị bắt nhiều lần (dầu chưa từng bao giờ bị kết án), do vậy dấu vân tay của anh ta hẳn là có lưu lại trên chỉ bộ. Nhưng khi anh ta đến bệnh viện, thì đâu có lí do gì để lấy dấu vân tay anh ta. Phòng của anh ta sau đó đã được dọn dẹp sạch sẽ.
Hai cô điều dưỡng trực phòng mà trách nhiệm lẽ ra là phải kiểm tra thường xuyên bệnh nhân được nhập viện như là Gerald O’Malley thì cô nào cũng khai là mình chắc chắn rằng bệnh nhân đã được giao cho người kia để đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau. Cô điều dưỡng trưởng sau đó đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về lỗi lầm đó và từ chức trong sự thất sủng. Cô chuyển về Florida và nhận một công việc lương thấp hơn cho một công ty cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà. Nhiều năm sau bà đã chết một cách bình yên khi đang ngủ. Khi chúc thư của bà được công bố thì những đứa con của bà đã vui sướng biết bao nhờ vào thói quen tiết kiệm của thế hệ những người Mỹ được trui rèn trong thời kỳ Đại Suy thoái, nên bây giờ họ được thừa hưởng từ bà mẹ chỉ suốt đời làm nghề điều dưỡng kia một di sản tuy không lớn lắm nhưng cũng vượt ngoài sự tưởng tượng của họ.
Nhiều cơ quan thi hành pháp luật và vô số phóng viên cố gắng trong nhiều tháng trời để giải mã “huyền nhiệm về người phi công mất tích” (the mystery of the missing pilot).
Nhưng tất cả đều thất bại. Nhiều thành viên của Thượng viện Hoa kỳ, lợi dụng sự mê hoặc của công chúng đối với vụ việc, bắt đầu tranh luận xem liệu có nên cho phép nghe lén về chuyện này và về những vấn đề khác liên quan đến mối đe dọa đang tăng lên từ các nghiệp đoàn tội ác có tổ chức và có lẽ không loại trừ sự nhúng tay của Cộng sản nữa, ở Mỹ, và họ gọi những biện pháp đó là ‘ ngăn chận từ xa,” là “không thể tránh ‘ nhưng là “chuyện vạn bất đắc dĩ phải làm” vì “sự an toàn của vợ con chúng ta” và cả để bảo vệ “lối sống Mỹ” nữa.
Bằng lái không phải là giả, nhưng chứng thư khai sinh mà Bang Nevada có trên danh bộ lưu thì thuộc về một trẻ sơ sinh chết non, được chôn trong nghĩa trang New Hampshire..
Thông tin mà đám cảnh sát liên bang có được về O’Malley liên quan đến giấy phép phi công của anh ta tất nhiên cũng đưa đến cùng cái nghĩa trang New Hampshire đó.
Tại sao lại có sự vụ như thế, chuyện đó chỉ có... Thượng đế và Tom Hagen biết. Cái nghĩa trang kia nằm cạnh một con đường, cách nhiều dặm về phía Bắc đã trở thành điều trở ngại của thành phố nơi Kay Adams Corleone lớn lên. Không lâu sau khi Michael ra lệnh thủ tiêu chồng của em gái mình và nói dối với Kay về chuyện này, cô ly thân với anh. Cô đem theo mấy đứa con về nhà bố mẹ ruột. Michael chỉ gọi điện cho cô có mỗi một lần. Một tuần trôi qua. Một buổi sáng Hagen xuất hiện trong chiếc Limousine. Tom và Kay cùng tản bộ vào rừng. Mike muốn Kay biết rằng nàng có thể có bất kỳ cái gì nàng muốn và làm bất kỳ điều gì nàng thích bao lâu mà nàng vẫn chăm sóc tốt cho mấy con, và
rằng chàng yêu nàng và - theo một kiểu đùa dụng công một cách rất đặc trưng - nàng là Lãnh chúa, là Trùm của chàng. Hagen chỉ truyền lại thông điệp này sau khi tiết lộ cho nàng biết một vài trong số những việc mà Mike đã làm - một hành vi thách thức nguy hiểm có thể khiến Hagen toi đời như chơi. Nhưng nó có công hiệu; cuối cùng Kay về nhà. Trên đường trở về New York, Hagen dừng lại ở một thư viện công bất kỳ nào đó, lướt qua một tập cũ của tờ báo địa phương, và đọc câu chuyện buồn về Gerald O’Malley, bị bệnh bạch hầu và được Chúa cho về bên Người lúc mới mười một tháng tuổi. Hagen đậu xe ngoài xa khuất tầm nhìn của những người ở thư viện và đi vào tòa án. Anh ta là người không có điểm gì đặc biệt nên rất khó phân loại; anh biết cách xử sự thế nào nơi thư viện hay nơi tòa án để cho người ta sẽ quên anh ngay khi anh rời đi. Những cuộc du hành thường xuyên của anh đến nhiều nơi đã cho phép anh thu thập nhiều bản sao chứng thư khai sinh có công chứng từ khắp mọi miền đất nước, không bao giờ ở cùng một tòa án đến hai lần. Anh có một cuốn dày như cuốn catalog của Sears. Khi Geraci yêu cầu một chứng thư khai sinh mang một cái tên Ái nhĩ Lan, tên bé O’Malley hiện ngay trên cùng.
Một khi những chi tiết lí lịch của người chết được xác nhận và sau đó được công khai, bất kỳ ai biết hay nghi ngờ Vincent Forlanza là gì và loại tình huống nào ông đã gặp trên Đảo Rắn Rung Chuông đều giả định ngay rằng chiếc máy bay đã qua cả buổi chiều ở đó - điều này, mà không hề có ý niệm mơ hồ nào rằng viên phi công là nghĩa tử thực sự của Forlenza. Những người có thẩm quyền tất nhiên chẳng chứng minh được gì.
Forlanza, bị hỏi cung hai ngày sau khi tai nạn xảy ra, cũng với sự hiện diện của các cố vấn pháp luật nổi tiếng, đã tự hỏi phải chăng quí vị thi hành pháp luật đã coi Tivi chiếu phim găng-x-tơ quá nhiều nên bị lậm, nhìn thấy đâu cũng là găng-x-tơ. Cả trên hòn đảo yêu dấu vẫn được ông coi là thánh địa của mình cũng có găng-x-tơ? Thế thì thiên hạ sắp đại loạn đến nơi rồi! Bây giờ ông đã nghe mọi chuyện; trong bất kỳ trường hợp nào thì ông cũng đã ở nhà suốt cả kỳ nghỉ cuối tuần, ngoại trừ chiều chủ nhật, khi những kẻ bị gọi là găng-x-tơ đó được giả định là đã đáp xuống đảo Rắn Rung Chuông để thực hiện một thứ gì đó? Một cuộc họp thượng đỉnh? Một hội thảo? Cũng chẳng thành vấn đề. Forlanza bảo rằng ông đã qua cái ngày được nói đến đó như là khách mời tại cuộc đi chơi trên bãi biển (clambake) vào ngày Lễ Lao động được một công đoàn đia phương tài trợ, cùng nhau quây quần dưới một cái lều cực lớn, uống bia ướp lạnh của công đoàn sản xuất, cùng nhậu hải sản tươi sống và vui đùa hỉ hả trong ngày lễ quan trọng của quốc gia, một câu chuyện được bất kỳ thành viên nào trong văn phòng thường vụ của Nghiệp đoàn Xe tải Cleveland xác nhận.
Sự mô tả ngoại hình của O’Malley mà cảnh sát tổng hợp lại từ những cuộc phỏng vấn các nhân viên cứu hộ và nhân viên y tế không hứa hẹn gì nhiều. Họ đã nhìn thấy những thương tích của con người đó nhưng không nhìn rõ mặt mũi hình dáng của anh ta bởi lúc đó họ quan tâm nhiều hơn đến những dấu hiệu của sự sống nơi nạn nhân hơn là lo quan sát kích cỡ đôi tai anh ta, hay hình dáng đôi mắt (nhắm nghiền) của anh ta, hay là những điểm tinh tế trên cái rìa có cạnh lởm chởm của cái lỗ mũi từng bị dập nát nhiều lần của anh ta (xin độc giả nhớ lại: Nick Geraci từng một thời gian khá dài kiếm sống bằng nghề đấm bốc nên chuyện bị nện cho dập mũi là chuyện thường) và trong tai nạn này thì mũi anh còn bị dập nặng hơn, sưng phồng lên và thâm tím khiến anh chàng trông... đẹp trai hơn cả Dracula!
Không ai ngoài hai tổ chức Corleone và Forlanza có thể đoán ra rằng Gerald O’Malley cũng chính là
Nick Geraci. Không ai ngoài những Gia đình này biết gì nhiều về Nick Geraci là ai và anh ta làm những chuyện gì. Bảy năm lăn lộn trên sàn đấu, ngay cả với những trận đấu có luật lệ qui định hẳn hoi, đã “sắp xếp lại” khuôn mặt của anh ta đủ khiến cho bạn bè thời niên thiếu cũng khó còn nhận được ra anh ta. Anh ta thượng đài dưới nhiều tên giả đến nỗi chính anh ta cũng không nhớ hết. Các tay đấm bốc hàng ngày được tuyển làm loại tay sai chỉ đâu đánh đó hoặc làm vệ sĩ sẵn sàng chịu đấm ăn xôi, lấy thân che chắn cho ông chủ, và bất kỳ tay cơ bắp trung thành nào có được nửa phần óc não cũng có thể trở thành những chỉ huy cấp thấp cỡ tổ trưởng tổ tam tam hay bán tiểu đội trưởng hay tiểu đội trưởng chẳng hạn. Nhưng những tay cơ bắp loại đó không thể trở thành những tay kiếm được nhiều tiền, càng hiếm kẻ kiếm được mảnh bằng cao đẳng hay đại học. Geraci là một biệt lệ: anh ta vừa biết cách kiếm được nhiều tiền mà lại biết dâng nộp cho chủ nhiều hơn là dành cho mình, lại vừa tranh thủ đi học lớp đêm để có được mảnh bằng đại học một cách danh chính ngôn thuận, sau đó còn phấn đấu học thêm bằng hai về luật nữa. Anh chàng này quả là đáng gờm với tham vọng không giới hạn, gặp thời thế có thể trở thành đại gian hùng chọc trời khuấy nước chớ chẳng phải tay vừa! Ở New York Geraci được biết đến như là bộ hạ dưới cánh của Sally Tessio, nhưng những chuyện khác mà anh ta đã làm có lẽ sẽ khiến cho bất kỳ ai muốn thử ráp nối những mảnh rời đó lại với nhau đều sẽ thấy hầu như là... bất khả thi! Một con người càng trở nên biệt lệ thì chỗ đứng của anh ta trong thế giới càng tìm kiếm một thái cực tương tự. Giống như là anh ta sẽ hoặc là được mọi người biết đến hoặc là không ai biết anh ta là ai cả. Anh ta sẽ hoặc là rất dễ nhận thấy, mặc dầu phần lớn mọi người sẽ không bao giờ thấy anh ta bằng xương bằng thịt, hoặc là anh ta sẽ tan biến, ngay cả nếu anh ta ngồi sát bên bạn tại một quầy ăn trưa ở Tucson, đang ngân nga một bài ca từ đĩa mới ra của Johnny Fontane và đập một đồng mươi xu lên bàn Formica, chờ sử dụng điện thoại trả tiền liền.
Đó là một thế giới điên rồ quái quắc. Trong nhiều tháng, Nick Geraci vừa ở bên ngoài mà vẫn ở bên trong thế giới đó, tại một nơi nào đó. Khó có ai biết là ở đâu. Và cũng hầu như không ai quan tâm tìm kiếm anh ta.
Richard “Khỉ không đuôi” Aspromonte, có một lần duy nhất bị một người đàn bà mù hỏi bằng cách nào mà anh ta mang cái hỗn danh đó, được chôn cất ở Los Angeles, tiếp theo bởi cuộc tiếp tân sau đó tại câu lạc bộ ăn tối của Gussie Cicero. Đến lúc chúc rượu, cả bốn anh em Aspromonte đều nhìn vào Jackie Ping-Pong, người chẳng biết gì nhiều về Khỉ không đuôi, nhưng tỏ ra có tài lợi khẩu, nói năng lưu loát hoạt bác biết lựa lời an ủi bà mẹ đau khổ của người quá cố. Ở San Francisco, bố mẹ của Lefty Mancuso thu vén để làm đám tang anh ta nhỏ thôi. Nhân vật có tiếng tăm duy nhất đến dự tang lễ là DiMaggio, một người bạn thời trung học của Lefty. Thành viên duy nhất của Gia đình Molinari đến viếng tang là Nicodemo, em của Toni. Để tỏ lòng tôn kính, ngay cả các vệ sĩ của anh ta cũng đứng ở ngoại vi, ngay trước bộ khung nhỏ của các tay cớm và những người hiếu kì.
Theo thông lệ thì một Ông Trùm sẽ chỉ tham dự lễ tang của những người như thế nếu họ là chỗ bạn bè thân thiết. Nhưng lúc bấy giờ không phải là những thời điểm bình thường. Và thế là, vượt qua những vòng nội bộ của riêng họ và xuyên suốt thế giới ngầm, người ta đã biết rằng, như được chờ đợi, Jackie Ping-Pong và Nicodermo “Butchie” Molinari đã tiếp quản việc kiểm soát tổ chức, một cách hòa bình, theo như bề ngoài người ta thấy thế.
Các ông chủ của Aspromonte và Mancuso, tức Frank Falcone và Toni Molinari, được chôn cất vào
ngày hôm sau. Hai người này có nhiều bạn chung, nhưng không ai có thể tham dự cả hai tang lễ. Một sự lựa chọn là bắt buộc. Và những lựa chọn đó sẽ được theo dõi.
Trên một lối đi qua lại ngang qua những căn nhà còn xây dở dang nơi ngõ cụt của Tom Hagen, với Al Neri và hai thủ hạ khác trong xe, đậu xe như thế nào để phong tỏa toàn bộ con phố, Michael Corleone hút thuốc điếu, chỉ nói với Hagen, đang hút xì -gà, rằng anh ta nên bắt đầu gom góp lượng tiền mặt không theo dấu được, để dự phòng trường hợp phải trả tiền chuộc. Michael muốn được bảo vệ từ việc biết chính xác tiền đến từ đâu, và mặt khác anh cần bảo vệ Hagen khỏi toàn bộ vấn đề này. Hagen dừng ở cuối ngõ cụt. Ở đầu xa của con phố, đứa con trai mười ba tuổi của anh, Andrew, chạy ra khỏi cửa trước với một quả bóng cặp dưới nách, rồi có vẻ như vì thấy chiếc xe của Neri, thằng bé ngoẹo đầu có vẻ cáu tiết, bực tức, kiểu trẻ con khi bị mất hứng và đi trở vào trong. Hagen nhìn qua Michael đến một điểm mơ hồ nào đó trên chân trời hình răng cưa, và trong một thời gian rất lâu anh trầm ngâm không nói gì. Michael châm điếu thuốc khác và nói đấy chính là cách mọi sự phải diễn ra. “Mặc dầu vậy, có lẽ anh sẽ không trả tiền chuộc, đúng không?” Hagen hỏi. Michael nhìn anh với sự thất vọng thấy rõ nhưng chỉ nhún vai. Hagen vẫn giữ yên lặng trong một khoảng còn lâu hơn trước, rồi dụi điếu xì -gà mới hút dở một nửa trên nền xi -măng trắng bóng và nói, “Hãy bảo vệ tôi,” theo một cách chẳng phải là lời cầu xin cũng không phải là lòng nghi ngờ, mà chỉ là một phát biểu. Michael gật đầu. Không ai nói gì thêm.
Michael triệu tập Rocco, Clemenza và Fredo đến nhà anh. Họ thở dốc khi lên hết cầu thang và ngồi đối diện bàn giấy màu vàng của Mike trong những chiếc ghế nhựa màu cam. Anh ta hỏi thẳng là có ai trong bọn họ có ý tưởng nào về chuyện gì đã xảy ra với Geraci. Từng người đều nói không với sự bình thản như nhau. “Không phải ông à?” Rocco hỏi và Michael lắc đầu và cả bọn dường như ngạc nhiên. Một tai nạn đã đủ xấu rồi, nhưng cuối cùng những ai thắc mắc có lẽ sẽ biết rằng viên phi công là Geraci. “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra thôi,” Clemenza nói. Ừ, thì biết là thế nhưng cứ giữ được càng lâu càng tốt.
Michael gật đầu. Phương cách duy nhất để ổn định tình trang hỗn loạn này, anh nói, là triệu tập một khoáng đại hội nghị của mọi Gia đình, lần đầu tiên kể từ khi cuộc hội nghị mà bố anh đã triệu tập ngay sau khi Sonny bị sát hại. Sự phục hồi có thể được thực hiện, mọi Ông Trùm đều sẽ long trọng tuyên hứa là vấn đề đã khép lại và cuối cùng mọi chuyện có thể sẽ là chuyện rủi lại hóa ra may bởi vì họ có thể đi thẳng từ đó đến chỗ hợp thức hóa một thỏa thuận hòa bình lâu dài rộng lớn hơn. Mọi người đều có lợi. Đúng là một hội nghị như thế sẽ có nghĩa là sẽ có một cuộc đầu phiếu về việc đưa Russo vào Ủy ban, nhưng nếu đạt được kết thúc dứt khoát cho cuộc chiến thì dẫu như thế cũng đáng. Dầu thế nào việc đó cũng sắp xảy ra, sớm hay muộn thôi. “Nhưng vấn đề chúng ta đang phải đối mặt là,” Michael nói, “đó là bất kỳ chuyện gì xảy ra - bưng bít sự thật, bắt cóc, có thể ngay cả là sự can thiệp của chính quyền - cũng có thể làm hỏng tính khả thi của một kiểu thượng đỉnh như thế.”
Clemenza khịt mũi và bảo rằng ông ngửi thấy mùi thiu thối ở Cleveland, và Michael ngẩng đầu lên. “Tôi thấy Hamlet với trái cây đó, tên hắn ta là gì nhỉ? Nổi tiếng lắm.” Anh nhìn vào Fredo và Fredo nói “Cái gì?” và Clemenza nhún vai và hỏi Mike rằng anh có hình dung là người của Forlanza phá hoại chiếc máy bay hay chuyện họ đang cố giữ bí mật lí lịch nhân thân của Geraci để người khác sẽ
không nghĩ rằng họ đã phá hoại chiếc máy bay. Bởi vì con đường tốt nhất để ra khỏi tình trạng lộn xộn này có lẽ là chỉ ra rằng lão Do thái chắc chắn không phá hoại chiếc máy bay do chính nghĩa tử của lão lái, điều này sẽ lại mở ra nguyên cả một thùng sâu bọ bò lổm ngổm khắp nơi. Có thể lại chỉ là một toan tính lạc hướng của Forlanza nhằm bảo vệ nghĩa tử của lão? Và ngay cả cũng có thể là từ chúng ta?
Dưới nhà, ông bố vợ nửa điếc của Michael mở Tivi oang oang. Bằng giọng the thé chói tai của trẻ con, bé Anthony Corleone hát theo bài hát chủ đề của một phim cao -bồi.
“Jesus, lạy Chúa tôi! Sao mà ồn ào hỗn độn quá!” Fredo nói. “Nhức đầu quá với cái mớ âm thanh hỗn tạp này!”
Michael gật đầu, thật chậm rãi để lộ rõ đấy là một... khoảng lặng đầy tính sân khấu để... dành đất diễn cho suy tư, chứ không phải để biểu thị sự đồng tình! Một khoảng lặng cần thiết. Anh không thể, trong lúc mới vừa đặc cách thăng cấp ông anh mình lên phó súy (sotto capo), lại ra mặt tỏ ý bất đồng, thì còn ra cái thể thống gì nữa! Dầu là chỉ trước mặt những cận thần thân tín nhất như Clemenza hay Rocco Lampone. Đúng là một con người có phẩm chất thiên phú để làm lãnh tụ, dầu là lãnh tụ... Mafia!
“Không có điểm nào trong chuyện này,” Michael nói, mang chúng ta đến gần hơn để khám phá điều gì đã xảy ra cho Geraci.”
Anh nghiêng người qua chiếc bàn giấy nhập khẩu từ Đan mạch, theo mốt tân tiến nhất. Đã đến lúc ngừng lại mọi tư biện trên mây, mọi tranh luận lí thuyết suông. Đã đến lúc bắt tay vào công việc, vào hành động cụ thể.
Ngày hôm sau, Clemenza quay về New York với thượng lệnh là điều hành công việc như thể hòa bình đã được bảo đảm và vụ rớt máy bay đã không hề xảy ra. Bộ hạ của ông ta cũng phải chấp hành theo những chỉ định đó. Sau đó một ngày, Rocco, vốn cũng biết đám thuộc hạ của Geraci, cũng đi New York, nơi anh ta sẽ lưu lại và giám sát những chiến dịch đó cho đến khi có lệnh mới. Fredo, trong tư cách phó súy, sẽ tạm thời đảm trach đám thuộc hạ của Rocco ở Nevada.
Gia đình Corleones từ lâu đã rất thân cận với Toni Molinari, người từng che chở cho Fredo sau dư chấn từ âm mưu ám sát bố anh và sự hợp tác quí báu đã giúp cho Gia đình Corleones có thể đổ quân đến và lập căn cứ địa ở Las Vegas và hiện nay là ở Tahoe và Reno. Còn Bố già Vito ngày xưa cũng như Michael bây giờ đều chưa bao giờ nhìn Falcone như một nhân vật nghiêm túc, đáng mặt ngồi vào chiếu trên cùng các bậc trưởng thượng. Cũng không tin rằng cái cung cách hành động hào nhoáng kiểu lòe loẹt sặc sỡ thuộc hạng chiếu nhì của lão ta lại sở hữu được phương tiện hay ý chí để thoát ra khỏi cái váy của Chicago. Michael đã có thể chọn lựa để đại diện gia đình đi viếng tang đám nào tùy ý. Nhiều người trông chờ anh đích thân quyết định chuyện đó, và, xét trên bề mặt, điều này có vẻ dường như là một chọn lựa ý tứ hơn và thận trọng hơn. Nhưng đó cũng chỉ là ngôn từ thôi - ý tứ, thận trọng - chúng là những từ có thể dễ dàng được thay thế bởi những từ khác - kiêu căng, sợ hãi, yếu đuối. Ôi dào, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, cho nên bậc tuấn kiệt cũng không quá bận tâm với những thị phi của thế gian! Một con người là những hành động của hắn ta, dầu ở chỗ công khai hay nơi chốn
riêng tư, cả khi bị người đời nhòm ngó lẫn khi đơn độc riêng mình.
Fredo, người, xét theo mọi giác độ, từng là người thân cận nhất hơn bất kỳ ai trong tổ chức, đối với Toni Molinari, được gửi đi San Francisco. Michael, được tháp tùng bởi Tommi Neri và hai tay thủ hạ từng theo anh ta ẩn mình trong rừng gần hồ Tahoe, đi Chicago: thành phố nơi Frank Falcone đã sinh ra, đã có được xương thịt hình hài, cũng là nơi mà xương thịt hình hài của lão ta, hay đúng hơn là những gì còn lại từ cái hình hài đã bị phân tán tứ tung kia, sẽ được chôn cất. Những ai từng biết Vito Corleone sẽ nhận ra cái lô -gích trong quyết định của Michael. Giữ những người bạn của ta ở gần, Ông Trùm vĩ đại từng nói câu để đời, và những kẻ thù của ta càng ở gần hơn.
Cuộc lễ được cử hành trong một nhà thờ nhỏ xíu sơn màu trắng, bên ngoài có ốp ván nghiêng gối lên nhau để bảo vệ tường, về phía cận tây của thành phố trong khu phố Ý gọi là khu Patch, nơi Falcone đã lớn lên và nơi cha mẹ ông ta đã từng có thời làm chủ một tiệm tạp hóa ở góc phố. Tháng chín ở Chicago còn nóng. Cảnh sát Chicago đã chận giao thông trong hai dãy phố về mỗi hướng. Nhiều vị quan quyền chức sắc - kể cả phó thống đốc California, tay vô địch quyền Anh hạng nặng thế giới Di Maggio, nhiều ngôi sao điện ảnh, kể cả Johnny Fontane, đều được hộ tống bằng mô tô đến tận bậc thềm. Những người khác, kể cả Michael Corleone đến đủ sớm để có chỗ ngồi mà không cần đến những phô trương hợm hĩnh kia. Phía ngoài, đường phố đông kịt người. Những nguồn gốc xuất thân của Falcone là chất liệu dồi dào cho pho truyện truyền kỳ của địa phương và mặc dầu những người dự lễ tang ở bên trong giữ sự yên lặng thành kính - như phải thế - không ai trong số đám đông lao nhao nơi đường phố lại có thể bỏ lỡ dịp để nghe người nào đó kể câu chuyện hấp dẫn về người đã khuất. Khi Frank mới là một cậu trai mười lăm tuổi, lúc bố cậu vừa đóng cửa tiệm và người chị đang đếm những biên lai bán hàng trong ngày thì cả hai bị giết trong một vụ cướp có vũ trang bằng hàng nóng, một tội ác mà cảnh sát chỉ điều tra qua loa chiếu lệ -” chẳng có gì ầm ĩ. Chỉ là chuyện bọn dagos giết bọn dagos ở Phố Dago, thế thôi. Chuyện thường ngày ở huyện,” tay cớm phụ trách điều tra hình sự vừa nói vừa cười, trong tầm nghe của Frank và tệ hơn nữa, của cả mẹ Frank - khiến cậu bé uất hận thề sẽ trả thù (Xin mở dấu ngoặc: dago là tên gọi có hàm ý khinh miệt những người nước ngoài da hơi sẫm như người Ý, người Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Mễ... và những khu họ ở tập trung đông thì bị gọi một cách miệt thị là Dagotown). Chuyện này chẳng phải đợi lâu. Một cách nào đó lòng sục sôi thù hận của cậu bé được hân hạnh lọt vào tai Ngài Al Capone, Chúa đảng lẫy lừng của Chicago thưở ấy. Thế là cậu bé được đặc ân có cuộc diện kiến... Đại lãnh tụ và được khai tâm vào hắc đạo. Mấy ngày sau, tử thi của tên cướp được dựng đứng đối diện, tay vạch cu chỉa vào bót cảnh sát và theo truyền thuyết, trên người y bị đâm sáu mươi tư nhát (bố của Frank bị giết lúc bốn mươi lăm tuổi, chị của cậu mới vừa mười chín tuổi). Còn tay cớm kia cùng với bạn gái cuối tuần đi vi vu câu cá ở Thung lũng Wisconsin và vĩnh viễn lạc lối, không bao giờ tìm thấy đường về. Trong một thời gian Frank và mẹ còn duy trì cửa tiệm.
Nhưng kí ức ám ảnh họ quá nặng đến không chịu nổi. Không biết từ đâu hiện ra một thương lái đến trả giá khá cao để mua lại cả cửa tiệm và nhà ở. Bà mẹ Frank lấy tiền và chuyển về ở với gia đình cậu em mình. Frank đến đầu quân cho Ông Capone. Sau khi Ông Capone gặp nhiều vấn đề, Frank đi tìm kiếm vận hội mới ở Los Angeles. Lúc đầu anh ta tìm cách đắc nhân tâm bằng cách làm những điều tốt, biết mình từ đâu đến, ăn ở thủy chung, có tình nghĩa với những ai đã giúp mình, ân đền oán trả phân minh. Khó mà nói được lúc nào điều đó xảy ra nhưng đến một lúc dường như Falcone đã tách rời, không còn là một phần trong lãnh địa phía Tây của Chicago nữa - vốn từng được giả định, vào cái thời thịnh trị
của Lãnh chúa Al Capone, là cái gì phía tây Chicago cũng là của Chicago - mà đã tự khoanh vùng cho mình riêng một góc trời. Falcone không bao giờ chuyển mẹ về ở chung với gia đình mình mà mua riêng cho bà một biệt thự khang trang ở khu sang trọng Hollywood Hills với hồ bơi, vườn cây cảnh...
Hai mươi cảnh sát cưỡi ngựa -con nào cũng được che hai bên mắt để tránh bóng đèn nháy liên tục từ các cameras - dọn thông một đường xuyên qua đám đông, và đám đưa tang, với nhiều chiếc xe mang các biển hiệu tranh cử lớn cho các chính trị gia và các thẩm phán, sắp thành hàng dài đi đến Nghĩa trang Núi Carmel. Hàng ngàn người đi bộ theo. Ngay bên trong cổng vào chính, đám rước đi ngang nơi an nghỉ cuối cùng của những phần di thể mục nát, mang bệnh giang mai của Ngài Al Capone lừng lẫy xưa kia và cái đám tang với kết thúc không như ý của chính ông ta chỉ được đưa tang bởi một phần nhỏ những người có mặt hôm nay trong đám tang Falcone. Và hồi ấy Bố già Vito Corleone chỉ gửi một tràng hoa viếng tang chứ không có gì hơn.
Lăng mộ của Falcone được xây bằng đá granit đen bóng, trên cùng là bức tượng một thiên thần với một chim ưng (falcon) đậu trên tay phải. Chim ưng trong tư thế đang bay lên, đôi cánh xòe rộng đủ phủ bóng mát chào đón nhiều người đứng xem đang đổ mồ hôi. Bố và chị của Falcone không được chôn tại đây nhưng những tấm biển đồng trên hai cánh cửa mang tên họ.
Mẹ, vợ và các con của Falcone đứng bên quan tài. Người ngoài duy nhất đứng ở hàng đầu là Louie Russo, mang đôi kính râm to tướng. Phần còn lại của gia đình Falcone ngồi ở hàng thứ nhì, cùng với Jackie Ping-Pong và Johnny Fontane, được liệt kê trong báo như là người hộ tang danh dự. Fontane khóc lóc như đàn bà.
Bốn mươi chín người hộ tang danh dự khác - các chính trị gia, sĩ quan cảnh sát, thẩm phán, doanh nhân, vận động viên, nghệ sĩ sân khấu; ngoài ra không có ai từ Bộ sậu Chicago hay bất kỳ tổ chức nào khác - được xếp ghế ngồi gần hàng đầu như vậy.
Chắc chắn có những người ngắm nghía Michael Corleone, nhưng, đặc biệt là trong khung cảnh rất đông người tụ tập này, thì cũng không mấy ai để ý đến anh. Anh không phải là người nổi tiếng, chắc chắn là không nổi tiếng bằng nếu đem so với Fontane, hay tay vô địch quyền Anh hạng nặng thế giới, hoặc ngài Phó Thống đốc California, hoặc ngay cả với Ngài Corbett Shea, nhà hoạt động nhân đạo và là cựu Đại sứ ở Canada(ngồi ở hàng thứ sáu, kế bên Mae West). Michael Corleone không phải là mục tiêu của các ánh đèn nhiếp ảnh và chỉ có một ít viên chức thi hành pháp luật biết nhiều vế anh ta hơn là công chúng biết, nhưng đám này cũng không nhiều. Anh từng là một anh hùng thời chiến nhưng biết bao nhiêu người cũng từng là anh hùng thời chiến. Tên tuổi của anh từng lên mặt báo thời gian New York có nhiều lộn xộn vào mùa xuân, nhưng những búc hình của anh rất mờ, được chụp ở cự li xa, và trí nhớ của đám đông lại ngắn hơn là trí nhớ của một con chó già. Trong thế giới của anh, thì Michael Corleone được mọi người biết, nhưng nhiều người chỉ biết anh qua tiếng tăm và không thể dễ dàng nối kết cái tên với khuôn mặt. Những cái gật đầu buồn và nghiêm nghị là đủ. Ngay cả Fontane cũng không có vẻ nhận ra sự có mặt của anh. Sau đó anh kiên nhẫn đứng sắp hàng chờ đến lượt mình nói lời chia buồn cùng bà quả phụ Falcone và mẹ anh ta; đó là những lời duy nhất anh nói trước đám đông suốt ngày hôm ấy, sau đó biến đi vào chỗ ngồi phía sau của chiếc Dodge màu đen khiêm nhường trước đó đã chở anh đến.
Bên trong xe, lần đầu tiên, Michael Corleone khóc cho ông bố quá cố của mình.
Đám tang Ông Trùm Molinari chầm chậm đi qua trong sương mù, một hàng dài gồm hơn một trăm chiếc xe nối đuôi nhau làm ùn tắc giao thông, hướng về phía nam và ra khỏi San Francisco. Frederico Corleone ngồi trong chiếc xe thứ tư đàng sau xe tang, trong một chiếc Cadillac nặng hai tấn - trắng&đen - mà Tony Molinary thưở sinh thời vẫn thích tự tay lái. Anh đã bảo với Michael rằng nếu đem theo Capra và Figaro, sau bao nhiêu những bảo bọc, chăm sóc mà gia đình Molinaris đã dành cho Fredo trong bao nhiêu năm, sẽ có vẻ như là thiếu tôn trọng - hoặc tệ hơn, có vẻ như nhà Corleones có gì đó phải sợ ở San Francisco - và anh lại bị sốc khi người anh em của mình nhất trí như thế! Tài xế là một soldato (lính đã được vào biên chế chính thức)của Molinari mà Fredo đang cố nhớ lại tên. Ngồi phía trước là vợ của Dino, em của Tony. Hai cô con gái nhỏ của nàng ta ngồi phía sau bên cạnh chú Fredo.
Đó là lần đi đến nghĩa trang lâu nhất mà Fredo từng trải qua, càng thấy lâu hơn vì các cô bé cứ khóc suốt và những toan tính vụng về của anh nhằm dỗ dành chúng. Anh đã tiên liệu mang theo hai cái khăn bằng lụa mềm có chữ đan lồng vào nhau để cho hai bé lau nước mắt nước mũi đến ướt nhẹp!
“Chỗ này ở đâu vậy?” Fredo hỏi, nắm lấy tấm thiệp cầu nguyện có tên của nghĩa trang trên đó: NGHĨA TRANG Ý.
“Colmar,” tay tài xế nói. “Họ đều ở Colmar.”
“Ai đều ở Colmar?” Fredo thắc mắc. “Colmar ở đâu vậy?”
“Các nghĩa trang. Ở San Francisco chính quyền không cho xây nghĩa trang. Phải đi đến Colmar, mà chúng ta sắp đến đây. Trở lại thời đổ xô đi tìm vàng, người ta cứ việc chôn người chết bất kỳ nơi nào họ ngã xuống. Trong vườn, ở sân sau, ven lối đi, bất kỳ cái gì. Thời ấy có vài khu được qui hoạch làm nghĩa trang, chủ yếu là cho nhà giàu. Nhưng rồi sau đó chỉ được để lại đầu ở nghĩa trang còn thân mình và tay chân thì phải di dời về Colmar. Họ phải làm thế. Bà ngoại tôi vẫn còn kể chuyện trong những lần động đất trên khắp thành phố, những tử thi sẽ hiện ra phập phồng trên mặt đất rồi đứng lên, không đầu, kêu gào -”
“Đủ rồi đấy!” vợ của Dino quát lên. “Khép cái mõm đáng nguyền rủa của nhà anh lại.” Mấy đứa con của chị ta không có vẻ gì là hiểu tiếng Ý.
Bác tài cụt hứng, hết bép xép và... câm như hến.
Fredo cũng nghĩ rằng câu chuyện của bác tài không phải là thứ thích hợp để kể cho trẻ con, nhưng cả hai đứa đều ngưng khóc và trông có vẻ khá quan tâm đến câu chuyện.
Bên ngoài, nhà cửa, sân vườn dừng lại và được tiếp nối ở mỗi hướng bởi những khoảng đất bằng uốn lượn nhấp nhô được bao phủ bởi các bia mộ, các hầm mộ, tượng, thánh giá và những cây cọ, một thành
phố rộng lớn, kiên cường của người chết, và vì một vài lí do nào đó anh bỗng nghĩ đến lời của anh mình, Sonny, từng nói khi anh ta thực sự đã trục xuất Fredo khỏi gia đình: Las Vegas là thành phố của tương lai. Không phải đâu, Sonny. Colma đây này mới là thành phố của tương lai. Thành phố vĩnh cửu của tương lai. Thành phố của người chết, xứ sở muôn đời của vong nhân. Chết, như Sonny. Fredo cảm thấy một tiếng cười loạn thần kinh, điên dại dâng lên trong người và anh cố kìm nén nó.
Nghĩa trang Ý trải dài hàng mấy dặm dọc hai bên đường. Đám tang đi vào một đường nhỏ ở hướng nam, ngang qua một dinh thự có hàng tá bàn tay bằng kim loại màu xanh gắn vào phía ngoài nắm lấy một dây xiềng dài màu đen.
Fredo lắc đầu ngạc nhiên. Đây là thủ đoạn làm tiền tài tình nhất mà ta từng thấy. Tất nhiên ở đây có một nghĩa trang dành riêng cho người Ý. Trước khi có bất kỳ nghĩa trang nào ở đây, ngược về thời kỳ mà người ta còn có thể chôn người chết dưới bụi hoa hồng nhà mình, Fredo dám đánh cá rằng toàn bộ khu vực này đã được những người Ý âm thầm mua hết. Đất đai ở đây giống như ở vùng quê Sicily, nơi những người nông dân nghèo vật lộn với thiên nhiên để trồng nho và ô -liu cho đến khi có người nào đấy nẩy ra ý tưởng về một vụ thu hoạch tốt hơn. Bạn kiếm những giấy tờ để tạo ra những câu chuyện thương cảm đau lòng từ quí vị đốc -tờ thuyết giảng về những nguy cơ y tế, bạn chạy chọt để có được một giấy phép, và thế là bạn có thể phù phép được rồi đấy. Bạn được trả gấp đôi để cải táng những người đã từng được mai táng. Được trả một lần cho lúc đào lên và dời đi, và trả thêm lần nữa cho huyệt mộ ở Colmar. Đem lại công ăn việc làm cho hàng trăm thợ cắt đá người Ý, nhưng kẻ giờ đây nợ bạn một ân huệ. Cũng như thế cho bất cứ kẻ nào cần việc làm và có thể cầm một cái xẻng hay cái cuốc. Sau đó, một cách rất công khai, chính đáng, bạn mua sạch đất đai ở những nơi từng là nghĩa trang trong lòng thành phố San Francisco với giá cực rẻ bởi vì đó từng là nơi đầy những xác chết. Đất nghĩa trang, tha ma, mộ địa mà. Đầy âm binh, oan hồn vất vưởng, đêm đêm còn thấy ánh ma trơi lập lòe. Giá rẻ là phải mà cũng chẳng mấy ai muốn mua. Vả chăng có muốn cũng đừng hòng tranh với dân Ý. Người ta đã vắt óc nghĩ ra diệu kế, dàn dựng kịch bản công phu, bộ người ta ngu dọn cỗ sẵn cho anh vào xơi à? Thế là dân Ý mua những đất ấy, san lấp phẳng phiu, cải tạo khang trang, qui hoạch chỗ này làm chợ chỗ kia làm tiểu công viên có cây có cỏ có hồ nước vv... Thế là đất ấy thành bất động sản giá trị. Vì ở đây là nước Mỹ mà. Không bị mê hoặc bởi lịch sử, cũng không để bị ám ảnh bởi quá khứ. Nhìn vào hiện tại và hướng đến tương lai. Và thế là thiên hạ xếp hàng để mua đất mới qui hoạch. Đất nghĩa trang giờ lại nở hoa. Và dân Ý trúng những quả thật đậm đà. Ăn thua là có cái đầu biết tính!
Colma. Nghe ra âm hưởng đầy chất... Italiana! Hay chính xác hơn là chất... Siciliana!
Một cơn buốt lạnh xuyên qua người anh. Mạng dây thần kinh ở bụng của anh co thắt liên tục. Anh nhắm mắt lại. Anh có thể thấy viễn cảnh đó: những đầm lầy ở New Jersey trải dài trước mắt anh thành mười Colmas. Nhà Corleones có đủ ảnh hưởng chính trị ở New York để giấy phép được thông qua. Cuộc chiến tranh giành đất đai ở New Jersey với nhà Straccis có thể được dàn xếp êm thắm. Anh có thể thực sự nghe giọng nói của Bố: Mọi con người đều có một phần số.
“Chú ổn chứ?” vợ Dino hỏi.
Fredo mở mắt. Chống lại ngọn triều dâng hưng phấn của chính mình, Fredo coi những gì mình hy vọng
và vừa vẽ ra viễn cảnh chỉ là giấc mộng kê vàng. Đừng vội nói trước e bước không tới. Cứ âm thầm hành động, khi nào thành công thiên hạ sẽ rõ mặt anh hùng. Dino và đám nhóc ra khỏi xe. Fredo uống cạn phần whiskey còn lại nơi chai nhỏ đút trong túi áo vest và nhanh chân tiến đến chỗ của mình kế bên những người hộ tang khác.
Sau tang lễ mọi người lái xe trở về lại thành phố và qua đó đến Bến tàu của Ngư dân, nơi nhà hàng của Molinari, nhà hàng tốt nhất của thành phố đã đóng cửa với công chúng từ khi những người làm ở đó nghe tin về cái chết của ông chủ họ. Tuy vậy lúc Fredo bước ra khỏi xe, một mùi thoang thoảng bay tới và rõ ràng là đám nhân viên nhà hàng đã không qua một tuần nằm nhà, cuộn người trên những chiếc ghế xô-pha lớn để khóc than cho ông chủ mình. Gió biển bềnh bồng với những mùi hương của bơ và gia vị phết lên cua, cá, tôm ghẹ, mực, sò... chiên, xào, nướng, luộc, cùng mùi nước xốt marinara, những món hải sản ngon lành mà Bờ Tây hào phóng ban tặng cho dân miền Viễn Tây. Bọn trẻ, độ vài mươi đứa, chạy ùa ra từ mấy chiếc xe, đến phía sau của nhà hàng, nơi một người đầu bếp chờ chúng, không phải với những mẩu thừa như thường lệ chúng vẫn nhận được, mà là những xô sắt bóng loáng đựng đầy nhóc cá mòi tươi cho bọn trẻ kéo đến cuối bến tàu và ném lên không từng con một, làm phát ra tiếng nổ của những đôi cánh đập mạnh và bóng lờ mờ bay lượn của những con mòng biển và những con bồ nông. Khi Fredo vươn người ra ngoài, quan sát, lũ chim di chuyển thành đàn bay ngang qua đầu đám trẻ, đông nghịt như những trận đại dịch cào cào châu chấu khủng khiếp. Hiện tượng này có lẽ đã làm Fredo hoảng sợ khi còn bé. Nó có làm cho Connie, em gái anh hoảng sợ không? Quên chuyện đó đi. Có lẽ cô ta vẫn còn la hét. Mike có lẽ sẽ ngồi một chỗ, quan sát việc hoang phí những con cá tươi ngon như thế và thầm lặng lên án, hai tay bịt hai tai. Còn Sonny. Sẽ ném đá chứ không phải ném cá cho chim. Còn nếu có được khẩu súng thì anh ta chẳng ngại gì mà không đoàng!đoàng!đoàng! liên tục vào lũ chim háu ăn kia (dầu anh ta cũng háu ăn chẳng kém gì chúng, có khi còn hơn!) Hagen cũng máu bắn chim lắm, nhưng anh ta sẽ không bao giờ dám vọng động làm phật lòng Bố khi biết Bố không tán đồng chuyện gì và có lẽ sẽ ngồi yên nhìn toàn bộ sự việc diễn ra qua cửa xe. Còn bọn nhóc này nhảy nhót reo hò cười đùa quanh bến cảng, mặt mày hân hoan rạng rỡ cứ như thể chúng đã được trao chìa khóa để đi vào xứ sở thần tiên. Ngay cả khi có một vài con chim mòng biển bắt đầu lao xuống oanh tạc mấy chiếc xô đựng cá, bọn trẻ cũng thích thú cười rú lên. Nhưng chẳng được bao lâu trước khi người lớn can thiệp, làm hỏng cuộc vui hồn nhiên của chúng, bảo chúng hãy bớt giỡn để tỏ lòng kính trọng Bác Tony. Chắc chắn là, chỉ một lát sau sẽ có bà cô hay bà dì nào đó, mặt mày cau có, hối hả soãi bước về phía bọn chúng, quát nạt cả bọn, nhéo tai vài ba đứa xui xẻo bị tóm, để dẹp yên đám lâu la cười đùa vô phép vô tắc, không phải lúc, không đúng nơi. Fredo không thể nén lòng khi nhìn cảnh đó và quay mặt đi, nhìn vào mấy dải ruy -băng đen trên cửa chính nhà hàng. Đã đến lúc với bất kỳ giá nào để anh làm điều mà anh đã đến đây để làm. Có lẽ anh nên trở về phòng khách sạn của mình và nghĩ cách làm thế nào trình bày kế hoạch Colma Miền Đông cho Mike. Nếu như anh thành thật với chính mình, điều mà anh chưa say đủ để là như thế, thì có lẽ anh đã tự cho phép mình nghĩ đến những nơi chốn khác mà ngày và đêm có thể đưa anh đến, nhưng anh sẽ không cho phép mình nghĩ đến điều đó. Thay vì thế, anh hít một hơi sâu và đi vào bên trong.
Dầu xét dưới góc cạnh nào thì nhà hàng của Molinari cũng là một nhà hàng hơi tối với những bức tường bằng ván gỗ bách đen, các quầy bọc da thuộc đen, và các cửa sổ có màn màu đỏ để lọt ánh sáng lờ mờ. Hôm nay ngay cả những bức màn đó cũng khép lại. Ánh sáng lờ mờ thường ngày càng xuống thấp hơn, các ngọn nến càng thấy nhỏ hơn và căn phòng đầy người vai kề vai với những con người tóc
sẫm, nước da màu ô -liu, mặc tang phục màu đen. Những vật trắng sáng nhất trong phòng là các khăn trải bàn, được giặt và hồ kỹ đến độ trắng... không tưởng, khiến Fredo phải lác mắt! Đứng giữa suối cẩm thạch nổi tiếng của nhà hàng là một tác phẩm điêu khắc băng lớn bằng người thật - một bức tượng Toni Molinari - với một bàn tay giang thẳng về phía quầy bar. Người ta tiếp tục lội qua nước và chạm tay vào trán bức tượng.
Đám đông còn đông hơn là khi ở nghĩa trang. - điều mà bất kỳ ai có hiểu biết một tí về mọi chuyện đều có thể giải thích được. Fredo đi vòng vòng, ôm hôn người này người kia và lắc đầu về bi kịch và sự mất mát lớn lao từ đó. Vài người nêu lên những ẩn ý bóng gió về việc anh vừa được thăng lên phó súy, và Fredo cám ơn họ và nói, các bạn biết đấy, người ta ai cũng phải ăn và người ta ăn, thế thôi. Anh uống bia để không bị say. Anh thiếu sự cuốn hút mạnh mẽ (charisma) mà bố anh và anh em của anh đều được trời phú cho, nhưng cùng với thời gian anh trưởng thành, anh nhận ra rằng đó chính là lí do giúp anh làm tốt hơn loại công việc này hơn là họ. Anh không dọa nạt ai, không làm ai phải khớp. Anh tỏ ra vụng về một cách thẳng thắn khiến phụ nữ muốn âu yếm anh như mẹ cưng con. Còn đàn ông sẽ thấy anh lơ lửng lảng vảng bên lề cuộc đối thoại của họ, trao cho anh ly nước, khuyến khích anh tham gia vào câu chuyện họ đang bàn tán nãy giờ. Anh đáp trả lại; uống với hắn một lần và cho đến tận cùng thời gian, Fredo Corleone vẫn còn ghi nhớ những gì bạn đem lại cho hắn ta, mật ngọt hay thuốc độc. Anh đã trui rèn bản lĩnh trong những năm lưu đày trong ngành kinh doanh khách sạn và casino bởi vì anh thật lòng muốn thấy người ta vui vẻ, chứ không phải vì sau đó họ nợ anh một ân huệ.
Chung quanh những người đàn ông khác trong gia đình Corleones người ta ứng xử như là những người máy, âm thầm tổng diễn tập trong đầu họ từng lời trước khi họ dám nói ra. Còn khi ở chung quanh Fredo, họ có thể là chính mình. Người ta yêu mến anh. Anh biết rằng nhiều người nhìn điều này như là nhược điểm, nhưng đó chính là chỗ họ sai lầm. Trong đời, không có lợi thế tự nhiên nào lớn hơn là khi được kẻ thù thổi phồng lên những nhược điểm của ta, những sai lầm của ta. Bố đã dạy thế. Không phải dạy anh, đúng vậy. Mà dạy Sonny. Bố đã cho Sonny nhiều bài học, nhiều lần với Fredo ngồi chung phòng mà hoàn toàn bị phớt lờ. Sonny nghe lỗ tai này qua lỗ tai kia. Fredo nghe và nhập tâm.
Căn phòng xì xào với nhưng lời suy diễn, bàn luận về anh chàng phi công lái thuê mất tích được biết dưới cái tên O’Malley, và người ta mở lòng ra với Fredo về chuyện ấy trong khi họ sẽ không bao giờ làm thế với Mike. Anh nghe ngóng mọi gíả thuyết được nêu ra, mà giả thuyết được nhiều người hưởng ứng nhất cho rằng O’Malley là một thứ cớm ngụy trang hoặc nếu không thì là hắn ta có liên hệ thế nào đó với đám Cleveland. Có thể là cả hai. Nhưng những nhân vật cấp cao hơn lại có những ý tưởng khác. Chẳng hạn Butchie Molinari lúc buông Fredo ra sau khi ôm, chỉ khẻ nói, “Lão Mặt Đéo, phải không?” Nghĩ rằng còn ngày rộng tháng dài, Fredo treo lửng lơ câu trả lời, chỉ nói anh chưa có bất kỳ ý niệm nào về chuyện đó. Đây cũng là điều mà Mike chẳng bao giờ có thể thành công.
Tại sao anh lại làm chuyện này với chính mình? Cuộc đối chiếu, tỉ giảo, so sánh bất tận đó với anh em mình. Fredo đứng trước tấm gương có khung mạ vàng nơi phòng vệ sinh quí ông. Anh đứng thẳng và thấy nhộn nhạo trong người. Đôi mắt anh trông giống như hai trái sơ -ri trong một ly sữa bơ. Anh em trai của anh, anh tin chắc điều ấy, không phí thời giờ so sánh giữa họ với nhau, và càng chắc là không so sánh với anh. Anh lùa bàn tay qua mớ tóc dày. Anh đã uống khá nhiều, điều đó thì chắc rồi. Anh
nhìn vào khuôn mặt tròn của mình và cố không nhìn thấy nơi đó những nét mà anh thừa kế từ bố mẹ mình, cái phiên bản mạnh mẽ hơn của quai hàm anh mà Sonny có được, đôi mắt giống hệt mắt Mike chỉ là sát với nhau hơn. Anh cầm lên cái bình thủy tinh đầy lược và thuốc nước dưỡng tóc và đập mạnh nó vào bóng của anh trong gương. Chất nước xanh lá cây chảy tràn lan khắp nơi. Tấm gương chỉ bị nứt. Fredo đưa mấy tờ trăm đô-la cho anh chàng đứng nơi bồn rửa kế bên anh và cho anh bồi Da đen. Anh chàng này nói rằng mình hiểu mà, bởi chúng ta ai cũng yêu mến Ông Tony. Fredo quay đầu đi qua nhà hàng lúc này gần như vắng người, đi qua pho tượng băng của Tony Molinary với cái trán đã chảy ra, lõm hẳn xuống trông thật dễ sợ, như thể là đã nhận một viên đạn xoáy sâu vào thay vì là hàng ngàn cái vuốt ve âu yếm, và bước ra cửa đi vào đêm tối lạnh giá, quyết định không là ai cả, ngay cả là chính mình cũng không.
Anh không biết những người đứng ở trạm taxi và, đầu cúi thấp, anh lầm lũi đi tiếp xuống bến tàu. Sẽ chẳng lâu đâu, anh biết vậy, trước khi anh đi vào những quán bar đầy công nhân bến tàu và thủy thủ và những quán bar có lối đi ra phía sau mà chỉ những kẻ hoang dâm trụy lạc nhất trong mấy đám người trên mới biết.
Anh tự dừng lại. Không. Không lặp lại chuyện đó nữa.
Trước mặt là Phố Powell. Thẳng một lèo là đến khách sạn của anh. Phải đi bộ một quãng đường khá dài nhưng sẽ tốt cho anh. Giúp đầu óc thông thoáng. Anh nhìn về những ánh đèn lờ mờ xa xa của các quán bar đằng kia rồi nhìn lên Phố Powell. Anh khá chắc chắn rằng nó đi qua khu phố Ý cổ gọi là North Beach. Anh có thể dừng chân tại đó, nghỉ ngơi một tí, uống ly cà-phê, nghĩ kỹ hơn cho thông suốt về kế hoạch Colma Miền Đông. Sẽ hay đấy. Đúng điệu đấy.
Đúng giây phút ngoặc vào phố Powell, anh cảm thấy một luồng sóng thư giãn tự khen mình trào dâng lâng lâng.
Tuy nhiên khi trèo lên ngọn đồi lớn đầu tiên anh lại toát mồ hôi và muốn nghĩ lại. Anh đã quá mệt để nghĩ về kế hoạch lớn của mình hay bất kỳ điều gì khác ngoại trừ một điều là anh không muốn uống cà phê nữa mà muốn cái gì đó mát lạnh, có thể là một ly bia, có gì hại đâu nào?
Con đường bằng phẳng trở lại. Các cửa hiệu bắt đầu mang tên Ý, nhưng hình như có điều gì đó sai lạc. Đường phố đầy những đứa trẻ nhếch nhác dơ dáy mặc áo thun quần lửng, có nhiều đứa Da đen, ít đứa nào đặc biệt rặt Ý. Anh cố nhớ lại anh đã đến nơi đây lần cuối là lúc nào - năm 47? hay 48? Anh nhìn xuống phố Vallejo và thấy tiệm cà phê mà anh đang nghĩ đến, ngửi được mùi cà phê từ cách xa cả một dãy nhà, và tiệm ấy vẫn giữ nguyên tên cũ, Caffè Trieste mà anh cho là một dấu hiệu mang ý nghĩa - ở đây chỉ bán cà phê, không bán bia rượu - nhưng khi anh mở cửa anh thấy một đứa bé da trắng tóc đỏ đang chơi trống bongos trong khi một anh chàng Da đen mặc áo gió màu đen đứng kế bên la rú cái đếch gì đó ai mà hiểu nổi - thật khó để phân biệt cái gì ra cái gì trong cái mớ hỗn độn đinh tai nhức óc gồm tiếng gào rú của ca sĩ và tiếng vỗ tay, nhịp chân, hòa giọng của đám khán thính giả bát nháo ngồi ở các bàn. Những cô em mắt dâu tằm đỏ thẫm... Những chàng trai thiên thần rụt cổ rùa... Hình như đó là những lời ca bốc lửa thoát ra từ cái mồm mở hết volume của chàng ca sĩ dị hợm!
Một đám nghệ sĩ bô-hê-miên lang thang lếch thếch nghe chán chết! Anh vội rời đi. Một nơi nào đó tại thành phố này có dựng một chai whiskey thật cao với tên của Fredo Corleone trên đó.
Anh dừng lại ở một khu Ý khác mà anh nhớ - Enrico’s - trông hầu như cũng... cùng một duộc, ngoại trừ một bảng hiệu bên ngoài ghi NHẠC JAZZ SỐNG TỐI NAY! Lại cũng là bô -hê -miên ở đây nhưng âm nhạc nghe có vẻ khá hơn, vậy nên, thôi, vô đại đi. Anh trả tiền trước và lấy chỗ ngồi ở quầy bar. Piano, saxo giọng soprano và một tay trống với giàn trống hùng hậu. Một đám cũng khoái được điên rồ đây, nhưng Fredo đã cầm ly lên và lắc lư cái đầu theo điệu nhạc giậm giật. Anh là người duy nhất trong phòng mặc đồ vest, điều này, vì lí do nào đó dường như khiến người ta ùa đến với anh và vẽ ra cho anh cái “lạc cảnh vi vu” đi mây về gió cùng những ép -phê diệu kỳ của marijuana. Anh cố chống lại sự thôi thúc muốn bảo với chúng rằng anh vừa mới đến từ đám tang của con người từng thu về phần lớn lợi tức từ thứ thần dược kia đấy. Sau một ly rượu nữa anh bắt đầu nghĩ rằng loại nhạc này là thứ quái quỉ hay nhất mà anh từng được nghe. Chẳng bao lâu sau anh ngồi vào bàn với một đám đông người, có đủ nam nữ, chuyền tay nhau một điếu “diệu kỳ” và đến tour mình anh cũng... không nỡ từ chối cuộc “phiêu bồng theo ảo mộng”. Ban nhạc tạm ngưng một lát, và một anh béo người Na -uy đội mũ nỉ đỏ, chóp phẳng, có tua, chiếm lĩnh sân khấu và nói rằng sau thời gian tạm nghỉ anh ta sẽ cho quí vị khán thính giả thưởng thức những bài thơ hài cú bất hủ của mình và giàn nhạc sẽ đệm theo để minh họa. Fredo cảm nhận một bàn tay đặt trên cánh tay mình. Đó là một anh chàng mặt dài, với mớ tóc mai dài, khoảng ba mươi, mặc áo nịt len và mang kính.
“Tôi có ban nhạc ngày mai sẽ chơi ở đây,” anh chàng nói, và bắt đầu mô tả âm nhạc của anh ta trong một thứ tiếng Anh ba rọi, lắp bắp, chí chóe, nghe chẳng ra ngô ra khoai gì cả! Lại một chàng trai thiên thần rụt cổ rùa, Fredo nghĩ. Anh nhìn chàng ta từ chỏm tới gót. Một thứ đầu thừa đuôi thẹo lăng nhăng chán ngắt.
“Mình là Dean,” anh chàng hăng hái tự giới thiệu. “Mình thích bộ vest của bạn.”
“Rất vui, Dean,” Fredo nói, mặt tỉnh “bưa”. “Còn mình tên là... là gì nhỉ?” Anh lấy tay vỗ vỗ lên trán. “À, à, là Troy. Đúng rồi, Troy.”
Cuộc tìm kiếm viên phi công mất tích chấm dứt mấy tuần lễ sau, khi một thi thể được tìm thấy dưới đáy khe gần sông Cuyahoga, không xa bệnh viện lắm, bị kẹt vào khung sắt của cống rãnh. Việc thoát nước đã tăng tốc sự phân rã. Những gì còn lại đã được lũ chuột nước đánh chén thỏa thuê. Bộ mặt và đôi mắt đã hoàn toàn biến mất, và khi cái thi thể được vớt lên, những con chuột nhảy ra khỏi miệng và trực tràng. Cái vòng đeo nhập viện (GERALD O’MALLEY, NAM, GỐC CAUCASIAN, TUỔI 38) và những gì còn lại từ chiếc áo khoác được cho là đích thực. Nhân viên điều tra kết luận rằng những thương tích trên thi thể tương ứng với những thương tích mà viên phi công đã bị, phù hợp với cách khâu nối của y sĩ phòng cấp cứu. Những ghi chú về hàm răng có thể hữu ích nhưng nhà chức trách chẳng có ý tưởng nào về việc Gerald O’Malley thực sự là ai. Dầu anh ta là ai, dầu bằng cách nào mà anh ta đi từ Phòng Chăm sóc Đặc biệt đến đáy khe kia, thì anh chàng xấu số cũng đã thực sự - nói một cách “thành thật thấy thương” - ngoẻo!
Bố Già Trở Lại! Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner Bố Già Trở Lại!