Số lần đọc/download: 766 / 22
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:41 +0700
Chương 11
C
húng tôi leo lên triền dốc và vượt qua đỉnh đồi như một toán cựu binh đã rã rời vì chiến tranh, thành hàng một, đầu cúi gằm: Bronwyn bế Millard trên tay, còn bà Peregrine nằm trên mái tóc như tổ chim của Fiona. Quang cảnh xung quanh lỗ chỗ những hố bom còn bốc khói, những đám đất vừa bị xới lên hất vung vãi ra khắp nơi như thể một con chó khổng lồ nào đó đã đào bới. Tất cả chúng tôi tự hỏi không biết cái gì đang chờ đợi mình ở nhà, nhưng không ai dám nói ra lời.
Chúng tôi có được câu trả lời thậm chí từ trước khi đi qua khu rừng. Bàn chân Enoch đá phải thứ gì đó, cậu ta bèn cúi người xuống nhìn. Đó là một viên gạch đã cháy đen một nửa.
Cơn hoảng loạn bùng lên. Đám trẻ bắt đầu cuống cuồng chạy theo lối mòn. Khi họ tới chỗ bãi cỏ, những đứa nhỏ nhất òa khóc. Khói bốc mù mịt khắp nơi. Quả bom đã không dừng lại trên ngón tay Adam như thường lệ mà xẻ dọc anh ta làm đôi ngay chính giữa và nổ tung. Góc đằng sau nhà đã biến thành một đống đổ nát sụp xuống bốc khói ngùn ngụt. Những đám lửa nhỏ cháy trên lớp giấy dán tường đã thành than của hai căn phòng. Nơi Adam từng nằm là một cái hố nham nhở đủ sâu để chôn một người đứng thẳng. Giờ đây thật dễ hình dung cảnh tượng nơi này sẽ ra sao vào một ngày nào đó: chính là đống phế tích buồn thảm như có ma ám tôi đã khám phá ra lần đầu tiên mấy tuần trước. Ngôi nhà ác mộng.
Bà Peregrine nhảy xuống từ trên đầu Fiona và bắt đầu hối hả chạy vòng quanh trên mặt cỏ cháy sém, kêu lớn lên hốt hoảng.
“Cô phụ trách, chuyện gì đã xảy ra vậy?” Olive hỏi. “Tại sao thời điểm chuyển đổi không tới?”
Bà Peregrine chỉ có thể kêu rít lên đáp lại. Dường như bà cũng bối rối và hoảng loạn như tất cả chúng tôi.
“Làm ơn hãy biến hình trở lại!” Claire nài nỉ, quỳ gối xuống trước mặt bà.
Bà Peregrine đập cánh, nhảy lên và dường như đang cố gồng mình, nhưng vẫn không thể biến hình. Đám trẻ xúm quanh đầy lo ngại.
“Có chuyện gì đó không ổn”, Emma nói. “Nếu có thể trở lại thành người thì đến lúc này cô đã làm rồi.”
“Có lẽ chính vì thế vòng thời gian bị dịch chuyển”, Enoch đề xuất. “Còn nhớ chuyện về cô Kestrel lúc trước không khi cô ấy bị ngã xe đạp trong một vụ tai nạn giao thông chứ? Cô ấy bị đập đầu xuống và biến thành một con chim cắt trong cả một tuần. Và chính lúc đó vòng thời gian của cô ấy bị dịch chuyển.”
“Chuyện đó thì có liên quan gì tới cô Peregrine?”
Enoch thở dài. “Có thể cô chỉ bị chấn thương đầu và bọn mình chỉ cần đợi một tuần để cô bình phục lại.”
“Một cái xe tải đang phóng nhanh là một chuyện”, Emma nói. “Bị đám xác sống hành hạ lại là chuyện khác. Chẳng thể biết được tên khốn đó đã làm gì cô Peregrine trước khi bọn tớ cứu được cô ấy.”
“Đám xác sống? Số nhiều à?”
“Chính đám xác sống đã bắt bà Avocet đi”, tôi nói.
“Làm sao cậu biết được?” Enoch hỏi.
“Chúng là đồng bọn của Golan, phải không nào? Và tớ đã thấy đôi mắt của cái gã bắn vào bọn tớ. Chẳng còn gì để nghi ngờ nữa.”
“Vậy thì cô Avocet chết chắc rồi”, Hugh nói. “Chúng chắc chắn sẽ giết cô ấy.”
“Có thể là không”, tôi đáp. “Ít nhất cũng không phải ngay lập tức.”
“Tớ biết một điều về đám xác sống”, Enoch nói, “chúng giết những người đặc biệt. Đó là tập tính của chúng. Chúng sẽ làm thế.”
“Không, Jacob nói đúng”, Emma nói. “Trước khi gã xác sống đó chết, hắn đã nói cho bọn tớ biết vì sao chúng bắt cóc nhiều Chủ Vòng Thời Gian đến thế. Chúng sẽ ép buộc họ phải thực hiện lại phản ứng từng tạo ra các hồn rỗng hồi trước - chỉ có điều ở quy mô lớn hơn. Lớn hơn rất nhiều.”
Tôi nghe thấy ai đó kêu lên thảng thốt. Những người khác đều im lặng. Tôi nhìn quanh tìm bà Peregrine và thấy bà cô độc đậu bên rìa cái hố bom ở chỗ Adam.
“Chúng ta cần chặn chúng lại”, Hugh nói. “Chúng ta cần tìm ra nơi chúng mang các Chủ Vòng Thời Gian tới.”
“Bằng cách nào?” Enoch hỏi. “Bám theo một chiếc tàu ngầm chắc?”
Đằng sau tôi, một tiếng hắng giọng vang lên thật to, chúng tôi quay lại thì thấy Horace đang ngồi xếp bằng trên đất. “Tớ biết nơi chúng đang tới”, cậu ta khẽ nói.
“Ý cậu là sao, cậu biết ư?”
“Đừng bận tâm cậu ấy biết bằng cách nào, cậu ấy biết”, Emma nói. “Chúng đã mang cô ấy đi đâu, Horace?”
Cậu ta lắc đầu. “Tớ không biết tên nơi đó”, cậu ta nói, “nhưng tớ đã thấy nó.”
“Vậy hãy vẽ nó ra”, tôi nói.
Cậu ta ngẫm nghĩ giây lát rồi kiên quyết đứng dậy. Trông như một người truyền bá Phúc Âm hành khất trong bộ vest đen rách toạc, cậu ta lê chân tới chỗ một đống tro tràn ra từ bên trong ngồi nhà nứt toác rồi cúi xuống bốc đầy một lòng bàn tay muội than. Tiếp theo, dưới ánh trăng dìu dịu, cậu ta bắt đầu vẽ lên một bức tường vỡ bằng những nét thật rộng.
Chúng tôi xúm lại quanh để xem. Cậu ta đang vẽ một hàng những nét đậm thẳng đứng, trên cùng là nhưng vòng xoắn mảnh, trông như cọc rào và dây thép gai. Ở một bên là một khu rừng tối tăm. Dưới đất có tuyết phủ, được thể hiện bằng muội than đen. Và đó là tất cả.
Sau khi vẽ xong, cậu ta loạng choạng lùi ra và ngồi phịch xuống cỏ, ánh nhìn đờ đẫn, xa xăm. Emma dịu dàng đặt tay lên vai cậu ta và nói, “Horace, cậu còn biết gì thêm về nơi này không?”
“Nơi đó lạnh lẽo lắm.”
Bronwyn bước tới xem xét những nét Horace vạch ra trên tường. Cô vòng cánh tay ôm lấy Olive, đầu Olive hiền hòa tựa vào vai cô. “Tớ trông nó như một nhà tù vậy”, Bronwyn nói.
Olive nghển cổ lên. “Thế nào?” cô khẽ hỏi. “Khi nào chúng ta đi?”
“Đi đâu?” Enoch vừa nói vừa giơ hai bàn tay lên. “Đó chỉ là một mớ nguệch ngoạc!”
“Đó là một nơi nào đó”, Emma nói và quay lại nhìn thẳng vào mặt cậu ta.
“Chúng ta không thể cứ tới chỗ nào có tuyết và tìm một cái nhà tù.”
“Và chúng ta cũng không thể ở lại đây.”
“Sao lại không?”
“Hãy nhìn tình trạng nơi này đi. Hãy nhìn cô phụ trách. Chúng ta đã có khoảng thời gian rất tuyệt ở đây, nhưng nó kết thúc rồi.”
Enoch và Emma đôi co một hồi. Những người còn lại ai nấy chọn cho mình một bên. Enoch lý luận rằng họ đã tách biệt quá lâu khỏi thế giới, họ sẽ bị mắc kẹt trong cuộc chiến tranh hay bị đám hồn rỗng bắt nếu rời khỏi vòng, và tốt hơn nên tìm cơ hội ở đây, ít nhất họ cũng thông thuộc địa hình nơi này. Những người khác nhấn mạnh rằng đằng nào giờ chiến tranh và đám hồn rỗng đã tìm đến với họ rồi, và họ không có lựa chọn nào khác. Đám hồn rỗng và bọn xác sống sẽ quay lại tìm cô Peregrine, và thậm chí khi đó chúng còn đông hơn. Và phải nghĩ tới cả cô Peregrine nữa.
“Chúng ta sẽ tìm một Chủ Vòng Thời Gian khác”, Emma đề xuất. “Chỉ có những người bạn của cô phụ trách mới biết cách giúp cô.”
“Nhưng sẽ thế nào nếu tất cả các vòng thời gian khác cũng đều đã bị dịch chuyển?” Hugh nói. “Sẽ thế nào nếu tất cả Chủ Vòng Thời Gian khác đều đã bị bắt cóc?”
“Chúng ta không thể nghĩ theo lối đó. Nhất định phải còn lại vài người.”
“Emma nói đúng”, Millard nói, nằm trên mặt đất lấy một mảnh tường vỡ làm gối kê đầu. “Nếu lựa chọn còn lại là cứ chờ đợi và hy vọng - rằng sẽ không có thêm hồn rỗng nào mò tới, rằng cô phụ trách sẽ khá hơn - thì theo tớ đó chẳng phải là lựa chọn.”
Những người thoái chí cuối cùng cũng bị làm cho bẽ mặt và phải đồng ý. Cần rời bỏ trại trẻ. Đồ mang theo cần được đóng gói. Cần trưng dụng vài chiếc thuyền từ chỗ bến tàu để sử dụng, và đến sáng tất cả sẽ lên đường.
Tôi hỏi Emma họ sẽ định hướng ra sao. Nói gì thì nói, đám trẻ đã ở trên đảo gần tám mươi năm, còn bà Peregrine lại không thể nói hay bay được.
“Có một bản đồ”, cô nói với tôi trong khi chậm rãi quay đầu nhìn về phía trại trẻ đang bốc khói. “Đấy là trong trường hợp nó chưa bị cháy mất.”
Tôi xung phong giúp cô đi tìm nó. Quấn vải ướt lên che mặt, chúng tôi đánh liều đi vào trong nhà, chui vào qua bức tường đổ sập. Các cửa sổ đã vỡ hết kính, không gian mù mịt khói nhưng nhờ ánh sáng mạnh từ ngọn lửa trên bàn tay Emma, chúng tôi tìm được đường tới phòng học. Tất cả các giá sách đã đổ ập xuống như những quân domino, chúng tôi đẩy chúng sang bên và phủ phục xuống tìm kiếm trong những cuốn sách rơi vung vãi trên sàn. Và như thể vận may đã mỉm cười, cuốn sách thật dễ tìm: đó là cuốn sách to nhất trong thư viện. Emma reo lên mừng rỡ và cầm nó lên.
Trên đường quay ra, chúng tôi tìm thấy rượu mạnh, cồn thuốc phiện và băng gạc sạch cho Millard. Sau khi giúp lau sạch và băng vết thương lại cho cậu ta, chúng tôi cùng ngồi xuống xem cuốn sách. Thực ra đây là một tập bản đồ chứ không phải một tấm bản đồ, được đóng trong bìa da được nhuộm màu đỏ thẫm như vang Bourgogne, mỗi trang đều được vẽ cẩn thận trên thứ chất liệu gì đó như giấy da. Tập bản đồ rất đẹp và cổ, khổ to đến mức khít một vòng tay ôm của Emma.
“Nó được gọi là bản đồ Các Ngày”, cô nói. “Nó thể hiện tất cả các vòng thời gian được cho là từng tồn tại.” Trang cô đã giở ra có vẻ là một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù không có con đường nào được vẽ, không biên giới nào được vạch rõ. Thay vào đó, tấm bản đồ có vẽ rải rác những vòng xoáy ốc nhỏ xíu, tôi đoán đó là vị trí các vòng thời gian. Ở giữa mỗi vòng xoáy là một ký hiệu đặc trưng tương ứng với một chú giải ở phía cuối trang bản đồ, tại đó các ký hiệu xuất hiện trở lại cạnh một dãy các con số cách nhau bằng dấu gạch ngang. Tôi chỉ vào dòng ghi 29-3-316 /?-?-399 và hỏi, “Đây là cái gì vậy, một loại mật mã à?”
Emma đưa ngón tay lần theo dòng số. “Vòng thời gian này là ngày hai mươi chín tháng Ba năm 3l6 Công nguyên. Nó tồn tại cho tới tận thời điểm nào đó vào năm 399, nhưng ngày tháng thì không rõ.”
“Chuyện gì xảy ra năm 399 vậy?”
Cô nhún vai. “Trong đó không nói rõ.”
Tôi vươn người ra trước cô và lật sang một bản đồ Hy Lạp, trên đó còn dày đặc các vòng xoáy ốc và con số hơn. “Nhưng liệt kê tất cả những cái này ra để làm gì?” tôi hỏi. “Làm thế nào cậu có thể tới những vòng cổ xưa này được?”
“Bằng cách nhảy cóc”, Millard nói. “Đó là một việc cực kỳ phức tạp và nguy hiểm, nhưng bằng cách nhảy cóc từ một vòng tới một vòng khác - một ngày thuộc về năm mươi năm trước trong quá khứ chẳng hạn - cậu có thể thấy mình tiếp cận được toàn bộ những vòng đã ngừng tồn tại trong vòng năm mươi năm vừa qua. Nếu từ đó cậu có thể tìm được tới chúng, ở trong các vòng đó cậu sẽ còn tìm thấy những vòng khác, và cứ thế tăng lên theo số mũ.”
“Đó là du hành vượt thời gian”, tôi kinh ngạc thốt lên. “Du hành vượt thời gian thật sự.”
“Phải, tớ cho là vậy.”
“Vậy thì nơi này”, tôi nói, chỉ tay vào hình vẽ bằng muội than của Horace trên tường. “Chúng ta không những phải xác định xem nó nằm ở đâu, mà còn vào thời điểm nào nữa, đúng không?”
“Tớ e là thế. Và nếu quả thực cô Avocet đang bị đám xác sống, những kẻ khét tiếng thành thạo trong việc nhảy cóc thời gian bắt giữ, thì rất có khả năng nơi cô ấy và các Chủ Vòng Thời Gian khác bị đưa tới nằm ở đâu đó trong quá khứ. Điều đó sẽ khiến cho việc tìm họ càng thêm khó khăn, và việc đến đó càng thêm nguy hiểm. Vị trí những vòng thời gian trong quá khứ đều bị các kẻ thù của chúng ta biết rõ, và chúng thường lảng vảng chờ chực ngay gần lối vào.”
“À, nếu thế”, tôi nói, “quả là chuyện tốt khi tớ đi cùng các cậu.”
Emma quay sang nhìn tôi. “Ồ, thế thì tuyệt quá!” cô reo lên rồi ôm chầm lấy tôi. “Cậu chắc chứ?”
Tôi nói với cô là tôi chắc. Dù đang mệt rã rời, đám trẻ cũng hồ hởi huýt sáo và vỗ tay. Một vài người ôm hôn tôi. Thậm chí cả Enoch cũng bắt tay tôi. Nhưng khi tôi quay lại nhìn Emma, nụ cười của cô đã biến mất.
“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.
Cô cựa người bối rối. “Có một chuyện cậu cần phải biết”, cô nói, “và tớ e là nó sẽ làm cậu không muốn đi cùng bọn tớ.”
“Không đâu”, tôi cam đoan với cô.
“Khi chúng ta rời khỏi đây, vòng thời gian sẽ khép lại đằng sau chúng ta. Có thể cậu sẽ không bao giờ còn quay lại được thời điểm cậu xuất phát để tới đây. Hay ít nhất cũng không dễ dàng.”
“Chẳng có gì cho tớ ở đó nữa”, tôi vội nói. “Thậm chí dù có thể quay lại, tớ cũng không chắc mình muốn thế.”
“Bây giờ cậu nói vậy thôi. Tớ cần cậu phải chắc chắn.”
Tôi gật đầu, rồi đứng lên.
“Cậu đi đâu thế?” Emma hỏi.
“Đi dạo.”
Tôi không đi xa, chỉ chậm rãi vòng quanh khoảng sân gọn ghẽ, ngắm nhìn bầu trời lúc này đã quang đãng, với hàng tỷ ngôi sao trải ra rải rác. Những ngôi sao cũng là những kẻ du hành vượt thời gian. Có bao nhiêu trong số những đốm sáng cổ xưa kia là dư ảnh cuối cùng của các mặt trời giờ đây đã chết? Có bao nhiêu ngôi sao nữa đã hình thành nhưng ánh sáng của chúng vẫn chưa đi xa được tới đây? Nếu tất cả các mặt trời trừ mặt trời của chúng ta đều vụt tắt tối nay, sẽ phải mất quãng thời gian bằng bao nhiêu đời người nữa chúng ta mới nhận ra sự cô độc của mình? Tôi vẫn luôn biết bầu trời đầy ắp các bí ẩn - nhưng mãi tới bây giờ tôi mới nhận ra mặt đất cũng đầy ắp bí ẩn đến mức nào.
Tôi tới chỗ con đường mòn dẫn vào rừng. Ở đầu bên kia là nhà và mọi thứ tôi biết, không bí ẩn, bình thường và an toàn.
Có điều nó không an toàn. Không hẳn an toàn. Không còn an toàn nữa. Đám quái vật đã sát hại ông nội Portman, và chúng đã bám theo tôi. Sớm muộn gì chúng sẽ lại tiếp tục. Có khi nào một ngày nào đó tôi quay về nhà và thấy bố mình nằm chết dưới sàn, người đầm đìa máu? Hoặc là mẹ tôi? Ở đầu bên này con đường, đám trẻ đang tập trung thành từng nhóm nhỏ đầy phấn khích, lần đầu tiên trong cuộc đời được bàn bạc lên kế hoạch cho tương lai.
Tôi bước trở lại chỗ Emma, cô vẫn đang cúi xuống tập bản đồ to tướng. Bà Peregrine đậu cạnh Emma, dùng mỏ mổ lên chỗ này chỗ kia trên bản đồ. Cô ngước lên khi tôi lại gần.
“Tớ chắc”, tôi nói.
Cô mỉm cười. “Tớ rất vui.”
“Chỉ còn một việc tớ phải làm trước khi đi.”
o O o
Tôi quay về thị trấn ngay trước bình minh. Mưa cuối cùng cũng ngớt, và khởi đầu của một ngày quang đãng đã hé rạng phía chân trời. Đường cái trông giống như một cánh tay với các tĩnh mạch bị rạch toang, những vết rạch dài ở nơi nước lụt cuốn trôi lớp sỏi rải đường đi mất.
Tôi bước vào quán rượu, qua chỗ quầy bar vắng tanh lên lầu, đến hai căn phòng của bố con tôi. Tối om, cửa phòng bố tôi vẫn đóng, điều này khiến tôi nhẹ nhõm vì tôi vẫn chưa nghĩ ra được làm thế nào để nói những gì phải nói với ông. Thay vì thế, tôi ngồi xuống, lấy bút và giấy rồi viết cho ông một lá thư.
Tôi cố giải thích mọi thứ. Tôi viết về đám trẻ đặc biệt, về các hồn rỗng cũng như việc tất cả những câu chuyện ông nội Portman kể hóa ra đều là sự thật. Tôi kể với bố những gì đã xảy đến với bà Peregrine và bà Avocet, đồng thời cố giải thích để ông hiểu vì sao tôi phải ra đi. Tôi mong ông đừng lo lắng.
Sau đó, tôi dừng bút rồi đọc những gì vừa viết. Không ổn. Bố sẽ không bao giờ tin vào lá thư. Ông sẽ nghĩ tôi đã bị mất trí hệt như ông nội, hoặc cho rằng tôi đã bỏ trốn hay bị lừa đi theo kẻ nào đó, hay nhảy từ trên vách đá xuống. Dù là thế nào, tôi cũng sẽ hủy hoại cuộc sống của ông. Tôi vo tờ giấy lại và ném nó vào sọt rác.
“Jacob?”
Tôi ngoảnh lại và thấy bố đang tựa người vào thành cửa, đôi mắt lờ mờ, tóc rối bù, mặc một chiếc áo sơ mi bết bùn và quần jean.
“Con chào bố.”
“Bố sẽ hỏi con một câu đơn giản, không vòng vo”, ông nói, “và bố muốn một câu trả lời đơn giản, không vòng vo. Tối qua con đã ở đâu?” Tôi có thể thấy ông đang cố sức để giữ bình tĩnh.
Tôi đã quyết định chấm dứt việc nói dối. “Bố, con ổn cả. Con đã ở cùng các bạn con.”
Chẳng khác gì tôi giật chốt an toàn một quả lựu đạn.
“ĐÁM BẠN CỦA CON CHỈ LÀ TƯỞNG TƯỢNG!” bố tôi hét lên. Ông bước lại phía tôi, mặt đỏ gay. “Bố ước gì mẹ con và bố đừng bao giờ để gã bác sĩ tâm lý lập dị đó thuyết phục đưa con tới đây, vì chuyện đó đã trở thành một tai họa ghê gớm! Vừa rồi là lần cuối cùng con nói dối bố đấy! Giờ hãy vào phòng con và bắt đầu gói ghém đồ. Chúng ta sẽ lên chuyến phà tiếp theo!”
“Kìa bố?”
“Và khi chúng ta về nhà, con sẽ không được ra khỏi nhà cho tới khi chúng ta tìm được bác sĩ tâm lý nào đó không ngu toàn tập!”
“Bố!”
Tôi cân nhắc trong giây lát xem mình có buộc phải chạy trốn khỏi ông hay không. Tôi hình dung ra bố đè tôi xuống, lớn tiếng gọi người tới giúp, rồi điệu tôi lên phà với hai cánh tay bị giữ lại trong một cái áo bó chặt người dùng để kiểm soát bệnh nhân tâm thần.
“Con không đi với bố đâu”, tôi nói.
Đôi mắt ông nheo lại, rồi ông nghiêng đầu sang một bên như thể chưa nghe rõ. Tôi đang định nhắc lại câu vừa rồi thì có tiếng gõ cửa.
“Biến đi!” bố tôi gắt lên.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, lần này to rõ hơn. Bố tôi đùng đùng xông tới mở toang cửa ra, và đứng trên đầu cầu thang là Emma, một quả cầu lửa xanh lơ nhỏ xíu nhảy múa trên bàn tay cô. Bên cạnh cô là Olive.
“Xin chào”, Olive nói. “Chúng cháu tới đây gặp Jacob.”
Bố tôi ngớ người ra nhìn họ. “Cái gì thế này...”
Hai cô gái lách qua ông vào trong phòng.
“Hai người đang làm gì ở đây vậy?” tôi khẽ gắt lên với họ.
“Bọn mình chỉ muốn tự giới thiệu thôi”, Emma đáp, nhoẻn một nụ cười hết cỡ về phía bố tôi. “Chúng cháu gần đây có chơi khá thân với con trai chú, vì thế chúng cháu thấy ghé qua thăm cũng là hợp lẽ.”
“Được thôi”, bố tôi nói, đưa mắt nhìn qua nhìn lại hai vị khách.
“Cậu ấy thực sự là một chàng trai cừ khôi”, Olive nói. “Rất can đảm!”
“Và đẹp trai nữa!” Emma nói thêm và nháy mắt với tôi. Cô bắt đầu chao qua chao lại quả cầu lửa giữa hai bàn tay mình như một món đồ chơi. Bố tôi nhìn nó chăm chăm như bị thôi miên.
“Ph... phải”, ông lắp bắp. “Hẳn rồi.”
“Chú không phiền nếu cháu cởi giày ra chứ ạ?” Olive hỏi, rồi cởi luôn giày ra mà không đợi câu trả lời, và lập tức lơ lửng bay lên tận trần. “Cảm ơn chú. Thế này thoải mái hơn nhiều!”
“Bố, đây là các bạn con. Những người bạn con đã kể với bố. Đây là Emma, còn kia là Olive, trên trần ấy.”
Bố tôi loạng choạng lùi lại một bước. “Bố vẫn đang ngái ngủ”, ông mơ màng nói. “Bố mệt quá...”
Một cái ghế tựa nhấc mình lên khỏi sàn, bồng bềnh bay tới chỗ ông, đằng sau là một dải băng bó được quấn rất có nghề nhấp nhô trong không khí. “Vậy mời chú ngồi xuống”, Millard lên tiếng.
“Được”, bố tôi đáp, và ông ngồi xuống.
“Cậu làm gì ở đây vậy?” tôi thì thào hỏi Millard. “Đáng lẽ cậu cần nằm nghỉ chứ?”
“Tớ đi loanh quanh thôi.” Cậu ta giơ lên một lọ thuốc trông có vẻ hiện đại. “Tớ phải công nhận trong tương lai họ chế tạo được những viên thuốc giảm đau công hiệu đến kỳ diệu!”
“Bố, đây là Millard”, tôi nói. “Bố không nhìn thấy cậu ấy vì cậu ấy vô hình.”
“Rất vui được gặp cháu.”
“Cháu cũng vậy”, Millard nói.
Tôi đến bên bố và quỳ gối xuống cạnh ghế ông ngồi. Đầu ông hơi gật gù. “Bố, con sẽ đi. Có thể bố con mình sẽ không gặp nhau một thời gian.”
“Ồ, vậy sao? Con định đi đâu?”
“Một cuộc du hành.”
“Một cuộc du hành”, ông nhắc lại. “Khi nào con về?”
“Con cũng không biết nữa.”
Bố tôi lắc đầu. “Hệt như ông nội con vậy.” Millard vặn nước từ vòi vào một cái cốc rồi mang tới cho bố tôi, ông đưa tay ra cầm lấy nó, như thể những cái cốc thủy tinh bay lơ lửng chẳng có gì lạ thường. Tôi đoán ông thực sự nghĩ mình đang mơ. “Được rồi, chúc ngủ ngon”, bố tôi nói rồi đứng dậy, bám vào ghế để đứng vững hẳn, sau đó lê bước về phòng ngủ của mình. Dừng lại ngoài cửa, ông quay lại nhìn vào mặt tôi.
“Jake này?”
“Vâng, thưa bố?”
“Cẩn thận con nhé!”
Tôi gật đầu. Bố tôi đóng cửa lại. Một khoảnh khắc sau tôi nghe thấy ông nằm vật xuống giường.
Tôi ngồi xuống và đưa tay lên xoa mặt. Tôi không biết phải cảm thấy thế nào nữa.
“Bọn mình có giúp được gì không?” Olive hỏi từ chỗ cô đang bám trên trần.
“Tớ không rõ nữa”, tôi nói. “Tớ không nghĩ vậy. Sau đây bố tớ sẽ chỉ thức dậy và nghĩ ông đã nằm mơ thấy tất cả các cậu.”
“Cậu có thể viết một lá thư”, Millard gợi ý. “Nói với ông ấy bất cứ điều gì cậu muốn - ông ấy không bám theo bọn mình được đâu.”
“Tớ đã viết một lá thư. Nhưng nó không phải là bằng chứng.”
“À”, cậu ta đáp. “Phải, tớ hiểu khó khăn của cậu rồi.”
“Bị vậy cũng hay nhỉ”, Olive nói. “Ước gì bố mẹ tớ đã yêu tớ đủ để lo lắng khi tớ rời khỏi nhà.”
Emma đưa tay ra siết nhẹ bàn tay Olive. Rồi Emma nói, “Có lẽ tớ có bằng chứng đấy.”
Cô lấy từ trong cạp váy ra một cái ví nhỏ rồi lấy từ đó ra một bức ảnh. Cô đưa bức ảnh cho tôi. Đó là ảnh chụp cô và ông tôi khi ông còn trẻ. Tất cả sự chú ý của cô tập trung vào ông, nhưng ông dường như đang để tâm đi đâu. Bức ảnh thật buồn và đẹp, bao hàm toàn bộ phần ít ỏi tôi biết về mối quan hệ của hai người.
“Nó được chụp ngay trước khi Abe lên đường ra trận”, Emma nói. “Bố cậu sẽ nhận ra tớ, phải không?”
Tôi mỉm cười với cô. “Trông cậu như chưa già thêm lấy một ngày.”
“Tuyệt vời!” Millard nói. “Đó là bằng chứng của cậu.”
“Cậu luôn giữ bức ảnh này bên mình sao?” tôi hỏi khi trả lại Emma bức ảnh.
“Phải. Nhưng tớ không còn cần đến nó nữa.” Cô tới bên bàn, cầm lấy cây bút của tôi và bắt đầu viết lên đằng sau bức ảnh. “Tên bố cậu là gì?”
“Franklin.”
Khi đã viết xong, cô đưa bức ảnh cho tôi. Tôi xem qua cả hai mặt rồi lấy lá thư của mình từ trong sọt rác ra, vuốt phẳng nó, rồi để lại trên bàn cùng bức ảnh.
Franklin thân mến,
Rất vui được gặp cậu. Đây là một bức ảnh của bố cậu và tôi đã chụp khi ông ấy sống ở đây. Tôi hy vọng nó sẽ đủ để thuyết phục cậu rằng tôi vẫn còn sống, và những câu chuyện Jacob kể không phải là hư cấu.
Jacob sẽ đi cùng các bạn tôi và tôi trong một thời gian. Chúng tôi sẽ tông chừng cho nhau được an toàn hết mức mà những người như chúng tôi có thể giữ được. Một ngày nào đó, khi nguy hiểm đã qua, cậu ấy sẽ trở về với cậu.
Tôi xin hứa với cậu.
Thân,
Emma Bloom
T.B: Tôi biết có thể cậu đã tìm thấy một lá thư tôi gửi cho bố cậu nhiều năm trước. Đó là một lá thư không hợp tình hợp lý cho lắm, và tôi cam đoan với bố cậu rằng bố cậu không hề đề nghị tôi viết; và ông ấy cũng không trả lời nó. Ông ấy là một trong những người chính trực nhất mà tôi từng biết.
“Sẵn sàng đi rồi chứ?” tôi hỏi.
Các bạn tôi đang đứng trên ngưỡng cửa, chờ đợi tôi.
“Chỉ đi nếu cậu cũng sẵn sàng”, Emma đáp.
Chúng tôi lên đường tới triền đồi. Khi tới gần đỉnh đồi nơi tôi luôn dừng lại để xem mình đã đi xa đến mức nào, lần này tôi vẫn bước đi tiếp. Đôi khi tốt hơn không nên nhìn lại.
Khi chúng tôi tới chỗ mộ đá, Olive vỗ lên các tảng đá như một con thú cưng đã thân quen lâu ngày. “Tạm biệt, vòng thân mến”, cô nói. “Mày đã luôn là một cái vòng thật tốt, và chúng tao sẽ nhớ mày lắm.” Emma bóp khẽ lên vai cô gái, cả hai người cùng quỳ phục xuống và chui vào trong.
Vào đến căn phòng trong cùng, Emma ghé ngọn lửa của cô sát lên tường và chỉ cho tôi thấy thứ tôi chưa bao giờ nhận ra trước đây: một danh sách dài các ngày tháng và chữ cái viết tắt họ tên được khắc vào đá. “Đó là tất cả những lần người ta từng dùng vòng thời gian này”, cô giải thích. “Tất cả những ngày khác mà vòng thời gian đã được cài đặt theo.”
Nhìn vào danh sách, tôi đọc được một dòng P.M 3-2-1853 và một dòng J.R.R. 1-4-1797 và một dòng gần như không còn đọc nổi X.J. 1580. Gần dưới cùng là một vài dấu hiệu lạ lùng tôi không hiểu được.
“Chữ Rune”, Emma nói. “Cổ lắm rồi.”
Millard lần tìm trong đám sỏi cho tới khi thấy một viên đá có cạnh sắc, rồi dùng một viên đá khác làm búa, cậu ta đục một dòng ghi chú của mình bên dưới những dòng khác. Dòng này viết A.P. 3-9-1940.
“AP là ai vậy?” Olive hỏi.
“Alma Peregrine”, Millard nói, rồi cậu ta thở dài. “Đáng ra người khắc dòng này phải là cô, chứ không phải tớ.”
Olive lần bàn tay lên trên những nét khắc thô ráp. “Cậu có nghĩ lúc nào đó một Chủ Vòng Thời Gian khác sẽ tới đây để tạo ra một vòng thời gian không?”
“Tớ hy vọng là thế”, cậu ta nói. “Tớ thực lòng hy vọng là thế.”
o O o
Chúng tôi chôn cất Victor. Bronwyn bê cả chiếc giường của anh ta lên và mang nó ra ngoài, Victor vẫn nằm trên đó, và khi toàn bộ đám trẻ tập hợp lại trên bãi cỏ, cô kéo chăn đắp ra và ôm lấy Victor, đặt cái hôn cuối cùng lên trán anh ta. Mấy cậu con trai chúng tôi nâng các góc giường lên như những người khiêng linh cữu và đưa anh ta tới đặt xuống cái hố quả bom đã đào thành. Rồi tất cả chúng tôi cùng leo lên ngoại trừ Enoch, cậu ta lấy một người đất sét từ trong túi áo ra và nhẹ nhàng đặt lên ngực chàng trai.
“Đây là chú lính cừ nhất của tớ”, cậu ta nói. “Để làm bạn cùng cậu.” Người đất sét ngồi dậy, Enoch bèn dùng ngón cái ấn nó nằm xuống. Người đất sét bèn lăn sang bên, một cánh tay kê dưới đầu và có vẻ như ngủ thiếp đi.
Khi cái hố đã được lấp đầy, Fiona kéo vài chồi cây và đoạn dây leo rải lên nền đất mới đắp và bắt đầu trồng chúng. Khi những người còn lại trong chúng tôi đã hoàn thành việc gói ghém đồ cho cuộc hành trình, Adam đã trở lại vị trí cũ của anh ta, chỉ có điều giờ đây anh ta đánh dấu ngôi mộ của Victor.
Sau khi đám trẻ đã nói lời từ biệt trại trẻ, một số cầm theo vài mảnh gạch hay bông hoa ngắt trong vườn làm kỷ niệm, chúng tôi thực hiện chuyến đi cuối cùng qua hòn đảo: qua những vạt rừng cháy đen nghi ngút khói, qua đầm lầy bị những hố bom đào xới, qua rặng đồi và xuống qua thị trấn nhỏ với làn khói than bùn lơ lửng phía trên nơi các cư dân đang nấn ná bên các khung cửa sổ và cửa ra vào, quá mệt mỏi và choáng váng tới mức dường như chẳng hề nhận ra cuộc diễu hành nho nhỏ của những đứa trẻ có dáng vẻ đặc biệt ngang qua phía trước họ.
Chúng tôi lặng lẽ nhưng đầy kích động. Đám trẻ đã không hề ngủ, nhưng nếu nhìn vào họ bạn sẽ không thể biết được điều đó. Hôm ấy là ngày mồng bốn tháng Chín, và lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, ngày tháng lại bắt đầu trôi qua. Vài người trong đám trẻ quả quyết họ có thể cảm nhận thấy sự khác biệt; không khí trong buồng phổi họ tươi mới hơn, dòng máu tuần hoàn trong người họ chảy nhanh hơn. Họ cảm thấy tràn đầy sức sống và chân thực hơn.
Cả tôi cũng thế.
o O o
Tôi từng mơ thoát khỏi cuộc sống bình thường của mình, song cuộc đời tôi chưa bao giờ bình thường. Chỉ đơn giản tôi đã không thể nhận ra nó khác thường tới mức nào. Cũng như thế, tôi chưa bao giờ tưởng tượng được rằng nhà có thể là một nơi tôi sẽ nhớ nhung. Ấy vậy nhưng khi chúng tôi chuyển đồ xuống những chiếc thuyền của mình trong ánh bình minh đang dần ló dạng, trước một lằn ranh mới của Trước và Sau, tôi nghĩ tới mọi thứ mình sắp để lại sau lưng - bố mẹ, thị trấn nơi tôi sống, cậu bạn từng thân nhất và là người bạn duy nhất của tôi - và nhận ra việc ra đi sẽ không hề giống như tôi từng tưởng tượng, không giống như rũ bỏ một gánh nặng. Ký ức về chúng là thứ gì đó rõ ràng và nặng nề, và tôi sẽ mang nó theo mình.
Ấy thế nhưng, cuộc sống trước đây của tôi là một thứ không thể quay trở lại, cũng như ngôi nhà bị trúng bom của đám trẻ. Các cánh cửa đã bị hất tung ra khỏi những cái lồng của chúng tôi.
Mười đứa trẻ đặc biệt và một con chim đặc biệt cần được thu xếp đủ chỗ chỉ trên ba chiếc thuyền chèo tay, trong khi rất nhiều thứ cần bị lược bỏ và để lại trên bến tàu. Khi chúng tôi đã xong việc, Emma đề nghị một người trong chúng tôi nói điều gì đó - một lời phát biểu dành cho chuyến đi phía trước - nhưng dường như không ai có sẵn từ ngữ. Vậy là Enoch giơ cao cái lồng của bà Peregrine lên, bà liền kêu lên một tiếng thật to, chói tai. Chúng tôi đáp lại bằng một tiếng hô vang, vừa là tiếng reo chiến thắng vừa là lời than vãn, dành cho mọi thứ đã mất đi nhưng vẫn có thể giành lại.
Hugh và tôi chèo chiếc thuyền đầu tiên. Enoch ngồi quan sát chúng tôi ở mũi thuyền, sẵn sàng chờ đến lượt mình, trong khi Emma đầu đội mũ ngắm nhìn hòn đảo đang lùi xa dần. Mặt biển như một tấm gương gợn sóng lăn tăn trải ra vô tận phía trước chúng tôi. Ngày mới ấm áp, nhưng một cơn gió lạnh nổi lên khỏi mặt nước, và tôi có thể thoải mái chèo trong hàng giờ. Tôi tự hỏi làm thế nào sự bình yên này có thể thuộc về một thế giới đang trong chiến tranh.
Trên chiếc thuyền kế tiếp, tôi thấy Bronwyn vẫy tay và đưa chiếc máy ảnh của bà Peregrine lên mắt. Tôi mỉm cười đáp lại. Chúng tôi không mang theo bất cứ cuốn album ảnh cũ nào; có thể đây sẽ là bức ảnh đầu tiên trong một cuốn album mới tinh. Thật lạ khi nghĩ tới chuyện một ngày kia có lẽ tôi cũng sẽ có xấp ảnh ố vàng của chính mình để chỉ cho những đứa cháu đang hoài nghi xem - cùng những câu chuyện hoang đường của chính tôi để kể lại cho chúng.
Sau đó, Bronwyn hạ chiếc máy ảnh xuống và giơ cánh tay lên, chỉ vào thứ gì đó phía đằng sau chúng tôi. Ngoài xa, nổi lên đen sẫm trong ánh mặt trời đang lên, một đoàn chiến hạm xuất hiện nơi đường chân trời.
Chúng tôi chèo nhanh hơn.