Số lần đọc/download: 1612 / 32
Cập nhật: 2016-01-26 07:43:37 +0700
Chương 12
Q
uan tòa hướng về phía Công tố tỏ ý mời. Nhưng thay vì ông biện lý Hamilton Burger thì lại là ông phó Colton Parma đứng lên.
- Thưa quý Tòa, thưa quý ông, quý bà, chúng tôi xin trình bày là nữ bị cáo trong vụ này được thừa hưởng một gia tài rất lớn của Harper Minden, tình cờ cô nhận ra rằng người dì của mình có một người con gái ngoài giá thú tên là Dorrie Ambler. Thêmn nữa, cô ta còn biết là cả hai người đều có chung một người cha; cho nên cô Dorrrie Ambler có quyền hưởng gia tài ngang với Minerva Minden
Bây giờ, tôi xin phép nói đến trường hợp mà bị cáo biết được điều đó. Vào buổi tối ngày 6 tháng 9 vừa qua, bị cáo dự buổi khiêu vũ ở Câu lạc bộ Montrose Country. Đến một lúc nào đó, có lẽ vì quá chén, cô ta cãi nhau với người bạn trai nên để anh ta ở đó rồi giận dữ bỏ đi.
Ở bãi để xe của Câu lạc bộ có một chiếc Cadillac mang biển số WHW 694 đang nổ máy. Chiếc xe này bị đánh cắp ở San Francisco nhưng bị cáo không biết. Vốn nổi danh là người có tính nết thất thường, cô liền nhảy lên xe và phóng đi. Hình như ban đầu cô định về nhà nhưng khi đến ngã tư Đại lộ Hollywood và Thông lộ Western, cô vượt đèn đỏ và đâm vào một người đi bộ. Cô dừng xe, có vẻ như muốn cứu người bị nạn, nhưng bỗng đổi ý lại lên xe chạy vụt đi.
Bị cáo nghĩ ra một kế hoạch để thoát thân. Cô ta thuê một hãng trinh thám tư đăng quảng cáo tìm một người phụ nữ thật giống cô ta. Dorrie liền đến trình diện và được nhận ngay. Vì Dorrie quá giống Minerva nên bị cáo nhận ra rằng đó là người em, con ngoài giá thủ của dì cô.
Bị cáo đã bắt cô Dorrie Ambler đi qua đi lại nhiều lần ở ngã tư, nơi bị cáo gây ra tai nạn để cho người qua đường từng chứng kiến vụ đó phải lầm lạc. Sau sự việc như vậy thì các người làm chứng khó biết người nào là kẻ phạm lỗi.
Đó là kế hoạch đầu tiên của bị cáo. Nhưng cô ta chợt nhận ra mình tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa vì các phóng viên báo chí nếu nhận ra sự giống nhau đó tất sẽ tìm ra mối liên hệ bà con của cô với Dorrie Ambler.
Cho nên bị cáo mới bắt mối với gã Dunleavy Jasper...
Perry Mason chen vào
- Khoan đã. Chúng tôi rất tiếc phải ngắt lời trình bày của ông công tố, nhưng phía buộc tội đang muốn nói về các hành vi khác nhầm đánh lạc hướng hội đồng. Tôi xin ông Chánh án lưu ý để ông công tố trở lại vấn đề chính và xin Tòa đừng quan tâm đến các sự kiện ấy.
- Chúng tôi có quyền nói về những hành vi khác đã là nguyên cớ khiến cho bị cáo bị truy tố về tội giết người, - Parma cãi lại.
Ông Chánh án Fint nói:
- Xin các ông chỉ lưu ý tới những sự kiện mà các ông kết luận được các sự kiện ấy là nguyên nhân khiến cho bị cáo giết người thôi.
Parma nói quả quyết:
- Thưa ngài, đúng la trường hợp tôi đang trình bày đấy!
- Được rồi, xin ông cứ tiếp tục.
- Tôi nói sắp xong rồi, thưa ngài. Chúng tôi đang chứng minh rằng Dunleavy Jasper có dính líu đến chiếc xe bị đánh cắp, bị cáo biết gã này từng phạm nhiều tội hình sự nên mướn gã bắt cóc Dorrie Ambler và đồng thời để mọi người tin rằng chính Dorrie Ambler là người đã gây ra tai nạn.
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng người thám tử tư Marvin Billings đã đánh hơi được âm mưu này và cứ theo các nguồn tin thu thập được thì có thể đoán hắn muốn đe dọa tống tiền bị cáo. Nếu gã Billings là người thận trọng, nếu gã không nghĩ rằng có thể lợi dụng Dorrie Ambler để moi gia tài của Minerva Minden thì vụ xử hôm nay sẽ không xảy ra vì không có ai bị giết hết.
Đúng thế, Billings chẳng phải là người tốt đẹp gì nhưng dù sao, mạng người vẫn đáng quý trọng nên ai giết gã vẫn phải đền tội.
Như vậy là Billings đến nhà Dorrie Ambler đúng vào lúc cô này bị bắt cóc và bị đưa tới một căn hộ ở tầng dưới. Khi nghe chuông reo, bị cáo định ra mở cửa vì cho rằng mình có thể được hiểu lầm là Dorrie Ambler.
Lúc đầu thì Billings có lầm thật, nhưng càng nói chuyện thì gã càng biết thật giả. Thế là gã giở thủ đoạn tống tiền do đó bị cáo đã giết gã bằng một phát súng lục cở 22. Sau khi Billings bị giết thì chuông lại reo lần nữa. Lần này là luật sư Perry Mason, và Paul Drake, một thám tử tư.
Ông phó biện lý nói tiếp:
- Chúng tôi nghĩ rằng sau khi bị lôi vào căn hộ số 805, cô Dorrie Ambler tội nghiệp đã bị chích một mũi moocphin...
- Một lần nữa, thưa ông chánh án, chúng tôi bắt buộc phải phản đối, - Mason chen vào. - Chuyện xảy ra cho Dorrie Ambler không liên quan gì đến vụ đang xử.
- Nhưng đó là lý do dẫn đến phạm tội, - Parma cãi lại.
- Không phải đâu, bởi vì điều ông đang nói xảy ra sau vụ giết Billings.
- Lời phản đối được chấp nhận, - Ông chánh án phán.
Parma phải chịu thua nhưng có vẻ miễn cưỡng.
- Dù sao thì thưa các quý ông, quý bà, tôi cũng đã trình bày khá đủ để quý vị theo dõi mà đánh giá lời khai của các người làm chứng. Quý vị sẽ nghe lời thú nhận của một đồng phạm và lưu ý đến vài sự kiện mà chính bị cáo cũng đã xác nhận. Do đó tôi tuyên bố bị cáo phạm tội cố ý giết người. Nhưng thưa các ông các bà bồi thẩm, tôi xin phép nhắc lại có một câu hỏi đặt ra - ông ta giơ một ngón tay để nhấn mạnh câu nói — chỉ có một câu thôi, là những chứng cứ đưa ra với quý vị đã đủ để chứng minh là bị cáo giết Billings chưa?
Sau lời kết đó, Parma trở lại ghế công tố viên, ông chánh án Flint hỏi:
- Luật sư Mason có phát biểu gì không?
- Thưa ông chánh án, không. Nhưng tôi xin ngài lưu ý đoàn bồi thẩm là lời tuyên bố của ông Công tố không đúng sự thật.
- Không đúng ở chỗ nào? - Chánh án hỏi.
Mason đứng dậy giơ cánh tay trái lên khỏi đầu, ngón trỏ chỉ lên trần:
- Không đúng ở chỗ Tòa không phải xét một mà là hai việc.
Rồi luật sư nói tiếp:
- Không phải chỉ xác định rằng bị cáo phạm tội mà còn phải xác định rằng chắc chắn bị cáo phạm tội vì bị cáo sẽ được tạm tha nếu còn có điểm nghi ngở.
- Đến lúc đó thì Tòa sẽ lưu ý vấn đề ấy, - ông Chánh án Flint cam đoan như vậy.
Mason từ từ hạ cánh tay và ngồi xuống khiến ông Flint phải thầm khen cái dáng vững vàng của viên luật sư vừa bẻ lại lập luận của Công tố viên. Ông chánh án Flint nói với Parma:
- Xin ông gọi người làm chứng thứ nhất lên.
- Emily Dickson!
Bà Dickson khoảng 40 tuổi bước lên. Bà ta giơ tay thề rồi đến ngồi trên ghế dành cho người làm chứng sau khi đã khai tên tuổi, địa chỉ với viên thư ký.
- Có phải bà là người quản lý Chung cư Parkhurst và ở ngay tại đó không?
- Thưa phải.
- Bà có biết Dorrie Ambler lúc sinh thời không?
- Xin Tòa khiển trách Công tố, - Mason vội chen vào - Chưa có gì chứng tỏ Dorrie Ambler đã chết cả.
- Tôi có nói cô ta chết đâu.
- Theo cách ông hỏi khiến người ta hiểu rằng Dorrie Ambler chết rồi.
- Tôi cũng thấy như vậy, - ông Chánh án Flint nói. - Và tôi lưu ý ông Công tố chỉ nên đề cập tới các hành vi khác dùng để giải thích nguyên nhân gây ra vụ này mà thôi. Bất cứ trong trường hợp nào cũng không được nói đến các hành vi xảy ra sau vụ giết người mà ta đang xét ở đây.
- Tôi xin rút lại câu hỏi đó. - Rồi Parma quay sang hỏi nhân chứng.
- Bà có biết Dorrie Ambler trước ngày 6 tháng 9 không?
- Biết.
- Bà biết cô ta được bao lâu rồi?
- Khoảng 5 hay 6 tháng gì đó.
- Cô Ambler ở trong căn hộ của Chung cư Parkhurs phải không?
- Đúng, căn hộ số 905.
- Có phải bà vừa cho thuê căn hộ số 805 không?
- Phải.
- Vào lúc nào và cho ai thuê?
- Vào ngày 11 tháng 9 cho Dunleavy Jasper, nhưng lúc ấy ông ta nói với tôi tên ônp ấy là William Camas.
- Tôi sẽ hỏi nhân chứng vài câu nữa. - Parma tuyên bố - nhưng xin phép để hỏi sau.
- Đồng ý, ông Chánh án Flint nói - Bên phía bào chữa có hỏi gì không?
Mason hỏi người làm chứng:
- Bà có thể tả lại cô Dorrie Ambler được không?
- Thưa được, dễ lắm, vì cô ta rất giống với bị cáo đây, người đang ngồi bên ông ấy.
- Ồ! Bà kinh ngạc vì sự giống nhau à?
- Đúng vậy, giống lạ lùng, khó tưởng tượng được.
- Bà có tin rằng người ta có thể lầm lẫn bị cáo với Dorrie Ambler hay ngược lại không?
- Thưa đúng, rất có thể.
- Lần đầu bà biết bị cáo là vào khi nào?
- Trong một buổi nhận diện ở văn phòng Sở cảnh sát, có mặt tôi.
- Và bà nhận ngay ra đó là Dorrie Ambler phải không?
- Tôi phản đối! - Parma vụt nói. — Điều này phía thẩm vấn không đề cập đến nên phía phản biện cũng không được bàn.
- Lời phản đối vô hiệu, - ông Chính án phán.
- À, cảnh sát mời tôi đến để tôi chỉ cho họ xem người nào là Minerva Minden.
- Bà có nói với họ là chưa bao giờ bà gặp Minerva Minden không?
- Có.
- Thế họ cứ bắt bà đi nhận diện một người mà bà chưa bao giờ thấy à?
- Họ muốn tôi cho biết là có phải cô ta giốne Dorrie không?
- Thế rồi trong buổi nhìn mặt, bà giật mình vì thấy giống quá phải không?
- Đúng vậy, tôi nói ngay với họ: « Trời, cô Dorrie Ambler kia kìa», sau đó họ mới bảo cho tôi biết rằng...
- Chuyện họ bảo cho bà biết như thế nào không quan trọng. Bà đã nhận thấy trong hàng người có một phụ nữ rất giống với Dorrie Ambler phải không?
- Lần đầu thì đúng như vậy.
- Ồ, như thế là bà phải nhận diện tới hai lần?
- Ông hiểu cho, họ bảo tôi như thế. Không, tôi không được phép nói lại... Thế này, lúc đầu thì tôi nhận ra đó là có Dorrie Ambler, sau đó là cô Minerva Minden.
- Mặc dù bà chưa hề thấy Minerva?
- Tôi biết cô ta qua ảnh.
- Ảnh ở đâu?
- Trên báo. Chính vì cái ảnh đó mà gây nên chuyện. Tôi gọi điện thoại cho cảnh sát và bảo rằng tắm ảnh đó là của Minerva Minden, mà thực ra là của Dorrie Ambler, người thuê phòng ở nhà tôi.
- Và sau đó Cảnh sát mời bà đến?
- Phải.
- Dorrie Ambler thuê căn hộ vào thời gian nào?
- Vào tháng 5.
- Làm sao bà biết rằng người đó không phải là bị cáo Minerva Minden?
- Lúc đó tôi chưa biết cô Minerva Minden, chưa bao giờ thấy cô ta.
- Thế mà bà lại nhận ra rằng hai người giống nhau đến mức có thể lẫn lộn được?
- Chỉ lúc đầu thôi. Khi tôi biết là có chuyện giống nhau quá sức đó, tôi mới nhìn kỹ người phụ nữ mà người ta chỉ cho tôi và tôi nói rằng quả là có giống nhưng đó không phải Dorrie.
- Thế vào lúc đó, bà biết chắc rằng người phụ nữ đang nói đến, cô Minerva ấy, không phải là người thuê phòng của bà?
- Vâng, chắc.
- Vì theo lời cảnh sát ư?
- Không. Còn nhiều lý do khác nữa. Tôi tin chắc lắm rồi.
- Cám ơn. Xin hết, - Mason kết thúc.
Trong khi bà Dickson rút lui, Parma nói:
- Bây giờ, tôi xin gọi Trung úy Tragg nhưng chỉ mộ! lát để nhận diện thôi.
Tragg bước tới, giơ tay thề, kể lại chuyện ông được gọi đến căn hộ số 907 Chung cư Parkhurst và thấy một người đàn ông đang hấp hối, sau này mới biết đó là Marvin Billings, một thám tử tư. Người này bị một viên đạn súng lục bắn vào ngực và đã chết trên đường tới bệnh viện ngày 12 tháng 9.
Mason không hỏi gì thêm nên Tòa gọi đến Delbert Compton.
Compton là một người mập mạp. khoảng 50 tuổi, ngồi ghế người làm chứng nhưng mắt nhìn dò xét khắp cử tọa. Parma hỏi:
- Có phải ông là Delbert Compton và từ ít lâu nay ông là người cộng tác của hãng trinh thám tư « Billings và Compton » phải không?
- Thưa đúng.
- Ông lo việc văn phòng, còn Billings đi điều tra?
- Thưa phải.
Hamilton Burger bỗng nhiên vụt đứng lên:
- Xin trình Tòa, có lẽ người phó của tôi do dự trong viêc lưu ý người này là một người làm chứng chống lại. Cho nên xin phép Tòa cho được đặt ra những câu hỏi gợi ý.
- Tòa chưa thấy người làm chứng tỏ vẻ gì là chống đối - ông Chánh án trả lời. - Nếu điều đó quả có thật thì ông có thể lặp lại lờì yêu cầu vừa rồi. Xin ông Parma tiếp tục.
- Vào tháng 9, - ông Phó Biện lý hỏi người làm chứng, - bị cáo có thuê hãng ông làm việc phải không?
- Hình như thế. Nhưng chúng tôi chỉ liên lạc với người nữ thư ký của bị cáo là bà Henrietta Hull mà thôi.
- Bà ta thuê ông làm việc gì?
- Thuê đăng báo tìm một phụ nữ trẻ theo một vài điều kiện về nhận dạng.
Theo yêu cầu của Parma, Compton kể lại ông đã tổ chức chọn lựa người như thế nào. Parma hỏi:
- Ông có gọi giây nói báo cho bà Henrietta Hull rằng ông đã tìm ra không phải là người giống như bức ảnh đưa ra làm mẫu mà chính là người trong ảnh không?
- Có
- Bà Henrietta Hull có nói với ông là không phải không? Rồi sau đó ông có sắp xếp để bà ta thấy điều đó tận mắt không?
- Có.
- Rồi theo sự chỉ đạo của bà Hull, ông bảo người phụ nữ ấy đi qua đi lại trên Đại lộ Hollywood gần ngã tư để cho có người nhận ra đó là kẻ đã gây ra tai nạn ở đó trong ngày 6 tháng 9 phải không?
- Ơ... đúng.
- Và chính ông đã tính tiền công phải không?
- Thưa phải.
- Xin nhường người làm chứng cho phía bào chữa.
Mason đứng lên:
- Làm sao ông biết là bà Henrietta Hull làm việc thay cho bị cáo?
- Chính bà ta nói.
- Nói trước mặt hay qua điện thoại?
- Qua điện thoại.
- Ông có gặp bà Hull không?
- Không.
- Thế ông đưa phiếu tính tiền công cho bị cáo à?
- Không, tôi được trả trước.
- Ông bảo sao?
- Bà Henrietta Hull gửi đến cho tôi 3.500 đôla tiền mặt qua một người đưa tay.
- Ông đã từng gặp cô Dorrie Ambler chưa?
- Tất nhiên, vì chính tôi thu nhận cô ta.
- Thế bây giờ ông đã nhìn thấy bị cáo. Họ có giống nhau không?.
- Vâng, giống nhau đến kỳ lạ.
Mason nhìn thẳng vào mắt người làm chứng:
- Theo như ông đã biết, bây giờ thì ông có nghĩ rằng có thể là không phải bị cáo thuê ông mà là DorrievAmbler thuê không?
- Sao? - Người làm chứng kinh ngạc kêu lên.
- Dorrie Ambler muốn cho việc tranh giành gia tài của Minden có hiệu quả hơn nên tìm cách để báo chí nói về mình. Cô gọi dây nói cho ông và tự nhận là Henrietta Hull và...
- Tôi phản đối! - Parma kêu lên. - Bên bào chữa đưa ra những giả thuyết không căn cứ vào đâu hết. Tôi cực lực phản đối.
- Tôi xin rút lại câu hỏi, - Mason mỉm cười vội vã đáp.
- Thưa ông Compton, nếu Dorrie Ambler gọi dây nói cho ông mà xưng là Henrietta thuê ông làm việc thi ông có nhận ra không?
- Tôi phản đối!- Parma lại đứng lên phản đối lần nữa. - Ông đang bảo người làm chứng nhận một trường hợp hoàn toàn giả định.
- Lời phản đối được chấp nhận.
Nhưng Mason cũng đã đạt được kết quả đối với đoàn bồi thẩm và ông dịu dàng hỏi người làm chứng:
- Ông không có cách nào để biết được người gọi dây nói đó có phải là Henrietta Hull hay không à?
- Đúng vậy.
- Ông có dịp gọi điện thoại cho Henrietta Hull không?
- Không. Bà ta báo không cần. Lần nào cũng là bà ta gọi tôi.
- Ông không được phép gọi cho bà ta à?
- Không. Bà ta dặn như vậy.
- Lời dặn đó có thể là của Dorrie Ambler hay của bất cứ ai khác?
- Tôi phản đối! Câu hỏi đó chỉ gây tranh luận thôi.
- Lời phản đối được chấp nhận.
Mason lại hỏi:
- Tiếng nói qua điện thoại ấy đã bảo ông chuyển lời chỉ dẫn cho Dorrie Ambler làm gì phải không?
- Thưa phải.
- Trước khi bị cáo bị bắt, chưa có lần nào ông gặp cô ấy phải không?
- Phải.
- Ông có gọi điện thoại cho cô Minerva Minđen để hỏi xem có phải cô ta bảo bà Henrietta Hull ra lệnh thế này thế nọ cho ông không?
- Không đời nào?
- Xin hết. - Mason ngồi xuống.
- Thưa ông Chánh án, - Hamilton Burger nói. - Người làm chứng tiếp theo chắc sẽ gây nhiều vấn đề tranh luận cho nên chúng tôi đã bảo đảm cho người làm chứng ấy được miễn tội trong một chừng mực nào đó.
- Tôi nghĩ lời của ông Biện lý là không hợp trước tòa, - Mason ngắt lời. - Nếu viện Công tố muốn cho lý lẽ của mình thắng tưởng rằng có thể bảo đảm không trừng phạt một tên tội phạm thì chớ hy vọng cầu xin ở nơi đây!
- Này các ông!- Ông Chánh án can thiệp. – Chúng ta phải giữ trật tự một chút. Xin ông Burger đừng dài dòng mà gọi người làm chứng lên cho.
Hamilton Burger nghiêng mình tuân lời.
- Dunleavy Jasper!
Người làm chứng là một gả trạc 30 tuổi có dáng đi như lúc nào cũng nép vào tường mặc dù không có bức tường nào bên cạnh cả. Sau khi làm xong thủ tục, ông Hamilton Burger hỏi:
- Anh tên là Dunleavy Jasper phải không? Hiện
nay anh ở đâu?
- Vâng, tôi ở nhà lao.
- Anh bị giữ phải không?
- Thưa phải.
- Anh có biết bị cáo không?
- Có..
- Lần đầu anh gặp bị cáo vào lúc nào?
- Ngày 11 tháng 9.
- Anh có biết Dorrie Ambler lúc sinh thời không?
- Tôi đã nói mấy tiếng «lúc sinh thời » là thừa. - ông Chánh án ngắt lời. - Anh Jasper, câu hỏi thế này: Anh có biết Dorrie Ambler không?
- Thưa ngài có.
- Trong trường hợp nào? - Hamilton Burger lại tiếp tục hỏi.
- Ơ, cô ta ăn cắp chiếc xe mà tôi định dùng để trốn đi đấy.
Câu trả lời làm sôi động cử tọa và nhiều viên bồi thẩm nghiêng mình ra trước để chú ý nghe hết mọi lời khai.
- Vậv thì chiếc xe nào mà anh định dùng để đi trốn? - Burger hỏi.
- Một chiếc Cadillac mang biển số WHW 694.
- Xe của anh à?
- Không, người cộng tác với tôi và tôi « chôm » nó ở San Francisco.
- Nguời cộng tác của anh là ai?
- Một tay tên là Barlowe Dalton.
- Chiếc xe đó bị cô ta lấy cắp ở đâu?
- Ở câu lạc bộ Montrose Country.
- Thế tại sao anh cần chiếc xe ấy đi trốn?
- Vì chúng tôi định lẻn vào phòng thay áo trong Câu lạc bộ lấy một ít áo choàng lông rồi ra xe đi luôn.
- Chiếc xe ấy bị mất như thế nào?
- Có một phụ nữ say đến nhảy ở Câu lạc bộ và cãi nhau với gã đi theo. Khi cô ta thấy xe của chúng tôi đã nổ máy sẳn cô liền nhảy lên và phóng đi.
- Sau đó anh làm gì?
- Tất nhiên là chúng tôi đi tìm. Phải tlm cho ra.
- Tại sao vậy?
- Tại vì chúng tôi để 10 nghìn đôla trong hộc đựng găng tay.
- Tiền ấy ở đâu mà ra?
- Chúng tôi cướp một chi nhánh ngân hàng ở Santa Maria được 18 ngàn. Mười ngàn gói trong giấy báo bỏ tronơ hộc đựng găng. Số còn lại chúng tôi chia nhau giữ trong người. Tiền này là loại giấy 50 đôla, còn 10 ngàn kia toàn là giấy 100 đôla và chúng tôi sợ chúng đã được ghi số cả rồi.
- Được, cứ tiếp tục đi.
- À trong «giới» của chúng tôi cũng có chỗ thu thập tin tức riêng. Sau đó, chúng tôi được biết cái xe đó đã tông vào một người đi đường rồi bỏ chạy luôn. Chúng tôi lại biết thêm là nó ở trong nhà xe của Dorrie Ambler. Chúng tôi tìm đến tận nơi nhưng tiền đã biến mất. Thế là chúng tôi bắt đầu theo dõi Dorrie Ambler. Khó tìm được nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng đã bám sát cô ta được vài giờ.
- Cô ta đi đâu? - Hamilton Burger hỏi.
- Xin phản đối, - Mason la lên, - điều này không dính dáng gì đến vụ đang xử.
- Chúng tôi đề nghị liên hệ tới, - Burger khẳng định.
- Lời phản đối vô hiệu. Yêu cầu người làm chứng trả lời câu hỏi
- Cô ta đi đến nhà Perry Mason, và đi tới văn phòng của ông ấy.
- Rồi sau đó ra sao? - Burger hỏi trong khi đoàn bồi thẩm mỗi lúc một thêm chú ý.
- Rồi cô ta ra phi trường, - Jasper nói. - Ở đó, cô ta nhảy đến quán bán báo và rút súng ra kêu to: « Đây không phải là một vụ trấn lột». Cô ta bắn ba phát chi thiên rồi chạy thẳng vào nhà vệ sinh.
- Được rồi. Sao nữa? - Burger hỏi.
- Sau đó một lúc bị cáo đi ra, liền bị chặn lại. Lúc đầu thì bạn tôi và tôi cứ tưởng đó là cô Dorrie Ambler. Nhưng sau thấy tiếng nói có khác. Sau khi đám cảnh sát đưa cô ta đi, chúng tôi ở lại thấy Dorrie Ambler ra khỏi nhà vệ sinh. Lúc này cô ta đã mặc thêm chiếc áo choàng ngoài và đeo kính đen.
- Các anh làm gì?
- Chúng tôi theo cô ta đến tận nhà. Chúng tôi được biết là người phụ nữ bị cảnh sát đưa đi là Minerva Minden, một nữ triệu phú nhờ hưởng gia tài và chúng tôi bàn với nhau không biết chừng gặp được mối rất bở béo. Chúng tôi liền đợi cô ta nộp phạt và tìm cách móc nối với cô ta.
- Anh muốn nói là với bị cáo?
- Vâng. Chúng tôi gọi điện thoại và cô ta hẹn gặp chúng tôi trong một quán rượu. Ở đấy chúng tôi nói hở một ít về chuyện tống tiền, trong bụng không tin là thành công lắm nhưng cô ta tinh ranh hơn nhiều. Cô ta bảo nếu chúng tôi tìm được cái gì mờ ám thì cứ đi báo cho cảnh sát.
- Rồi sao nữa?
- Ồ tất nhiên là chúng tôi không chơi được chuyện này. Con nhỏ nhận ngay ra chúng tôi là hạng người nào nên ra đề nghị với chúng tôi.
- Đề nghị gì?
- Cô ta bảo muốn bắt cóc Dorrie Ambler và thuê chúng tôi làm việc đó với giá 25 ngàn đôla.
- Cô ta có nói vì sao muốn bắt cóc Dorrie Ambler không?
- Có. Cô ta nói rằng Dorrie Ambler muốn lợi dụng sự giống nhau của hai người để chứng minh rằng mình là con riêng của cha Minden. Theo cô thì Dorrie được một gã cung cấp tiền bạc để hưởng lợi sau này khi chia gia tài hay là khi buộc được Minerva Minden thu xếp ổn thỏa bằng một số tiền lớn.
Lúc đó chúng tôi nói với bị cáo là chúng tôi muốn lấy lại số tiền 10 ngàn đôla mà Dorrie giật của chúng tôi thế là bị cáo đưa ra lời đề nghị trên.
- Rồi các anh trả lời cô ta làm sao?
- Chúng tôi nói là có thể được, nhưng giá tiền như thế thì làm không bõ công. Sau cùng, chúng tôi đồng ý với giá 50 ngàn, thêm 5 ngàn tiền ứng trước để làm tin,
- Sau khi thỏa thuận, các anh làm gì?
- À, chúng tôi gọi điện đến Chung cư Parkhurst để hỏi xem có phòng nào trống không. Có phòng 805 lầu 8, trong khi Dorrie Ambler ở lầu 9. Thật là tiện. Tôi gặp bà quản lý nhờ dẫn đi xem phòng và bịa rằng phải hỏi ý vợ tôi đang ở San Francisco trông nom ông già bị bệnh. Tôi thỏa thuận với bà quản lý gửi lại 100 đôla tiền đặt cọc trong 3 ngày.
- Anh lấy tên gì?
- Tôi nói tôi tên là William Camas.
- Bà quản lý có đưa cho anh chìa khóa để anh đưa vợ đến xem căn phòng khi vợ anh tới đây không?
- Thưa có. Tôi cần phải có chìa khóa mới hành động được. Chúng tôi bàn với bị cáo là sau bữa ra tòa hôm sau, cô ta sẽ gặp chúng tôi ở Chung cư Parkhurst. Cô giải thích cho chúng tôi biết là vào thờ; điểm ấy thì dễ lắm vì luật sư chắc sẽ khuyên cô ẩn nấp đâu đó và thu xếp sao cho cô ra khỏi tòa nhà mà không có ai bám theo. Cô cũng tính rằng nếu trong lúc chúng tôi loại bỏ Dorrie Ambler mà có ai đến thì cô ta sẻ giả làm Dome Ambler.
- Anh dùng chữ « loại bỏ» là cố ý ám chỉ gì vậy?
- A, lúc đầu thì chỉ tính chuyện bắt cóc thôi nhưng cuối cùng thì có thể thanh toán.
- Tại sao vậy?
- Chúng tôi gõ cửa phòng nói là mang hàng tới. Khi Dorrie ra mở, chúng tôi ùa vào nhét giẻ vào miệng cô ta và dùng súng uy hiếp đưa cô ta đến phòng 805 rồi chích cho cô ta một mũi moócphin. Bị cáo theo chúng tôi đến đó bảo chúng tôi hành động nhanh lên, nhưng còn phải tìm cho ra số tiền 10 ngàn đôla nên chúng tôi quay lại phòng 907 lục tung hết mà không sao thấy. Hay nói đúng hơn, tôi không tìm ra được gì hết. Tôi cứ cho rằng có lẽ Barlowe Dalton đã chộp được số tiền ấy và giấu đi để chiếm một mình.
- Nhưng anh không chắc phải không?
- Vâng. Tôi chỉ biết là tôi không tìm được gì hết. Còn bị cáo đây thì lại tìm được một khẩu súng cỡ 22 và nói rằng sẽ cho Dorrie biết sự khác biệt giữa đạn thật và đạn giả. Đang lúc tìm tòi thì chuông reo. Đó là Marvin Billings. Bị cáo ra mở cửa, muốn tìm cách tống gã đi. Nhưng Billings nhìn vào phòng thấy đồ đạc bị lục lọi lung tung nên hỏi chuyện. Cô ta trả lời vớ vẩn sao đó nên gã đẩy cô ta ra và bước vào phòng.
- Lúc ấy anh ở đâu?
- Tôi ở trong phòng.
- Gã có thấy anh không?
- Không. Gã không thấy được.. Tôi nấp sau cánh cửa. Tôi nghe gã nói với bị cáo là gã biết cô ta có âm mưu gì rồi. Tất nhiên là gã tưởng là mình đang nói chuyện với Dorrie Ambler.
- Anh nghĩ gì thì không quan hệ đâu, - Hamilton Burger chen vào một cách oai vệ để chứng tỏ mình hoàn toàn khách quan. - Anh chỉ nên thuật lại những điều mà anh nghe và nhìn thấy thôi.
- Ồ! gã nói với cô ta là gã biết hết rồi, gã không phải là con nít và gã muốn được chia phần. Thế là cô ta trả lời.
- Anh hỏi «cô ta » là nói ai vậy?
- Nói Minerva Minden, nữ bị cáo đây.
- Tiếp đi.
- Cô ta bảo gã: « Đúng, anh có thể không phải vừa mới sinh ra ngày hôm qua, nhưng chắc chắn là anh không thể sống đến ngày mai được ». Sau đó tôi nghe thấy một tiếng súng nổ và tiếng người ngã vật xuống.
- Lúc ấy anh làm gì?
- Tôi xông vào phòng khách la lên: « Cô giết hắn ta rồi! » và cô ta trả lời « Hiển nhiên rồi. Nếu không thì hắn bắt chẹt được ta. Người ta sẽ buộc tội Dorrie Ambler vì đây là phòng của cô ta ». Lúc ấy tôi cúi xuống nhìn gã thấy mạch còn đập nhẹ. Tôi nói cho bị cáo biết thì cô ta trả lời: « Có lẽ đúng nhưng hắn không thoát được đâu. Nếu hắn còn sống đủ để khai là Dorrie Ambler bắn thì lại càng hay cho ta. Ai cũng sẽ nói là cô ta trốn đi sau khi đã hạ hắn ». Cô ta có vẻ thỏa mãn lắm.
- Rồi sao nữa?
- À phía ngoài cửa lại có chuông reo. Thế là Barlowe và tôi kéo hai tấm nệm để chặn cửa.
- Để làm gì.
- Con đường ra thang máy bị chặn rồi, chúng tôi phải lẻn ra cửa cấp cứu. Nhưng muốn cho kẻ mới đến không đi vòng chặn lối, chúng tôi phải đợi họ vào trong phòng cái đã. Họ sẽ tưởng chúng tôi bị chặn trong nhà bếp. Thế là trong khi họ cố sức xô cửa thì chúng tôi sẽ có đủ thì giờ lẻn qua phòng 805. Nhưng trong khi chờ đợi, bị cáo mất tinh thần vụt la lên khiến chúng tôi phải lấy tay bịt miệng cô ta lại. May sao, sau một lát thì cô trở lại bình tĩnh. Khi Perry Mason và một người khác xô được cửa phòng thì chúng tôi lẻn ngay xuống phòng 805. Nhưng sau đó thì tòa nhà đầy cảnh sát, chúng tôi không nhúc nhích được gì hết. Tôi nói với bị cáo là tại cô ta giết gã kia nên chúng tôi bị kẹt. Kiểu này thì đi vào phòng hơi ngạt là cái chắc. Thế rồi xung quanh tạm yên trở lại. Bị cáo lấy quần áo của Dorrie Ambler thay và nói rằng cô ta sẽ đi ra trước để xem có an toàn không. Nếu êm thấm thì cô sẽ mang xe đến phía dưới cửa sổ của chúng tôi và nháy đèn lên nhiều lần để chúng tôi có thể mang Dorrie đi xuống đó.
- Khi đó Dorrie Ambler đã tỉnh chưa?
- Đã, nhưng moócphin làm cô ta say. Chúng tôi thuyết phục cô ta rằng không xảy ra chuyện gì xấu nếu cô ta chịu nghe lời chúng tôi. Vả lại bị cáo còn để lại cho chúng tôi khẩu súng khiến cô ta phải im.
- Anh có biết sau khi bị cáo ra đi có chuyện gì xảy đến với bị cáo không?
- Có, cô ta kể lại mọi chuyện cho chúng tôi nghe vào ngày hôm sau. Rủi ro là cô ta gặp trong thang máy một bà mang theo con chó. Hình như bà ấy nhìn mặt nên cô ta phải quay lưng lại và đứng sát về phía song sắt. Bà kia không nói gì nhưng con chó lại mừng cô, chắc là vì ngửi được hơi của Dorrie Ambler trên quần áo cô ta. Sau khi thang máy đến đất, cô vội lấy xe đi vòng khu nhà đến đậu ở nơi đã định trước.
- Sau đó thì cô Ambler ra sao?
- Về chuyện này thì tôi chỉ có thể lặp lại lời của Barlowe Dallon kể với tôi thôi.
- Anh không đi cùng với hắn ta à?
- Không, chúng tôi phản công: tôi ở lại xóa các dấu vết trong phòng 905. Lúc ở trong phòng của Dorrie Ambler, chúng tôi có mang găng nhưng vì chúng tôi đã lục lọi trong phòng nên phải xóa đi.
- Bây giờ, - ông Biện lý Hamilton Burger hỏi. - Tôi đặt cho anh mội câu hỏi mà anh chỉ được trả lời có hay không thôi.
- Barlowe Dalton có nói với anh là Dorrie Ambler bây giờ ra sao phải không?
- Phải.
- Và sau đó thì anh tới khai báo với cảnh sát phải không?
- Với Trung úy Tragg.
- Anh đã lặp lại với ông Trung úy những lời mà Barlowe Dalton nói vói anh phải không?
- Vâng.
- Barlowe Dalton bây giờ ở đâu?
- Nó đã chết vào ngày 20 - 9 rồi.
- Tại sao lại chết?
- Bị một Cảnh sát bắn chết trong một vụ cướp.
Hamilton Burger quay sang Perry Mason, nghiêng mình nói:
- Bây giờ đến lượt ông hỏi người làm chứng.
Minerva Minden kéo cánh tay áo của Mason và nói nhỏ vào tai ông:
- Cả một sự bịa đặt trắng trợn. Tôi không biết hắn là ai cả!
Mason gật đầu, đứng lên tiến về phía người làm chứng:
- Vì sao anh biết Barlower Dalton chết rồi?
- Tôi ở bên cạnh hắn ta lúc hắn bị giết.
- Lúc đó anh có súng phải không?
- Tôi phản đối! - Burger nói lớn - Câu hỏi đó không liên quan gì đến vụ này.
- Lời phản đối vô hiệu! - Ông Chánh án nói.
- Lúc đó anh có súng phải không? - Mason lặp lại.
- Vâng, nhưng tôi đã ném súng đi rồi.
- Cảnh sát có tìm lại được khẩu súng phải không?
- Vâng.
- Chuyện xảy ra ở đâu?
- Ở Siêu thị Acme.
- Có phải vì thế mà anh bị giam không?
- Vâng.
- Từ lúc anh bị bắt cho tới khi anh quyết định khai báo với Cảnh sát, thời gian chừng bao lâu?
- Ồ, sau đó không lâu. Xin ông hiểu cho, từ khi Barlowe chết, lương tâm tôi không yên.
- Sau bao lâu kể từ lúc anh bị bắt thì anh khai ra chuyện này? - Mason nhấn mạnh.
- Ơ, ơ... thưa hai ngày sau.
- Trong vụ cướp ở Siêu thị, anh bị bắt quả tang phải không.
- Thưa phải.
- Anh đã từng bị kết án chưa?
- Rồi ạ.
- Mấy lần?
- Ba lần.
- Vì tội gì?
- Ăn cướp có súng.
- Theo anh thì chắc là anh sẽ bị án tù chung thân phải không?
- Tôi phản đối! - Hamilton Burger vùng đứng lên nói - Điều này không liên quan gì đến vụ đang xử hết.
- Tôi xin ông liên hệ câu hỏi này với các câu hỏi tiếp theo. Mason trả lời - Tôi đang tìm những lý do đã làm ảnh hưởng đến người làm chứng.
- Lời phản đối vô hiệu, - Ông Chánh án Flint phán và gật đầu đồng tình với luật sư. - Yêu cầu người làm chứng trả lời câu hỏi.
- Thưa vâng, - Jasper nói.
- Và anh biết rằng phạm tội bắt cóc người thì bị tử hình phải không?
- Thưa, trong một vài trường hợp thì đúng như vậy.
- Anh biết rằng anh là tòng phạm với bị cáo về một vụ giết người và một vụ bắt cóc phải không?
- Ơ... phải... Hình như phải.
- Như thế là khi anh bị cảnh sát thẩm vấn, anh thấy mình bị kẹt rồi phải không?
- Thưa phải.
- Thế thì chắc anh có xin với Cảnh sát rằng nếu anh giúp họ trong việc này thì anh được hưởng một chút ân huệ phải không?
- Thưa, cũng có ít nhiều.
- Anh nói với Trung úy Tragg là anh sẽ đưa ra những lời khai rất quan trọng nếu người ta bảo đảm không trừng trị anh trong vai trò anh tham gia vào đó cũng như trong vụ cướp ở Siêu thị, phải thế không?
- Thưa, gần gần như thế.
- Anh muốn người ta phải bảo đảm không trừng phạt anh trước khi anh đem câu chuyện kể lại với Viện Công tố phải không?
- Úi chao!
- Nói tóm lại thì lương tâm anh không đến nỗi rối loạn để anh có thì giờ điều đình cho lời thú tội của anh phải không?
- Thưa, tôi không muốn chết chút nào.
- Thế nghĩa là người ta đã hứa không trừng trị anh?
- Thưa phải...
- Này... để tôi giúp cho trí nhớ của anh minh mẫn lại một chút, - Mason vừa nói vừa nhìn thẳng vào người làm chứng. - Người ta có hứa với anh kèm theo điều kiện không? Ông Biện lý có nói với anh là ông không nhận hứa cái kiểu bắt chim trong lồng không? Hay là hứa không trừng trị mà không cần biết đến tầm quan trọng của những điều anh sẽ khai. Có hứa là sẽ không trừng phạt anh nếu việc anh làm chứng sẽ giải quyết được vụ án và kết tội được kẻ sát nhân không?
- Có, gần gần như thế. - Người làm chứng thú nhận.
Mason chỉ tay vào Jasper và nói:
- Vậy là người ta đã hứa không trừng phạt nếu anh ra làm chứng có ích đủ để cho tòa kết tội bị cáo, còn trong trường hợp trái lại thì anh phải ngồi tù suốt đời chứ gì?
- Khoan, khoan! - Burger phản đối. - Câu hỏi này là giả định hoàn toàn. Jasper không thể nào biết về số phận của mình sẽ ra sao.
- Theo tôi thì lời phản đối cũng phải đấy, - Ông Chánh án Flint nói - Nhưng phía bào chữa có thể đặt câu hỏi theo cách khác.
- Có phải ông Biện lý nói với anh rằng nếu anh làm chứng mà rõ được vụ này thì người ta sẽ khoan hồng cho anh chứ gì?
- Thưa phải
- Nhưng ông ta cũng nói là không thể hứa hẹn gì khi chưa được nghe anh khai phải không?
- Vâng.
- Muốn được miễn tội, anh bị buộc phải giúp vào việc giải quyết vụ án này phải không?
- Thưa vâng.
- Và điều đó có nghĩa là để kết án bị cáo?
- Cái đó thì không được nói rõ ra…
- Nhưng là ngầm hiểu và anh đã hiểu quá rõ phải không? Như thế là anh mong cho bị cáo bị kết tội để anh thoát phải không?
- Tôi muốn nói sự thật để lương tâm được yên ổn.
- Sự thật! - Mason lộ ra cử chỉ chán ghét. - Nếu anh chưa bị bắt thì anh chẳng bao giờ có ý định nói ra sự thật phải không?
- Có, tôi có nghĩ đến.
- Đúng rồi, anh có nghĩ đến nó như là một phương tiện để dành cho anh sử dụng vào lúc tối hậu. Một loại bảo hiểm an toàn về mọi mặt. Nhưng rồi sau đó anh thấy cái thứ mà anh « thủ »cũng chưa phải là thứ bảo đảm hoàn
nếu đưa ra mà bị cáo không bị kết án thì anh thua cuộc!
Mason vụt quay lại bước về ghế ngồi, nói giọng kinh tởm
- Lúc này thì tôi không cần người làm chứng này nữa.
Hamilton Burger đứng dậy mặt đỏ bừng bừng.
- Tôi mời Trung úy Tragg!
Viên Trung úy giơ tay thề xong thì bị hỏi ngay:
- Xin hỏi Trung úy. Sau khi nói chuyện với Dunleavy Jasper ông có đi xe đến vùng Gray’s Well không?
- Có.
- Ông tìm gì ờ đó?
- Gần đến Gray's Well có một đụn cát và tôi tìm một xác người bị lôi xuống phía dưới chân đụn.
- Ông có tìm thấy không?
- Theo một vài dấu vết, chúng tôi tìm ra một xác chết đã bị rữa của một người đàn bà vùi trong cát.
- Ông có nhận diện được xác chết đó không?
- Tôi phản đối! Chuyện này không liên quan gì đến vụ giết người mà ta đang xử.
- Thưa ông Chánh án, - Burger trả lời, - Chuyện này là để kiểm tra lại lời khai của người làm chứng.
- Lời phản đối vô hiệu. Nhưng xin đoàn bồi thẩm chỉ nên coi sự kiện này là để xem người làm chứng nói có đúng không thôi. Xin ông Biện lý tiếp tục.
- Ông Trung úy Tragg có tìm được trên xác chết dấu tích gì để nhận diện không?
- Tuy xác chết đã rữa ra nhưng khi nhúng các ngón tay vào dung dịch alđêhyt foocmic làm cho cho đầu ngón cứng lại, chúng tôi lấy được một loạt dấu vân tay khá rõ.
- Ông có lấy dấu ngón tay cái không?
- Ngón nào cũng có.
- Hiện giờ tôi chỉ cần ngón cái thôi, ông có thấy vật gì khác trên xác chết để nhận diện không?
- Có, xác chết được chôn với một cái xắc tay trong có một tờ giấy thôi thuê căn phòng số 907 của Chung cư Parkhurst đứng tên Dorrie Ambler. Trong xắc cũng còn nhiều giấy biên nhận đứng tên này và chiếc chìa khóa của căn phòng số 907.
- Ông có thấy bằng lái xe mang tên Dorrie Ambler không?
- Trong xắc thì không có.
- Xin Trung úy lưu ý. Tôi chỉ hỏi Trung úy là có tìm thấy bằng lái xe mang tên Dorrie Ambler không?
- Có.
- Ở đâu?
- Ở chỗ bị cáo khi chúng tôi đến bắt cô ta. Tờ giấy đó được giấu trong một ngăn nhỏ trong xắc của cô ta.
- Dấu ngón tay cái của người đứng tên có trên bằng lái không?
- Có
- Ông có so dấu vân tay này với dấu ngón cái của xác chết tìm thấy ở đụn cát không?
- Có.
- Kết quả ra sao?
- Tôi phản đối! Người làm chứng không được kết luận về điểm này. Ông ta không phải là nhà chuyên môn. Hãy để trình các dấu tay trước tòa rồi người làm chứng sẽ chỉ các điểm giống nhau mà không được kết luận gì hết.
- Chấp nhận lời phản đối!
- Làm như thế thì mất thì gìờ quá. - Hamilton Burger phản đối.
- Trong một vụ quan trọng như thế này, vấn đề thời gian không phải đặt ở hàng đầu. - Ông Chánh án trấn an.
Hamilton Burger phải chịu và cho phóng to dấu ngón tay cái trên bằng lái xe của Dorrie Ambler và đưa ra bức hình ngón cái tương ứng lấy từ xác chết mà trung úy Tragg tìm thấy. Burger hỏi người làm chứng:
- Trung úy thấy có bao nhiêu điểm giống nhau?
- Sáu điểm.
- Ông có thể lấy thước chỉ được không?
Viên trung úy thi hành rồi Burger lại hỏi:
- Chỉ bấy nhiêu đó thôi à?
- Không, nhưng đấy là những điểm cơ bàn. Tình trạng xác chết không cho phép tôi lấy dấu tay một cách hoàn hảo được.
- Theo ông thì người bị chết vào khoảng bao nhiêu tuổi?
- Độ 25 là cùng.
- Ngoài cái xắc, ông còn tìm thấy gì bên cạnh xác chết nữa không?
- Có một khẩu súng lục hiệu Smith và Wesson cỡ 38 số C. 18809;). Kẹp đạn có 6 viên thì một viên đã bắn rồi. Một đầu đạn bắn bằng súng ấy có những vết xước giống như ở viên đạn tìm thấy trong đầu xác chết.
Theo đòi hỏi của Công tố viên, viên trung úy đưa ra các bức hình phóng to hai viên đạn để cho mọi người xem xét. Rồi phía bào chữa lên tiếng: Mason tiền lại gần Tragg:
- Trung úy, cái xác chết mà ông tìm thấy vùi trong đụn cát ấy có phải là của Dorrie Ambler không? Xin ông chỉ trả lời có hay không mà thôi.
Viên trung úy lưỡng lự: - Tôi nghĩ là...
Mason chặn lại: - Tôi không quan tâm tới điều ông nghĩ mà chỉ muốn rõ những điều ông biết mà thôi. Sao, có phải đó là xác của Dorrie Ambler không?
- Tôi không biết, - Tragg nói.
- Thế những điểm giống nhau giữa 2 dấu tay không đủ cho ông nhận diện được sao?
- Tôi chỉ muốn nói là tôi tìm được các điểm giống nhau và cho thế là để coi đó là xác của Dorrie Ambler.
- Tuy nhiên ông lại không dám quả quyết.
- Ơ...
- Chúng ta hãy nói thẳng với nhau. Có phải ít ra ta phải cần tới 12 điểm giống nhau mới có thể nói chắc chắn được phải không?
- Không. Trong nhiều trường họp chỉ cần 9 hay 10 điều là đủ khi có thêm điều kiện để xác định rõ.
- Trường hợp này không phải như thế à?
- Không.
- Vậy thì ông cho rằng 6 điểm giống nhau trong hai dấu tay không đủ để xác định rằng chúng thuộc về ai à?
- Nếu chỉ có bấy nhiêu thôi thì không đủ nhưng ở đây chúng ta lại còn có các giấy tờ mang tên Dorrie Ambler, còn chiếc chìa khóa phòng. Thêm nữa là tuổi tác, tầm cỡ người, màu tóc ghi trên bằng lái của Dorrie Ambler đúng như của người chết. Vậy thì rất có thể đó là Dorrie Ambler.
- Nhưng không thể xác định được phải không?
- Không. Chỉ là vấn đề sác xuất cao mà thôi.
- Vậy thì có thể nói là ông không thể xác nhận nhất định đó phải là Dorrie Ambler? Đồng ý chứ?
- Đồng ý.
- Cảm ơn. Xin hết.
- Rosy Chester! - Hamilton Burger gọi to lên.
Rosy Chester, một cô gái có thân hình hấp dẫn, miệng khinh khỉnh, liền tới giơ tay thề.
- Cô ở đâu? - Burger hỏi.
- Lúc này thì ở trong trại giam.
- Cô biết bị cáo không?
- Biết chứ! Chúng tôi ở chung một phòng giam qua cả một đêm mà!
- Lúc đó bị cáo có nói với cô chuyện gì về Dorrie Ambler không?
- Bị cáo có nói là từ nay không bao giờ người ta thấy Dorrie Ambler nữa.
- Vì lẽ gì mà cô ta nói như vậy?
- À, tôi hỏi cô ta có sợ Dorrie Ambler đòi lại một phần gia tài của Minden không. Cô ta cười ngất, nói rằng chẳng bao giờ Dorrie Ambler có thể trở lại đòi bất cứ cái gì hết.
- Theo cô thì câu chuyện trao đổi này xảy ra trước hay sau khi khám phá ra xác chết ở đụn cát?
- Tôi chắc là đã thấy xác chết rồi nhưng bị cáo không biết đâu vì tin này không được loan truyền.
- Xin nhường cho phía bào chửa - Hamilton Burger vung tay lên nói.
- Cô sắp phải ra tòa phải không? - Mason hỏi người làm chứng.
- Phải.
- Vì tội gì?
- Chứa xì ke.
- Khi nghe được chuyện đó, cô liền báo cho ông Biện lý phải không?
- Vâng, sau đó một lát.
- Làm sao cô đến ông ấy được?
- Chính ông ấy đã gọi tôi tới vào sáng hôm sau.
- Ồ, chắc ông ta cho cô vào xà lim là để dò bị cáo?
- Thưa phải, hay giống giống như vậy.
- Tại sao cô nhận nhiệm vụ đó? Ông Biện lý có hứa gì nếu cô làm được việc không?
- Không, không có gì hết. Ông ấy không hứa với tôi điều gì hết, vì như thế là lời khai của tôi sẽ mất giá trị. Ông ấy chỉ bảo cứ tin ở lòng khoan dung của ông ấy mà thôi.
Mason nói với đoàn bồi thẩm:
- Xin hết!
Hamilton Burger đỏ mặt lên tiếng:
- Người làm chứng có thể lui được rồi.
Ông Chánh án Flint tuyên bố:
- Buổi xét xử tạm dừng. Mai tiếp tục vào lúc 9 giờ rưỡi. Bị cáo vẫn bị tạm giam. Các ông bồi thẩm không được bàn vụ việc này với nhau, cũng như không cho kẻ khác bàn trước mặt mình. Các ông không nên bày tỏ ý kiến về việc bị cáo có tội hay không.
Trong khi ông Chánh án rút lui, Minerva Minden nắm cánh tay của Mason:
- Luật sư, tôi muốn thú nhận với ông một việc.
- Không, không nên, - Mason gạt đi.
- Không, không, ông phải biết rõ điều này. Ông phải rõ nếu không thì tôi bị kết án về tội giết người mà không phải do tôi.
Mason nhln thẳng vào mắt cô gái:
- Tôi xin cô nghe tôi khuyên - cái này thì tôi chưa từng làm - không nên nói chuyện gì với tôi, không nên nói gì hết. Tôi không muốn biết bất cứ cái gì ngoài những cái mà tôi đã biết.
- Nhưng, thưa luật sư, nếu tôi im lặng, họ sẽ... Ông không thấy là các chứng cứ đến bây giờ thật ghê gớm sao? Họ sẽ buộc tôi tội giết người mà...
- Cô đi đi! Tôi không muốn nghe cô nói điều gì hết, - Mason chặn lại và ra hiệu cho người nữ cảnh sát đến dẫn Minerva Minden đi. - Và cô không nên bàn cãi với ai hết về vụ này, không trả lời bất cứ điều gì hết. Nhất định không há miệng nói một lời nào cả.