Số lần đọc/download: 2944 / 157
Cập nhật: 2017-08-27 07:34:52 +0700
Chương 8
E
mma huých khuỷu tay vào tôi.
“Thế nào rồi?”
“Tớ cần thêm một phút nữa,” tôi nói
Bronwyn đã đặt cái rương của cô xuống và lúc này tôi đang đứng lên trên nó, đầu nhô lên cao hơn hẳn đám đông, đưa mắt nhìn qua trên một biển những khuôn mặt không ngừng chuyển động. Ke ga dài đông nghịt trẻ con. Chúng nhộn nhạo qua lại như những con a míp dưới một chiếc kính hiển vi, hết hàng này tới hàng khác mất hút dần vào một đám khói mờ mờ. Những đoàn tàu đen trũi không ngừng xì xì nhô lên sừng sững hai bên ke, nóng lòng muốn nuốt chửng lấy chúng.
Tôi có thể cảm thấy ánh mắt các bạn tôi đang hướng cả vào lưng tôi, dõi theo tôi trong lúc tôi quan sát đám đông. Họ cho rằng tôi phải biết liệu ở đâu đó trong đám đông khổng lồ không ngừng di chuyển này có những con quái vật rình rập để giết chúng tôi hay không – và tôi được trông đợi phải biết điều đó chỉ bằng cái nhìn; bằng cách đánh giá một cảm giác mơ hồ nào đó trong bụng. Thường khi một hồn rỗng có mặt ở gần, tôi luôn cảm thấy đau đớn rõ ràng, nhưng tại một nơi rộng mênh mông như chỗ này - giữa hàng trăm người - lời cảnh báo tôi cảm thấy có thể chỉ là một lời thì thầm, một chút nhói lên khe khẽ dễ dàng bị bỏ qua.
“Liệu lũ xác sống có biết chúng ta sẽ tới không?” Bronwyn hỏi, thật khẽ vì sợ bị một người bình thường – hay tệ hơn, một gã xác sống – nghe thấy. Chúng có tai mắt khắp nơi trong thành phố, hay ít nhất là những chuyện xảy ra đã khiến chúng tôi tin như vậy.
“Chúng ta đã giết hết những kẻ trong chúng có thể biết chúng ta sẽ đi đâu”, Hugh nói đầy tự hào. “Hay đúng hơn là tớ đã giết chúng”.
“Nghĩa là chúng sẽ lùng tìm chúng ta còn dữ hơn”, Millard nói. “Và giờ chúng sẽ không chỉ muốn con chim – chúng còn muốn trả thù”.
“Đó là lý do chúng ta không thể đứng đây lâu hơn nữa”, Emma nói, gõ nhẹ vào chân tôi. “Cậu sắp xong chưa?”.
Sự tập trung của tôi bị gián đoạn. Tôi mất dấu nơi mình đang quan sát trong đám đông. Lại phải bắt đầu lại.
“Thêm một phút nữa”, tôi nói.
Với riêng tôi, không phải lũ xác sống làm tôi lo ngại nhất mà là đám hồn rỗng. Cho đến giờ tôi đã giết hai gã trong bọn chúng, và mỗi cuộc chạm trán trước đó đều thiếu chút nữa là đặt dấu chấm hết cho tôi. Vận may tôi có, nếu đó là thứ đã giúp tôi sống sót tới tận lúc này, hẳn đã phải cạn kiệt. Đó là lý do vì sao tôi quyết tâm không bao giờ để bị một con hồn rỗng làm mình bất ngờ nữa. Tôi sẽ làm mọi điều trong khả năng của mình để cảm nhận chúng từ xa và tránh mọi sự tiếp xúc. Tất nhiên, bỏ chạy khỏi một cuộc chiến đấu thì chẳng vinh quang gì, nhưng tôi chẳng quan tâm tới vinh quang. Tôi chỉ muốn sống sót.
Thế nên mối nguy hiểm thực sự không phải là những thân người trên ke ga, mà là những cái bóng lẩn khuất giữa chúng và đằng sau chúng; là bóng tối tại các góc khuất. Đó là nơi tôi tập trung chú ý vào. Sự tập trung đem đến cho tôi một thứ cảm nhận ngoài cơ thể, để đưa cảm nhận của tôi len lỏi vào trong đám đông, sục sạo những góc khuất đằng xa nhằm tìm kiếm những dấu vết nguy hiểm. Mấy ngày trước tôi vẫn chưa làm được thế này. Khả nằng điều hướng cảm nhận đó như một chiếc đèn pha - điều này hoàn toàn mới.
Tôi tự hỏi tôi còn có thể khám phá thêm gì nữa về bản thân mình đây?
“Chúng ta ổn”, tôi nói, bước xuống khỏi chiếc rương. “Không có hồn rỗng”.
“Cái đó thì tớ cũng nói được”, Enoch hầm hừ. “Nếu có, đến giờ chúng đã chén sạch chúng ta rồi!”.
Emma kéo tôi sang bên. “Nếu chúng ta muốn có một cơ hội để chiến đấu ở đây, cậu cần phải nhanh hơn”.
Nghe có vẻ như đòi hỏi một người vừa mới học bơi đi thi đấu Olympic. “Tớ đang làm hết sức”, tôi nói.
Emma gật đầu. “Tớ biết thế”. Cô quay sang những người khác và bật ngón tay đánh tách để thu hút sự chú ý. “Chúng ta hãy tới chỗ buồng điện thoại kia”, cô vừa nói vừa chỉ tay về phía một buồng điện thoại cao màu đỏ nằm ở phía đối diện của ke ga, chỉ có thể thấy thấp thoáng qua đám đông bận rộn qua lại.
“Chúng ta gọi cho ai đây?” Hugh hỏi.
“Con chó đặc biệt đã nói tất cả các Vòng Thời Gian tại London đã bị tấn công và các Chủ Vòng bị bắt cóc”, Emma nói, “nhưng chúng ta không thể chỉ đơn giản tin luôn vào lời nó, phải không nào?”.
“Cậu có thể gọi tới một Vòng Thời Gian sao?” tôi hỏi đầy sửng sốt. “Bằng điện thoại?”.
Millard giải thích là Hội đồng Chủ Vòng Thời Gian duy trì liên lạc bằng điện thoại, cho dù việc này chỉ có thể được sử dụng trong ranh giới thành phố. “Cơ chế hoạt động của nó thật tài tình, nếu tính tới tất cả các khác biệt về thời gian”, cậu ta nói. “Việc chúng ta sống trong các Vòng Thời Gian không có nghĩa là chúng ta bị mắc kẹt lại ở thời Đồ Đá!”.
Emma cầm lấy bàn tay tôi và yêu cầu những người khác cũng nắm lấy bàn tay nhau.
“Điều cốt yếu là chúng ta cần ở cạnh nhau”, cô nói. “London rất rộng, và ở đây không có nơi tìm trẻ lạc cho những đứa trẻ đặc biệt đâu”.
Chúng tôi len qua đám đông, bàn tay nắm lấy nhau, thành một hàng như thân rắn hơi uốn cong hình parabol, Olive bồng bềnh nhấp nhổm ở giữa như một nhà du hành vũ trụ bước đi trên Mặt Trăng.
“Em mất trọng lượng à?” Bronwyn hỏi cô bé. “Em cần đôi giày nặng hơn, chích chòe bé bỏng.”
“Em luôn biến thành một cái lông vũ khi không có được những bữa ăn đúng nghĩa,” Olive nói.
“Bữa ăn đúng nghĩa sao? Chúng ta vừa ăn như những ông vua còn gì!”
“Em thì không,” Olive nói. “Họ không có bánh nhân thịt.”
“Với một kẻ trốn chạy thì cậu kén cá chọn canh quá đấy,” Enoch nói. “Dù thế nào đi nữa, vì Horace đã tiêu phí hết sạch tiền của chúng ta, cách duy nhất để chúng ta kiếm thêm đồ ăn là đi ăn cắp hoặc tìm ra một Chủ Vòng còn chưa bị bắt cóc để nấu cho chúng ta chút gì đó.”
“Chúng ta vẫn còn tiền,” Horace cự lại, xóc xóc những đồng xu trong túi áo cậu ta. “Cho dù không đủ để mua bánh nhân thịt. Có thể chúng ta mua được một cái bánh khoai tây.”
“Nếu tớ phải ăn một cái bánh khoai tây nữa, tớ sẽ biến thành một cái bánh khoai tây mất,” Olive nhăn nhó.
“Không thể có chuyện đó đâu, cô bé,” Bronwyn nói.
“Sao chứ? Cô Peregrine có thể biến thành chim mà!”
Một cậu bé chúng tôi đi ngang qua quay sang nhìn chằm chằm. Bronwyn bực bội suỵt Olive. Nói ra bí mật của chúng tôi trước mặt những người bình thường là điều bị cấm ngặt, cho dù những điều đó nghe có vẻ hoang đường tới mức có lẽ chẳng ai tin vào chúng.
Chúng tôi chen vai lách qua đám trẻ con cuối cùng để tới chỗ buồng điện thoại. Nó chỉ đủ lớn để ba người chui vào, vì thế Emma, Millard và Horace chen chúc chui vào trong khi đám còn lại xúm quanh cửa buồng. Emma nhấc điện thoại, Horace moi mấy đồng xu cuối cùng của chúng tôi ra khỏi túi áo, còn Millard lật giở tìm kiếm trong một cuốn danh bạ dày cộp treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây.
“Các cậu đùa chắc?” tôi vừa nói vừa cúi người vào trong buồng. “Có cả các Chủ Vòng trong cuốn danh bạ sao?”.
“Các địa chỉ được đưa ra ở đây đều là giả”, Millard nói, “và cuộc gọi sẽ không được kết nối trừ phi cậu huýt sáo đúng đoạn mật mã”. Cậu ta xé ra một danh sách rồi đưa cho Emma. “Thử gọi số này đi. Millicent Thrush”.
Horcace nhét một đồng xu vào khe và Emma quay số. Sau đó, Millard cầm lấy ống tổ hợp, huýt sáo một điệu chim hót vào ống rồi đưa trả lại cho Emma. Cô lắng nghe một lát, rồi cau mày. “Nó chỉ đổ chuông thôi”, cô nói. “Không ai nhấc máy cả”.
“Đừng lo!” Millard nói. “Đây chỉ là một trong rất nhiều số thôi. Để tớ tìm một số khác...”.
Bên ngoài buồng điện thoại, đám đông lúc trước di chuyển qua lại liên tục quanh chúng tôi đã chậm dần rồi dừng lại, bị tắc nghẽn ở đâu đó ngoài tầm mắt. Ke ga đã chật hết cỡ. Những đứa trẻ bình thường chen chúc khắp quanh chúng tôi, trò chuyện huyên thuyên với nhau, la hét, xô đẩy – và một đứa, đứng ngay cạnh Olive, bắt đầu khóc ngằn ngặt. Cô bé buộc tóc đuôi ngựa có đôi mắt đỏ sưng mọng, một tay ôm một cái chăn, bàn tay kia cầm một chiếc va li sờn rách bằng các tông. Được găm lên áo đầm của cô bé là một tờ ghi chú với các chữ cái và con số được tô khuôn cỡ lớn.
115-201
London → Sheffield
Olive quan sát cô bé khóc lóc cho tới khi đôi mắt của chính cô cũng bắt đầu ầng ậng ướt. Cuối cùng, Olive không thể chịu đựng hơn nữa bèn hỏi xem có chuyện gì. Cô bé kia nhìn đi chỗ khác, giả bộ không nghe thấy gì.
Olive không hiểu. “Có chuyện gì thế?” cô lại hỏi. “Có phải bạn khóc vì bạn bị bán đi không?”. Cô chỉ vào tờ ghi chú trên áo đầm của cô bé kia. “Đó là giá của bạn à?”.
Cô bé kia tìm cách tránh đi nhưng bị bức tường người chắn lại.
“Tớ rất muốn mua bạn và giúp bạn được tự do”, Olive nói tiếp, “nhưng tớ sợ là bọn tớ đã tiêu sạch cả tiền để mua vé tàu rồi và thậm chí chẳng còn đủ tiền mua bánh nhân thịt nữa chứ đừng nói gì tới nô lệ. Tớ rất tiếc”.
Cô bé kia quay ngoắt lại đối diện với Olive. “Tôi không bị bán!” cô bé nói, giậm chân bành bạch.
“Bạn chắc chứ?”.
“Phải!” cô bé kia hét lên, và trong lúc bực bội giật phăng tờ ghi chú khỏi áo đầm và ném nó đi. “Tôi chỉ không muốn tới sống ở vùng nông thôn ngu ngốc, thế thôi”.
“Tớ cũng không muốn rời khỏi nhà mình, nhưng chúng tớ buộc phải làm thế”, Olive nói. “Nhà chúng tớ đã bị một quả bom phá tan”.
Khuôn mặt cô bé kia dịu lại. “Nhà tớ cũng thế”. Cô đặt va li xuống và chìa bàn tay ra. “Tớ xin lỗi vì đã cáu. Tên tớ là Jessica”.
“Tớ là Olive”.
Hai cô bé bắt tay như hai quý ông.
“Tớ thích cái áo đầm của cậu”, Olive nói.
“Cảm ơn cậu”, Jessica nói. “Còn tớ thích cái... cái ở trên đầu cậu”.
“Vương miện của tớ!” Olive đưa tay lên sờ vào nó. “Cho dù nó không phải bằng bạc thật”.
“Không sao đâu. Nó đẹp lắm”.
Olive mỉm cười rộng tới mức tôi chưa từng bao giờ thấy cô bé mỉm cười như thế, rồi một tiếng còi thật to vang lên và một giọng nói ồm ồm vang lên lạo xạo qua loa phóng thanh. “Tất cả các em nhỏ lên tàu!” giọng nói thông báo. “Giờ hãy ngoan và trật tự nào!”.
Đám đông lại tiếp tục nhúc nhích quanh chúng tôi. Chỗ này chỗ kia, những người lớn giúp lũ trẻ lên tàu, và tôi nghe thấy một người nói, “Đừng lo, các cháu sẽ sớm gặp lại bố mẹ thôi!”.
Và đó là lúc tôi hiểu ra tại sao lại có nhiều trẻ con ở đây đến thế. Chúng đang được sơ tán. Trong số hàng trăm đứa trẻ có mặt tại nhà ga sáng nay, chỉ có tôi và các bạn tôi xuống tàu. Những đứa trẻ khác đang rời đi, được đưa ra khỏi thành phố vì sự an toàn của chúng – và xét từ những chiếc áo khoác mùa đông và những chiếc va li lèn chặt đến căng phồng một số đứa trẻ cầm theo, rất có thể sẽ là trong một thời gian dài.
“Tớ phải đi rồi”, Jessica nói, và Olive chưa kịp chào tạm biệt thì người bạn mới của cô bé đã bị đám đông cuốn về phía một đoàn tàu đang đợi. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó, Olive đã gặp và mất người bạn bình thường duy nhất cô bé từng có.
Jessica ngoái lại nhìn trong khi lên tàu. Vẻ mặt buồn rầu của cô bé dường như muốn nói: Mình sẽ ra sao đây?
Chúng tôi quan sát cô bé ra đi và băn khoăn tự hỏi điều tương tự về bản thân mình.
***
Bên trong buồng điện thoại, Emma cau mày bực bội nhìn ống nghe. “Không có ai trả lời cả”, cô nói. “Tất cả các số điện thoại chỉ toàn đổ chuông”.
“Số cuối cùng đây”, Millard nói, đưa cho cô một trang danh bạ khác được xé ra.
“Bắt tréo ngón tay cầu may mắn đi”.
Tôi chăm chú nhìn Emma trong khi cô quay số, nhưng rồi phía sau lưng tôi có sự xáo động mạnh, tôi quay lại thì nhìn thấy một người đàn ông mặt đỏ lựng đang vung vẩy một cái ô về phía chúng tôi. “Chúng mày đang chơi đùa gì thế hả?” ông ta nói. “Chui ra khỏi cái buồng điện thoại đó và leo lên tàu ngay!”.
“Chúng cháu vừa xuống tàu xong”, Hugh nói. “Chúng cháu không định lên một chuyến tàu khác!”.
“Và chúng mày đã làm gì với các nhãn ghi số của chúng mày rồi hả?” người đàn ông quát tướng lên, nước bọt văng ra từ môi ông ta. “Đưa ra đây ngay lập tức, nếu không thề có Chúa tao sẽ cho chở chúng mày tới một nơi ít dễ chịu hơn xứ Wales nhiều!”.
“Biến ngay đi”, Enoch nói, “nếu không chúng tôi sẽ tống ông xuống địa ngục ngay lập tức!”.
Khuôn mặt người đàn ông đỏ sậm lại tới mức tôi nghĩ một mạch máu trên cổ ông ta sắp vỡ bung. Rõ ràng ông ta không quen bị trẻ con vặc lại kiểu này.
“Tao đã bảo là chui ra khỏi cái buồng điện thoại đó!” ông ta rống lên, rồi vung cái ô lên cao quá đầu như cây rìu của một đao phủ, ông ta quật nó xuống đường dây cáp chạy từ đỉnh buồng điện thoại vào tường, làm nó đứt đôi với một tiếng phựt! thật to.
Điện thoại im bặt! Emma ngẩng đầu lên khỏi ống nghe, sôi lên trong cơn phẫn nộ âm thầm. “Nếu ông ta muốn dùng điện thoại đến thế”, cô nói, “bọn mình hãy nhường nó lại cho ông ta”.
Trong khi cô, Millard và Horace loay hoay lách ra khỏi buồng, Bronwyn chộp lấy hai bàn tay người đàn ông và bẻ quặt chúng ra sau lưng ông ta.
“Dừng lại!” ông ta la lối. “Bỏ tao ra!”.
“À, tôi sẽ bỏ ông ra”, Bronwyn nói, rồi cô nhấc ông ta lên, ném ông ta cắm đầu vào trong buồng điện thoại, rồi ngáng đóng cửa bằng cái ô của ông ta. Người đàn ông gào thét và đấm thình thình lên mặt kính, nhảy lên nhảy xuống như một con ruồi béo ị bị nhốt trong một cái chai. Cho dù nán lại quanh đó và cười cợt ông ta hẳn sẽ rất vui nhưng ông ta đã thu hút quá nhiều sự chú ý rồi, và lúc này nhiều người lớn đang từ khắp nơi trong ga dồn về phía chúng tôi. Đã đến lúc rời đi.
Chúng tôi nắm lấy bàn tay nhau và hối hả chạy về phía cửa xoay, một đám đông người bình thường ùa theo đằng sau. Một tiếng còi tàu rít lên và được vọng lại bên trong chiếc rương của Bronwyn, cô Peregrine đang bị quăng đi quật lại trong đó như quần áo trong máy giặt. Hai chân không đủ bám đất để chạy, Olive bèn bám vào cổ Bronwyn, cô bị kéo lê đằng sau như một quả bóng bay xì hơi một nửa bị kéo theo một sợi dây.
Một vài người lớn ở gần lối ra hơn chúng tôi, và thay vì chạy vòng tránh họ, chúng tôi cố gắng lao thẳng qua.
Không ổn.
Người đầu tiên chặn chúng tôi là một phụ nữ to béo vung chiếc ví lên quật xuống đầu Enoch, rồi ngáng chân cậu ta. Khi Emma cố lôi bà ta ra, hai người đàn ông chộp lấy hai cánh tay cô và đè cô xuống sàn. Tôi đang định nhảy vào giúp cô thì người đàn ông thứ ba chộp lấy hai cánh tay tôi.
“Ai đó làm gì đi chứ!” Bronwyn kêu lên. Tất cả chúng tôi đều biết ý cô muốn nói gì, nhưng đều không rõ ai trong chúng tôi còn được tự do hành động. Thế rồi một con ong vo vo bay qua trước mũi Enoch và cắm vòi vào hông người phụ nữ đang ngồi cưỡi lên cậu ta, bà này kêu ré lên rồi nhảy bật dậy.
“Phải!” Enoch reo lên. “Nhiều ong nữa vào!”.
“Chúng mệt rồi!” Hugh gắt lại. “Chúng chỉ mới vừa đi ngủ sau khi cứu mạng các cậu lần vừa rồi!”. Nhưng cậu ta có thể thấy là không có cách nào khác – hai cánh tay Emma đã bị ghì chặt, Bronwyn đang bận rộn bảo vệ cả cái rương của cô lẫn Olive chống lại ba người soát vé đang tức giận, và còn nhiều người lớn nữa đang trên đường đến - vậy là Hugh bắt đầu đấm ngực như thể cố nuốt vào một miếng thức ăn bị nghẹn. Một khoảnh khắc sau đó, cậu ta ợ ra một tiếng, và chừng mười con ong bay ra khỏi miệng cậu ta. Chúng bay vài vòng trên đầu Hugh, rồi tìm được phương hướng và bắt đầu đốt tất cả những người lớn xuất hiện.
Mấy người đang ghì lấy Emma buông cô xuống và bỏ chạy. Người đàn ông đang giữ tôi bị đốt vào đúng chóp mũi, ông ta la ầm lên và vung vẩy hai cánh tay như bị quỷ ám. Chẳng mấy chốc, tất cả đám người lớn đều bỏ chạy, cố chống đỡ lại những kẻ tấn công tí hon với cú đốt khủng khiếp bằng đủ loại vũ điệu múa may kỳ cục trước sự hân hoan của tất cả những đứa trẻ vẫn còn ở trên ke ga, chúng cười vang, hoan hô và giơ tay lên nhại lại những cử chỉ lố bịch của những người lớn tuổi hơn.
Trong khi tất cả mọi người đều mất tập trung như vậy, chúng tôi nhổm dậy, lao qua cửa quay và chạy ra ngoài hòa vào một buổi chiều London náo động.
***
Chúng tôi ngơ ngác giữa sự hỗn loạn của các con phố. Có vẻ như chúng tôi đã bị ném vào một bình chất lỏng đang khuấy tung, quay cuồng với các phần tử: các quý ông, quý bà, những người lao động, binh lính, những đứa trẻ đường phố và những người hành khất, tất cả đều hối hả lao đi có mục đích theo mọi hướng, đan qua đan lại quanh những chiếc xe hơi bé nhỏ đang nhả khói phì phì và những người bán dạo đẩy xe hàng đang lớn tiếng rao, những người biểu diễn trên đường phố đang thổi kèn, những chiếc xe buýt bấm còi inh ỏi và rùng mình dừng lại để đổ thêm người lên những vỉa hè đông ứ. Chứa đựng tất cả những gì vừa được liệt kê là khe hẻm được tạo thành từ các dãy nhà có hàng cột phía mặt tiền chạy dài hút tầm mắt theo một con phố nửa chìm trong bóng râm, mặt trời lúc chiều tà đã hạ thấp và tắt dần, bị làn khói của London làm mờ xuống thành một thứ quầng sáng âm u, một ngọn đèn chập chờn xuyên qua màn sương mù.
Chóng mặt trước cảnh tượng này, tôi khép hờ mắt lại và để Emma kéo đi trong khi đút bàn tay còn tự do vào trong túi áo để chạm lên mặt kính lạnh lẽo của chiếc điện thoại tôi vẫn cầm theo. Tôi nhận ra cử chỉ này trấn an tôi một cách lạ lùng. Chiếc điện thoại của tôi là một thứ kỷ vật vô dụng từ tương lai, song cũng là một vật thể chứa đựng một sức mạnh nhất định – nó là sợi dây mong manh kết nối thế giới lạ lùng này với thế giới lành mạnh và quen thuộc tôi từng thuộc về; một thứ luôn nói với tôi mỗi khi tôi chạm vào nó: Cậu ở đây và điều này có thực, không phải cậu đang mơ và cậu vẫn là cậu, và theo cách nào đó nó khiến cho mọi thứ quanh tôi chuyển động bớt chóng vánh hơn.
Enoch từng đi học tại London và tuyên bố vẫn còn biết đường phố tại đây, vì thế cậu ta dẫn đường. Chúng tôi phần lớn đi theo các ngõ hẻm và những con đường sau, thành ra thành phố thoạt đầu giống như một mê cung của những bức tường xám xịt và những đường máng xối, sự vĩ đại của nó chỉ thỉnh thoảng hé lộ khi chúng tôi băng qua các đại lộ rồi trở lại ngay sự an toàn của những nơi khuất bóng. Chúng tôi biến điều này thành ra một trò chơi, phá lên cười, chạy đua với nhau qua các ngõ hẻm. Horace giả bộ như đang đi trên dây, rồi nhảy lên thật nhẹ nhàng và cúi chào như một vũ công, đồng thời nhấc mũ lên. Chúng tôi cười như hóa rồ, nhẹ dạ đến khó tin, phần nào vì không tin nổi chúng tôi có thể đi xa được đến thế - vượt qua biển, qua rừng, qua khỏi nanh vuốt những con hồn rỗng luôn ngoác miệng hăm dọa và những toán xác sống sát thủ, tất cả trên con đường tới London.
Chúng tôi rời xa khỏi nhà ga, rồi sau đó dừng lại trong một ngõ hẻm cạnh mấy thùng rác để thở lấy hơi. Bronwyn đặt cái rương xuống và đưa cô Peregrine ra, bà liền lắc lư nhảy đi như người say trên những viên đá lát đường. Horace và Millard bật cười.
“Có gì tức cười vậy?” Bronwyn nói. “Có phải là lỗi của cô P đâu nếu cô ấy thấy chóng mặt”.
Horace dang rộng hai cánh tay ra hào hùng. “Chào mừng tới London xinh đẹp!” cậu ta nói. “Lớn hơn nhiều so với những gì cậu mô tả, Enoch. Và phải rồi, cậu mô tả thế nào nhỉ! Trong suốt bảy mươi lăm năm: London, London, London! Thành phố vĩ đại nhất trên trái đất”.
Millard cầm một cái nắp thùng rác lên. “London! Nơi ẩn náu tuyệt diệu nhất sẵn có trên đời!”.
Horace bỏ mũ ra. “London! Nơi thậm chí chuột cũng đội mũ chóp cao!”.
“Ồ, tớ đâu có nói nhiều đến thế”, Enoch nói.
“Có đấy!” Olive nói. “À, ở London người ta không làm thế đâu’, cậu vẫn nói thế còn gì. Hay là, ‘Ở London, thức ăn ngon hơn nhiều!’”.
“Hiển nhiên lúc này không phải chúng ta đang du ngoạn một vòng thành phố!” Enoch cự nự. “Các cậu thích đi theo những ngõ hẻm hay là bị lũ xác sống phát hiện?”.
Horace tảng lờ cậu ta. “London: nơi mọi ngày đều là ngày nghỉ... với người hót rác!”
Cậu ta phá lên cười, và tiếng cười của cậu ta thật dễ lây. Chẳng mấy chốc, gần như tất cả chúng tôi đều cười khúc khích - kể cả Enoch. “Tớ đoán là tớ có tô vẽ lên tí chút”, cậu ta thừa nhận.
“Tớ chẳng thấy có gì thú vị đến thế về London”, Olive cau mày nói. “Nơi này bẩn thỉu, hôi hám và đầy những người xấu xa, thô bạo làm trẻ con khóc, và tớ ghét nó!”. Cô cau mặt lại tức giận và nói thêm, “Và tớ thấy đói kinh khủng!” - khiến chúng tôi càng cười dữ hơn.
“Những người ở ga không xấu xa”, Millard nói. “Nhưng họ đã nhận được những gì họ xứng đáng nhận! Tớ sẽ không bao giờ quên khuôn mặt người đàn ông đó khi Bronwyn nhét ông ta vào buồng điện thoại”.
“Hay người phụ nữ kinh khủng đó khi bà ta bị một con ong đốt vào mông!” Enoch nói. “Tớ sẵn sàng trả tiền để thấy lại cảnh đó”.
Tôi đưa mắt nhìn Hugh, trông đợi cậu ta góp chuyện, nhưng cậu ta đang quay lưng lại phía chúng tôi, đôi vai rung lên.
“Hugh?” tôi hỏi. “Cậu không sao chứ?”.
Cậu ta quay đi tránh. “Chẳng ai thèm để ý”, cậu ta nói. “Chẳng buồn bận tâm để ý tới anh chàng Hugh khốn khổ, anh ta chỉ ở đây để cứu mạng tất cả mọi người mà chẳng ai thèm cảm ơn lấy một lời!”.
Ngượng ngùng, chúng tôi lên tiếng cảm ơn và xin lỗi cậu ta.
“Xin lỗi, Hugh”.
“Xin cảm ơn lần nữa, Hugh”.
“Cậu là anh hùng trong cảnh gian nguy của bọn tớ, Hugh”.
Cậu ta quay sang đối diện với chúng tôi. “Chúng là bạn tớ, các cậu biết đấy”.
“Thì chúng tớ vẫn là thế mà!” Olive nói.
“Không phải các cậu – mà là bầy ong của tớ! Chúng chỉ đốt được một lần, sau đó sẽ chết, cả tổ. Và giờ tớ chỉ còn lại Henry, và nó không bay được vì mất một bên cánh”. Cậu ta chìa bàn tay ra và chậm rãi xòe mở các ngón tay, và trên lòng bàn tay Hugh là Henry, đang vẫy bên cánh duy nhất khi trông thấy chúng tôi.
“Thôi nào, anh bạn”, Hugh thì thầm với nó. “Đến lúc về nhà rồi”. Cậu ta thè lưỡi ra, đặt con ong lên đó, rồi ngậm miệng lại.
Enoch vỗ vai cậu ta. “Tớ sẽ làm chúng sống lại cho cậu, nhưng tớ không chắc liệu có hiệu quả với những sinh vật bé như thế hay không”.
“Dù sao cũng cảm ơn cậu”, Hugh nói, rồi cậu ta hắng giọng và chùi má thật mạnh, như thể khó chịu bởi những giọt nước mắt đã làm lộ cảm xúc của mình.
“Chúng ta sẽ tìm cho cậu thêm ong ngay khi chữa lành cho cô P”, Bronwyn nói.
“Nhân nói đến chuyện đó”, Enoch nói với Emma, “cậu có liên lạc được với Chủ Vòng nào qua cái điện thoại đó không?”.
“Không một ai”, Emma đáp, rồi ngồi xuống một thùng rác lộn ngược, đôi vai thõng xuống. “Tớ đã thực sự hy vọng chúng ta ít nhất cũng gặp may được một lần. Nhưng không”.
“Vậy thì có vẻ con chó đã nói đúng”, Horace nói. “Những Vòng Thời Gian lớn tại London đã rơi vào tay kẻ thù của chúng ta”. Cậu ta cúi đầu vẻ nghiêm trọng. “Điều xấu nhất đã xảy ra. Tất cả các Chủ Vòng của chúng ta đã bị bắt cóc”.
Tất cả chúng tôi cùng cúi đầu, chẳng còn tâm trạng cười đùa nữa.
“Trong trường hợp đó”, Enoch nói, “Millard, tốt hơn cậu nên nói cho bọn tớ tất cả những gì cậu biết về các Vòng Trừng Phạt đi. Nếu đó là nơi các Chủ Vòng Thời Gian đang bị giam, chúng ta sẽ phải tổ chức một cuộc giải cứu”.
“Không”, Millard nói. “Không, không, không”.
“Không ư, ý cậu là sao?” Emma hỏi.
Millard phát ra một âm thanh tắc nghẹn từ trong cổ họng và bắt đầu thở hổn hển thật lạ. “Ý tớ là... chúng ta không thể...”.
Có vẻ cậu ta không thể nói ra lời.
“Có gì không ổn với cậu ấy thế nhỉ?” Bronwyn nói. “Mill, có chuyện gì thế?”.
“Tốt hơn cậu nên giải thích ngay lập tức ý cậu nói ‘không’ là sao”, Emma nói đầy đe dọa.
“Bởi vì chúng ta sẽ chết, thế đấy!” Millard nói, giọng vỡ ra.
“Nhưng ở chỗ trại động vật cậu nói nghe có vẻ dễ dàng lắm cơ mà!” tôi nói.
“Như thể chúng ta có thể nhảy valse vào một Vòng Trừng Phạt vậy...”.
Millard đang thở rất gấp, hoảng loạn – và điều đó làm tôi hãi hùng. Bronwyn tìm thấy một cái túi giấy nhăn nhúm và bảo cậu ta thở vào đó. Khi đã trấn tĩnh lại chút ít, cậu ta trả lời.
“Vào được một Vòng loại này cũng tương đối dễ”, cậu ta nói, thật chậm rãi, cố kiểm soát nhịp thở của mình. “Quay trở ra thì gian nan hơn nhiều. Nghĩa là quay ra mà sống sót. Con chó chỉ nói đến các Vòng Trừng Phạt, nhưng còn những thứ tồi tệ hơn nữa. Những dòng sông lửa... đám người Viking khát máu... hơi bệnh dịch đặc quánh đến mức không thể nổi... và thêm vào tất cả những thứ đó, như một món xúp hổ lốn của quỷ sứ, là vô số xác sống và hồn rỗng chẳng ai đếm xuể!”.
“À, quả là kỳ ảo!” Horace vừa nói vừa giơ hai bàn tay lên.
“Cậu biết đấy, đáng lẽ cậu có thể nói cho bọn tớ sớm hơn – như lúc còn ở trại động vật, khi chúng ta đang lên kế hoạch cho tất cả chuyện này!”.
“Liệu có tạo ra khác biệt nào không, Horace?” Millard hít thở thêm vài lần với cái túi. “Nếu tớ làm cho nơi đó nghe có vẻ khủng khiếp hơn, liệu các cậu có lựa chọn để mặc cho thời hạn quay lại hình người của cô Peregrine trôi qua không?”.
“Tất nhiên là không”, Horace nói. “Nhưng đáng lẽ cậu nên nói thật với bọn tớ”.
Millard thả rơi cái túi xuống. Sức lực đã quay trở lại với cậu ta, cùng với nó là sự tin tưởng. “Tớ thừa nhận là tớ đã ít nhiều hạ thấp những nguy hiểm trong các Vòng Trừng Phạt. Nhưng tớ chưa bao giờ nghĩ chúng ta thực sự phải đi vào trong đó! Bất chấp những lời thông báo ảm đạm của con chó khó chịu đó về tình hình tại London, tớ đã tin chắc chúng ta sẽ tìm thấy ít nhất một Vòng Thời Gian chưa bị tấn công ở đây, với Chủ Vòng vẫn còn tồn tại và có thể trông cậy vào. Và theo tất cả những gì chúng ta biết, thì vẫn còn khả năng đó! Làm sao chúng ta có thể đoan chắc tất cả họ đã bị bắt cóc? Chúng ta đã tận mắt nhìn thấy các Vòng Thời Gian bị tấn công của họ chưa? Sẽ thế nào nếu điện thoại của các Chủ Vòng chỉ đơn giản là bị... cắt đường dây?”.
“Tất cả họ sao?” Enoch chế giễu.
Thậm chí cả Olive, Olive luôn luôn lạc quan, cũng lắc đầu khi nghe tới đó.
“Vậy cậu đề xuất thế nào, Millard?” Emma nói. “Rằng chúng ta đi xem qua lần lượt các Vòng Thời Gian tại London và hy vọng tìm thấy ai đó vẫn ở nhà chăng? Và cậu nói sao về khả năng những kẻ biến chất, những kẻ đang săn lùng chúng ta, sẽ để mặc các Vòng Thời Gian đó không canh gác?”.
“Tớ nghĩ chúng ta sẽ có cơ hội sống sót qua đêm nay hơn nếu chúng ta dành nó vào việc chơi trò roulette Nga”, Enoch nói.
“Tất cả những gì tớ muốn nói”, Millard nói, “là chúng ta không có bằng chứng nào...”.
“Cậu còn muốn thêm bằng chứng nào nữa?” Emma hỏi. “Những vũng máu chăng? Một đống lông vũ của các Chủ Vòng bị vặt ra chăng? Cô Avocet đã nói với chúng ta là cuộc tấn công của những kẻ tha hóa bắt đầu ở đây nhiều tuần trước. Cô Wren rõ ràng tin rằng tất cả các Chủ Vòng tại London đã bị bắt cóc - liệu cậu có biết rõ hơn cô Wren, một Chủ Vòng, hay không? Và giờ chúng ta đang ở đây, trong khi không Vòng Thời Gian nào trả lời điện thoại gọi tới. Thế nên làm ơn nói cho tớ biết tại sao đi từ Vòng này qua Vòng khác có thể là gì ngoài một sự lãng phí thời gian nguy hiểm theo kiểu tự sát đây”.
“Đợi một phút nào – đúng rồi!” Millard reo lên. “Thế còn cô Wren thì sao?”.
“Bà ấy thì sao cơ?” Emma hỏi lại.
“Chẳng lẽ cậu không nhớ con chó nói gì với bọn mình à? Cô Wren tới London mấy hôm trước khi bà nghe nói những người chị em Chủ Vòng của mình đã bị bắt cóc”.
“Thế thì sao?”.
“Nếu bà ấy vẫn còn ở đây thì sao?”.
“Thì đến giờ này nhiều khả năng bà ấy cũng bị bắt rồi!” Enoch nói.
“Thế nếu chưa thì sao?” Giọng Millard tràn ngập hy vọng.
“Bà ấy có thể giúp cô Peregrine – và như vậy chúng ta sẽ không phải mon men tới gần các Vòng Trừng Phạt nữa!”.
“Và theo cậu chúng ta làm thế nào tìm được bà ấy đây?” Enoch la lên lanh lảnh. “Đứng trên các nóc nhà gọi tên bà ấy ầm lên chắc? Đây không phải là Cairnholm; đây là một thành phố với hàng triệu người!”.
“Những con bồ câu của bà ấy”, Millard nói.
“Nhắc lại xem nào?”.
“Chính lũ bồ câu đặc biệt của cô Wren đã báo cho bà biết các Chủ Vòng đã bị bắt đi đâu. Nếu chúng biết nơi tất cả các Chủ Vòng bị đưa tới, vậy thì hẳn chúng phải biết cô Wren đang ở đâu. Nói cho cùng, chúng thuộc về bà ấy cơ mà”.
“Ái chà!” Enoch nói. “Thứ duy nhất hay gặp hơn các quý bà trung niên mặt mũi bình thường ở đây là những bầy bồ câu. Và cậu muốn đi khắp London để tìm chính xác một bầy nào đó sao?”.
“Nghe có vẻ hơi điên rồ”, Emma nói. “Xin lỗi, Mill, nhưng tớ không thấy cách đó có thể thành công”.
“Thế thì may cho các cậu là tớ đã dành thời gian trên tàu vào tìm hiểu thay vì tán dóc. Ai đưa cho tớ quyển Những truyện kể nào!”.
Bronwyn lấy cuốn sách từ trong rương ra và đưa nó cho Millard. Cậu ta hồ hởi đón lấy, lật giở các trang. “Có rất nhiều câu trả lời có thể tìm thấy trong này”, cậu ta nói, “chỉ cần các cậu biết cần tìm cái gì”. Cậu ta dừng lại ở một trang rồi gõ ngón tay lên đầu trang. “A ha!” cậu ta reo lên, xoay cuốn sách lại để chỉ cho chúng tôi thấy thứ mình vừa tìm được.
Tiêu đề câu chuyện là “Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul”.
“Chúa ban phước cho tớ”, Bronwyn nói. “Có lẽ nào đó chính là những con bồ câu chúng ta đang nói tới?”.
“Nếu chúng được nhắc tới trong Những truyện kể, gần như chắc chắn chúng là những con bồ câu đặc biệt”, Millard nói, “và liệu có thể có bao nhiêu bầy bồ câu đặc biệt đây?”.
Olive vỗ tay reo lên, “Millard, cậu giỏi quá!”.
“Xin cảm ơn, phải, tớ biết thế mà”.
“Đợi đã, tớ không hiểu”, tôi nói. “Nhà thờ Thánh Paul là gì vậy?”.
“Đến tớ cũng biết”, Olive nói. “Nhà thờ Lớn!”. Rồi cô bé đi tới cuối con hẻm, đưa tay chỉ lên một mái vòm lớn nhô cao lên ngoài xa.
“Đó là giáo đường lớn và tráng lệ nhất ở London”, Millard nói, “và nếu tớ đoán không sai, đó cũng là nơi bầy bồ câu của cô Wren cư ngụ”.
“Hãy hy vọng là chúng có nhà”, Emma nói. “Và chúng có tin tốt cho chúng ta. Gần đây chúng ta đã quá thiếu thứ đó rồi”.
***
Trong khi chúng tôi đi vòng vèo qua một mê cung những đường phố hẹp về phía Nhà thờ Lớn, một sự im lặng ủ ê bao trùm lên chúng tôi. Suốt hồi lâu không ai nói gì, chỉ còn lại tiếng giày chúng tôi giẫm lên vỉa hè và những âm thanh của thành phố: máy bay, tiếng xe cộ đi lại ầm ì không ngớt, những tiếng còi vang lên nối tiếp nhau trên đủ cung bậc xung quanh.
Càng đi xa nhà ga, chúng tôi càng thấy nhiều bằng chứng về những trận bom đã giội xuống London. Mặt tiền các tòa nhà bị mảnh bom phá lỗ chỗ. Những khung kính cửa sổ vỡ tan tành. Những đường phố lấp lánh rải đầy mảnh kính vỡ. Bầu trời lấm chấm những khí cầu nhỏ màu bạc căng phồng được buộc xuống đất bằng những sợi cáp dài. “Khí cầu phòng thủ”,Emma nói khi cô thấy tôi nghển cổ nhìn về phía một quả. “Máy bay ném bom Đức chạm phải các sợi cáp trong đêm và rơi xuống”.
Rồi chúng tôi tới trước một cảnh hủy diệt kỳ lạ đến mức tôi phải dừng lại và há hốc miệng nhìn – không phải vì một sở thích ngắm nghía quái gở nào đó, mà vì bộ óc của tôi không tài nào hiểu nổi nếu không xem xét kỹ hơn. Một hố bom mở ra toang hoác suốt bề rộng của con phố như một cái miệng khủng khiếp với hai hàm răng là vỉa hè vỡ nát. Ở một bên rìa, vụ nổ đã xé toang bức tường mặt tiền của một tòa nhà song lại để phần bên trong gần như còn nguyên vẹn. Trông như một ngôi nhà búp bê, tất cả các căn phòng bên trong đều mở toang ra ngoài phố: phòng ăn với bàn ăn vẫn đang bày sẵn cho một bữa ăn; những bức ảnh gia đình bị hất nghiêng trong một lối đi song vẫn treo trên móc; một cuộn giấy vệ sinh bị bật tung ra và gặp một cơn gió nhẹ bay lên lất phất trong không khí như một lá cờ trắng dài.
“Có phải họ quên không xây xong nó không?” Olive hỏi.
“Không phải, ngốc ạ”, Enoch nói. “Nó bị trúng bom”.
Trong giây lát trông Olive như thể sắp khóc, nhưng rồi khuôn mặt cô bé trở nên đầy phẫn nộ, cô liền giơ nắm tay lên trời và la lớn, “Hitler xấu xa! Chấm dứt cuộc chiến tranh ghê tởm này và đi cả đi!”.
Bronwyn vỗ lên cánh tay cô bé. “Suỵt. Hắn không nghe thấy cậu được đâu, cô bé”.
“Thật không công bằng”, Olive nói. “Tớ chán máy bay, bom và chiến tranh lắm rồi!”.
“Ai chả thế”, Enoch nói. “Thậm chí cả tớ”.
Thế rồi tôi nghe thấy Horace hét toáng lên, tôi liền quay ngoắt lại và thấy cậu ta chỉ tay vào thứ gì đó trên đường. Tôi chạy tới xem là gì, rồi tôi cũng thấy và đứng khựng lại, cứng đờ, trong đầu thầm la lên Chạy mau! nhưng đôi chân tôi nhất định không nghe theo.
Đó là một đống đầu người xếp thành hình kim tự tháp. Chúng cháy đen, toàn những hốc, miệng há hoác, mắt bị hun nóng nhắm chặt, chảy ra và đọng lại thành giọt như một con quái vật nhiều đầu ghê rợn nào đó. Thế rồi Emma tới xem, thảng thốt kêu lên và quay mặt đi; Bronwyn tới và bắt đầu nức nở; Hugh nôn khan rồi đưa tay lên che mắt; và cuối cùng đến lượt Enoch, cậu ta có vẻ chẳng chút chấn động, bình thản dùng giày đá đá vào một trong những cái đầu và chỉ ra rằng chúng chỉ là ma nơ canh làm bằng sáp đã bị bắn ra từ cửa kính trưng bày của một cửa hiệu tóc giả bị trúng bom. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy có chút ngượng ngùng nhưng không hiểu sao vẫn kinh hoàng như trước, vì dù những cái đầu này không phải thật, chúng cũng đại diện cho thứ tương tự đang bị vùi lấp trong đống đổ nát quanh chúng tôi.
“Đi thôi”, Emma nói. “Nơi này chỉ là một nấm mồ”.
Chúng tôi đi tiếp. Tôi cố dán mắt xuống đất, nhưng không thể nào làm ngơ được trước tất cả những thứ khủng khiếp chúng tôi đi ngang qua. Một đống đổ nát nham nhở cuồn cuộn khói, người lính cứu hỏa duy nhất được phái tới dập nó buông thõng tay thua cuộc, người đầy vết bỏng rộp, mệt mỏi, vòi nước cạn khô. Ấy thế nhưng anh ta vẫn đứng quan sát nó, như thể khi không còn nước, giờ đây công việc của anh ta là làm nhân chứng.
Một đứa trẻ ngồi trong xe nôi bị bỏ một mình trên phố đang khóc thét.
Bronwyn không kìm được lòng, bèn đi chậm lại. “Chúng ta không thể giúp họ bằng cách nào đó sao?”.
“Sẽ chẳng có gì khác biệt cả”, Millard nói. “Những người này thuộc về quá khứ, và không thể thay đổi được quá khứ”.
Bronwyn buồn bã gật đầu. Cô biết điều đó đúng nhưng cần phải được nghe ai đó nói nó ra. Chúng tôi gần như không thuộc về nơi đây, và cũng bất lực như những hồn ma.
Một đám mây tro vần vũ cuộn lên, che khuất người lính cứu hỏa và đứa bé. Chúng tôi đi tiếp, ngột ngạt trong đám bụi bị gió cuộn tung lên đem tới, bột bê tông nát vụn bám lên quần áo chúng tôi, còn mặt chúng tôi thì trắng bệch như xương.
***
Chúng tôi hối hả băng qua các khối nhà đổ nát nhanh hết mức có thể, rồi ngỡ ngàng khi các con phố sống lại quanh mình. Chỉ cách địa ngục có vài bước chân, người ta đang hối hả đi tới chỗ làm việc, sải bước trên vỉa hè, sống trong những tòa nhà vẫn có điện và còn đủ cửa sổ, tường. Rồi chúng tôi rẽ vào một góc phố và mái vòm Nhà thờ Lớn hiện ra, kiêu hãnh, đồ sộ bất chấp những vệt đá nhuốm đen vì khói và vài vòm cuốn đổ sụp. Như linh hồn của chính thành phố, chỉ vài quả bom thì chẳng thể đánh sập được Nhà thờ Thánh Paul.
Cuộc săn tìm của chúng tôi bắt đầu từ một quảng trường gần Nhà thờ Lớn, nơi những người già ngồi trên các băng ghế đang cho bồ câu ăn. Thoạt đầu thật hỗn loạn: chúng tôi ùa tới, nháo nhào vồ tóm trong khi lũ bồ câu bay vụt lên. Những người già bất bình cằn nhằn, và chúng tôi rút lui để chờ lũ chim quay trở lại. Chúng cuối cùng cũng quay trở lại, vì bồ câu không phải loài vật khôn ngoan nhất trên trái đất này, đến khi đó tất cả chúng tôi thay nhau làm ra vẻ thản nhiên đi qua giữa bầy của chúng, tìm cách bất ngờ bắt lấy chúng, đưa tay xuống chộp. Tôi nghĩ Olive, vốn nhỏ người và nhanh nhẹn, hay Hugh, nhờ mối liên hệ đặc biệt của cậu với một loài sinh vật có cánh khác, có thể sẽ may mắn ít nhiều, nhưng cả hai đều một phen ê chề. Millard cũng chẳng may mắn hơn, mà đấy là lũ chim còn không thể trông thấy cậu ta. Đến khi tới lượt tôi, hẳn lũ bồ câu đã phát chán với việc chúng tôi quấy quả chúng, vì ngay khoảnh khắc tôi bước chân vào quảng trường, tất cả chúng cùng vụt bay lên và đồng loạt trút xuống một trận mưa bom chất thải khiến tôi phải nhào tới một vòi phun nước để gột cả đầu.
Cuối cùng, chính Horace là người bắt được một con chim. Cậu ta ngồi xuống cạnh những người già, rắc hạt cho tới khi lũ chim lượn tới quanh mình. Rồi từ từ cúi người ra trước, cậu ta vươn hai cánh tay ra bình tĩnh hết mức có thể và chộp lấy hai chân một con chim.
“Bắt được mày rồi!” cậu ta reo lên.
Con chim đập cánh và cố thoát đi, nhưng Horace giữ thật chắc.
Cậu ta mang con chim lại chỗ chúng tôi. “Làm sao chúng ta biết được nó có đặc biệt hay không?” cậu ta nói, lật ngửa con chim lên để kiểm tra phần bụng xem có tấm thẻ nào không.
“Mang nó tới cho cô Peregrine xem”, Emma nói. “Cô sẽ biết”.
Thế là chúng tôi mở chiếc rương của Bronwyn ra, thả con bồ câu vào trong với cô Peregrine, rồi đóng nắp lại. Con bồ câu kêu rít lên như thể nó đang bị xé ra thành từng mảnh.
Tôi nhăn mặt và lớn tiếng, “Bình tĩnh nào, cô P!”.
Khi Bronwyn lại mở nắp rương, một đám lông bồ câu phất phơ bay lên không, nhưng con bồ câu thì chẳng thấy đâu nữa.
“Ôi không, cô ấy đã ăn thịt nó!” Bronwyn la lên.
“Không đâu”, Emma nói. “Hãy nhìn xuống phía dưới cô ấy”.
Cô Peregrine đứng dậy bước sang một bên, và bên dưới bà là con bồ câu, vẫn còn sống nhưng đờ đẫn.
“Thế nào?” Enoch hỏi. “Có phải là một con chim của cô Wren không?”.
Cô Peregrine dùng mỏ thúc vào con chim và nó bay vụt đi. Sau đó bà nhảy ra khỏi rương, tập tễnh nhảy vào quảng trường, và bằng một tiếng kêu thật to xua nốt những con bồ câu còn lại dạt cả đi. Thông điệp của bà đã rõ: không chỉ con bồ câu Horace bắt được không đặc biệt, mà những con còn lại cũng thế. Chúng tôi cần tiếp tục tìm kiếm.
Cô Peregrine tập tễnh về phía Nhà thờ Lớn và nóng nảy đập cánh. Chúng tôi bắt kịp bà trên các bậc thềm nhà thờ. Tòa nhà vươn lên sừng sững trên đầu chúng tôi, các tháp chuông cao vút kề hai bên mái vòm khổng lồ. Cả một đạo quân các thiên thần bị ám đen muội khói giương mắt nhìn xuống chúng tôi từ trên những cái bệ bằng cẩm thạch.
“Làm thế nào chúng ta kiểm tra được hết cả chỗ này chứ?” tôi hỏi thành tiếng.
“Từng phòng một”, Emma nói.
Một tiếng động lạ lùng làm chúng tôi sững lại trước cửa. Nghe như tiếng còi chống trộm của xe hơi ngoài xa, âm thanh lên cao rồi trầm xuống thành từng đợt dài, chậm rãi. Nhưng tất nhiên không thể có cái còi chống trộm của xe hơi nào vào năm 1940. Đó là còi báo động phòng không.
Horace cau có. “Bọn Đức đang tới!” cậu ta kêu lên. “Cái chết từ trên trời!”.
“Chúng ta không biết nó có nghĩa là gì”, Emma nói. “Có thể là báo động nhầm, hay một cuộc diễn tập”.
Nhưng các con phố và quảng trường đã nhanh chóng vắng tanh: những người già đang gấp báo của họ lại và rời khỏi các băng ghế.
“Có vẻ họ không nghĩ đó là một cuộc diễn tập”, Horace nói.
“Từ khi nào chúng ta bắt đầu sợ vài quả bom vậy?” Enoch nói. “Hãy thôi nói như một bà già người thường đi”.
“Tớ có cần nhắc để cậu nhớ hay không đây”, Millard nói, “rằng đây không phải là thứ bom chúng ta vẫn quen. Không như những quả bom rơi xuống Cairnholm, chúng ta sẽ không biết chúng rơi xuống đâu!”.
“Càng thêm lý do để tìm thứ chúng ta tới tìm, nhanh lên nào!” Emma nói, và cô dẫn chúng tôi vào trong.
***
Không gian bên trong Nhà thờ Lớn thật đồ sộ - có vẻ như còn rộng lớn hơn bên ngoài tới mức phi lý – và cho dù nó đã bị hư hại, vài tín đồ bạo gan vẫn quỳ gối rải rác đây đó âm thầm cầu nguyện. Ban thờ bị chôn vùi dưới một đống đổ nát. Tại vị trí một quả bom xuyên qua mái, ánh mặt trời rọi xuống thành từng chùm rộng. Một người lính đơn độc ngồi trên một cột trụ bị đổ, ngước mắt chăm chú nhìn lên trời qua mái nhà bị thủng.
Chúng tôi tha thẩn bước đi, những mảnh bê tông và ngói vỡ kêu rào rạo dưới chân chúng tôi.
“Tớ chẳng trông thấy gì cả”, Horace than vãn. “Trong này có đủ chỗ trốn cho cả mười nghìn con bồ câu!”.
“Đừng nhìn”, Hugh nói. “Hãy lắng nghe”.
Chúng tôi dừng lại, căng tai ra để nghe những tiếng cu cu quen thuộc của bồ câu. Song chỉ có tiếng rền rĩ không ngừng của còi báo động phòng không, và dưới âm thanh đó là một chuỗi tiếng răng rắc trầm đục như sấm rền. Tôi tự nhủ cần giữ bình tĩnh, song tim tôi vẫn nện thình thình như đánh trống.
Bom đang rơi xuống.
“Chúng ta cần đi thôi”, tôi nói, cơn hoảng hốt làm giọng tôi nghẹn lại. “Chắc phải có hầm trú ẩn gần đây. Một nơi an toàn để chúng ta ẩn náu”.
“Nhưng chúng ta đã gần tới đích rồi!” Bronwyn nói. “Không thể bỏ cuộc lúc này được!”.
Một tiếng răng rắc sụp đổ nữa vang lên, lần này ở gần hơn, và những đứa trẻ khác cũng bắt đầu cảm thấy bất an.
“Có thể Jacob có lý”, Horace nói. “Chúng ta hãy tìm một nơi an toàn để trú ẩn cho tới khi trận ném bom kết thúc. Sau đó chúng ta có thể tìm kiếm thêm”.
“Chẳng nơi nào thực sự an toàn cả”, Enoch nói. “Những quả bom đó thậm chí có thể xuyên xuống những cái hầm ở dưới sâu”.
“Chúng không thể xuyên qua một Vòng Thời Gian”, Emma nói. “Và nếu có một truyện kể về Nhà thờ Lớn này, rất có thể ở đây có lối vào của một Vòng Thời Gian”.
“Có thể”, Millard nói, “có thể, có thể. Đưa tớ quyển sách để tớ tìm xem”.
Bronwyn mở rương ra và đưa Millard cuốn sách.
“Để tớ xem nào”, cậu ta nói, giở các trang ra cho tới khi đến “Những con bồ câu ở Nhà thời Thánh Paul”.
Bom đang rơi xuống và chúng ta lại đọc truyện, tôi thầm nghĩ. Mình đã bước chân vào vương quốc của sự điên rồ mất rồi.
“Nghe cho kỹ này!” Millard nói. “Nếu có lối vào một Vòng Thời Gian gần đây, câu chuyện có thể sẽ cho chúng ta biết cách tìm ra nó. May mà câu chuyện này cũng ngắn”.
Một quả bom rơi xuống bên ngoài. Sàn nhà rung chuyển và vôi vữa rơi như mưa từ trên trần xuống. Tôi nghiến chặt hai hàm răng và cố tập trung vào nhịp thở của mình.
Không chút hốt hoảng, Millard hắng giọng. “Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul!” cậu ta bắt đầu đọc với giọng to, vang.
“Chúng ta biết tên truyện rồi!” Enoch nói.
“Làm ơn đọc nhanh hơn đi!” Bronwyn giục.
“Nếu các cậu không thôi ngắt lời tớ, chúng ta sẽ ở đây cả đêm đấy”, Millard nói, rồi cậu ta đọc tiếp.
“Ngày xửa ngày xưa vào thời của người đặc biệt, rất lâu trước khi có những tòa tháp, gác chuông hay bất cứ công trình cao nào tại thành phố London, có một bầy bồ câu nảy ra trong đầu ý muốn có một nơi cao, đẹp để trú ngụ, xa phía trên sự ồn ào náo động của xã hội loài người. Chúng cũng biết cần xây nơi đó như thế nào, vì bồ câu là các nhà xây dựng tự nhiên, và thông minh hơn nhiều so với những gì ta nghĩ. Nhưng cư dân tại London xa xưa không quan tâm đến việc xây những công trình cao, vì vậy một đêm nọ những con bồ câu chui vào buồng ngủ của một trong những người cần cù nhất chúng có thể tìm được và thì thầm vào tai ông ta bản thiết kế một tòa tháp huy hoàng.
“Vào buổi sáng, người đàn ông thức giấc trong tâm trạng cực kỳ phấn khích. Ông ta đã mơ - hoặc nghĩ là vậy - về một nhà thờ nguy nga tráng lệ với một đỉnh chóp đồ sộ vươn cao sẽ mọc lên từ quả đồi cao nhất thành phố. Vài năm sau, với cái giá khổng lồ đối với con người, công trình được xây dựng. Đó là một tòa tháp vô cùng đồ sộ, có tất cả các kiểu ngóc ngách, lỗ hốc nơi lũ bồ câu có thể sinh sống, và chúng rất hài lòng với bản thân.
“Thế rồi tới một ngày người Viking cướp phá thành phố và đốt trụi tòa tháp tới tận nền, thế là lũ bồ câu lại phải tìm một kiến trúc sư khác, thì thầm vào tai người đó, rồi kiên nhẫn chờ đợi một ngọn tháp nhà thờ mới được xây lên - lần này còn cao và đồ sộ hơn ngọn tháp đầu tiên. Và tòa tháp được xây lên, rất đồ sộ và rất cao. Và sau đó cũng bị đốt trụi.
“Mọi thứ diễn ra như thế suốt hàng trăm năm, các tòa tháp bị đốt và lũ bồ câu thì thầm những thiết kế cho các tòa tháp còn đồ sộ hơn, cao hơn cho các thế hệ kiến trúc sư tìm thấy cảm hứng trong đêm kế tiếp nhau. Cho dù các kiến trúc sư này chẳng bao giờ nhận ra món nợ của họ với những con chim, họ vẫn đối xử với chúng rất tử tế, cho phép chúng đậu xuống bất cứ chỗ nào chúng thích, trong các gian giáo đường và các tháp chuông, như những vật lấy khước và bảo trợ cho nhà thờ đúng với vai trò thực của chúng”.
“Những cái này chẳng ích lợi gì cả”, Enoch nói. “Tìm đến phần có lối vào Vòng đi!”.
“Tớ đang đọc tới chỗ tớ đọc tới!” Millard cấm cẳn.
“Cuối cùng, sau khi rất nhiều tòa tháp đến rồi đi, bản thiết kế của bầy bồ câu trở nên tham vọng tới mức phải mất rất nhiều thời gian để tìm ra một người đủ thông minh để thực hiện. Khi cuối cùng chúng cũng tìm được, nhưng người này cự lại, tin rằng ngọn đồi bị nguyền rủa vì đã có quá nhiều nhà thờ bị đốt trụi ở đó trong quá khứ. Dù ông ta cố xua ý tưởng này ra khỏi đầu, bầy bồ câu vẫn liên tục trở lại, hết đêm này qua đêm khác, để thì thầm nó vào tai ông ta. Song ông ta vẫn không chịu hành động, Vậy là lũ chim tìm đến ông ta vào ban ngày, điều chúng chưa từng làm trước đó, và nói với người đàn ông bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng rộn tiếng cười của chúng rằng ông ta là người duy nhất có khả năng xây dựng tòa tháp của chúng, và chỉ đơn giản là ông ta phải làm điều đó. Nhưng người đàn ông từ chối và xua lũ chim ra khỏi nhà mình, hét lên, ‘Xùy, xéo đi, lũ chim bẩn thỉu!’.
“Lũ bồ câu, bị sỉ nhục và đầy hiềm thù, ám ảnh người đàn ông cho tới lúc ông ta hầu như hóa điên – bám theo ông ta tới bất cứ đâu, kéo quần áo, giật tóc ông ta, làm bẩn đồ ăn của ông ta bằng lông đuôi của chúng, gõ vào cửa sổ nhà ông ta ban đêm để ông ta không ngủ nổi – cho tới một ngày ông ta phải quỳ gối xuống và la lên, ‘Ôi các ngài bồ câu! Tôi sẽ xây bất cứ cái gì các ngài yêu cầu, miễn là các ngài canh chừng nó và gìn giữ để nó không cháy trụi’.
“Lũ bồ câu băn khoăn suy nghĩ về chuyện này. Trao đổi với nhau, chúng đi tới kết luận chúng đã có thể là những người bảo vệ tốt hơn cho các toà tháp trong quá khứ nếu chúng không hào hứng với việc xây tháp thái quá tới vậy, và thề sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ các tòa tháp trong tương lai. Vậy là người đàn ông xây công trình, một nhà thờ lớn đồ sộ nguy nga với hai tòa tháp và một mái vòm. Công trình thật tráng lệ, và cả người lẫn bồ câu đều hài lòng với những gì họ tạo ra tới mức trở thành những người bạn chí thân; người đàn ông không bao giờ đi đâu trong suốt phần đời còn lại của mình mà không có một con bồ câu ở kề bên để tư vấn cho ông. Thậm chí khi ông qua đời lúc đã rất già và hạnh phúc, bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới. Và tới tận ngày này, bạn vẫn sẽ tìm thấy nhà thờ lớn họ xây dựng tọa lạc trên quả đồi cao nhất London, những con bồ câu vẫn trông coi công trình”. Millard gập sách lại. “Hết”.
Emma thốt lên tuyệt vọng. “Phải rồi, nhưng trông coi từ đâu mới được chứ?”.
“Trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta”, Enoch nói, “nó cũng vô tích sự chẳng kém gì một câu chuyện về lũ mèo trên Mặt Trăng”.
“Tớ chả hiểu đầu cua tai nheo gì cả”, Bronwyn nói. “Có ai hiểu không?”.
Tôi gần như có thể - cảm thấy gần chạm tới gì đó trong câu nhắc tới “khu đất bên dưới” – nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: Lũ bồ câu đang ở dưới địa ngục sao?
Thế rồi một quả bom nữa rơi xuống, làm rung chuyển cả công trình, và từ trên cao đột nhiên vang lên tiếng đập cánh phành phạch. Chúng tôi nhìn lên và thấy ba con bồ câu hoảng hốt bay vụt ra từ nơi ẩn náu nào đó trên các xà mái. Cô Peregrine kêu lên đầy phấn khích – như thể muốn nói: Là chúng đấy! – Bronwyn liền nâng bà lên, rồi tất cả chúng tôi cùng ùa theo mấy con chim. Chúng bay xuống dọc chiều dài giáo đường chính, rồi ngoặt gấp, biến mất qua một khung cửa.
Chúng tôi tới chỗ khung cửa đó muộn hơn vài giây. Tôi nhẹ nhõm khi thấy nó không mở ra ngoài, nếu vậy chúng tôi sẽ không bao giờ có hy vọng bắt được mấy con chim, và ra một giếng cầu thang, dẫn xuống những bậc thang xoáy trôn ốc.
“Ái chà!” Enoch thốt lên, vỗ vỗ hai bàn tay mập mạp ngắn ngủn. “Giờ chúng đã tự rúc vào bẫy - tự nhốt mình dưới tầng hầm!”.
Chúng tôi hối hả lao xuống cầu thang. Dưới chân cầu thang là một căn phòng rộng sáng lờ mờ, tường và sàn đều bằng đá. Căn phòng lạnh lẽo, ẩm thấp và gần như tối om vì điện đã bị cắt, vì thế Emma thắp lửa trên bàn tay cô và đưa lên chiếu ra xung quanh, cho tới khi có thể thấy rõ thực trạng của nơi này. Dưới chân chúng tôi, trải ra trên khắp mặt sàn giữa các bức tường là những tấm bia cẩm thạch có khắc chữ. Tấm bia dưới chân tôi khắc:
GIÁM MỤC ELDRIDGE THORNBRUSH, MẤT NĂM 1721.
“Đây không phải là tầng hầm”, Emma nói. “Đây là một hầm mộ”.
Một cơn ớn lạnh lan ra khắp người tôi, tôi bèn bước lại gần ánh sáng và hơi ấm từ ngọn lửa của Emma.
“Ý cậu là có những người được chôn dưới sàn à?” Olive hỏi, giọng run rẩy.
“Thế thì sao?” Enoch nói. “Chúng ta hãy đi bắt mấy con bồ câu mắc dịch đó trước khi một trong những quả bom vùi chúng ta dưới sàn”.
Emma quay một vòng, hướng ánh sáng chiếu lên các bức tường. “Chúng nhất định phải ở đâu đó dưới này. Không còn lối ra nào ngoài cầu thang đó”.
Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng đập cánh. Tôi cứng người lại. Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn và hướng nó về phía tiếng động. Ánh sáng chập chờn cô tạo ra hắt xuống một ngôi mộ nắp phẳng nhô lên khỏi mặt sàn chừng một mét. Giữa ngôi mộ và tường là một khoảng trống mà chúng tôi không thể thấy được phía sau từ chỗ chúng tôi đang đứng; một nơi ẩn náu lý tưởng cho một con chim.
Emma đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng rồi ra dấu bảo chúng tôi đi theo. Chúng tôi bò qua căn phòng. Đến gần ngôi mộ, chúng tôi tản rộng ra, vây lấy nó từ ba phía.
Sẵn sàng chưa? Emma mấp máy môi.
Những người còn lại gật đầu. Tôi giơ ngón cái lên. Emma rón rén bước tới ngó vào đằng sau ngôi mộ - và mặt cô ỉu xìu. “chẳng có gì cả!” cô nói, thất vọng giậm chân xuống sàn.
“Tớ không hiểu!” Enoch nói. “Lúc nãy chúng ở ngay đây mà!”
Tất cả chúng tôi cùng bước tới xem. Rồi Millard nói, “Emma! Làm ơn chiếu sáng lên mặt mộ nào!”
Cô làm theo, và Millard đọc to những gì được khắc trên đó lên thành tiếng:
NƠI ĐÂY AN NGHỈ NGÀI CHRISTOPHER WREN, NGƯỜI XÂY DỰNG NHÀ THỜ LỚN NÀY
“Wren!” Emma thốt lên. “Một trùng hợp lạ lùng làm sao!”.
“Tớ không nghĩ đây là trùng hợp ngẫu nhiên”, Millard nói. “Ông ta nhất định có liên quan tới cô Wren. Có thể là bố bà ấy!”.
“Rất thú vị”, Enoch nói, “nhưng nó có thể giúp chúng ta tìm ra bà ấy hay lũ bồ câu của bà ấy thế nào đây?”.
“Đó chính là điều tớ đang muốn lý giải”, Millard lẩm nhẩm một mình, đi đi lại lại một chút và nhắc lại một câu trong truyện: “bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới”.
Thế rồi tôi nghĩ tôi nghe thấy một con bồ câu kêu cu cu. “Suỵt!” tôi nói, và ra hiệu bảo mọi người lắng nghe. Âm thanh đó lại vang lên vài giây sau, từ góc phía sau mộ. Tôi đi vòng tới đó và quỳ xuống, và đúng lúc ấy tôi để ý thấy một cái lỗ nhỏ trên sàn dưới chân mộ, chỉ to cỡ lọt nắm tay - đủ lớn để một con chim chui vừa.
“Lại đây!” tôi nói.
“À, ngạc nhiên thật!” Emma thốt lên, đưa ngọn lửa của cô tới phía trên cái lỗ. “Có lẽ đó là ‘khu đất bên dưới’ chăng?”.
“Nhưng cái lỗ bé quá”, Olive nói. “Làm sao chúng ta có thể lôi lũ chim ra khỏi đó được?”.
“Chúng ta có thể đợi chúng chui ra”, Horace nói, rồi một quả bom rơi xuống rất gần, đến mức làm mắt tôi hoa lên mờ tịt, hai hàm răng va lập cập.
“Không cần phải thế!” Millard nói. “Bronwyn, cậu có thể làm ơn mở mộ của ngài Wren ra được không?”.
“Không!” Olive kêu lên. “Tớ không muốn thấy bộ xương mục của ông ấy!”.
“Đừng lo, cô bé yêu quý”, Bronwyn nói, “Millard biết cậu ấy đang làm gì”. Cô đặt hai bàn tay lên rìa nắp mộ và bắt đầu đẩy, và tấm nắp trượt mở ra theo tiếng kèn kẹt chậm rãi.
Mùi bốc lên không phải thứ tôi lường đến – không phải của cái chết, mà của hơi mốc và đất lâu năm. Chúng tôi xúm lại xung quanh và nhìn vào trong.
“À, ngạc nhiên thật”, Emma nói.