Nguyên tác: The Clocks (1963)
Số lần đọc/download: 298 / 21
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:48 +0700
Chương 11
O
ng Ramsay,” Colin nói với vẻ đăm chiêu tư lự.
“Ông ta thì sao?”
“Tôi thích cái tên nghe hay hay, chỉ vậy thôi. Ông ta thường ra nước ngoài — cứ vừa báo xong là đi ngay. Bà vợ nói ông ta là kỹ sư xây dựng, nhưng hình như chỉ biết về ông ấy có vậy thôi.”
“Bà ta là một phụ nữ rất tuyệt,” Hardcastle nói.
“Phải — và không hạnh phúc lắm.”
“Mệt mỏi, chỉ thế thôi. Trẻ con thường làm cho ta mệt mỏi.”
“Tôi nghĩ còn hơn vậy nữa.”
“Chắc chắn hạng người cậu muốn tìm không được mang gánh nặng gia đình một vợ hai con,” Hardcastle nói vẻ hoài nghi.
“Ông anh chẳng bao giờ biết được đâu,” Colin đáp. “Ông anh sẽ ngạc nhiên với sự ngụy trang của mấy thằng gián điệp. Một bà góa có cuộc sống khó khăn với hai đứa con nít sẽ sẵn lòng chịu chấp nhận.”
“Tôi cứ tưởng bà ta không phải hạng người ấy chứ,” Hardcastle ra vẻ nghiêm nghị.
“Tôi không có ý nói là sống trong tội lỗi, ông anh thân mến của tôi à. Tôi muốn nói bà ta bằng lòng làm bà Ramsay và tạo một cái nền. Dĩ nhiên ông ấy thường bịa chuyện, không cho biết rõ mình làm cái quái gì. Ông ta đang chơi cái trò gián điệp, tức là cùng phe ta. Chỉ là yêu nước thế thôi.”
Hardcastle lắc đầu.
“Các cậu sống trong một thế giới thật lạ kỳ, Colin à.”
“Vâng, đúng là vậy đó. Ông anh biết không, tôi nghĩ rồi sẽ có ngày mình phải rời bỏ nó — người ta bắt đầu quên đi cái gì là cái gì và ai là ai. Phân nửa số người này làm việc cho cả hai bên và sau rốt chính họ cũng chẳng biết mình thật ra thuộc về bên nào nữa. Các chuẩn mực lộn nhào hết. — À mà thôi — Chúng ta hãy tiếp tục công việc.”
“Tốt hơn hết chúng ta nên làm việc với nhà McNaughton,” Hardcastle bảo, dừng xe lại trước nhà số 63. “Vườn nhà ông này tiếp giáp một chút với số nhà 19 — cũng như nhà Bland.”
“Ông anh biết gì về nhà McNaughton rồi?”
“Không nhiều — họ mới đến đây cách nay độ một năm. Một cặp đôi cao tuổi — giáo sư về hưu, tôi tin thế. Ông ấy làm vườn.”
Trong khu vườn trước nhà có những khóm hoa hồng, và một thảm hoa kỵ phù lam dày bên dưới cửa sổ.
Một phụ nữ trẻ vui tươi mặc áo khoác có hoa văn tươi thắm mở cửa cho họ, và hỏi: “Các ông muốn gì? — Gì ạ?”
Hardcastle lẩm bẩm, “Cuối cùng có người nước ngoài giúp cho rồi,” và trao danh thiếp cho cô ta.
“Cảnh sát,” cô gái nói. Cô lùi lại chừng vài bước, trố mắt nhìn Hardcastle như thể ông ta là ma quỷ hiện hình người.
“Bà McNaughton đâu?” Hardcastle hỏi.
“Bà McNaughton đang ở đây.”
Cô dẫn họ vào phòng khách. Phòng này ngó ra vườn sau nhà, trống vắng chẳng có ai.
“Bả trên lầu đó,” cô gái trẻ không còn vui tươi nữa nói. Cô đi ra sảnh, cất tiếng gọi, “Bà McNaughton — Bà McNaughton!”
Một giọng nói từ xa xăm vọng tới: “Nghe rồi. Có chuyện gì vậy, Gretel?”
“Có cảnh sát ạ — hai ông cảnh sát. Con cho mấy ổng vô phòng khách rồi.”
Nghe loáng thoáng có tiếng chạy gấp gáp trên lầu và tiếng ai đó nói “Ôi, trời ơi. Ôi, trời ơi, gì nữa đây?” bồng bềnh trôi xuống. Rồi có tiếng chân bước lộp cộp và ngay sau đó bà chủ nhà đi vào phòng với vẻ lo âu hiện lên trên khuôn mặt. Hardcastle suy đoán rất nhanh là bà ta thường vẫn có nét mặt lo âu ấy.
“Ôi, trời ơi,” bà lại nói, “ôi, trời ơi. Thanh tra — gì đây — Hardcastle — à vâng.” Bà ta nhìn tấm thiếp. “Nhưng tại sao ông muốn gặp chúng tôi? Chúng tôi chả biết gì cả. Tôi muốn nói có lẽ là vụ án mạng ở đây, phải không? Tôi muốn nói, không phải là đăng ký thuê bao truyền hình chứ ạ?”
Thanh tra trấn an bà về điểm ấy.
“Toàn bộ vụ này có vẻ quá kỳ dị, phải không ạ?” Nét mặt bà tươi tỉnh hẳn lên. “Lại còn ngay trước hay sau giữa trưa nữa chứ. Đến đột nhập vào nhà trộm cắp giờ đó thật là kỳ quái. Đúng lúc người ta thường ở nhà. Nhưng ngày nay người ta lại đọc thấy tin về những chuyện khủng khiếp đó. Toàn xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật. Này nhé, vài người bạn của chúng tôi — họ ra ngoài để ăn trưa, và một chiếc xe tải chuyên chờ đồ đạc nội thất đỗ lại rồi một lũ đàn ông xông vào và khuân ra hết sạch đồ đạc lớn bé. Cả phố đều trông thấy nhưng tất nhiên họ không hề nghĩ có gì sai quấy cả. Ông biết không, quả thật tôi có nghĩ tới chuyện đã nghe ai la hét hôm qua, nhưng ông Angus lại bảo đó là hai thằng bé nhà bà Ramsay. Chúng thường xông vào vườn, gây ra những tiếng ồn ào như tàu vũ trụ, ông biết đó, tên lửa hay bom nguyên tử. Đôi lúc còn làm người ta hoảng sợ nữa.”
Một lần nữa thanh tra lại đưa bức ảnh ra.
“Bà có bao giờ gặp người đàn ông này chưa, bà McNaughton?”
Chủ nhà nhìn bức ảnh chằm chặp như ngấu như nghiến.
“Tôi gần như chắc chắn đã từng gặp ông ta. Vâng. Vâng, tôi hầu như chắc chắn. À, ở đâu thế nhỉ? Có phải đó là cái ông đến hỏi tôi có muốn mua bộ bách khoa từ điển mười bốn tập hay không? Hoặc có phải đó là người đàn ông bán máy hút bụi đời mới? Tôi chả có việc gì với ông ta, nên ông ta ra ngoài và làm phiền chồng tôi trong vườn hoa đằng trước. Ông Angus đang trồng một số củ nghệ, ông biết đó, và không muốn công việc bị gián đoạn, còn ông kia lại cứ nói hoài nói mãi về tác dụng của món hàng. Ông biết cái máy chạy lên chạy xuống các bức màn ra sao, làm sạch các bậc thềm trước cửa, các bậc thang, các tấm đệm và cả tổng vệ sinh mùa xuân nữa. Mọi thứ, ông ta nói, tuyệt đối đủ mọi thứ. Thế rồi chồng tôi chỉ ngước nhìn ông ta và bảo, ‘Nó có trồng được củ nghệ không?’ Phải nói là tôi không nín cười được vì câu đó, nó khiến ông ta giật lùi lại rồi bỏ đi một mạch.”
“Và bà thực sự nghĩ đó là người đàn ông trong bức ảnh này?”
“À không, thật tình tôi không nghĩ thế, vì đó là một người đàn ông trẻ hơn nhiều, bây giờ tôi mới nghĩ ra. Nhưng dù sao đi nữa tôi vẫn nghĩ mình từng thấy khuôn mặt này trước đây rồi. Vâng, càng nhìn tôi càng chắc chắn ông ta đã đến đây và mời tôi mua cái gì đó.”
“Có lẽ là mua bảo hiểm?”
“Không, không, không phải bảo hiểm. Chồng tôi tham gia đủ mọi loại hình đó. Chúng tôi được bảo hiểm đầy đủ về mọi mặt. Không phải thế. Nhưng dù sao đi nữa—vâng, càng nhìn tấm ảnh…”
Hardcastle kém hứng thú với chuyện này hơn ông tưởng. Từ cái kho kinh nghiệm của mình, ông cho bà McNaughton là một phụ nữ thường hay bồn chồn lo lắng vì bị kích động khi trông thấy ai đó liên can tới án mạng. Càng nhìn tấm hình lâu hơn, bà ta càng chắc chắn mình có thể nhớ ra ai đó giống hệt như vậy.
Ông thở dài.
“Ông ấy đã lái một chiếc xe tải, tôi tin là thế,” bà McNaughton tiếp tục. “Nhưng tôi trông thấy ông ta chính xác lúc nào thì tôi không nhớ được. Một xe bán bánh mì, tôi nghĩ vậy.”
“Hôm qua bà không gặp ông ấy, phải không bà McNaughton?”
Mặt bà chủ nhà hơi chùng xuống. Bà vuốt ngược mớ tóc phất phơ khá bạc màu ra khỏi trán.
“Không. Không, không phải hôm qua. ít ra là…” bà tạm dừng lại. “Tôi không nghĩ thế.” Rồi bà tươi tỉnh hơn một chút. “Có lẽ chồng tôi sẽ nhớ ra.”
“Ông ấy có ở nhà không?”
“Ôi, ông ấy ờ ngoài vườn.” Bà chỉ tay qua cửa sổ, một người đàn ông có tuổi đang đẩy một cái xe cút kít dọc theo lối mòn.
“Để chúng tôi sẽ ra ngoài và nói chuyện với ông ấy.”
“Vâng. Xin đi lối này!”
Bà dẫn đường đi qua một cửa hông và vào trong vườn. Ông McNaughton đang mồ hôi mồ kê đầm đìa.
“Quý ông đây từ cơ quan cảnh sát đến, Angus à,” vợ ông ta nói như muốn hụt hơi. “Đến vì vụ án mạng bên nhà cô Pebmarsh. Có một bức ảnh họ chụp người chết. Anh biết không, em chắc chắn đã gặp ông ta ở đâu đó. Không phải người đó phải không, cái ông đã đến tuần trước và hỏi chúng mình có món đồ cổ nào muốn bán không đó?”
“Xem nào,” ông chồng nói. “Cứ cầm nó cho tôi xem đi, được không?” ông bảo Hardcastle. “Tay tôi dính nhiều đất quá không thể đụng vào bất cứ thứ gì.”
Ông ta nhìn sơ qua rồi nhận xét, “Cả đời tôi chưa bao giờ gặp thằng cha này.”
“Láng giềng của ông bảo tôi là ông rất say mê làm vườn,” thanh tra nói.
“Ai bảo ông thế — không phải ông Ramsay chứ?”
“Không phải. Là ông Bland nói.”
Angus McNaughton khịt mũi.
“Ông Bland chả biết làm vườn nghĩa là gì. Ươm trồng cây con, ông ta chỉ làm có thế thôi. Cứ trồng xen vào thu hải đường, phong lữ và cúc Lobeli ngoài rìa. Cái mà tôi gọi là làm vườn chẳng phải thế. Thế thì sống trong công viên đi cho rồi. Ông thanh tra có quan tâm đến các cây bụi chút nào không ạ? Tất nhiên bây giờ không phải thời gian thích hợp trong năm, nhưng tôi có một vài cây bụi ở đây sẽ khiến ông ngạc nhiên vì tôi có thể trồng được. Những cây bụi mà người ta bảo chỉ phát triển tốt ở Devon và Cornwall mà thôi.”
“Tôi e mình không thể phát biểu gì với một nhà làm vườn đang hành nghề,” Hardcastle nói.
McNaughton nhìn ông ta y như một họa sĩ nhìn ai đó nói mình không biết gì về mỹ thuật nhưng lại rất rõ mình thích cái gì.
“Tôi e rằng phải đề cập đến một đề tài rất kém thú vị,” Hardcastle nói.
“Tất nhiên rồi. Vụ việc này hôm qua. Tôi đang ở ngoài vườn, ông biết đấy, khi chuyện đó xảy ra.”
“Thật thế sao?”
“À, tôi muốn nói tôi đang ở đây lúc cô gái thét lên.”
“Ông đã làm gì?”
“À,” ông chủ nhà đáp khá lúng túng, “tôi chả làm gì cả. Quả thật tôi cứ tưởng đó là mấy thằng cu trời đánh nhà Ramsay ấy. Lúc nào cũng kêu la thét lác và gây ồn ào.”
“Nhưng chắc chắn tiếng thét này không đến từ hướng đó?”
“Thì đúng là không, nếu như hai thằng cu trời đánh kia vẫn còn ở trong vườn nhà chúng. Nhưng chúng thường không như thế, ông biết đó. Chúng chui qua hàng rào và bờ giậu nhà người ta. Chúng đuổi bắt lũ mèo khốn khổ nhà bà Hemming khắp nơi. Chả có ai kiềm chế chúng cả, rắc rối là ở đó. Mẹ chúng thì mềm yếu như sên ấy.”
“Ông Ramsay ra nước ngoài rất nhiều, tôi nghe nói thế.”
“Kỹ sư xây dựng, hình như vậy,” McNaughton nói có vẻ mơ hồ không chắc lắm. “Luôn bỏ đi đâu đó. Các đập nước, ông biết mà. Tôi muốn nói những công việc có liên quan tới xây dựng đập nước, hoặc các đường ống dẫn dầu khí hay cái gì đại loại như thế. Thực sự tôi không biết rõ. Ông ấy phải đi Thụy Điển cách đây một tháng, vừa báo là đi ngay. Thế là bỏ lại mẹ hai thằng cu với rất nhiều việc phải làm — nấu ăn và việc nhà và điều đó — à —-tất nhiên là hai thằng nhóc trở nên hoang dã. Chẳng phải chúng hư đốn, xin ông lưu ý cho, nhưng chúng cần có kỷ luật.”
“Chính ông không thấy bất cứ điều gì — tôi muốn nói là ngoài việc nghe thấy tiếng thét? À này, nghe thấy lúc nào thế nhỉ?”
“Không biết. Tôi luôn cởi đồng hồ đeo tay trước khi ra đây. Đã để vòi nước làm ướt nó hôm nọ, nên sau đó phải mất công đem đi sửa. Em ơi, lúc đó mấy giờ vậy em? Em nghe thấy, phải không?”
“Có lẽ là hai giờ rưỡi — ít nhất nửa giờ sau khi chúng tôi ăn trưa xong.”
“Tôi hiểu. Ông bà thường dùng bữa trưa lúc mấy giờ?”
“Một giờ rưỡi,” ông McNaughton đáp, “nếu chúng tôi gặp may. Cô gái người Đan Mạch giúp việc cho chúng tôi vô ý vô tứ, chẳng chịu xem giờ xem giấc gì cả.”
“Và sau đó — ông bà có thường ngủ trưa không?”
“Thỉnh thoảng thôi. Hôm nay tôi đã không ngủ. Tôi muốn tiếp tục công việc đang làm dở. Tôi đang dọn dẹp nhiều thứ, cho thêm vào đống phân trộn. Thế thôi.”
“Thật tuyệt vời, một đống phân trộn,” thanh tra Hardcastle nói với thái độ nghiêm túc.
Ông McNaughton tươi tỉnh lên ngay lập tức: “Tuyệt đối đúng. Chả có gì bằng phân trộn cả. A! Số người tôi đã làm đổi ý cũng nhiều. Cứ dùng toàn là phân hóa học! Tự sát! Để tôi cho ông xem nhé!”
Ông ta hăng hái cầm tay Hardcastle lôi đi, và vừa đẩy cái xe cút kít vừa đi dọc theo lối mòn tới tận ngoài rìa hàng rào phân cách vườn nhà ông với vườn nhà số 19. Được những khóm tử đinh hương che giấu, đống phân trộn đã bị dời chỗ. Nhà làm vườn đẩy xe cút kít tới một cái lán nhỏ bên cạnh. Bên trong lán những công cụ được xếp đặt thật ngăn nắp.
“Ông gìn giữ mọi thứ thật sạch sẽ gọn ghẽ nhỉ,” Hardcastle nhận xét.
“Phải chăm sóc đồ nghề của mình chứ,” McNaughton nói.
Thanh tra đăm chiêu nhìn sang nhà số 19. Bên kia hàng rào là một giàn hoa hồng dẫn tới tận sát hông nhà.
“Ông không trông thấy ai ở trong vườn nhà số 19 hay nhìn ra cửa sổ hoặc bất cứ điều gì như thế lúc ông đang ở bên đống phân trộn của mình?”
McNaughton lắc đầu.
“Hoàn toàn không thấy gì cả. Rất tiếc không giúp được ông, thanh tra à.”
“Anh biết không, Angus,” vợ ông nói. “Em tin mình có thấy một bóng dáng lén lút lẩn tránh trong khu vườn ấy.”
“Anh không nghĩ em đã thấy đâu, em à,” chồng bà tỏ ra kiên quyết. “Anh cũng chẳng thấy.”
Khi đã trở ra và lên xe rồi, Hardcastle làu bàu: “Người đàn bà ấy cứ nói là đã thấy mọi chuyện.”
“Ông anh không nghĩ bà ta nhận ra người trong tấm ảnh hay sao?”
Thanh tra lắc đầu. “Tôi nghi ngờ điều ấy. Bà ta chỉ muốn nghĩ là đã thấy hắn. Tôi biết nhân chứng cái kiểu này quá mà. Khi tôi buộc bà ta phải xác nhận, bà ta không thể kể lại rõ ràng rành mạch, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Dĩ nhiên bà ta có thể ngồi đối diện với hắn trên xe buýt, hay cái gì đấy. Tôi để cho cậu nghĩ thế. Nhưng nếu cậu hỏi tôi, thì đấy là lẫn lộn mộng và thực. Cậu nghĩ sao?”
“Tôi cũng nghĩ y như vậy.”
“Chúng ta chẳng đạt được gì,” thanh tra thở dài. “Dĩ nhiên có những điều dường như kỳ quái. Chẳng hạn, hầu như không thể nào bà Hemming — dẫu có chăm chăm lũ mèo đến mức nào đi nữa — lại biết quá ít về người láng giềng Pebmarsh của mình. Và còn nữa, chuyện gì bà ta cũng không chắc chắn và chẳng quan tâm đến án mạng.”
“Bà ấy là hạng phụ nữ hiểu biết lơ mơ rồi.”
“Ngờ nghệch!” Hardcastle nói. “Khi cậu gặp một mụ đàn bà ngờ nghệch — à, hỏa hoạn, trộm cưóp và án mạng diễn ra xung quanh họ, nhưng họ chẳng thèm để ý đến.”
“Bà ấy được tất cả những lưới kẽm gai che chắn thật kỹ, và bụi cây thời nữ hoàng Victoria ấy ngăn trở không cho ta mở rộng tầm nhìn.”
Họ về tới đồn cảnh sát. Hardcastle toét miệng cười với bạn và nói: “Này, trung sĩ Lamb, bây giờ tôi có thể để cậu thôi làm nhiệm vụ.”
“Không còn viếng thăm nhà ai nữa sao?”
“Không phải ngay bây giờ. Tôi còn phải đến một nhà nữa, nhưng tôi không định rủ cậu đi cùng.”
“À, cám ơn ông anh về buổi sáng nay. Có thể cho đánh máy các ghi chép của tôi hay không?” Colin trao tập giấy. “Ông anh nói ngày mốt sẽ là buổi sơ thẩm chính thức, phải không? Mấy giờ hả?”
“Mười một giờ.”
“Được, tôi sẽ quay lại để tham dự.”
“Cậu sẽ đi đâu đó ư?”
“Mai tôi phải đi London để cập nhật báo cáo.”
“Tôi có thể đoán cậu đi gặp ai rồi.”
“Ông anh không đoán được đâu.”
Hardcastle cười toe toét.
“Nhắn giúp với ông trai già ấy tôi yêu ông ấy lắm!”
“Cũng có thể tôi sẽ đi gặp một chuyên gia,” Colin nói.
“Chuyên gia à? Để làm gì? Cậu có gì không ổn sao?”
“Không có gì hết — trừ cảm giác u ám nặng nề. Tôi không muốn nói ra loại chuyên gia đó đâu. Một người cùng chiến tuyến với ông anh.”
“Scotland Yard à?”
“Không phải. Một thám tử tư—bạn của ba tôi, và cũng là bạn của tôi. Vụ việc quái đản này của ông anh sẽ đến tai ông ấy ngay thôi, ông ấy sẽ yêu thích nó — sẽ làm cho ổng phấn chấn lên. Tôi nghĩ ông ấy cần phấn chấn lên.”
“Ông ta tên gì?”
“Hercule Poirot.”
“Tôi có nghe nói về ông ấy. Cứ tưởng ông ấy chết rồi chứ.”
“Chưa chết. Nhưng tôi có cảm giác ổng buồn chán lắm. Như vậy còn tệ hại hơn.”
Hardcastle tò mò nhìn Colin.
“Cậu là một anh chàng kỳ khôi. Có những người bạn thật lạ đời.”
“Bao gồm cả ông anh nữa,” Colin cười toe.