Số lần đọc/download: 766 / 22
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:41 +0700
Chương 9
A
nh ấy có thể nhìn thấy lũ quái vật. Ngay khi cô nói ra những lời này, tất cả nỗi kinh hoàng tôi vốn tưởng mình đã để lại đằng sau bỗng cuồn cuộn ùa về. Chúng có thật. Chúng có thật và chúng đã giết ông tôi.
“Tớ cũng có thể nhìn thấy chúng”, tôi nói với cô, thì thầm như thể đó là một nỗi xấu hổ thầm kín.
Đôi mắt Emma ướt nhòe, cô liền ôm chầm lấy tôi. “Tớ biết có điều gì đó đặc biệt ở cậu mà”, cô nói. “Và ý tớ muốn nói đó là lời khen ngợi lớn nhất.”
Tôi vẫn luôn biết mình kỳ lạ. Song chưa bao giờ mơ mình lại đặc biệt. Nhưng nếu tôi có thể nhìn thấy những thứ mà gần như không ai khác có thể, điều đó sẽ giải thích tại sao Ricky đã không thấy gì trong rừng buổi tối ông nội tôi bị giết. Điều đó giải thích vì sao tất cả mọi người đều nghĩ tôi bị điên. Tôi không hề điên hay bị ảo giác hay rối loạn stress; cảm giác hốt hoảng quặn thắt trong bụng tôi mỗi khi chúng ở gần - cũng như nỗi kinh hoàng khi trông thấy chúng - đó là do năng lực dị thường của tôi.
“Và các cậu không thể nhìn thấy chúng sao?” tôi hỏi cô.
“Chỉ cái bóng của chúng thôi, đó là lý do chúng đi săn chủ yếu vào ban đêm.”
“Điều gì ngăn cản chúng tìm tới cậu ngay lúc này?” tôi hỏi, sau đó tự chỉnh lại. “Ý tớ là tìm tới tất cả chúng ta.”
Emma trở nên nghiêm túc. “Chúng không biết tìm chúng ta ở đâu. Và chúng không thể đi vào vòng thời gian. Vì thế chúng ta được an toàn trên đảo - nhưng chúng ta không thể rời đi.”
“Nhưng Victor đã làm thế.”
Cô buồn bã gật đầu. “Anh ấy bảo là cứ ở đây thì sẽ phát điên mất. Bảo là anh ấy không thể chịu đựng thêm được nữa. Khổ thân Bronwyn. Abe của tớ cũng đã rời đi, nhưng ít nhất anh ấy không bị những hồn rỗng sát hại.”
Tôi buộc mình nhìn thẳng vào cô. “Tớ thực sự xin lỗi phải nói với cậu chuyện này...”
“Cái gì? Ôi không.”
“Người ta thuyết phục tớ rằng đó là những con thú hoang. Nhưng nếu những gì cậu đang nói là đúng, ông nội tớ cũng bị chúng sát hại. Lần đầu tiên và duy nhất tớ nhìn thấy một con chính là vào buổi tối ông mất.”
Emma ép đầu gối sát vào ngực và nhắm mắt lại. Tôi quàng tay ôm lấy cô, còn cô tựa vào đầu tôi.
“Tớ biết cuối cùng thế nào chúng cũng tìm được anh ấy”, cô thì thầm. “Anh ấy đã hứa sẽ được an toàn tại Mỹ. Hứa rằng anh ấy có thể tự bảo vệ bản thân. Nhưng chúng ta không bao giờ được an toàn - tất cả chúng ta - một cách thật sự.”
Chúng tôi ngồi nói chuyện trên xác tàu đắm cho tới khi trăng lặn và nước dâng lên vỗ vào cổ chúng tôi, còn Emma bắt đầu rùng mình vì lạnh. Sau đó, chúng tôi nắm tay nhau cùng lội trở lại chỗ chiếc xuồng. Chèo xuồng về phía bãi biển, chúng tôi nghe thấy có tiếng người đang gọi tên mình, sau đó, chúng tôi vòng qua một tảng đá và nhìn thấy Hugh cùng Fiona đang đứng trên bờ vẫy chúng tôi. Thậm chí từ xa cũng có thể thấy rõ có chuyện gì đó không hay.
Chúng tôi buộc xuồng rồi chạy tới gặp họ. Hugh đang thở không ra hơi, lũ ong kích động bay vo ve quanh cậu ta. “Có chuyện rồi! Cậu cần quay về cùng bọn tớ!”
Không có thời gian để tranh luận nữa. Emma mặc quần áo ra ngoài bộ đồ bơi của cô, còn tôi xỏ chân vào cái quần dính đầy cát của mình. Hugh nhìn tôi có vẻ ngần ngại. “Nhưng cậu này thì không”, cậu ta nói. “Chuyện này nghiêm túc đấy.”
“Không, Hugh”, Emma nói. “Chim đã đúng. Cậu ấy là một trong chúng ta.”
Cậu ta há hốc miệng hết nhìn cô rồi nhìn tôi. “Cậu đã kể với cậu ta rồi?!”
“Tớ buộc phải làm thế. Dù thế nào cậu ấy cũng đã tự đoán ra rồi.”
Hugh có vẻ bối rối trong giây lát, nhưng sau đó quay sang bắt tay tôi một cách quả quyết. “Vậy thì chào mừng tới với gia đình.”
Tôi không biết phải nói gì, vì thế tôi chỉ đáp, “Cảm ơn.”
Trên đường quay về trại trẻ, chúng tôi lượm lấy những mảnh thông tin đứt đoạn về những gì đã xảy ra từ Hugh, nhưng phần lớn thời gian chúng tôi chỉ chạy. Khi chúng tôi dừng lại trong rừng để nghỉ lấy hơi, cậu ta nói, “Đó là một trong những người bạn Chủ Vòng Thời Gian của Chim. Cô ấy bay tới cách đây một giờ trong tình trạng thật khủng khiếp, la hét kinh hoàng và làm tất cả mọi người bật dậy khỏi giường. Bọn tớ còn chưa kịp hiểu cô ấy muốn nói gì thì cô ấy đã ngất xỉu.” Hugh vặn vẹo hai bàn tay, có vẻ rất khổ sở. “Ôi, tớ chỉ biết có chuyện xấu đã xảy ra.”
“Tớ hy vọng là cậu lầm”, Emma nói, và chúng tôi chạy tiếp.
o O o
Ngoài hành lang, ngay bên ngoài cửa phòng khách đang đóng kín, lũ trẻ trong bộ đồ ngủ nhàu nhĩ đang xúm xít quanh một cây đèn dầu, rì rầm bàn tán xem có chuyện gì đã xảy ra.
“Có lẽ họ đã quên khởi động lại vòng của họ”, Claire nói.
“Cược với cậu đó là bọn hồn rỗng”, Enoch nói. “Cược với cậu chúng cũng đã ăn thịt rất nhiều người trong bọn họ, nuốt chửng đến cả ủng!”
Claire và Olive than vãn, úp mặt vào hai bàn tay nhỏ xíu. Horace quỳ gối xuống bên hai cô gái và nói với giọng trấn an, “Nào, nào. Đừng để Enoch nhồi nhét những chuyện rác rưởi vào đầu các cậu. Mọi người đều biết đám hồn rỗng thích những đứa trẻ hơn cả. Chính vì thế chúng đã để bạn cô Peregrine chạy thoát - cô ấy có hương vị như bã cà phê để lâu ngày ấy!”
Olive nhìn ra từ các kẽ ngón tay. “Thế những đứa trẻ có hương vị thế nào?”
“Như quả dâu tây vậy”, cậu ta nói như thật. Hai cô gái lại rên lên.
“Để cho họ yên!” Hugh gắt lên, và một bầy ong xua Horace vừa la vừa chạy tít xuống cuối hành lang.
“Có chuyện gì ở ngoài đó vậy?” bà Peregrine hỏi vọng ra từ trong phòng khách. “Có phải tôi nghe thấy cậu Apiston không vậy? Cô Bloom và cậu Portman đâu?”
Emma rụt người lại và hướng ánh mắt e dè về phía Hugh. “Cô ấy biết à?”
“Khi cô ấy phát hiện ra cậu ra ngoài, thiếu chút nữa cô đã phát cuồng. Cứ tưởng cậu đã bị đám xác sống hay một con quỷ nào đó bắt cóc. Xin lỗi, Em. Tớ đành phải nói cho cô biết.”
Emma lắc đầu, nhưng tất cả những gì chúng tôi có thể làm là đi vào và đối diện với hậu quả. Fiona lặng lẽ ra dấu chào chúng tôi - như thể để chúc chúng tôi may mắn rồi chúng tôi mở cửa.
Bên trong phòng khách, ánh sáng duy nhất là từ một lò sưởi đang cháy, hắt những cái bóng nhảy múa lên bức tường. Bronwyn lo lắng cúi xuống một bà lão đang cựa mình nửa tỉnh nửa mê trên một chiếc ghế tựa, cả người quấn kín trong một tấm chăn. Bà Peregrine ngồi trên một chiếc ghế dài có đệm, bón cho bà lão từng thìa đầy thứ chất lỏng sẫm màu.
Khi Emma nhìn thấy khuôn mặt bà lão, cô cứng người lại. “Ôi Chúa ơi”, cô thì thầm. “Đó là cô Avocet.”
Chỉ đến lúc ấy tôi mới nhận ra, dù chỉ mơ hồ, từ bức ảnh bà Peregrine đã đưa cho tôi xem, chụp chính bà khi còn là một cô gái. Bà Avocet trong ảnh trông có vẻ thật bất khuất, nhưng giờ đây trông bà thật mong manh, yếu ớt.
Trong khi chúng tôi đứng nhìn, bà Peregrine cầm một cái bình bạc kề vào môi bà Avocet rồi nghiêng bình, và trong một khoảnh khắc bà Chủ Vòng Thời Gian già dường như hồi tỉnh lại, ngồi nhổm ra trước, mắt sáng lên. Nhưng sau đó vẻ mặt bà trở lại đờ đẫn, bà lại đổ vật xuống ghế.
“Cô Bruntley”, bà Peregrine nói với Bronwyn, “hãy đi chuẩn bị chỗ nằm nghỉ cho cô Avocet, rồi sau đó đi lấy một chai vang coca và một bình brandy nữa.”
Bronwyn đi ra ngoài, lễ phép gật đầu chào. Tiếp theo, bà Peregrine quay sang chúng tôi và hạ giọng nói, “Ta vô cùng thất vọng về cô, cô Bloom. Vô cùng. Lại còn chọn đúng tối nay để lẻn ra ngoài.”
“Em xin lỗi, thưa cô. Nhưng làm sao em biết được sẽ có chuyện không hay xảy ra ạ?”
“Ta sẽ phạt cô. Tuy nhiên, tính đến hoàn cảnh, có lẽ cũng chẳng cần phí công để làm điều đó.” Bà đưa một bàn tay lên vuốt xuôi mái tóc bạc trắng của người đã dạy dỗ mình. “Cô Avocet sẽ không bao giờ bỏ những người mình phải trông nom để tới đây trừ phi có chuyện gì rất khủng khiếp đã xảy ra.”
Ngọn lửa rừng rực cháy làm những giọt mồ hôi rịn ra trên trán tôi, nhưng trên ghế bà Avocet đang nằm run rẩy. Liệu bà có chết không? Liệu có phải thảm kịch đã diễn ra giữa ông nội và tôi lại sắp sửa tái diễn, lần này là giữa bà Peregrine và cô giáo của bà hay không? Tôi mường tượng lại nó: tôi ôm lấy ông, kinh hoàng và bối rối, không bao giờ có thể ngờ tới sự thật về ông hay về bản thân tôi. Tôi rút ra kết luận rằng những gì đang xảy ra lúc này không hề giống những gì đã xảy đến với tôi. Bà Peregrine vẫn luôn biết bà là ai.
Lúc này thật khó có thể coi là đúng thời điểm để nhắc tới song tôi thấy tức giận và không thể kìm mình được. “Bà Peregrine?” tôi bắt đầu, và bà ngước lên. “Đến khi nào bà mới định nói cho cháu biết?”
Bà định hỏi là chuyện gì, nhưng rồi ánh mắt bà rời sang Emma, và dường như đọc được câu trả lời trên khuôn mặt cô. Trong khoảnh khắc, bà có vẻ rất tức giận nhưng sau đó bà nhìn thấy vẻ bực bội của tôi, và cơn giận của bà lắng xuống. “Sớm thôi, chàng trai. Làm ơn hãy hiểu. Bày ra trước mặt cậu toàn bộ sự thật ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa chúng ta sẽ là một cú sốc tệ hại. Không thể dự đoán phản ứng của cậu. Cậu có thể đã bỏ chạy và không bao giờ quay trở lại. Ta không thể chấp nhận rủi ro đó.”
“Vậy là thay vì thế bà cố gắng dụ dỗ cháu bằng thức ăn, thú vui và các cô gái trong khi vẫn giấu kín mọi điều tồi tệ như một bí mật?”
Emma thảng thốt. “Dụ dỗ? Ôi, làm ơn, đừng nghĩ về tớ như thế, Jacob. Tớ không chịu nổi đâu.”
“Ta e rằng cậu đã hiểu lầm chúng ta một cách tệ hại”, bà Peregrine nói. “Còn về dụ dỗ cậu, những gì cậu thấy là cách chúng ta sống. Chẳng có sự lừa dối nào cả, chỉ là không tiết lộ vài sự thực thôi.”
“Được thôi, đây là một sự thực dành cho bà đây”, tôi nói. “Một trong những sinh vật đó đã giết ông nội cháu.”
Bà Peregrine nhìn chăm chăm vào ngọn lửa một lát. “Ta rất tiếc khi biết điều đó.”
“Cháu đã nhìn thấy con vật đó bằng chính mắt mình. Khi cháu kể cho những người khác, họ cố thuyết phục cháu là cháu đã mất trí. Nhưng cháu không hề mất trí, và ông nội cháu cũng không. Suốt đời mình ông vẫn luôn nói cho cháu biết sự thật, vậy mà cháu lại không tin ông.” Nỗi hổ thẹn tràn ngập trong tôi. “Nếu cháu tin, có lẽ ông vẫn còn sống.”
Bà Peregrine thấy tôi đang loạng choạng, bèn bảo tôi ngồi xuống cái ghế đối diện với bà Avocet.
Tôi ngồi xuống, và Emma quỳ gối xuống bên cạnh tôi. “Abe chắc đã biết cậu là một người đặc biệt”, cô nói. “Và anh ấy hẳn phải có một lý do xác đáng để không nói với cậu.”
“Đúng là cậu ấy có biết”, bà Peregrine đáp. “Và cậu ấy đã nói rõ điều đó trong một lá thư.”
“Thế thì cháu không hiểu. Nếu tất cả những chuyện ông kể đều đúng, và nếu ông biết cháu giống mình, tại sao ông lại giữ bí mật về điều đó tới tận phút cuối đời?”
Bà Peregrine dùng thìa bón thêm brandy cho bà Avocet, bà này rên lên, ngồi nhổm dậy một chút rồi lại nằm vật xuống ghế. “Ta chỉ có thể đoán là cậu ấy muốn bảo vệ cậu”, bà nói. “Cuộc sống của chúng ta có thể đầy thử thách và thiếu vắng nhiều thứ. Cuộc đời Abe còn khắc nghiệt gấp đôi thế vì cậu ấy là người Do Thái sinh vào đúng thời điểm tệ hại nhất. Cậu ấy phải đối diện với hai cuộc diệt chủng, cuộc diệt chủng người Do Thái của bọn Quốc Xã và cuộc diệt chủng người đặc biệt của đám hồn rỗng. Cậu ấy bị giằng xé bởi ý nghĩ mình đang trốn tránh ở đây trong khi đồng loại với cậu ấy, cả người Do Thái lẫn người đặc biệt, đang bị tàn sát.”
“Ông từng nói ông ra trận để chiến đấu với bọn quái vật”, tôi nói.
“Đúng thế”, Emma nói.
“Chiến tranh chấm dứt chế độ Quốc Xã, nhưng bọn hồn rỗng lại trở nên hung dữ hơn bao giờ hết”, bà Peregrine nói tiếp. “Vậy nên như nhiều người đặc biệt khác, chúng ta phải tiếp tục ẩn trốn. Nhưng ông nội cậu khi trở về đã thay đổi hoàn toàn. Cậu ấy đã trở thành một chiến binh, và quyết tâm xây dựng một cuộc đời cho mình bên ngoài vòng. Cậu ấy từ chối trốn tránh.”
“Tớ đã cầu xin anh ấy đừng đi Mỹ”, Emma nói. “Tất cả bọn tớ đều làm thế.”
“Tại sao ông lại chọn nước Mỹ?” tôi hỏi.
“Vào thời ấy, tại đó có rất ít hồn rỗng”, bà Peregrine đáp. “Sau chiến tranh, đã có một cuộc di cư nhỏ của những người đặc biệt tới Mỹ. Trong một thời gian, nhiều người đã có thể sống như bình thường, giống như ông nội cậu. Ước ao lớn nhất của cậu ấy là được bình thường, sống một cuộc đời bình thường. Cậu ấy thường nhắc tới chuyện đó trong những lá thư của mình. Cậu ấy muốn cậu có những gì cậu ấy không bao giờ có được.”
“Được làm người bình thường”, tôi nói.
Bà Peregrine gật đầu. “Nhưng cậu ấy không bao giờ có thể thoát khỏi sự đặc biệt của mình. Năng lực độc nhất vô nhị cộng với sự anh dũng trong chiến tranh của cậu ấy với tư cách một người săn hồn rỗng, khiến cậu ấy trở nên quý giá. Cậu ấy thường xuyên bị thúc ép phải nhập cuộc, được yêu cầu giúp loại bỏ những ổ hồn rỗng gây rắc rối. Bản tính khiến cậu ấy hiếm khi từ chối.”
Tôi nghĩ tới tất cả những chuyến đi săn dài ông nội Portman vẫn thường tiến hành. Gia đình tôi có một bức ảnh chụp ông trong một chuyến đi săn như thế, cho dù tôi không rõ ai đã chụp nó hay vào lúc nào, vì ông hầu như luôn đi một mình. Nhưng khi còn bé, tôi từng nghĩ bức ảnh này thật buồn cười, vì trong ảnh ông mặc một bộ vest. Ai lại mặc vest đi săn chứ?
Giờ tôi đã biết: ông đi săn thứ gì đó ghê gớm hơn những con thú.
Tôi xúc động trước ý niệm mới mẻ rằng ông nội không phải là một kẻ hoang tưởng bị súng đạn ám ảnh hay một kẻ lăng nhăng vụng trộm hoặc một người đàn ông chẳng bao giờ có mặt bên gia đình, mà là một hiệp sĩ lang thang mạo hiểm tính mạng mình vì người khác, sống trong ô tô hay các nhà trọ rẻ tiền, truy đuổi những cái bóng giết người, quay về nhà với một cơ số đạn ít hơn so với lúc mang đi, mang trên người những vết bầm tím ông không bao giờ có khả năng giải thích và những cơn ác mộng ông không thể kể về. Đổi lại vô vàn hy sinh của mình, ông chỉ nhận được sự trách móc và ngờ vực từ những người ông yêu quý. Tôi đoán đó là lý do vì sao ông viết nhiều thư đến thế cho Emma và bà Peregrine. Họ hiểu ông.
Bronwyn quay lại cùng một bình vang coca và thêm một bình brandy nữa. Bà Peregrine bảo cô gái đi ra rồi đem trộn hai thứ chất lỏng với nhau trong một cốc uống trà. Sau đó, bà bắt đầu vỗ nhẹ lên gò má nổi những đường gân xanh của bà Avocet.
“Esmerelda”, bà nói, “Esmerelda, cô phải tự ngồi dậy và uống thứ đồ uống tăng lực em đã chuẩn bị.”
Bà Avocet rên khẽ, và bà Peregrine đưa cốc kề vào môi bà lão. Bà lão uống vài ngụm, và cho dù bị sặc và ho, phần lớn chỗ chất lỏng đỏ tía đã chui xuống họng bà. Trong giây lát, bà mở mắt nhìn chằm chằm như thể sắp chìm trở lại vào trạng thái đờ đẫn, nhưng sau đó bà ngồi thẳng dậy, mặt bừng sáng.
“Ôi trời”, bà thốt lên, giọng khàn khàn khô khốc. “Tôi đã ngủ thiếp đi sao? Thật bất nhã quá.” Bà nhìn chúng tôi, hơi có vẻ ngạc nhiên, như thể chẳng hiểu chúng tôi từ đâu ra. “Alma? Có phải cô đấy không?”
Bà Peregrine xoa nắn đôi bàn tay xương xẩu của bà lão. “Esmerelda, cô đã đi cả một đoạn đường dài tới gặp chúng em giữa đêm khuya. Em e là cô đã làm tất cả chúng em lo lắng kinh khủng đấy.”
“Thật sao?” Bà Avocet nheo mắt và cau mày, đôi mắt bà dường như nhìn dán vào bức tường đối diện, sống động với những cái bóng chập chờn. Rồi trên khuôn mặt bà thoáng hiện lên vẻ ám ảnh. “Phải”, bà nói. “Tôi tới để cảnh cáo cô, Alma. Cô cần cảnh giác. Cô không được phép để mình bị bất ngờ, giống như tôi đã bị.”
Bà Peregrine dừng xoa bóp. “Bởi cái gì ạ?”
“Chúng chỉ có thể là lũ xác sống. Hai con tìm đến tối hôm qua, ngụy trang thành các thành viên hội đồng. Tất nhiên, chẳng có thành viên nam nào trong hội đồng, nhưng lốt ngụy trang đó đã lừa dối được lũ trẻ đang ngái ngủ do tôi quản lý để trói chúng lại và bắt chúng đi.”
Bà Peregrine há hốc miệng. “Ôi, cô Esmerelda...”
“Cô Bunting và tôi thức giấc khi nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của chúng”, bà lão giải thích, “nhưng chúng tôi phát hiện ra mình bị chặn cửa nhốt lại trong nhà. Phải mất một lúc lâu mới phá được cửa, chúng tôi liền lần theo mùi tanh của đám xác sống ra ngoài vòng thời gian, nhưng khi đó đã có cả một bầy dã thú chỉ nhìn thấy bóng chờ sẵn ở phía bên kia. Chúng gầm rú ập vào tấn công chúng tôi.” Bà ngừng lời, cố làm những giọt nước mắt.
“Còn lũ trẻ?”
Bà Avocet lắc đầu. Đôi mắt bà dường như đã tắt hẳn ánh sáng. “Lũ trẻ chỉ là mồi nhử”, bà nói.
Emma cầm lấy bàn tay tôi siết chặt, và tôi nhìn thấy hai má bà Peregrine ướt long lanh trong ánh lửa.
“Cô Bunting và tôi mới là những người chúng muốn. Tôi đã thoát được, nhưng cô Bunting thì không may mắn như thế.”
“Bà ấy bị giết rồi sao?”
“Không, bị bắt cóc. Cũng như cô Wren và cô Treecreeper khi vòng của họ bị tấn công nửa tháng trước. Chúng đang tìm bắt các Chủ Vòng Thời Gian, Alma. Đây là một âm mưu được phối hợp có hệ thống. Nhằm mục đích gì thì tôi không hình dung ra được.”
“Vậy thì chúng sẽ tìm đến chúng em”, bà Peregrine khẽ nói.
“Nếu chúng có thể tìm ra cô”, bà Avocet đáp. “Cô ẩn trốn tốt hơn những người khác, nhưng cô cần phải chuẩn bị sẵn sàng, Alma.”
Bà Peregrine gật đầu. Bà Avocet bất lực nhìn đôi bàn tay mình đang run rẩy trong lòng như một con chim gãy cánh. Bà bắt đầu nấc lên. “Ôi, lũ trẻ yêu quý của tôi. Hãy cầu nguyện cho chúng. Giờ đây chúng hoàn toàn đơn độc.” Rồi bà quay đi và khóc.
Bà Peregrine kéo chăn trùm lên vai bà lão rồi đứng dậy. Chúng tôi theo bà ra ngoài, để bà Avocet ở lại cùng nỗi đau khổ của bà.
o O o
Chúng tôi gặp lũ trẻ đang xúm lại quanh cửa phòng khách. Dù bọn họ không nghe thấy tất cả những gì bà Avocet vừa nói thì cũng đã nghe được đủ nhiều, và điều đó hiện rõ trên những khuôn mặt đầy lo âu của họ.
“Cô Avocet tội nghiệp”, Claire vừa nói vừa thút thít, môi dưới run rẩy.
“Những đứa trẻ tội nghiệp của cô Avocet”, Olive nói.
“Liệu bây giờ chúng có tìm đến chúng ta không, thưa cô?” Horace hỏi.
“Chúng ta sẽ cần đến vũ khí!” Millard la lên. “Rìu chiến!” Enoch nói.
“Bom!” Hugh nói.
“Dừng lại ngay!”, bà Peregrine lớn tiếng, giơ hai bàn tay lên yêu cầu mọi người im lặng. “Tất cả chúng ta cần giữ bình tĩnh. Phải, điều đã xảy ra với cô Avocet thật bi kịch - vô cùng bi kịch - nhưng bi kịch như vậy không nhất thiết lặp lại ở đây. Tuy vậy, chúng ta cần cảnh giác. Từ giờ trở đi các cô cậu sẽ chỉ được đi ra khỏi khuôn viên trại trẻ nếu được ta cho phép, và trong trường hợp đó phải đi thành cặp. Nếu thấy ai đó lạ, cho dù họ có vẻ là người đặc biệt, hãy lập tức tới báo cho ta biết. Chúng ta sẽ thảo luận về những chuyện này và những biện pháp đề phòng khác vào buổi sáng. Từ giờ tới lúc đó, tất cả lên giường! Lúc này không phải là thời điểm cho một cuộc họp.”
“Nhưng thưa cô...” Enoch bắt đầu nói.
“Lên giường!”
Đám trẻ lon ton chạy về phòng. “Còn về cậu, cậu Portman, ta không thoải mái cho lắm về việc cậu lang thang một mình. Ta nghĩ có lẽ cậu nên ở lại, ít nhất cho tới khi mọi thứ ít nhiều bình lặng trở lại.”
“Cháu không thể cứ thế biến mất được. Bố cháu sẽ lo cuống lên mất.”
Bà Peregrine cau mày. “Trong trường hợp đó, ít nhất cậu cần ở lại đây qua đêm. Ta kiên quyết yêu cầu như vậy.”
“Cháu sẽ ở lại, nhưng bà phải kể cho cháu mọi thứ bà biết về những sinh vật đã giết ông nội cháu.”
Bà nghiêng đầu, quan sát tôi, dường như lấy làm thích thú. “Được lắm, cậu Portman, ta đồng ý rằng cậu cần phải biết. Hãy thu xếp chỗ nghỉ cho mình đêm nay trên đi văng, rồi chúng ta sẽ trao đổi trước hết về điều đó.”
“Cháu cần biết ngay bây giờ.” Tôi đã đợi mười năm để nghe sự thật, và tôi không thể chờ thêm một phút nào nữa. “Làm ơn đi.”
“Chàng trai trẻ ạ, có những lúc cậu đứng chông chênh trên một lằn ranh rất mong manh giữa cứng đầu một cách cuốn hút và ương ngạnh một cách không thể chịu đựng nổi.” Bà quay sang Emma. “Cô Bloom, cô có thể đi lấy bình vang coca giúp ta được chứ? Có vẻ như đêm nay ta sẽ không ngủ, và ta phải nhờ đến nó nếu cần thức cả đêm.”
o O o
Phòng học quá gần khu phòng ngủ của đám trẻ để trò chuyện khuya, vì thế cô phụ trách và tôi rời sang một căn nhà kính nhỏ nằm ven rừng. Chúng tôi ngồi lên những cái chậu trồng cây úp ngược giữa các cây hồng leo, một cây đèn bão được đặt dưới mặt cỏ giữa hai chúng tôi, bình minh vẫn chưa ló dạng đằng sau những bức tường kính. Bà Peregrine lấy một cái tẩu từ trong túi ra, cúi xuống châm tẩu thuốc nhờ ngọn lửa của cây đèn. Bà trầm ngâm rít vài hơi thuốc, nhả lên trên những quầng khói xanh lơ, rồi bắt đầu nói.
“Vào thời cổ đại, người ta lầm tưởng chúng ta là thần thánh”, bà nói, “nhưng những người đặc biệt chúng ta cũng có sinh có tử chẳng khác gì người thường. Các vòng thời gian chỉ đơn thuần trì hoãn điều không thể tránh khỏi, và cái giá chúng ta phải trả cho việc sử dụng chúng là rất nặng nề - sự đoạn tuyệt vĩnh viễn với hiện tại đang diễn ra. Như cậu biết đấy, những người sống quá lâu trong vòng không thể đặt chân ra ngoài hiện tại nếu không sẽ già đi nhanh chóng và chết. Đây là sự sắp đặt đã tồn tại từ cổ xưa.”
Bà bập thêm một hơi thuốc, rồi nói tiếp.
“Nhiều năm trước, vào khoảng cuối thế kỷ trước, một nhóm tách biệt xuất hiện trong cộng đồng chúng ta - một nhóm những người đặc biệt bất mãn, mang theo những ý tưởng nguy hiểm. Họ tin rằng họ đã khám phá ra một phương pháp cho phép lợi dụng chức năng của vòng thời gian để đem đến cho người dùng một điều giống như sự bất tử, không chỉ đơn thuần là ngừng lại quá trình lão hóa, mà còn đảo ngược nó. Họ nói tới tuổi trẻ vĩnh cửu có thể tận hưởng bên ngoài giới hạn của vòng thời gian, tới chuyện nhảy tới nhảy lui từ tương lai về quá khứ mà không phải trả giá, không phải chịu đựng những hậu quả tồi tệ vẫn luôn ngăn chặn những hành động nông nổi như thế - nói cách khác là làm chủ thời gian mà không bị cái chết làm chủ. Toàn bộ ý tưởng này thật điên rồ - hoàn toàn là chuyện ba hoa rỗng tuếch - một sự bác bỏ những quy luật thực tế kiểm soát mọi thứ!”
Bà thở hắt ra thật mạnh, sau đó dừng lại một lát để trấn tĩnh.
“Dù thế nào đi nữa, hai em trai ta, xuất sắc về kỹ năng nhưng lại thiếu sự tỉnh táo, đã bị ý tưởng đó hấp dẫn. Chúng thậm chí còn cả gan đề nghị ta trợ giúp để biến nó thành thực tế. Các cậu đang nói đến chuyện biến mình thành các vị thần đấy ta đã nói vậy. Không thể làm được điều đó. Và cho dù có thể thì cũng không nên làm. Nhưng chẳng thể nào khiến chúng đổi ý. Vì đã lớn lên giữa các học viên Chủ Vòng Thời Gian của cô Avocet, chúng biết về kỹ năng độc nhất vô nhị của chúng ta nhiều hơn phần lớn các nam giới đặc biệt - vừa đủ để trở thành nguy hiểm, ta e là vậy. Bất chấp những lời cảnh báo, thậm chí là đe dọa của Hội đồng, vào mùa hè năm 1908, các em trai ta và vài trăm thành viên của nhóm ly khai này - trong đó có cả một số Chủ Vòng Thời Gian hùng mạnh, tất cả đều là những tên phản bội - tìm đến vùng đài nguyên Siberia để thực hiện thí nghiệm ghê tởm của chúng. Chúng chọn địa điểm là một cái vòng cũ vô danh đã không được dùng đến trong hàng thế kỷ. Chúng ta đã trông đợi chúng trở về vòng suốt một tuần, trong nỗi thất bại ê chề, bị bẽ mặt trước bản chất không thể khuất phục của tự nhiên. Nhưng thay vì thế, sự trừng phạt giáng xuống đầu chúng còn kinh hoàng hơn nhiều: một vụ nổ thảm họa đã làm vỡ tung kính cửa sổ ở tận Azores[21]. Tất cả những ai có mặt trong vòng bán kính năm trăm ki lô mét chắc chắn đều đã nghĩ vụ nổ là ngày tận thế. Chúng ta cho rằng tất cả chúng đều đã bị giết, vụ nổ kinh hoàng làm chấn động thế giới đó là tiếng hét đồng thanh cuối cùng của chúng.”
“Nhưng bọn họ sống sót”, tôi đoán.
“Có thể nói như vậy. Những người khác có thể gọi trạng thái tồn tại của chúng sau đó là một kiếp sống đọa đày. Vài tuần sau vụ nổ, bắt đầu xuất hiện một loạt vụ tấn công nhằm vào những người đặc biệt bởi những sinh vật ghê tởm không thấy hình chỉ thấy bóng, trừ những người đặc biệt như cậu - đây là những cuộc chạm trán đầu tiên của chúng ta với đám hồn rỗng. Phải mất một thời gian chúng ta mới nhận ra những con quái vật ghê tởm miệng đầy xúc tu kia trên thực tế chính là những người anh em lạc lối của chúng ta, những kẻ đã bò ra khỏi miệng hố bốc khói nghi ngút mà thí nghiệm của chúng để lại. Thay vì trở thành các vị thần chúng đã biến mình thành những con quái vật.”
“Chuyện gì đã diễn ra vậy?”
“Đó vẫn là một vấn đề được tranh cãi. Một giả thuyết là chúng đã đảo ngược tuổi tác cho bản thân về một thời điểm thậm chí linh hồn của chúng còn chưa được hình thành và cũng vì thế chúng ta gọi chúng là đám hồn rỗng - vì chúng không có trái tim hay linh hồn. Trong một sự trớ trêu đầy mỉa mai, chúng đã đạt được sự bất tử vốn tìm kiếm. Người ta tin rằng các hồn rỗng có thể sống hàng nghìn năm, nhưng đó là một cuộc sống trong sự giày vò thường trực về thể xác, của nỗi nhục nhã ê chề - kiếm ăn bằng những con vật đi lạc, sống trong lẩn tránh cô độc - cùng sự thèm khát vô bờ máu thịt của các đồng loại trước đây của chúng, vì máu chúng ta là hy vọng cứu rỗi duy nhất chúng có. Nếu một hồn rỗng ăn thịt đủ nhiều người đặc biệt, nó sẽ trở thành một xác sống.”
“Lại từ đó”, tôi nói. “Khi chúng cháu gặp nhau lần đầu tiên, Emma đã buộc tội cháu là một xác sống.”
“Rất có thể ta cũng nghĩ đến điều tương tự nếu ta không từng quan sát cậu trước đó.”
“Chúng là ai vậy?”
“Nếu trở thành hồn rỗng đồng nghĩa với sống trong địa ngục - và chắc chắn đúng là như thế - thì trở thành xác sống cũng gần như sống trong luyện ngục. Xác sống gần như là người thường. Chúng không có năng lực đặc biệt nào. Nhưng vì chúng có thể hòa lẫn vào cộng đồng người, chúng sống để làm tôi tớ cho các huynh đệ hồn rỗng của chúng làm những việc thám thính, gián điệp và cung cấp nguồn thịt sống. Đó là hệ thống phân công thứ bậc trong đội ngũ những kẻ bị nguyền rủa nhằm mục tiêu đến một ngày nào đó biến toàn bộ hồn rỗng thành xác sống và tất cả những người đặc biệt thành xác chết.”
“Nhưng điều gì đã ngăn cản chúng vậy?” tôi hỏi. “Nếu chúng từ là người đặc biệt, chẳng phải chúng biết tất cả những nơi ẩn náu của bà và những người như bà sao?”
“May thay, có vẻ chúng không lưu được chút ký ức nào của cuộc sống trước đây. Và dù các xác sống không hùng mạnh hay kinh khủng như đám hồn rỗng, chúng cũng nguy hiểm không kém. Không như các hồn rỗng, chúng không chỉ hành động theo bản năng, và thường có khả năng hòa lẫn vào cộng đồng dân cư bình thường. Rất khó phân biệt chúng với người thường cho dù có một số dấu hiệu. Chẳng hạn như mắt của chúng. Thật lạ lùng, lũ xác sống không có đồng tử.”
Tôi bỗng nổi gai ốc khắp người, nhớ lại người hàng xóm có đôi mắt trắng dã đang tưới nước cho bãi cỏ mọc quá cao của ông ta vào đêm ông nội tôi bị sát hại. “Cháu nghĩ cháu đã nhìn thấy một gã. Lúc đấy cháu cho rằng gã chỉ là một ông lão mù lòa.”
“Vậy là cậu đã tinh ý hơn phần lớn những người khác”, bà nói. “Xác sống rất khéo qua mặt người đời. Chúng có xu hướng sắm vai những nhân vật hoàn toàn mờ nhạt trong xã hội: người đàn ông mặc bộ đồ xám trên tàu hỏa, người nghèo khổ ăn xin những đồng xu lẻ; chỉ là những khuôn mặt như vô vàn khuôn mặt trong đám đông. Cho dù người ta biết có một số từng chấp nhận mạo hiểm với nguy cơ bị lộ tẩy khi đặt mình vào những vị trí nổi bật hơn - bác sĩ, chính khách, giáo sĩ - nhằm tương tác được với số lượng người lớn hơn, hoặc để có được quyền lực nhất định lên họ, qua đó chúng có thể phát hiện những người đặc biệt đang ẩn mình trong đám đông bình thường - như Abe chẳng hạn - dễ dàng hơn.”
Bà Peregrine với lấy một cuốn album ảnh bà đã cầm theo từ trong nhà ra và bắt đầu lật giở. “Những bức ảnh này đã được rửa lại và phân phát cho những người đặc biệt ở khắp nơi, cũng giống như những tấm hình truy nã. Hãy nhìn đây”, bà vừa nói vừa chỉ vào một bức ảnh chụp hai cô gái cưỡi trên một con tuần lộc giả, một ông già Noel có đôi mắt trắng dã khiến người ta ớn lạnh đang nhìn vào ống kính qua bộ gạc của con tuần lộc. “Gã xác sống này đã bị phát giác khi đang làm việc trong một khu bách hóa ở Mỹ vào dịp Giáng sinh. Gã đã có thể tiếp xúc với rất nhiều trẻ em trong một thời gian cực ngắn - chạm vào chúng, hỏi chuyện chúng - và dò tìm những biểu hiện của năng lực đặc biệt.”
Bà lật trang để lộ ra bức ảnh chụp một nha sĩ với vẻ mặt bệnh hoạn. “Xác sống này làm việc như một bác sĩ phẫu thuật răng miệng. Ta không hề ngạc nhiên khi biết được rằng cái sọ hắn chụp ảnh cùng thuộc về một trong những nạn nhân đặc biệt của hắn.”
Bà Peregrine lại lật trang, lần này sang bức ảnh chụp một cô bé con đang co rúm người lại trước một cái bóng to tướng. “Đây là Marcie. Cô bé rời khỏi chúng ta ba mươi năm trước để sống với một gia đình bình thường ở nông thôn. Ta đã cầu khẩn cô bé hãy ở lại, nhưng cô bé rất kiên quyết. Không lâu sau đó, cô bé bị một xác sống bắt cóc trong lúc đợi xe buýt của trường. Người ta tìm thấy một cái máy ảnh tại hiện trường cùng phim chụp bức ảnh này bên trong.”
“Ai đã chụp nó vậy?”
“Chính gã xác sống. Chúng thích những hành động kịch tính, và luôn để lại đằng sau một vật kỷ niệm cay độc nào đó.”
Tôi chăm chú nhìn các bức ảnh, cảm giác rờn rợn quen thuộc khẽ cuộn lên bên trong tôi.
Khi không thể nhìn vào những bức ảnh đó thêm được nữa, tôi đóng cuốn album lại.
“Ta nói với cậu tất cả chuyện này vì cậu có quyền biết chúng”, bà Peregrine nói, “nhưng cũng vì ta cần sự giúp đỡ của cậu. Cậu là người duy nhất trong chúng ta có thể ra ngoài vòng mà không gây nghi ngờ. Chừng nào cậu ở đây cùng chúng ta và nhất định tiếp tục đi đi về về, ta cần cậu theo dõi những người mới tới đảo và báo lại tình hình của họ cho ta.”
“Vừa có một người hôm trước”, tôi nói, nghĩ tới người quan sát chim đã làm bố tôi buồn phiền.
“Cậu có nhìn thấy mắt người đó không?” bà hỏi.
“Thực sự thì không. Lúc đó rất tối, và ông ta đang đội một cái mũ to che khuất một phần khuôn mặt.”
Bà Peregrine cắn nhẹ khớp đốt ngón tay, lông mày bà nhíu lại.
“Sao thế? Bà nghĩ người đó có thể là một trong số chúng không?”
“Không thể nào chắc chắn được nếu không nhìn thấy đôi mắt”, bà nói, “nhưng khả năng cậu bị bám theo khi tới hòn đảo này làm ta rất lo ngại.”
“Ý bà là sao? Bị một xác sống bám theo?”
“Có thể chính là kẻ cậu mô tả là đã trông thấy vào buổi tối ông cậu chết. Điều đó có thể giải thích vì sao chúng để lại mạng sống cho cậu - để cậu có thể dẫn chúng tới một miếng mồi còn đáng giá hơn: nơi này.”
“Nhưng làm sao chúng biết cháu là người đặc biệt? Đến cháu còn không biết!”
“Nếu chúng biết về ông cậu, cậu có thể tin chắc là chúng cũng biết cả về cậu nữa.”
Tôi nghĩ về tất cả những cơ hội chắc chắn chúng đã có để giết tôi. Tất cả những lần tôi cảm thấy chúng ở gần kề trong những tuần tiếp sau cái chết của ông nội Portman. Có phải chúng đã theo dõi tôi không? Để chờ tôi làm đúng những gì tôi đã làm, và tới đây?
Cảm thấy choáng váng, tôi gục lên hai đầu gối. “Cháu không nghĩ bà có thể cho phép cháu uống một ngụm thứ vang đó”, tôi nói.
“Đương nhiên là không.”
Đột nhiên, tôi cảm thấy ngực mình thắt lại. “Liệu có nơi nào cháu được an toàn không?” tôi hỏi bà.
Bà Peregrine đặt bàn tay lên vai tôi. “Ở đây cậu được an toàn”, bà nói. “Và cậu có thể sống cùng chúng ta đến chừng nào cậu muốn.”
Tôi cố mở lời, nhưng chỉ phát ra được những lời lí nhí rời rạc. “Nhưng cháu... cháu không thể... bố mẹ cháu.”
“Họ có thể yêu cậu”, bà thì thầm, “nhưng họ sẽ không bao giờ hiểu được.”
o O o
Khi tôi về tới thị trấn, mặt trời đang hắt những cái bóng dài đầu tiên vắt ngang qua các con đường, những bợm rượu đã uống cả đêm đang chếnh choáng quay vòng quanh các cột đèn trên cuộc hành trình bất đắc dĩ trở về nhà, các ngư dân đang nặng nhọc lê bước ra bến tàu với những đôi ủng to màu đen, còn bố tôi chỉ mới bắt đầu cựa mình tỉnh dậy từ một giấc ngủ nặng nề. Trong khi ông xuống khỏi giường mình, thì tôi đang leo lên giường tôi, kéo chăn trùm lên bộ quần áo đầy cát chỉ vài giây trước khi ông mở cửa để kiểm tra.
“Cảm thấy ổn chứ con?”
Tôi rên lên và lăn người tránh xa khỏi bố, ông bèn đi ra ngoài. Chiều muộn hôm đó, tôi tỉnh dậy thì thấy một tờ giấy nhắn đầy cảm thông và một hộp thuốc cảm trên mặt bàn phòng sinh hoạt chung. Tôi mỉm cười và cảm thấy có lỗi trong thoáng chốc vì đã nói dối ông. Sau đó, tôi bắt đầu lo lắng, ông đang lang thang ngoài kia qua các mũi đất cùng cái ống nhòm và cuốn sổ ghi chép nhỏ của ông, có thể cùng với một gã điên đã giết đám cừu.
Dụi dụi xua giấc ngủ ra khỏi đôi mắt sau đó mặc áo mưa, tôi đi một vòng quanh làng rồi quanh những vách đá và bãi biển gần đó, hy vọng sẽ bắt gặp bố tôi hoặc nhà điểu cầm học kỳ dị kia - và nhìn thật rõ đôi mắt ông ta - nhưng chẳng thể tìm thấy ai trong hai người. Trời đã nhá nhem, cuối cùng tôi đành bỏ cuộc và quay về Priest Hole thì thấy bố đang ngồi ở quầy bar, nhâm nhi bia cùng các vị khách quen. Từ những vỏ chai rỗng ở quanh ông, tôi nghĩ hẳn ông đã ngồi đó được khá lâu.
Tôi ngồi xuống cạnh ông, hỏi ông có thấy nhà quan sát chim râu xồm hay không. Ông bảo không thấy.
“À, nếu bố có gặp”, tôi nói, “làm ơn hãy vì con mà giữ khoảng cách với ông ta, được chứ ạ?”
Bố nhìn tôi thật lạ. “Tại sao?”
“Chỉ là ông ta làm con thấy bất an. Nhỡ ông ta là một gã điên nào thì sao? Nhỡ đâu ông ta lại chính là kẻ đã giết mấy con cừu kia?”
“Con lấy đâu ra những ý tưởng kỳ quái đó vậy?”
Tôi muốn nói với bố. Tôi muốn giải thích tất cả, và muốn ông nói với tôi là ông hiểu, rồi dành cho tôi lời khuyên của một người cha. Vào khoảnh khắc đó, tôi muốn mọi thứ quay trở lại như trước khi chúng tôi tới đây; trước khi tôi tìm thấy lá thư của bà Peregrine, trở lại khi tôi chỉ là một cậu ấm con nhà giàu bình thường hay sinh chuyện ở ngoại ô. Thay vì thế, tôi ngồi xuống cạnh bố một hồi mà không nói gì, và tôi cố nhớ xem cuộc đời mình từng thế nào trong thời kỳ xa xăm vô tận cách đây bốn tuần, hay hình dung xem nó có thể sẽ ra sao sau bốn tuần nữa - nhưng tôi không thể. Cuối cùng, hai bố con tôi chẳng còn gì nữa để nói với nhau, tôi bèn tìm cớ rút lui rồi lên lầu để được một mình.