I love falling asleep to the sound of rain

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Vũ Đình Phòng
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Minh Khoa
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2157 / 74
Cập nhật: 2015-11-21 22:53:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần II - Chương 10: Nữ Chủ Nhân Lâu Đài
ai người ra khỏi rạp của Liên Hoan để thở hít không khí trong lành ban đêm. Renata mặc bộ váy áo bằng nhung đen hết sức sang trọng và đẹp. Stafford cũng mặc lễ phục dạ hội.
Chàng thì thầm:
- Khán giả đêm nay toàn dân sang trọng. Họ có vẻ rất lắm tiền, nhưng trong rạp có cả khá nhiều thanh niên, vậy mà họ cũng ăn mặc rất sang trọng. Họ làm gì có lắm tiền đến thế nhỉ?
- Điều ấy dễ giải quyết thôi.
- Do một khoản tài trợ cho số thanh niên “ưu tú” chứ gì?
- Đại loại là như thế.
Hai người đi về phía nhà hàng nhỏ hơn trong số hai nhà hàng ngay trước mặt, trên sườn đồi.
Stafford nói:
- Hình như chúng ta có một tiếng đồng hồ để ăn, phải không nhỉ?
- Về lý thuyết thì như thế, nhưng trên thực tế chúng ta có thể thêm được mười lăm phút.
- Tôi có cảm tưởng toàn bộ khán giả đều là những người mê âm nhạc thật sự.
- Đa số thì đúng như thế. Điều đó rất quan trọng, ông thừa biết.
- Tại sao điều ấy lại quan trọng?
- Ý tôi muốn nói là họ thật sự hào hứng. Cả ở hai đầu đối cực.
- Thú thật tôi chưa hiểu cô nói thế với ý gì?
- Cả người tổ chức bạo loạn lẫn người thực hiện nó đều hào hứng như nhau, đều khao khát như nhau. Đối với âm nhạc cũng vậy. Cả người biểu diễn lẫn người nghe đều biết thưởng thức. Đây là một trò chơi mà không ai có thể giả vờ được.
- Bạo lực và âm nhạc lại là hai thứ có thể kết hợp với nhau được sao?
- Tất nhiên không dễ dàng gì, nhưng tôi tin rằng những con người kia có thể kết hợp được. Dù sao, trên thực tế, mỗi con người không thể đóng hai vai được.
- Tốt nhất vẫn là thiên hẳn về một thứ, như vậy đơn giản hơn, đúng như ông Robinson của chúng ta đã nói. Theo cô thì trong số khán giả kia, có loại chỉ nghĩ đến bạo lực và có loại chỉ nghĩ đến âm nhạc chứ gì?
- Đúng thế.
- Tôi rất thích hai ngày vừa qua chúng ta ở đây, và thích cả hai đêm biểu diễn âm nhạc chúng ta đã xem nữa. Tuy nhiên có nhiều bản nhạc tôi chưa thấy thú, vì tôi còn hiểu biết quá ít về âm nhạc hiện đại. Nhưng cách ăn mặc thì tôi hoàn toàn thích.
- Ông muốn nói đến cách ăn mặc của các nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu chăng?
- Không. Tôi nói đến cách ăn mặc của khán giả. Toàn nhung và lụa, những chiếc áo sơ mi lá sen của nam giới, những chiếc mũ kiểu cách của phụ nữ, thứ y phục sang trọng của thế kỷ mười bảy đó làm tôi nghĩ đến những bức họa của Van Dyck [1].
- Ông nhận xét rất đúng.
- Nhưng tôi vẫn chưa hiểu như thế nghĩa là sao và chúng ta đến đây để làm gì. Tôi chưa thấy phát hiện được điều gì.
- Ông đừng sốt ruột. Chúng ta đang chứng kiến một đêm biểu diễn đáp ứng đúng thị hiếu của giới trẻ và được tổ chức do...
- Do ai?
- Hiện chưa rõ. Nhưng rồi chúng ta sẽ biết.
- Tôi phục niềm tin tưởng của cô đấy.
Hai người vào nhà hàng.
Thức ăn ở đây rất ngon, tuy không cầu kỳ gì lắm. Luôn có người bắt chuyện với họ. Hai người nhận ra Stafford, tỏ vẻ rất ngạc nhiên đồng thời mừng rỡ thấy chàng có mặt tại đây. Renata tỏ ra quen biết khá nhiều người, trong số đó có nhiều người nước ngoài, chủ yếu là Đức và Áo, nhưng có cả hai người Hoa Kỳ đến chào nàng. Tuy nhiên câu chuyện chỉ xoay quanh những chuyện vụn vặt về âm nhạc hoặc về những người cùng quen biết họ đã gặp. Vì ai cũng vội vã: thời gian nghỉ để ăn uống đã quá một tiếng đồng hồ.
Ăn xong, nàng nữ công tước và chàng vệ sĩ của nàng quay vào rạp nghe nốt hai nhạc phẩm cuối cùng của đểm biểu diễn: bản giao hưởng của một tác giả trẻ tên là Solukonov, nhan đề Niềm vui phân rã và khúc dạo đầu của nhạc kịch Những ca sĩ bậc thầy của Wagner.
Sau khi ra khỏi rạp, chiếc ô-tô đã đợi họ để chở họ về khách sạn duy nhất trong làng. Lúc Stafford chúc nàng ngủ ngon, Renata nghiêng người nói thầm vào tai chàng:
- Bốn giờ sáng ta lên đường nhé!
Renata nói câu ấy lúc hai người đứng trước cửa phòng nàng. Nói xong nàng mở cửa bước nhanh vào rồi đóng cửa lại.
o O o
Đúng bốn giờ kém ba phút sáng hôm sau, Stafford nghe thấy tiếng gõ nhẹ vào cửa. Chàng mở thì thấy Renata. Nàng nói ngay:
- Xe đã đợi chúng ta ngoài cửa khách sạn.
Giữa trưa họ vào ăn trong một quán nhỏ nông thôn. Trời đẹp tuyệt vời và phong cảnh cũng vô cùng ngoạn mục. Tuy nhiên Stafford vẫn chưa yên tâm vì chưa biết Renata dẫn chàng đến đây để làm gì. Chàng cảm thấy cứ mỗi lúc lại khó hiểu thêm cô gái, mà cô thì chỉ thỉnh thoảng lắm mới nói một câu. Cô ta đưa mình, đi đâu thế này? Để làm gì? Cuối cùng, khi mặt trời xuống đến gần chân trời, Stafford mới đánh bạo hỏi:
- Tôi có thể hỏi cô một câu được không?
- Tất nhiên là được.
- Vậy chúng ta đi đâu thế này?
Renata im lặng.
- Cô không muốn trả lời câu hỏi đó sao?
- Không phải thế. Tôi có thể trả lời, nhưng ông nghe cũng chẳng ích gì. Thậm chí tôi cho rằng chính tôi không giải thích gì lại tốt cho ông hơn. Các ấn tượng ông thu thập được sẽ càng thú vị hơn rất nhiều.
Stafford suy nghĩ nhìn cô gái ngồi bên cạnh ông, trong tấm áo măng-tô bằng vải tuýt, cổ và cổ tay viền lông thú quý.
Chàng thì thầm:
- Mary Ann?
Nàng nói thầm:
- Ông tạm khoan dùng cái tên ấy.
- Tôi hiểu. Vậy cô vẫn còn là nữ công tước Zerkowski?
- Đến miền này, tôi lại trở về là nữ công tước Renata Zerkowski.
- Phải chăng đây là quê hương cô?
- Cũng có thể nói như thế. Hồi nhỏ, mùa thu năm nào tôi cũng đến đây sống một thời gian trong một tòa lâu đài chỉ cách đây khoảng vài dặm.
- Vùng này cũng là quê hương của Hitler phải không? Tôi cảm thấy thị trấn Berchtesgaden [2] dường như gần ngay đây.
- Đúng thế. Thị trấn Berchtesgaden nằm phía Đông bắc chúng ta kia.
- Hồi đó, họ hàng, bè bạn cô có chấp nhận Hitler không? Có tin vào hắn không? Nhưng có lẽ tôi không nên hỏi cô câu đó?
- Họ hàng và bè bạn tôi căm ghét Hitler và tất cả những gì liên quan đến hắn. Nhưng họ vẫn hô “Heil Hitler!” [3] như mọi người khác. Họ chấp nhận tình trạng thực tế. Họ còn làm khác sao được? Vào thời đó ai đám làm gì khác?
- Hình như chúng ta đang đi về phía rặng núi Dolomites thì phải.
- Địa điểm nào thì có gì quan trọng?
- Nghĩa là chúng ta đang tiến hành cuộc thám hiểm?
- Chắc chắn rồi. Nhưng không phải thám hiểm địa lý. Chúng ta sẽ đến thăm một nhân vật đặc biệt.
Stafford ngước nhìn lên đỉnh núi cao ngất.
- Tôi có cảm giác cô đang đưa tôi lên gặp vị Sơn Nhân lừng danh.
- Ông muốn nói đến gã Trùm Sát thủ, chuyên dùng ma túy để điều khiển đám đồ đệ giết người cho hắn mặc dù chúng biết rằng rồi đến lúc bản thân chúng cũng sẽ bị giết, nhưng chúng tin sau khi chết chúng sẽ được lên thiên đường của đạo Islam, nơi cực lạc, đầy gái đẹp và rượu ngon tha hồ hưởng mãi mãi.
Nàng dừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Tôi cho rằng suốt trong lịch sử, liên tục xuất hiện những kẻ giỏi mê hoặc, kích động đám đông, khiến họ tin rằng chúng là những thiên tài, những người nhà trời, và họ sẵn sàng đi đến chỗ chết vì chúng. Không phải là những tín đồ Islam hoặc tín ngưỡng nào khác, mà cả những tín đồ Ki-tô nữa.
- Tín đồ Ki-tô? Như Huân tước Altamount chẳng hạn?
- Tại sao ông lại gộp cả Huân tước Altamount vào số đó?
- Bởi đêm hôm trước, ngồi trong tòa lâu đài của ông ta, bỗng một lúc tôi có cảm giác ông ta giống như một pho tượng thánh tạc bằng đá, ngồi trên bàn thờ.
- Ông nói có phần đúng, vì rất có thể một người nào đó trong chúng ta sẽ chết. Thậm chí không phải chỉ một, mà nhiều người...
Nàng ngừng lại giữa câu để Stafford nói tiếp:
- Đôi khi tôi nghĩ đến một thứ khác. Tôi nhớ đến một đoạn trong Tân Ước, hình như trong chương Phúc âm theo thánh Luc. Trong buổi tối cuối cùng, Chúa nói với các đồ đệ rằng “Kẻ sẽ phản bội và nộp ta hiện đang ngồi cùng với chúng ta, bên cái bàn ăn này”. Một trong số đồ đệ của Chúa đã bị Quỷ Dữ nhập vào. Cho nên rất có thể một người trong chúng ta cũng sẽ phản bội chúng ta giống như thế:
- Ông cho rằng chuyện ấy có thể xảy ra?
- Gần như tôi chắc chắn như thế. Kẻ đó là một người chúng ta biết rõ và chúng ta xưa nay vẫn tin tưởng, một kẻ ban đêm không mơ thấy những vị tử đạo mà hắn mơ thấy ba mươi đồng tiền [4], và khi thức dậy, hắn cảm thấy như đã nắm số tiền đó trong tay.
- Một kẻ dám làm điều ác chỉ vì hám tiền?
- Hoặc thèm khát danh vọng.
Renata im lặng một lát rồi nói, vẻ suy nghĩ:
- Trước kia tôi có một người bạn gái, một lần, trong lúc làm công tác ngoại giao, chị ấy nói với một phụ nữ Đức rằng chị ấy vô cùng xúc động trong một buổi làm lễ Thương Khóc [5]. Người phụ nữ Đức đáp lại giọng khinh bỉ: “Chị không hiểu đấy thôi. Người Đức chúng tôi không cần đến một ông Jesus. Chúng tôi đã có Adolf Hitler”. Bà ta chỉ là một phụ nữ Đức bình thường và rất lành hiền. Nhưng bà ta chịu tác động của thứ tình cảm chi phối vô số người Đức lúc đó. Hitler là một người diễn thuyết cực giỏi. Công chúng nghe y nói như bị thôi miên, sẵn sàng chấp nhận mọi tội ác ghê tởm nhất của y, các phòng giết người bằng khí ga, các kiểu tra tấn man rợ của cơ quan Gestapo [6].
Mary Ann nhún vai rồi nói tiếp, giọng đã điềm tĩnh hơn:
- Dù sao nghe ông nói thế, tôi cũng lấy làm lạ.
- Tôi nói thế nào?
- Ông nói đến vị Sơn Nhân.
- Cô cho rằng có một “Sơn Nhân” thật không?
- Đúng ra là một Nữ sơn nhân.
- Một phụ nữ? Bà ta là người thế nào?
- Tối nay ông sẽ được thấy bà ta.
- Tối nay chúng ta sẽ đến đâu?
- Sẽ đi vào cuộc đời.
- Tôi nhận thấy đã từ lâu cô không còn là Mary Ann nữa...
- Ông sẽ phải chờ cho đến khi lên máy bay.
Stafford suy nghĩ, nói:
- Tôi cho rằng sống trên độ cao rất có hại về tinh thần.
- Độ cao nào? Ông nói về độ cao xã hội chăng?
- Không. Tôi nói đến độ cao theo nghĩa thuần túy địa lý. Nếu ta sống trong một lâu đài trên đỉnh núi chót vót, bên trên mọi thứ, ta rất dễ coi khinh tất cả mọi con người, cô có tin như thế không? Khi sống ở trên chỗ cao nhất, ta dễ cảm thấy ta là chủ nhân của khắp thế gian. Khi sống trên đỉnh núi ở Berchtesgaden, hẳn Hitler đã cảm thấy như vậy. Và có lẽ đó cũng là cảm giác của tất cả những ai trèo lên núi cao, khi họ nhìn xuống thung lũng và những con người sống dưới đó.
- Tối nay ông phải rất thận trọng đấy, vì vai kịch của ông rất khó diễn, chỉ cần vụng một chút là vô cùng tai hại.
- Cô có căn dặn tôi điều gì cụ thể không?
- Ông chỉ cần đóng vai một kẻ bất mãn. Một người muốn chống lại trật tự thế giới hiện nay, chống lại mọi quy tắc đã định hình. Một kẻ nổi loạn, nhưng nổi loạn kín đáo. Ông có thể đóng vai kịch ấy được chứ?
- Tôi sẽ cố gắng.
Thiên nhiên hai bên đường mỗi lúc một hoang vu, cằn cỗi hơn. Chiếc xe ô-tô to đang leo lên một con đường dốc luôn gấp khúc, thỉnh thoảng lại chạy ngang bên cạnh một xóm núi lèo tèo.
- Chúng ta đang đi đâu thế này, cô Mary Ann?
- Đến một cái hang ổ đại bàng.
Sau một góc ngoặt, ô-tô chạy vào rừng. Thỉnh thoảng họ nhìn thấy một con hoẵng hay con thú hoang dã nào đó. Họ nhìn thấy cả những nam giới mặc áo vét bằng da, đeo súng trường. Stafford thầm đoán đó là đội bảo vệ. Rồi đột nhiên trước mặt họ hiện ra một tòa lâu đài đồ sộ đứng sừng sững trên đỉnh núi. Một nửa của tòa lâu đài đã đổ nát, nhưng một nửa bên kia đã được phục hồi. Tòa lâu đài vừa lộng lẫy vừa đồ sộ. Stafford có cảm giác đứng trước những tàn tích của một thời hùng cường trong quả khứ, cách đây phải nhiều thế kỷ.
Renata giải thích:
- Xưa kia vùng này là Đại công quốc Liechtenstolz. Lâu đài kia do đại công tước Ludwig xây năm 1790.
- Bây giờ ai sống trong tòa lâu đài này? Vị đại công tước hậu duệ phải không?
- Không. Dòng họ đại công tước đã tuyệt tự từ lâu lắm rồi.
- Vậy thì là ai?
- Một nhân vật có sức mạnh quyền lực hiện đại.
- Tiền bạc?
- Đúng thế, tất nhiên.
- Liệu chúng ta có gặp ở đấy ông Robinson không? Vì có lẽ ông ấy đến đây bằng đường hàng không để đón tiếp chúng ta?
- Ông ấy là người chúng ta ít có khả năng gặp nhất ở nơi này. Tôi cam đoan với ông như vậy.
- Đáng tiếc. Tôi thấy mến ông ấy. Ông ấy có vẻ một nhân vật quan trọng, đúng vậy không? Nhưng thật ra ông ta là người thế nào? Người quốc gia nào?
- Tôi không tin có ai biết chắc điều đó, mỗi người nói một cách khác nhau. Có người bảo Robinson gốc Thổ Nhĩ Kỳ, có người bảo ông ấy gốc Armenia. Có người lại bảo ông ấy người Hà Lan. Nhưng đa số bảo ông ấy là người Anh. Tôi nghe nói mẹ ông ấy là một nông nô miền Circassia [7] hoặc một nữ đại công tước Nga, hoặc một phụ nữ Ấn Độ... Ông thấy không, mỗi người nói mỗi cách, ông muốn chọn cách nào thì tùy. Thật ra không ai biết đích xác. Thậm chí một hôm có người bảo tôi rằng mẹ ông Robinson là một người tên là McLellan, gốc Scotland [8]. Tôi cho rằng giả thuyết đó nghe cũng có lý như mọi giả thuyết khác.
Ô-tô đỗ lại trước một cái cổng đồ sộ. Tài xế vội vã ra khỏi xe, mở cửa cho hai vị khách. Hai gia nhân mặc chế phục gia đình quý tộc bước trên thềm xuống, cúi đầu rất thấp trịnh trọng chào, rồi đem số hành lý cồng kềnh vào lâu đài. Stafford thầm nghĩ, bây giờ chàng mới hiểu tại sao hôm ở London, trước khi lên đường, người ta khuyên chàng nên mang theo càng nhiều hành lý càng tốt. Thì ra cốt để tỏ ra chàng là nhân vật rất cao sang và quyền thế!
o O o
Tiếng cồng báo đã đến giờ ăn tối. Renata cùng Stafford bước vào gian sảnh rộng lớn dưới tầng trệt. Renata mặc tấm áo liền váy bằng nhung đỏ thẫm, đeo chuỗi hồng ngọc và đội mũ miện cũng nạm hồng ngọc.
Một gia nhân mở hai cánh cửa lớn, bẩm vào phía trong:
- Công tước tiểu thư Zerkowski. Ông Stafford Nye.
Stafford đứng lại trên ngưỡng cửa, như nghẹn thở. Chàng không thể tưởng tượng mình lại lao vào một không khí long trọng và kiểu cách đến mức này. Gian phòng nơi chàng và Renata bước vào là một phòng hết sức rộng, trang trí theo phong cách nghệ thuật rococo [9], gồm rất nhiều đi văng và ghế bành. Tường phủ bằng gấm và nhung, mang những hình hoa văn tỉ mẩn. Khắp bốn xung quanh tường treo những bức họa vô giá, trong số đó chàng nhận ra ngay một tác phẩm của Cezanne, một của Matasse và một của Renoir [10].
Ngồi trong chiếc ghế bành rất lớn, hao hao giống như một ngai vàng vua chúa, là một phụ nữ hết sức to béo. Stafford thầm nghĩ, không thể so sánh bà ta với cái gì khác mà chỉ với một con cá voi là thích hợp hơn cả. Mặt bà ta béo ụ toàn mỡ, đồng thời vàng như tảng pho mát, với ba hoặc bốn tầng cằm núng nính. Bà ta mặc tấm áo bằng xa tanh màu da cam và đội mũ miện nạm kín những viên kim cương và các loại ngọc quý giá nhất. Hai bàn tay đặt lên hai bên ngai cũng to bè và núng nính toàn mỡ. Các ngón phồng lên như những quả chuối mắn, trông không còn nhận ra được là ngón tay nữa. Mỗi ngón đeo một chiếc nhẫn đính một viên kim cương hoặc viên ngọc rất lớn. Stafford nhận ra trong số đó một viên hồng ngọc, một viên bích ngọc, một viên ngọc màu xanh nhạt chàng không biết gọi là ngọc gì, có thể là chrysoprase, còn hai viên ngọc nữa rất lạ chàng hoàn toàn chưa nhìn thấy bao giờ, có thể một viên là ngọc topaze, viên kia là kim cương vàng chăng.
Trên bộ mặt to bè dị dạng ấy long lanh hai con mắt đen nhỏ, khiến chàng thấy giống như hai quả nho đặt giữa một cái bánh nướng to.
Cặp mắt ấy chăm chú nhìn chàng trai Renata vừa dẫn đến, thái độ xét nét và ngắm nghía theo mọi chiều.
Stafford vẫn chưa hiểu chàng được dẫn đến đây để làm gì. Chàng tự nhủ: “Mình phải tìm hiểu xem bà ta muốn gì để liệu đối đáp cách nào cho thích hợp nhất, nếu không, mình sẽ...”
Nếu không... Stafford tưởng tượng ra lúc bà ta giơ bàn tay núc ních đeo đầy kim cương, đá quý kia, ra lệnh bằng một giọng quyền uy và tàn nhẫn cho hai tên đầy tớ lực lưỡng kia: “Giải tên này đi và quăng hắn xuống vực cho ta!”
Nhưng thật là ngớ ngẩn. Thời nay, chuyện ấy không đời nào xảy ra được! Và Stafford lại một lần nữa thầm tự hỏi chàng đang ở đâu và phải đóng vai kịch gì.
- Cháu rất đúng hẹn, cháu gái yêu quý của ta!
Giọng bà ta nói nghe khàn và hổn hển như người bị bệnh hen suyễn. Tuy nhiên, Stafford thầm nghĩ, rất có thể hồi trẻ bà ta khỏe mạnh và có khi rất đẹp ấy chứ.
Renata bước lên, khoát tay cung kính cúi chào, rồi nhấc bàn tay bà già lên đặt một cái hôn kính cẩn. Cô nói:
- Cháu xin phép được giới thiệu: ông Stafford Nye. Còn lệnh bà đây là nữ công tước Charlotte von Waldausen [11]!
Stafford thấy bà ta chìa ra phía chàng bàn tay to bè, núng nính đeo đầy nhẫn nạm ngọc quý. Chàng cúi xuống, kính cẩn hôn lên đó. Bà già nói một câu cốt làm chàng đỡ bỡ ngỡ:
- Ta quen bà của cháu, bà Matilde.
Stafford làm ra vẻ ngạc nhiên, khiến bà già ngồi trên ngai cười thích thú, một thứ tiếng cười rất lạ và khó nghe.
- Nói đúng hơn, ta, quen Matilde từ xa xưa, còn những năm gần đây ta không được gặp bà ấy. Hồi còn trẻ, bà Matilde với ta cùng sống ở Lausanne [12]. Bà ấy hơn tuổi ta. Ta hy vọng bà bạn ta vẫn khỏe chứ?
- Bà cháu rất khỏe, bất chấp tuổi cao. Nhưng bà cháu có bị xơ cứng động mạch và thấp khớp.
- Những bệnh ấy người già nào chẳng có. Nói với bà nên tiêm rocaine. Các bác sĩ ở đây đều khuyên ta điều trị theo cách đó và ta thấy kết quả rất xấu. Bà Matilde có biết cháu đến gặp ta hôm nay không?
- Cháu nghĩ rằng không biết. Bà cháu chỉ biết cháu sẽ đến dự Liên Hoan âm nhạc Hiện đại.
- Các buổi trình diễn của họ có làm cháu thích không?
- Cháu rất thích, thưa công tước phu nhân. Và rạp biểu diễn cũng tuyệt vời.
- Đó là một trong những rạp biểu diễn nghệ thuật tốt nhất hiện nay. Cháu biết tiền xây dựng nó lên đến bao nhiêu không?
Sau đó nữ công tước Charlotte đưa ra một con số lớn khủng khiếp, hàng nhiều triệu Mác [13] và bà thích thú thấy vẻ sửng sốt hiện lên trên khuôn mặt Stafford.
Bà ta nói tiếp:
- Không có thứ gì trên đời mà tiền không làm được, với điều kiện biết sử dụng nó khéo léo. Có tiền là có tất cả.
Câu cuối cùng này bà nữ công tước già nói bằng giọng vui vẻ, nhưng đồng thời cũng tàn nhẫn.
Stafrord đưa mắt nhìn xang quanh, nói:
- Cháu đã thấy rõ như thế ngay tại đây.
- Ta rất vui thấy cháu hiểu biết và yêu quý nghệ thuật. Trên tường kia là bức họa nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay của Cefanne. Có người bảo bức họa của ông ta tại Viện Bảo tàng Metropolitain Opera [14] giá trị hơn bức của ta, nhưng nói thế là sai. Bức giá trị nhất của Cezanne, bức giá trị nhất của Matisse và những bức giá trị nhất của trưởng phái nổi tiếng đó nằm trong gian phòng này. Trong cái ngôi nhà heo hút trên núi cao này.
- Tuyệt quá. Vô cùng tuyệt, thưa công tước phu nhân.
Gia nhân bưng đồ giải khát ra, nhưng bà công tước già không dùng thứ gì. Hẳn bà cụ sợ huyết áp tăng.
Bà ta hỏi:
- Cháu gặp cô bé này ở đâu?
Stafford thầm nghĩ, phải chăng đó là một cái bẫy? Tuy chưa biết rõ nhưng chàng thận trọng đáp:
- Thưa công tước phu nhân, tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở London ạ.
- Phải rồi, ta có nghe thấy nó. Còn con Milly, đứa con gái xinh đẹp thừa kế ở Texas thế nào rồi? Cháu thấy nó ra sao?
- Phu nhân Milly hết sức đáng yêu, thưa phu nhân. Cô ấy rất được hâm mộ ở London.
- Còn thằng béo Cortman chồng nó?
- Cháu cho rằng ông ấy là một người đàn ông rất đáng quý.
“Con Rồng” trên đỉnh núi cười khùng khục:
- Ha ha! Ôi, cháu nói năng khéo lắm. Cortman đúng là một chính khách khôn ngoan, và cái chức Đại sứ Hoa Kỳ tại Vương quốc Anh dễ chịu đấy. Cùng với bàn tay vận động của con Milly xinh đẹp. Thật ra, với số tiền khổng lồ con bé có trong tay, nó muốn chạy cho chồng nó chức vị nào mà chẳng được. Ta đoán cháu đã biết bố nó sở hữu một nửa số giếng dầu mỏ ở bang Texas, rồi bao nhiêu khu đất mênh mông, cả nhiều mỏ vàng nữa. Nhưng trông con bé hiện giờ ra sao? Chỉ là một nữ quý tộc nhỏ xinh xắn, đáng mến, không lộng lẫy lắm, cũng không giàu có lắm. Bởi nó rất khôn ngoan, không muốn để người ta biết toàn bộ sự thật về số tài sản khổng lồ của nó.
Stafford công nhận:
- Công tước phu nhân nói rất đúng. Cách xử sự của bà Milly tránh được cho bà ấy những khó khăn không đáng có.
- Còn cháu? Cháu có giàu không?
- Cháu muốn giàu nhưng chưa được, thưa công tước phu nhân.
- Chà, các bộ ngoại giao thời nay ít chịu trả công đúng cho những nhân viên giỏi giang, cháu tán thành nhận xét của ta chứ?
- Thưa công tước phu nhân, cháu chưa dám nghĩ đến chuyện ấy. Dù sao nguyên được đi công cán nơi này nơi khác, gặp gỡ bao nhiêu con người, được quan sát thế giới cũng đã làm cháu thích lắm rồi.
- Được thấy toàn cảnh thế giới. Nhưng cháu không thấy được hết đâu.
- Vâng, cháu biết.
- Cháu có bao giờ muốn được thấy tất cả, được biết những gì đang diễn ra trong hậu trường không?
Stafford hết sức thận trọng đáp:
- Thỉnh thoảng cháu cũng lờ mờ cảm nhận thấy điều đó.
- Ta nghe nói cháu đôi lúc có cách nhìn không chính thống đối với các sự kiện.
Stafford cười thừa nhận:
- Công tước phu nhân nhận xét đúng. Đôi khi cháu cảm thấy cháu không phải là một đứa con ngoan trong gia đình.
Nữ công tước Charlotte cũng cười lên thành tiếng:
- Hình như đôi khi cháu giữ kín, không nói ra một số điều nào đó.
- Quả có thế, thưa nữ công tước. Nhưng cuối cùng cái gì rồi người ta cũng biết được hết.
Bà công tước già chăm chú nhìn chàng trai:
- Cháu có mơ ước gì về cuộc sống không?
Stafford nhún vai. Chàng thấy càng phải thận trọng trong đối đáp hơn nữa.
- Không ạ.
- Ta không tin. Cháu cứ nói thật ra với ta. Cháu mong ước cái gì nào?
- Quả thật cháu không có tính ham hố gì cao xa.
- Cứ tạm cho là như thế. Dù sao cháu cũng mong ước điều gì đó trong cuộc sống chứ?
- Cháu chỉ mong được sống đầy đủ, đói được ăn, khát được uống và thêm nữa là được gặp gỡ bè bạn để giải khuây.
Bà công tước già rướn người về phía trước, chớp chớp mắt mấy cái rồi nói bằng cái giọng hơi như rít lên:
- Cháu không thấy căm giận thứ gì sao?
- Cháu thấy như thế chỉ mất thời giờ vô ích.
- Đúng là ta không thấy nỗi căm giận nào trên khuôn mặt cháu. Tuy nhiên ta đoán rằng cháu sẵn sàng đi theo con đường dẫn cháu đến một nơi nào đó nhất định. Con đường mà khi cháu đi theo, cháu sẽ được thích thú một cách vô tư lự. Nếu cháu chịu nghe theo những lời khuyên đúng đắn, cháu có thể đạt tới những thứ cháu mong ước. Với điều kiện cháu phải có khả năng muốn đạt tới...
Stafford gât đầu nhè nhẹ nói:
- Cháu nghĩ ai chẳng có khả năng đó?
Đúng lúc đó mấy tên đầy tớ hiện ra trên ngưỡng cửa. Một tên bẩm:
- Bẩm công tước phu nhân, bàn ăn đã sẵn sàng.
Hai cánh, cửa phía bên trong lập tức mở, hiện ra một phòng ăn cực kỳ lộng lẫy, đựợc ba đèn chùm rất lớn tỏa ra sáng trưng. Hai phụ nữ trung niên mặc lễ phục dạ hội, cài trâm nạm kim cương, bước đến hai bên bà công tước già. Sau khi cung kính cúi rạp xuống chào, mỗi người một bên dìu bà công tưởc già to béo đứng dậy.
Bà công tước nói:
- Ta sang ăn!
Hai phụ nữ kia dìu bà ta đi rất chậm chạp sang phòng ăn. Khi ở tư thế đứng, trông bà công tước già còn oai vệ hơn nữa. Bà giống như một khối chất đống của món thịt đông, run rẩy. Nhưng bà cụ có bản lĩnh to lớn và bà ý thức được điều đó. Renata cùng Stafford đi theo sau bà cụ.
Phải gọi là phòng tiệc thì đúng nghĩa hơn là phòng ăn. Có cả một đội danh dự đứng thành hai hàng hai bên tường, gồm những chàng trai cao lớn, tóc vàng và mặc đồng phục. Khi thấy bà công tước già xuất hiện, họ rút kiếm ra tiến lên, đưa các thanh kiếm lên cao, tạo thành như một cái vòm che chở cho bà cụ. Bà cụ rướn thẳng người, bước đi trịnh trọng về phía chiếc ghế rất lớn bằng gỗ, chạm khắc cầu kỳ và khảm vàng ngọc, đặt ở chính giữa đầu chiếc bàn dài.
Các chàng trai trong đội cận vệ của bà nữ công tước già đều rất trẻ, đẹp trai và lực lưỡng. Họ giữ nét mặt nghiêm trang, bất động, giống như những pho tượng gỗ. Stafford có cảm giác đội cận vệ này đã từng tồn tại từ trước năm 1939 [15], bây giờ mới sống lại. Hoặc là họ bước ra từ trên màn ảnh của một bộ phim hoành tráng của điện ảnh Hoa Kỳ.
Chủ tọa toàn bộ không khí long trọng, tôn nghiêm cao độ ấy là một bà già quý tộc, uy nghi trên chiếc ghế giống như ngai vàng đặt ở đầu bàn. Bà cụ không phải Nữ hoàng, không phải Hoàng Hậu, mà là một bà già trông xấu xí, dị dạng đến mức làm người ta ghê tởm.
Bà cụ là ai? Bà cụ làm gì? Tại sao cần có cả một đội cận vệ và những nghi lễ long trọng giống như trong một vở nhạc kịch vậy?
Các thực khách lục tục kéo đến. Tất cả đều bước tới kính cẩn cúi chào bà công tước già chủ nhân tòa lâu đài rồi mới đến ngồi vào ghế dành cho họ. Nhưng Stafford không thấy có sự giới thiệu họ tên và chức danh nào hết. Vốn có thói quen xét đoán những người chàng mới gặp, Stafford thử phân loại số thực khách này trong óc. Một số đông là luật gia, một số ít là nhà tài phiệt và có vài ba võ quan mặc y phục dân sự. Hẳn họ làm việc trong văn phòng của bà công tước già, nhưng đồng thời họ cũng là những người, thời xưa được gọi là “ngồi bàn dưới”.
Thực đơn gồm món thịt lợn lòi nấu đông, món xa lát cầu kỳ, món gà rừng nấu chanh... Tất cả đều được bày trong những chiếc đĩa men lớn viền vàng, hình tròn và bầu dục.
Bà công tước già ăn vẻ ngon lành, thậm chí ngấu nghiến. Lát sau bên ngoài vọng vào tiếng máy của một chiếc ô-tô thể thao loại lớn chạy dưới cửa sổ. Đột nhiên mọi thực khách ngồi xung quanh bàn ăn đứng bật dậy hô to:
- Heil! Heil, Franz. [16]
Đội cận vệ đã đứng nghiêm thành hàng kính cẩn, theo một nghi thức chắc chắn đã được tập luyện công phu. Chỉ riêng bà công tước già vẫn ngồi yên, trong khi các thực khách vội vã lủi ra khỏi phòng ăn, giống như những con chuột hoảng hốt khi nhìn thấy mèo bèn chạy trốn vào các ngách và biến mất.
Đội cận vệ lại tuốt kiếm đứng thành hàng hai bên bà cụ, kính cẩn làm động tác chào rồi quay gót, đi thành hai hàng ra ngoài.
Bà công tước già hỏi:
- Các cháu thấy đội cận vệ của ta thế nào?
Staford đáp:
- Tuyệt đẹp, thưa nữ công tước!
Bà cụ cười, gật đầu thích thú. Nụ cười làm vô số vết nhăn nheo trên khuôn mặt bà cụ tăng lên, và trông nước da bà phần nào giống như da cá sấu.
Nhưng đến lúc này hai cánh cửa phòng ăn lại mở rộng, đội cận vệ quay vào, vừa đi thành hàng vừa hát, và hát rất hay. Stafford lâu nay quen nghe nhạc pop lối hiện đại, lúc này hết sức thích thú được nghe tiếng hát đồng ca của những chất giọng có sự rèn luyện công phu theo kiểu kinh điển. Những con người này có thể là những nhân vật của một thế giới mới, nhưng bản nhạc họ hát không hề mới. Đó là một kiểu sắp xếp lại những chủ đề âm nhạc của Wagner.
Và lúc này Stafford mới để ý thấy trên bao lơn bố trí trên cao, men theo bốn bức tường của phòng ăn, cả một dàn nhạc đang chơi đệm cho tiếng hát bên dưới. Đội cận vệ đứng thành hai hàng rào danh dự hai bên cửa phòng ăn. Nhưng lần này không phải để tôn vinh bà công tước già chủ nhân lâu dài mà tôn vinh một người nào đó mới đến. Còn bà cụ vẫn ngồi thản nhiên trên “ngai vàng”.
Khi dàn nhạc bắt đầu chuyển sang chơi câu nhạc chủ đề của vở nhạc kịch Ziegfried, thì anh ta bước vào, dáng điệu hết sức oai vệ, giữa hai hàng rào danh dự của đội cận vệ. Stafford chưa bao giờ nhìn thấy một thanh niên đẹp đến thế: cao lớn, tóc vàng óng, mắt xanh biếc, vóc người cực kỳ cân đối. Anh ta như thể bước ra từ thế giới của truyện thần thoại, cổ tích, và là sự thể hiện của “người hùng”, vừa đẹp vừa khỏe, đầy tự tin và kiêu hãnh đến mức có thể gọi là ngạo mạn.
Khi đến trước mặt bà công tước già, anh ta dừng lại, quỳ một đầu gối xuống thảm, cúi hôn bàn tay bà cụ vừa chìa ra. Sau đó, anh ta đứng lên, giơ cánh, tay theo kiểu Quốc Xã, hét:
- Heil!
Tiếp đó anh ta đưa mắt nhìn xung quanh có vẻ nhận ra Renata, nhưng dừng mắt lại phía Stafford. Chàng nhân viên ngoại giao Anh Quốc thầm tự nhủ: phải hết sức thận trọng. Chàng thấy bây giờ chàng phải đóng cái vai kịch người ta đã căn dặn chàng. Nhưng trong đáy lòng, Stafford vẫn chưa xác định rõ, cụ thể đó là vai gì?
Người hùng tóc vàng nói:
- Ra tối nay chúng ta có khách mới?
Rồi nở nụ cười ngạo mạn, kiểu của một con người cảm thấy mình ưu việt hơn hẳn mọi người khác, anh ta nói thêm:
- Xin chào hai vị!
Tại phía xa, bên trong tòa lâu đài, vẳng đến tiếng chuông nhà thờ, nghe ảm đạm, báo tin bắt đầu buổi cầu nguyện ban đêm tại một tu viện nào đó.
Bà công tước già nói với hai vị khách, Renata và Stafford:
- Bây giờ hai cháu phải đi nghỉ. Sáng mai chúng ta sẽ gặp lại nhau vào mười một giờ. Sẽ có người đưa hai cháu về phòng. Chúc hai cháu ngủ ngon.
Một cuộc cáo từ kiểu vương giả. Renata quay sang “người hùng tóc vàng”, giơ tay chào kiểu Quốc Xã, Nàng nói:
- Heil, Franz Joseph!
Anh ta cũng giơ cao tay như vậy, đáp lại:
- Heil!
Bà công tước già hỏi Renata và Stafford:
- Hai cháu có muốn bắt đầu sáng mai bằng một cuộc dạo chơi trong rừng không?
Stafford đáp:
- Nếu thế được thì còn gì bằng, thưa công tước phu nhân.
- Còn cháu, Renata?
- Cháu cũng rất muốn thế.
- Tốt lắm. Ta sẽ ban những mệnh lệnh cần thiết cho chuyện đó. Thôi, chúc các cháu ngủ ngon. Ta rất mừng thấy hai cháu gia nhập tổ chức của ta. Franz Joseph, đưa cánh tay cho ta. Chúng ta sang phòng Trung Hoa trò chuyện, vì có rất nhiều việc cần bàn, và sáng mai cậu đã phải lên đường từ sớm đấy.
Gia nhân của lâu đài đưa Renata và Stafford lên tầng hai, đến tận phòng nghỉ của mỗi người. Khi gia nhân đã rút đi, Stafford ngập ngừng một chút trước cửa phòng cô bạn. Chàng không biết có nên bàn bạc một chút với nàng không? Nhưng chàng lập tức gạt đi cái ý nghĩ ấy. Trong khi họ còn ở trong bốn bức tường của lâu đài, tốt nhất là vẫn phải thận trọng, bởi không phải không có khả năng phòng của họ bị gắn máy nghe trộm.
Tuy nhiên một lúc nào đó Stafford vẫn phải hỏi Renata một số điều nảy ra trong óc chàng, khiến chàng thấy sợ và linh cảm thấy trước những diễn biến xấu có thể xảy ra.
Phòng nghỉ hết sức sang trọng, tuy nhiên Stafford vẫn cảm thấy có một thứ gì đó ngột ngạt. Chàng thầm nghĩ, không biết Renata đã bao nhiêu lần đến nghỉ trong tòa lâu đài cổ kính này?
Chú thích:
[1] Danh họa Hà Lan (1599-1641) (N.D).
[2] Nằm trong bang Bavaria thuộc CHLB Đức, nơi Hitler cho xây một tòa nhà kiên cô bằng sắt thép cho y thỉnh thoảng về nghỉ. (N.D).
[3] Tiêng Đức nghĩa là “Hitler muôn năm!” Dười thời Hitler đó là câu chào nhau gần như bắt buộc của mọi người dân Đức. (N.D).
[4] Juda bán Chúa trời chỉ để lấy 30 đồng tiền. (N.D).
[5] Lễ cầu nguyện kỷ niệm ngày Chúa Jesus gặp nạn. (N.D).
[6] Cơ quan mật vụ của Hitler. (N.D).
[7] Một miền đất ở phía Bắc rặng núi Caucasia. (N.D).
[8] Miền Bắc nước Anh. (N.D).
[9] Phong cách kiến trúc và trang trí nội thất cầu kỳ, diêm dúa, bắt nguồn tại Pháp vào khoảng năm 1720 và lan khắp Châu Âu thời phong kiến. (N.D).
[10] Ba danh họa trong số nổi tiếng nhất của trường phái hiện đại. (N.D).
[11] Chữ “von” trong tên người bằng tiếng Đức hàm ý quý tộc, giống như chữ “de” trong tên người bằng tiếng Pháp. (N.D).
[12] Thành phố bên bờ hồ Geneve, Thụy Sĩ. (N.D).
[13] Đơn vị tiền CHLB Đức. (N.D).
[14] Viện Bảo tàng Mỹ thuật lớn nhất của Hoa Kỳ. (N.D).
[15] Năm mở đầu chiến tranh thế giới thứ hai. (N.D).
[16] Tiếng Đức có nghĩa “Franz muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!” (N.D).
Chuyến Bay Frankfurt Chuyến Bay Frankfurt - Agatha Christie Chuyến Bay Frankfurt