Letting go means to come to the realization that some people are a part of your history, but not a part of your destiny.

Steve Maraboli

 
 
 
 
 
Tác giả: Ransom Rigg
Thể loại: Kinh Dị
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 766 / 22
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:41 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8
y vọng thoát được một bài lên lớp nữa, tôi dậy sớm và ra khỏi nhà trước khi bố thức giấc. Tôi nhét một tờ giấy nhắn vào dưới cánh cửa ra vào phòng ông rồi đi lấy quả táo của Emma, nhưng nó không còn ở trên cái bàn đầu giường, nơi tôi để nó lại. Một cuộc tìm kiếm kỹ lưỡng dưới sàn moi ra rất nhiều bụi lưu cữu vón lại thành cục và một vật nhăn nheo như làm bằng da to bằng cỡ quả bóng golf. Tôi đang bắt đầu tự hỏi liệu có phải ai đó đã xoáy mất quả táo hay không thì nhận ra cái vật nhăn nheo kia chính là quả táo. Vào một thời điểm nào đó đêm qua quả táo đã xuống cấp trầm trọng, trở nên teo quắt tới mức tôi chưa từng thấy quả nào quắt queo như thế. Trông như thể nó đã trải qua cả năm bị bỏ mặc trong máy sấy khô thực phẩm đóng kín. Khi tôi thử nhặt lên, quả táo liền vụn ra trên bàn tay tôi như một nhúm đất.
Ngỡ ngàng, tôi hất nó đi rồi ra ngoài. Trời mưa tầm tã, nhưng chẳng mấy chốc tôi đã bỏ lại bầu trời xám xịt sau lưng để đổi lấy ánh mặt trời đáng tin cậy của vòng thời gian. Tuy nhiên, lần này chẳng có cô gái xinh đẹp nào đợi tôi ở phía bên kia ngôi mộ đá - hay bất cứ ai khác. Tôi cố không tỏ ra quá thất vọng, nhưng đúng là tôi cảm thấy hơi thất vọng.
Ngay khi tới trại trẻ, tôi bắt đầu tìm kiếm Emma, nhưng bà Peregrine đã chặn tôi lại trước khi tôi kịp đi qua tiền sảnh.
“Ta muốn nói vài lời với cậu, cậu Portman”, bà nói, rồi dẫn tôi vào gặp riêng trong bếp, vẫn còn thơm nức mùi bữa sáng ngon lành tôi đã lỡ mất. Tôi có cảm giác như đang bị gọi lên phòng phụ trách.
Bà Peregrine tựa người vào cái bếp to. “Cậu có thích thời gian ở cùng chúng tôi không?” bà hỏi.
Tôi trả lời là có thích, rất thích.
“Thế thì tốt”, bà đáp, rồi nụ cười của bà biến mất. “Ta hiểu cậu đã có một buổi chiều vui vẻ với một vài học sinh của ta hôm qua. Và cả một cuộc trò chuyện rất sôi nổi nữa.”
“Chuyện đó rất tuyệt. Tất cả họ thực sự rất dễ mến.” Tôi cố gắng nói đến mọi thứ thật nhẹ nhàng, song tôi có thể thấy bà Peregrine đang bực tôi vì lý do nào đó.
“Hãy nói cho ta biết”, bà nói, “cậu có thể mô tả thế nào về bản chất cuộc trò chuyện của các cô các cậu?”
Tôi cố nhớ lại. “Cháu không biết... bọn cháu đã nói về rất nhiều thứ. Mọi thứ ở đây thế nào. Mọi người ở nơi cháu đang sống thì thế nào.”
“Nơi cậu đang sống.”
“Đúng thế.”
“Và cậu có nghĩ việc trò chuyện về những thứ trong tương lai với những đứa trẻ của quá khứ là khôn ngoan không?”
“Những đứa trẻ? Bà thực sự nghĩ về họ như thế sao?” Tôi hối tiếc vì đã nói như thế ngay khi những lời này buột ra khỏi miệng mình.
“Bản thân chúng cũng nhìn nhận bản thân như thế”, bà gắt gỏng. “Cậu định gọi chúng thế nào đây?”
Với tâm trạng của bà, đây không phải là một vấn đề tế nhị tôi sẵn sàng tranh luận. “Trẻ con, cháu đoán vậy.”
“Đúng thế. Bây giờ, như ta đang nói”, bà Peregrine nói, nhấn mạnh các từ bằng cách chém tay xuống bếp, “cậu có nghĩ việc trò chuyện về tương lai với những đứa trẻ của quá khứ là khôn ngoan không?”
Tôi quyết định thử đánh liều. “Chắc là không?”
“À, nhưng có vẻ cậu đã làm thế đấy! Tôi biết điều đó vì tối qua khi dùng bữa chúng ta được Hugh thết đãi một bài tổng kết công phu đáng kinh ngạc về những điều kỳ diệu của công nghệ viễn thông thế kỷ hai mươi mốt.” Giọng bà đầy vẻ mỉa mai. “Mọi người có biết rằng khi người ta gửi một lá thư đi vào thế kỷ hai mươi mốt, bên kia có thể nhận được gần như ngay lập tức không?”
“Cháu nghĩ bà đang nói về thư điện tử.”
“À, Hugh biết tất cả về nó.”
“Cháu không hiểu”, tôi nói. “Chẳng lẽ đó là vấn đề sao?”
Bà Peregrine thôi tựa người vào bếp, bước một bước tập tễnh về phía tôi. Cho dù bà thấp hơn tôi đến cả ba chục phân, song bà vẫn có thể chiếm thế áp đảo.
“Là một Chủ Vòng Thời Gian, ta đã tuyên thệ phải giữ an toàn cho những đứa trẻ này, và trên hết điều đó có nghĩa là giữ chúng ở đây - trong vòng - trên hòn đảo này.”
“Vâng.”
“Thế giới của cậu là nơi không bao giờ chúng có thể gia nhập, cậu Portman. Vì thế liệu có ích gì khi nhồi nhét vào đầu óc chúng những lời đao to búa lớn về những điều kỳ diệu đáng kinh ngạc của tương lai? Giờ thì cậu đã làm cho một nửa đám trẻ năn nỉ được thực hiện một chuyến đi bằng máy bay phản lực tới Mỹ và nửa còn lại mơ đến một ngày chúng cũng có thể sở hữu một chiếc điện thoại kiêm máy tính như của cậu.”
“Cháu xin lỗi. Lúc đó cháu không nhận ra.”
“Đây là nhà của chúng. Ta đã cố làm cho nó thành một nơi đẹp đẽ nhất có thể. Nhưng thẳng thừng mà nói thì chúng không thể rời đi, và ta sẽ rất biết ơn nếu cậu không làm cho chúng muốn thế.”
“Nhưng sao họ lại không thể rời đi?”
Bà nheo mắt lại nhìn tôi giây lát rồi lắc đầu. “Tha thứ cho ta. Ta đã tiếp tục đánh giá thấp mức độ khờ dại của cậu.” Bà Peregrine, người dường như không bao giờ có thể ngồi không, cầm lấy một cái xoong để trên bếp và bắt đầu dùng miếng cọ nồi bằng thép để cọ rửa nó. Tôi tự hỏi liệu bà đang tảng lờ câu hỏi của tôi hay chỉ đơn giản là cân nhắc xem tốt nhất nên đưa ra câu trả lời thế nào.
Khi cái xoong đã sạch bong, bà để nó lại lên bếp và nói, “Chúng không thể lưu lại trong thế giới của cậu, cậu Portman, bởi vì chỉ trong một thời gian ngắn chúng sẽ già đi và chết.”
“Ý bà nói sao, chết ư?”
“Ta không rõ mình có thể nói thế nào cho thẳng thắn hơn nữa. Chúng sẽ chết, Jacob.” Bà nói ngắn gọn, như thể muốn để chủ đề này lại sau lưng hai chúng tôi càng nhanh càng tốt. “Với cậu, có vẻ là chúng tôi đã tìm ra một cách để qua mặt cái chết, nhưng đó chỉ là một ảo giác thôi. Nếu lũ trẻ nán lại quá lâu bên phía cậu của vòng thời gian, tất cả bấy nhiêu năm chúng đã bỏ qua sẽ ập đến với chúng ngay lập tức chỉ trong thời gian tính bằng giờ.”
Tôi mường tượng ra cảnh tượng một người nhăn nheo teo tóp lại và vụn ra thành bụi đất như quả táo trên bàn đầu giường tôi. “Thật kinh khủng”, tôi rùng mình thốt lên.
Vài thời khắc như thế mà ta đã không may phải chứng kiến đều nằm trong số những ký ức tồi tệ nhất đời ta. Và để ta cam đoan với cậu nhé, ta đã sống đủ lâu để thấy một số điều thực sự khủng khiếp.”
“Vậy là chuyện này đã xảy ra trước đây rồi.”
“Với một cô bé dưới sự chăm nom của ta, thật đáng tiếc. Cách đây nhiều năm rồi. Tên cô bé là Charlotte. Đó là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng ta thực hiện một chuyến đi gặp một trong những người chị em Chủ Vòng Thời Gian của ta. Trong quãng thời gian ngắn ngủi ấy, Charlotte đã tìm cách qua mặt được những đứa trẻ lớn tuổi hơn đang canh chừng cô bé và lang thang ra ngoài vòng thời gian. Hồi ấy là năm 1985 hay 86, ta tin là vậy. Charlotte đang một mình thơ thẩn trong làng thì bị một cảnh sát bắt gặp. Khi không thể giải thích được mình là ai và đến từ đâu - hay ít nhất là theo cách ông cảnh sát thấy thuận tai - cô bé tội nghiệp liền bị đưa bằng tàu thủy tới một trung tâm chăm sóc trẻ em trong đất liền. Chuyện đó xảy ra hai ngày trước khi ta có thể tìm được cô bé, và tới lúc ấy cô bé đã già đi ba mươi lăm năm.”
“Cháu nghĩ cháu đã thấy qua bức ảnh chụp cô ấy”, tôi nói. “Một phụ nữ trưởng thành trong trang phục của một cô bé.”
Bà Peregrine buồn bã gật đầu. “Sau chuyện đó cô ấy không bao giờ còn trở lại như trước được nữa. Ngay cả tâm trí cũng vậy.”
“Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy vậy?”
“Bây giờ cô bé sống với cô Nightjar. Cô Nightjar và cô Thrush phụ trách tất cả những ca khó.”
“Nhưng như thế không có nghĩa là họ bị trói buộc vào hòn đảo này, phải vậy không?” tôi hỏi. “Chẳng phải họ vẫn có thể rời khỏi vào lúc này, thời điểm năm 1940, hay sao?”
“Phải, và lại bắt đầu già đi như bình thường. Nhưng để làm gì chứ? Để bị rơi vào một cuộc chiến tranh tàn khốc sao? Hay để chạm trán những người sợ hãi và hiểu lầm họ? Và còn cả những mối nguy hiểm khác nữa. Tốt nhất là ở đây.”
“Những mối nguy hiểm khác nào vậy?”
Khuôn mặt bà tối sầm lại, như thể hối tiếc vì đã khơi ra chuyện này. “Cậu không cần bận tâm đến làm gì. Hay ít nhất là chưa.”
Nói đoạn, bà xua tôi ra ngoài. Tôi hỏi thêm lần nữa ý bà muốn nói gì khi nhắc tới “những mối nguy hiểm khác”, nhưng bà đã đóng sầm cửa lại trước mặt tôi. “Hãy tận hưởng buổi sáng đi”, bà khẽ nói, gượng cười. “Tìm cô Bloom đi, ta tin chắc cô bé đang mong gặp cậu lắm.” Rồi bà đi vào trong nhà.
Tôi tha thẩn ra ngoài sân, tự hỏi làm thế nào tôi có thể xua được hình ảnh quả táo teo quắt ra khỏi đầu. Tuy vậy, không mấy chốc tôi đã làm được điều đó. Không phải là tôi quên đi; chỉ là nó thôi không làm tôi băn khoăn nữa. Đó là điều lạ lùng nhất.
Trở lại với nhiệm vụ tìm kiếm Emma, Hugh cho tôi biết cô đang vào làng mua đồ, vậy là tôi ngồi xuống dưới bóng mát của một cái cây để đợi. Trong vòng năm phút, tôi đã nửa thức nửa ngủ trên mặt cỏ, mỉm cười như một gã phê thuốc, khoan khoái tự hỏi không biết thực đơn bữa trưa sẽ có gì. Dường như chỉ riêng việc có mặt ở đây cũng tạo ra một tác động như gây mê lên tôi; như thể bản thân vòng thời gian đã là một thứ ma túy - sự kết hợp giữa một thứ thuốc giúp cải thiện tâm trạng và một thứ thuốc an thần - và nếu nán lại quá lâu, tôi sẽ không bao giờ muốn rời đi nữa.
Nếu đúng như thế, tôi nghĩ, điều đó sẽ giải thích rất nhiều điều, chẳng hạn như tại sao họ lại có thể sống cùng một ngày lặp đi lặp lại triền miên trong hàng thập kỷ mà không bị mất trí. Phải, nơi này tuyệt đẹp và cuộc sống rất tốt, nhưng nếu ngày nào cũng hệt như ngày nào và những đứa trẻ thực sự không thể rời đi như bà Peregrine nói, vậy thì nơi này không chỉ đơn thuần là một thiên đường mà cũng là một thứ nhà tù nữa. Chỉ có điều nó quá tuyệt vời đến mê hoặc, vì thế người ta có thể phải mất nhiều năm để nhận ra, và đến khi ấy thì đã quá muộn; rời đi lúc đó sẽ là quá nguy hiểm.
Vậy thì quả thực đây thậm chí còn không phải là một quyết định nữa. Bạn ở lại. Chỉ đến sau này - nhiều năm sau này - bạn mới bắt đầu tự hỏi những gì đã có thể diễn ra nếu bạn không ở lại.
o O o
Chắc hẳn tôi đã ngủ thiếp đi, vì đến khoảng gần trưa, tôi bừng tỉnh vì cảm thấy thứ gì đó đang thúc vào bàn chân mình. Tôi mở một mắt ra thì phát hiện thấy một thân người nhỏ xíu đang cố chui vào nấp bên trong cái giày của tôi, nhưng bị mắc kẹt trong mớ dây giày. Nhân vật này có tứ chi cứng đờ hậu đậu, cao bằng nửa cái nắp bịt trục bánh xe, mặc quân phục dã chiến. Tôi quan sát nó vật lộn để gỡ mình ra trong giây lát rồi đờ ra bất động như một món đồ chơi dây cót vừa chạy hết vòng cót cuối cùng. Tôi cởi giày để gỡ nó ra, rồi lật nó lại, tìm chỗ lên dây cót, nhưng không thấy chỗ nào cả. Nhìn gần, món đồ chơi này là một vật lạ lùng, trông có vẻ thô kệch, cái đầu của nó một viên đất sét vê tròn, khuôn mặt là một vết ấn ngón cái nhòe nhoẹt.
“Mang nó lại đây đi!” ai đó gọi từ bên kia sân. Một cậu con trai đang giơ tay vẫy tôi từ một gốc cây ở bìa rừng.
Chẳng có việc gì khẩn cấp phải làm, tôi nhặt chú lính đất sét lên và đi tới đó. Dàn hàng ra quanh cậu con trai nọ là cả một đội ngũ hình nhân chạy cót, lảo đảo đi qua đi lại như những người máy bị trục trặc. Khi tôi lại gần, chú lính trên tay tôi vụt sống lại, cựa quậy như thể đang cố thoát đi. Tôi để nó xuống cùng chỗ với những hình nhân khác và phủi đất sét còn dính trên quần mình.
“Tớ là Enoch”, cậu con trai nói. “Cậu chắc là anh chàng đó hả.”
“Tớ đoán là thế”, tôi đáp.
“Xin lỗi nếu chú lính quấy rầy cậu”, cậu ta nói, cho chú lính tôi vừa trả về vào đoàn với đồng bạn. “Chúng hiểu ý, cậu thấy đấy. Vẫn chưa được huấn luyện nghiêm chỉnh. Mới chỉ chế ra chúng tuần trước.” Cậu ta nói với một chút khẩu âm khu Đông London. Những quầng đen hệt như của xác chết chạy vòng quanh mắt cậu ta như mắt một con gấu trúc Mỹ, và bộ áo liền quần cậu ta mặc - cũng chính là bộ đồ cậu ta đã mặc trong những bức ảnh tôi từng thấy dính đầy đất sét và bụi. Nếu không nhờ khuôn mặt phúng phính tròn trịa, cậu ta hoàn toàn có thể là một chú thợ lau ống khói từ Oliver Twist bước ra.
“Cậu đã tạo ra những hình nhân này sao?” tôi hỏi, thực sự thấy ấn tượng. “Bằng cách nào?”
“Chúng là những người tí hon”, cậu con trai đáp. “Đôi khi tớ gắn đầu búp bê lên cho chúng, nhưng lần này tớ đang vội nên chẳng mất công thế nữa.”
“Những người tí hon là cái gì?”
“Là nhiều hơn một người tí hon.” Cậu ta nói như thể đó là một chuyện bất cứ gã ngốc nào cũng biết. “Vài người nghĩ chúng là các hình nhân, nhưng tớ nghĩ gọi thế thật ngớ ngẩn, cậu thấy có phải không?”
“Chắc chắn rồi.”
Chú lính đất sét tôi mang trả lại đã bắt đầu lang thang tiếp. Enoch lấy chân đẩy nó trở lại cùng đồng đội. Đám tí hon dường như đang di chuyển rất lộn xộn, va chạm vào nhau như những nguyên tử ở trạng thái kích thích. “Đánh đi, lũ ẻo lả!” cậu ta ra lệnh, và đến lúc đó tôi nhận ra lũ tí hon không chỉ đơn thuần va vào nhau, mà đang tay đấm chân đá. Tuy nhiên, anh chàng đất sét lang thang không bận tâm tới đấm đá, và khi chú lính này bắt đầu tập tễnh lỉnh đi lần nữa, Enoch chộp lấy nó và vặt luôn hai chân.
“Đây là chuyện xảy đến với những kẻ đào ngũ trong quân đội của ta!” cậu ta la lên, và ném chú lính cụt chân xuống cỏ, nó quằn quại trong thật quái gở trong lúc những chàng lính khác xông vào tấn công nó.
“Cậu luôn cư xử với tất cả đồ chơi của mình theo cách đó sao?”
“Sao cơ?” cậu ta hỏi. “Cậu thấy thương hại cho chúng à?”
“Tớ không biết nữa. Có nên thế không nhỉ?”
“Không. Nếu không nhờ tớ thì chúng còn chẳng có sự sống.”
Tôi bật cười, và Enoch quắc mắt nhìn tôi. “Có gì buồn cười hả?”
“Chắc cậu đang đùa.”
“Cậu hơi đầu đất phải không hả?” cậu ta nói. “Nhìn đây.” Cậu ta chộp lấy một lính đất sét và lột hết quân phục ra. Sau đó, bằng cả hai tay, cậu ta bẻ đôi nó ra ngang thân và moi từ trong lồng ngực đất sét ra một quả tim nhỏ xíu đang co bóp. Chú lính lập tức bất động. Enoch dùng ngón cái và ngón trỏ cầm quả tim lên cho tôi xem.
“Quả tim này lấy từ một con chuột”, cậu ta giải thích. “Đó là khả năng của tớ - lấy đi sự sống của một thứ và trao nó cho thứ khác, có thể bằng đất sét như cái này hoặc vật gì đó từng sống nhưng không còn sống nữa.” Enoch bỏ quả tim đã ngừng đập vào trong bộ áo liền quần của mình. “Ngay khi nghĩ ra cách huấn luyện đúng đắn cho chúng, tớ sẽ có cả một đạo quân như thế này. Chỉ có điều chúng sẽ rất to lớn.” Và cậu ta giơ thẳng một cánh tay lên cao quá đầu để cho tôi thấy cao lớn đến mức nào.
“Cậu có thể làm gì?” cậu ta hỏi.
“Tớ à? Không gì cả, thật đấy. Ý tớ là không thể làm gì đặc biệt như cậu.”
“Tiếc thật”, cậu ta đáp. “Nhưng dù sao cậu cũng sẽ tới sống cùng bọn tớ chứ?” Vẻ mặt cậu ta cho thấy không hẳn muốn tôi làm thế, cậu ta dường như chỉ tò mò.
“Tớ không biết nữa”, tôi nói. “Tớ chưa nghĩ về chuyện đó.” Tất nhiên đây là một lời nói dối. Tôi đã nghĩ về chuyện đó, nhưng chủ yếu như một giấc mơ giữa ban ngày.
Cậu ta nhìn tôi với vẻ ngờ vực. “Nhưng cậu không muốn à?”
“Tớ chưa biết.”
Nheo mắt lại, cậu ta chậm rãi gật đầu, như thể đã hiểu ý tôi.
Sau đó, cậu ta cúi người sát lại và thì thầm, “Emma đã kể với cậu về Tấn Công Làng rồi phải không?”
“Tấn công vào đâu cơ?”
Cậu ta nhìn đi chỗ khác. “Ồ, chẳng có gì đâu. Chỉ là một trò vài người bọn tớ hay chơi thôi.”
Tôi có trực cảm rằng mình đang bị gài bẫy. “Cậu ấy không nói gì với tớ cả”, tôi nói.
Enoch nhích người trên gốc cây về phía tôi. “Tớ dám cược là cậu ấy đã không nói”, cậu ta nói. “Tớ cược là có nhiều điều về nơi này cậu ấy không muốn cậu biết.”
“Ồ vậy sao? Vì sao thế?”
“Vì khi đó cậu sẽ thấy nó không tuyệt vời như mọi người muốn cậu nghĩ, và cậu sẽ không ở lại.”
“Là những điều gì vậy?” tôi hỏi.
“Không thể nói được”, cậu ta nói, dành cho tôi một nụ cười tinh quái. “Tớ có thể gặp rắc rối to mất.”
“Thế nào cũng được”, tôi nói. “Là cậu gợi chuyện ra trước mà.”
Tôi đứng dậy bỏ đi. “Đợi đã!” cậu ta la lên, chộp lấy tay áo tôi.
“Tại sao tớ phải ở lại nếu cậu chẳng chịu nói gì với tớ cả?”
Cậu ta xoa cằm thận trọng ngẫm nghĩ. “Đúng là tớ không được phép nói gì hết... nhưng tớ đoán là tớ không thể ngăn cản nếu cậu muốn lên lầu và ngó vào căn phòng ở cuối hành lang.”
“Vì sao?” tôi hỏi. “Có gì trong đó vậy?”
“Anh bạn Victor của tớ. Anh ấy muốn gặp cậu. Hãy lên đó nói chuyện một chút.”
“Được”, tôi nói. “Tớ sẽ đi.”
Tôi bắt đầu đi về phía trại trẻ, rồi sau đó nghe tiếng Enoch huýt sáo. Cậu ta làm điệu bộ lướt một bàn tay dọc theo phía trên một khung cửa. Chìa khóa, miệng cậu ta tạo thành khẩu hình.
“Sao tớ lại cần chìa khóa nếu có người ở trong phòng?”
Cậu ta quay đi, giả bộ không nghe thấy.
o O o
Tôi thong thả đi vào trong nhà, lên cầu thang như thể có việc ở trên đó và chẳng quan tâm nếu có ai biết chuyện. Tới lầu hai không bị ai trông thấy, tôi rón rén bước tới chỗ căn phòng ở cuối hành lang và thử mở cửa. Cửa bị khóa. Tôi gõ, nhưng không ai trả lời. Ngoái lại nhìn đằng sau để đảm bảo không có ai đang theo dõi, tôi đưa bàn tay lên dò tìm phía trên khung cửa. Tất nhiên tôi tìm thấy một cái chìa khóa.
Tôi mở cửa, lách vào trong. Căn phòng cũng giống như bất cứ phòng ngủ nào khác trong trại trẻ - có một tủ thấp có ngăn kéo, một tủ đứng đựng quần áo, một lọ hoa trên bàn đầu giường. Mặt trời gần trưa chiếu qua rèm cửa kéo kín màu mù tạt, làm ánh sáng vàng tỏa ra khắp nơi, khiến cho cả căn phòng dường như bị đóng khuôn trong hổ phách. Chỉ đến lúc đó, tôi mới để ý thấy một thanh niên nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, miệng hơi hé mở, bị che khuất nửa người sau một tấm màn ren.
Tôi cứng người lại, sợ đánh thức anh ta. Tôi nhận ra anh ta từ cuốn album của bà Peregrine, mặc dù tôi chưa hề thấy anh ta vào các bữa ăn hay quanh ngôi nhà, và chúng tôi cũng chưa bao giờ được giới thiệu với nhau. Trong bức ảnh, anh ta đang ngủ trên giường, giống hệt như lúc này. Có phải anh ta đã bị cách ly, đã nhiễm phải một chứng bệnh ngủ nào đó không? Liệu có phải Enoch đang tìm cách để làm cả tôi cũng bị mắc bệnh nữa?
“Xin chào?” tôi thì thầm. “Anh vẫn thức chứ?”
Anh ta không cử động. Tôi đặt một bàn tay lên cánh tay anh ta và lay nhẹ. Đầu anh ta ngật sang một bên.
Thế rồi tôi bất chợt nghĩ đến một điều khủng khiếp. Để kiểm tra một giả thuyết, tôi giơ bàn tay lên trước miệng anh ta. Tôi không thể cảm thấy hơi thở của anh ta. Ngón tay tôi chạm vào môi anh ta, đôi môi lạnh ngắt như băng. Choáng váng, tôi rụt bàn tay lại.
Rồi nghe thấy tiếng bước chân, tôi quay ngoắt lại thì thấy Bronwyn trên ngưỡng cửa. “Cậu không được phép vào đây!” cô rít lên.
“Anh ấy chết rồi”, tôi nói.
Đôi mắt Bronwyn hướng về phía cậu thanh niên, và khuôn mặt cô cau lại. “Đó là Victor.”
Đột nhiên ký ức vụt qua với tôi, cho tôi hay đã thấy khuôn mặt anh ta ở đâu. Anh ta chính là cậu con trai nâng bổng tảng đá trong tập ảnh của ông nội tôi. Victor là anh trai của Bronwyn. Không thể biết được anh ta có thể đã chết bao lâu rồi; chừng nào vòng thời gian tiếp tục vận hành, có thể năm mươi năm đã trôi qua mà trông chỉ như một ngày.
“Chuyện gì đã xảy ra với anh ấy vậy?” tôi hỏi.
“Có lẽ tớ sẽ đánh thức anh bạn Victor dậy”, một giọng nói vang lên từ đằng sau chúng tôi, “và cậu có thể tự mình hỏi anh ta.” Đó là Enoch. Cậu ta đi vào và đóng cửa lại.
Bronwyn nhìn cậu ta qua làn nước mắt trào ra. “Cậu có thể đánh thức anh ấy dậy không? Ôi làm ơn đi, Enoch.”
“Tớ không thể”, cậu ta nói. “Hiện giờ tớ có rất ít tim, mà muốn làm sống dậy một con người, dù chỉ trong một phút thôi, thì cũng cần rất nhiều tim.”
Bronwyn tới chỗ người thanh niên đã chết và bắt đầu chải ngón tay lên mái tóc anh ta. “Làm ơn đi”, cô năn nỉ, “đã nhiều năm trời chúng ta không nói chuyện với Victor.”
“Được rồi, tớ có mấy quả tim bò ngâm bảo quản dưới tầng hầm”, cậu ta nói, làm bộ cân nhắc. “Nhưng tớ ghét phải dùng nguyên liệu thứ phẩm. Còn tươi bao giờ cũng tốt hơn!”
Bronwyn òa khóc nức nở. Một giọt nước mắt của cô rơi xuống áo khoác của người anh trai, cô liền vội vàng dùng tay áo mình lau đi.
“Đừng khóc lóc thảm thiết thế”, Enoch nói, “cậu biết là tớ không thể chịu được chuyện đó mà. Dù sao đi nữa, đánh thức Victor dậy thì thật tàn nhẫn. Anh ta thích nơi anh ta đang lưu lại.”
“Và nơi đó là ở đâu vậy?” tôi hỏi.
“Ai mà biết được? Nhưng lần nào bọn tớ làm anh ta sống dậy để nói chuyện, anh ta cũng có vẻ vội vã muốn trở lại đó ghê lắm.”
“Thật tàn nhẫn khi cậu đùa bỡn với Bronwyn như thế và lừa gạt tôi”, tôi nói. “Và nếu Victor chết rồi, tại sao mọi người không chôn anh ấy đi?”
Bronwyn ném về phía tôi một cái nhìn nhạo báng tột độ. “Như thế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thấy anh ấy nữa”, cô nói.
“Đừng gay gắt thế, anh bạn”, Enoch nói. “Tớ chỉ gợi ý cậu lên đây vì tớ muốn cậu biết hết sự thật thôi mà. Tớ đứng về phía cậu.”
“Thế à? Vậy thì sự thật là gì nào? Victor chết như thế nào?”
Bronwyn ngước mắt lên. “Anh ấy bị giết bởi một... ái ái!” cô la lên vì Enoch đã véo mạnh vào cánh tay cô.
“Im nào!” cậu ta kêu lên. “Không đến lượt cậu nói!”
“Thật lố bịch!” tôi nói. “Nếu không ai trong hai người chịu nói cho tôi biết, tôi sẽ đi hỏi bà Peregrine.”
Enoch vội sải bước tới chỗ tôi, trừng mắt. “Ồ không, cậu không được làm thế.”
“Vậy à? Sao lại không?”
“Chim không thích bọn tớ nói về Victor”, cậu ta nói. “Đó là lý do cô ấy lúc nào cũng mặc đồ đen, cậu biết đấy. Dù thế nào đi nữa, cô ấy không được phép phát hiện ra chúng ta đã từng ở đây. Cô ấy sẽ treo ngược chúng ta lên mất!”
Thật đúng lúc, chúng tôi nghe thấy vang lên trên cầu thang tiếng bước chân tập tễnh không lẫn vào đâu được của bà Peregrine. Bronwyn tái mặt và lao vụt qua trước mặt tôi ra khỏi cửa, nhưng trước khi Enoch kịp tẩu thoát, tôi đã chặn đường cậu ta. “Tránh ra!” cậu ta rít lên.
“Nói cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra với Victor!”
“Tớ không thể!”
“Vậy nói cho tớ biết về Tấn Công Làng.”
“Chuyện đó tớ cũng không nói được!” Cậu ta cố đẩy tôi lần nữa để vượt qua, nhưng khi nhận ra không thể làm được cậu ta đành chịu thua. “Được rồi, đóng cửa lại, và tớ sẽ cho cậu biết!”
Tôi đóng cửa lại đúng lúc bà Peregrine lên tới chiếu nghỉ. Chúng tôi đứng dán tai vào cánh cửa trong giây lát, lắng nghe dấu hiệu cho thấy chúng tôi đã bị phát hiện. Tiếng bước chân của cô phụ trách vang lên ngoài hành lang hướng về phía chúng tôi, đến nửa đường rồi dừng lại. Một cánh cửa khác cót két mở ra, sau đó đóng lại.
“Cô ấy vào phòng mình”, Enoch thì thầm.
“Được rồi”, tôi nói. “Tấn Công Làng.”
Có vẻ ân hận vì đã nhắc tới chuyện này, cậu ta ra hiệu bảo tôi rời xa khỏi cánh cửa. Tôi đi theo, cúi người xuống để cậu ta có thể thì thầm vào tai tôi. “Như tớ đã nói, đó là một trò bọn tớ chơi. Nó diễn ra đúng như tên gọi ấy.”
“Ý cậu là các cậu thực sự tấn công vào làng sao?”
“Phá tung nó lên, đuổi dân làng chạy tán loạn, lấy những gì bọn tớ thích, đốt trụi chỗ này chỗ kia. Một trận cười thỏa thích.”
“Nhưng như thế thật kinh khủng!”
“Bọn tớ cũng phải thực hành kỹ năng của mình bằng cách nào đó chứ, phải không? Phòng khi bọn tớ cần phải tự vệ. Nếu không, bọn tớ sẽ bị lụt nghề. Hơn nữa còn có luật chơi. Bọn tớ không được phép giết ai. Chỉ làm họ phát khiếp một chút thôi. Và nếu ai đó có bị thương thì, chậc, họ sẽ lành lặn y như cũ ngày hôm sau và chẳng nhớ gì về chuyện đó cả.”
“Cả Emma cũng chơi à?”
“Không. Bạn ấy giống hệt cậu. Nói là như thế thật tồi.”
“À, đúng thế đấy.”
Cậu ta đảo mắt đi. “Hai người quả là xứng đôi.”
“Thế có nghĩa là sao?”
Cậu ta vươn hết chiều cao một mét sáu ba của mình và chỉ một ngón tay vào ngực tôi. “Như thế nghĩa là tốt hơn hết cậu đừng có ra vẻ cao ngạo với tôi, anh bạn ạ. Vì nếu bọn này không thỉnh thoảng tấn công cái làng khỉ gió ấy, phần lớn những người ở đây hẳn đã mất trí từ lâu rồi.” Cậu ta đi ra cửa, đặt bàn tay lên tay nắm rồi sau đó quay lại nhìn tôi. “Và nếu cậu nghĩ bọn này xấu xa, thì hãy đợi đến khi thấy chúng.”
“Chúng là ai? Mọi người đang nói về cái quái gì vậy?”
Cậu ta giơ một ngón tay lên ra hiệu bảo tôi im lặng, rồi ra ngoài.
Tôi lại chỉ có một mình. Đôi mắt tôi lại bị hút về phía người nằm trên giường. Chuyện gì đã xảy ra với anh vậy, Victor?
Có thể anh ấy đã hóa điên và tự sát, tôi thầm nghĩ - anh ấy quá chán ngán với sự vui vẻ nhưng vĩnh viễn không có tương lai này đến mức uống thuốc chuột hay nhảy từ trên vách núi xuống. Hoặc nguyên nhân là chúng, những “mối nguy hiểm khác” bà Peregrine đã bóng gió nói đến.
Tôi bước ra hành lang và vừa dợm bước về phía cầu thang thì nghe thấy tiếng bà Peregrine vang lên sau một cánh cửa khép hờ. Tôi vội chui vào trong căn phòng gần nhất nấp kín cho tới khi bà đã tập tễnh đi qua chỗ tôi và xuống dưới cầu thang. Sau đó, tôi để ý thấy một đôi ủng để trước một chiếc giường được trải ga phẳng phiu - đôi ủng của Emma. Tôi đang ở trong phòng ngủ của cô.
Dọc theo một bức tường có kê một chiếc tủ ngăn kéo và treo một tấm gương, áp vào một bức tường khác là một bàn viết có cái ghế tựa được đẩy lui vào dưới gầm bàn. Đây là căn phòng của một cô gái gọn ghẽ không có gì để giấu giếm, hay có vẻ là như vậy cho tới khi tôi thấy một cái hộp đựng mũ để ngay trong tủ tường. Cái hộp được buộc bằng một sợi dây, và ở phía trước có mấy dòng viết ngang bằng chì sáp:
Riêng tư:
Thư tín của Emma Bloom
Không được mở
Viết thế chẳng khác gì vẫy vẫy một món đồ lót màu đỏ trước mặt một con bò tót. Tôi ngồi xuống, ôm cái hộp trong lòng và tháo dây buộc ra. Trong đó phải có cả trăm lá thư hay hơn thế, tất cả đều do ông tôi gửi.
Tim tôi đập nhanh hẳn lên. Đây chính là tứ mỏ vàng tôi đã hy vọng tìm thấy trong trại trẻ cũ đổ nát. Tất nhiên, tôi cảm thấy không thoải mái lắm vì xem trộm thế này, nhưng nếu những người ở đây cứ khăng khăng giữ kín bí mật, thì được thôi, tôi đành phải tự mình tìm hiểu mọi thứ.
Tôi muốn đọc tất cả nhưng lại sợ rằng sẽ bị ai đó bắt gặp, vì vậy tôi khẩn trương lướt qua chúng để nắm được tinh thần chung. Nhiều lá thư được viết từ đầu thập niên 1940, khi ông nội Portman còn ở trong quân đội. Tôi chọn ngẫu nhiên để xem thử thì thấy chúng đều rất dài và ướt át, đầy ắp những lời bày tỏ tình yêu cùng những mô tả lủng củng về vẻ đẹp của Emma bằng thứ tiếng Anh hồi đó còn vụng về của ông (“Em đẹp như một bông hoa, và cũng thơm nữa, anh có thể hái được chăng?”) Trong một lá thư ông gửi kèm một bức ảnh chụp ông đang ngồi trên một quả bom với một điếu thuốc lá phì phèo trên môi.
Theo thời gian, những lá thư của ông dần trở nên ngắn hơn và thưa hơn. Đến thập niên 1950 có lẽ mỗi năm có một lá thư. Phong bì cuối cùng đề tháng Tư năm 1963; bên trong không có lá thư nào, chỉ có vài bức ảnh. Hai bức là của Emma, những bức ảnh cô đã gửi cho ông được ông gửi trả lại. Bức ảnh thứ nhất được gửi sớm hơn cả - một bức ảnh chụp đùa vui để đáp lại bức ảnh của ông - trong đó cô đang gọt khoai tây và giả bộ hút thuốc bằng một trong những cái tẩu của bà Peregrine. Bức ảnh tiếp theo buồn hơn, và tôi đoán cô đã gửi nó đi sau khi ông tôi không viết lá thư nào suốt một thời gian dài. Bức ảnh cuối cùng - trên thực tế là thứ cuối cùng ông tôi từng gửi cho Emma - cho tôi thấy ông ở tuổi trung niên, đang bế một cô bé.
Tôi phải mất một phút nhìn chăm chăm vào bức ảnh cuối cùng mới nhận ra cô bé đó là ai. Đó là cô Susie của tôi, lúc ấy có lẽ khoảng bốn tuổi. Sau đó không có thêm lá thư nào nữa. Tôi tự hỏi Emma đã tiếp tục viết thư cho ông nội tôi trong bao lâu nữa mà không nhận được hồi âm, và ông đã làm gì với những lá thư của cô. Đã ném chúng đi? Hay giấu chúng vào đâu đó? Hẳn bố tôi và cô Susie đã tìm thấy một trong những lá thư đó hồi còn nhỏ, và nó đã làm họ nghĩ bố mình là một kẻ dối trá lừa gạt. Họ đã lầm biết chừng nào.
Nghe thấy một tiếng đằng hắng vang lên thật rõ sau lưng mình, tôi bèn quay lại thì thấy Emma đang chằm chằm nhìn vào từ ngưỡng cửa. Tôi bò nhoài ra để nhặt nhạnh các lá thư lại, mặt đỏ bừng, song đã quá muộn. Tôi đã bị bắt quả tang.
“Tớ xin lỗi. Đáng ra tớ không nên vào đây.”
“Cái đó tôi quá rõ chứ”, cô nói, “nhưng dù sao đi nữa, đừng để tôi làm gián đoạn việc đọc của cậu.” Cô đùng đùng bước tới chỗ cái tủ ngăn kéo, lôi một ngăn kéo ra rồi ném nó rơi đánh rầm xuống sàn. “Trong khi làm việc đó sao cậu không ngắm qua luôn cả quần lót của tôi đi này!”
“Tớ thực sự, thực sự xin lỗi”, tôi nói. “Tớ chưa bao giờ làm chuyện thế này.”
“À, tôi cũng không lạ. Còn mải nhòm trộm qua cửa sổ phòng phụ nữ mà, tôi đoán vậy!” Cô đứng cúi xuống tôi, run lên vì tức giận, trong khi tôi loay hoay cố xếp trả lại tất cả chỗ thư vừa khít vào trong hộp.
“Chúng được xếp theo hệ thống, cậu ạ. Đưa chúng đây, cậu đang làm lộn tung mọi thứ lên rồi!” Cô ngồi xuống đẩy tôi sang bên, đổ hết mọi thứ trong hộp ra sàn và phân loại các lá thư ra thành từng chồng với tốc độ của một nhân viên bưu điện. Nghĩ rằng tốt nhất là nên im lặng, tôi ngoan ngoãn theo dõi trong lúc cô làm việc.
Khi đã dịu lại đôi chút, Emma nói, “Vậy là cậu muốn biết về Abe và tôi, phải không nào? Muốn biết thì chỉ cần hỏi là được.”
“Tớ không muốn tọc mạch.”
“Điều đó thì giờ còn phải tranh luận mới biết được nhỉ?”
“Tớ đoán vậy.”
“Thế nào? Cậu muốn biết điều gì?”
Tôi ngẫm nghĩ về chuyện đó. Tôi thực sự không biết nên bắt đầu từ đâu. “Chỉ là... chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Thế thì được, chúng ta sẽ bỏ qua hết những đoạn hay ho và đi thẳng tới hồi kết. Đơn giản thôi, thật đấy. Anh ta rời đi. Anh ta nói yêu tôi và hứa sẽ trở lại một ngày nào đó. Nhưng rồi chẳng bao giờ trở lại.”
“Nhưng ông buộc phải đi, đúng không? Để chiến đấu?”
“Buộc phải đi ư? Tôi không biết. Anh ta nói không thể tha thứ cho mình nếu cứ giương mắt nhìn cuộc chiến trong khi đồng bào đang bị săn đuổi và tàn sát. Nói rằng đó là bổn phận của anh ta. Tôi đoán với anh ta bổn phận quan trọng hơn tôi. Dù thế nào đi nữa, tôi đã đợi. Tôi đã đợi và lo lắng qua suốt cuộc chiến tranh khủng khiếp ấy, cứ mỗi lá thư đến tôi lại sợ rằng đó là tin báo tử. Sau đó khi chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc, anh ta nói không thể quay trở lại nữa. Bảo là nếu quay về anh ta sẽ hóa điên mất. Nói anh ta đã học được cách tự vệ trong quân đội và không còn cần một cô bảo mẫu như Chim trông nom nữa. Anh ta sẽ tới Mỹ tạo lập một trại trẻ cho chúng tôi, rồi sau đó sẽ báo tin cho tôi. Vậy là tôi đợi thêm nữa. Tôi đợi lâu đến mức nếu thực sự đi cùng anh ta hẳn khi đó tôi đã bốn mươi tuổi rồi. Đến lúc đó anh ta đã lập gia đình với một người bình thường. Và, như người ta nói, thế là hết.”
“Tớ xin lỗi. Tớ không hề biết.”
“Đó là một câu chuyện cũ rồi. Tôi không còn bận tâm nhiều về nó nữa.”
“Cậu trách ông về việc bị mắc kẹt ở đây”, tôi nói.
Emma trừng mắt nhìn tôi. “Ai nói là tôi bị mắc kẹt?” Rồi cô thở dài. “Không, tôi không trách anh ấy. Chỉ nhớ anh ấy thôi.”
“Đến tận bây giờ sao?”
“Mỗi ngày.”
Cô hoàn tất việc sắp xếp thư. “Vậy là cậu biết rồi đấy”, cô vừa nói vừa đậy nắp hộp lên chồng thư. “Toàn bộ câu chuyện về mối tình của đời tôi nằm trong một cái hộp phủ bụi để trong tủ tường.” Cô buông tiếng thở dài rồi nhắm mắt lại và bóp sống mũi. Trong khoảnh khắc, tôi gần như có thể thấy một bà lão ẩn đằng sau những đường nét tươi trẻ của cô. Ông nội tôi đã giẫm nát trái tim héo mòn tội nghiệp của cô, và vết thương vẫn còn há miệng, cho dù sau bấy nhiêu năm.
Tôi định đưa tay ôm quanh người cô, nhưng điều gì đó đã ngăn tôi lại. Đây là một cô gái xinh đẹp, vui nhộn, mê hoặc, và thật kỳ diệu làm sao, dường như thực sự thích tôi. Nhưng giờ tôi đã hiểu người cô thích không phải là tôi. Cô đã tan vỡ trái tim vì một người khác, và tôi chỉ đơn thuần là người thế thân cho ông nội. Chừng đó là đủ để bất cứ ai dừng lại, tôi không cần quan tâm liệu người đó có đang hăm hở đến đâu. Tôi biết có những người cảm thấy ý tưởng hẹn hò bồ cũ của bạn mình thật không chấp nhận nổi. Theo thang giá trị đó, hẹn hò với bạn gái cũ của ông nội bạn có thể coi là loạn luân.
Điều tiếp theo tôi biết là bàn tay Emma đang đặt lên cánh tay tôi. Rồi cô tựa đầu lên vai tôi, và tôi có thể cảm thấy cằm cô đang dịch dần về phía mặt tôi. Có thể cho rằng đây là thứ ngôn ngữ cơ thể để nói “hãy hôn tôi đi”. Sau một phút nữa mặt chúng tôi sẽ kề nhau, và tôi sẽ phải chọn giữa khóa môi hay xúc phạm cô nghiêm trọng bằng việc chối từ, mà tôi vốn đã xúc phạm cô một lần rồi. Không phải là tôi không muốn hôn Emma - tôi muốn thế hơn bất cứ điều gì khác - nhưng ý tưởng ôm hôn cô chỉ cách cái hộp đựng đầy những bức thư tình được gìn giữ cẩn thận tới mức thái quá của ông nội tôi có nửa mét làm tôi có cảm giác kỳ dị và bối rối.
Rồi má cô áp vào má tôi, và tôi biết đã đến thời khắc hành động, vậy là tôi nói ra thứ đầu tiên xuất hiện trong đầu mình có thể làm tắt ngấm cảm xúc.
“Giữa cậu và Enoch có gì không?”
Emma vụt lùi ra xa ngay lập tức, nhìn tôi như thể tôi vừa đề nghị hai chúng tôi ăn tối bằng thịt chó con vậy. “Cái gì?! Không! Từ đâu cậu lại có ý tưởng quái đản như thế chứ?”
“Từ cậu ta. Cậu ta nghe có vẻ cay cú khi nói về cậu, và tớ có trực cảm là cậu ta không muốn tớ có mặt ở đây, như thể tớ đang chọc gậy bánh xe vào trò chơi của cậu ta hay điều gì đó tương tự vậy.”
Đôi mắt Emma tiếp tục mở to ra. “Thứ nhất, cậu ta chẳng có ‘trò chơi’ nào để ai có thể ‘chọc gậy bánh xe’ cả, tôi có thể đoan chắc với cậu như thế. Cậu ta là một gã ngốc ghen tuông và một kẻ dối trá.”
“Có thật cậu ta thế không?”
“Thế nào cơ?”
“Là một kẻ dối trá.”
Emma nheo mắt lại. “Sao chứ? Cậu ta đang bày ra trò vớ vẩn gì đây?”
“Emma, chuyện gì xảy ra với Victor vậy?”
Trông cô có vẻ sốc. Sau đó, vừa lắc đầu, cô vừa lẩm bẩm, “Quỷ tha ma bắt thằng nhóc ích kỷ đó đi.”
“Có một điều không ai ở đây chịu nói cho tớ biết, và tớ muốn biết nó là gì.”
“Tôi không thể”, cô nói.
“Đó là tất cả những gì tớ từng được nghe! Tớ không thể nói về tương lai. Cậu không thể nói về quá khứ. Bà Peregrine đã buộc chặt tất cả chúng ta. Nguyện vọng cuối cùng của ông nội là muốn tớ tới đây và tìm ra sự thật. Chẳng lẽ điều đó không có ý nghĩa gì sao?”
Emma cầm lấy bàn tay tôi kéo vào lòng và nhìn xuống nó. Dường như cô đang tìm lời thích hợp. “Cậu nói đúng”, cuối cùng cô lên tiếng. “Có một chuyện.”
“Kể cho tớ đi.”
“Không phải ở đây”, cô thì thầm. “Để tối nay.”
Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau vào lúc tối muộn, khi bố tôi và bà Peregrine đã ngủ. Emma nhất quyết nói đó là cách duy nhất, vì tai vách mạch rừng và chúng tôi không thể cùng nhau lẩn đi đâu ban ngày mà không gây nên nghi ngờ. Để hoàn tất ấn tượng sai lầm là chúng tôi không có gì để giấu giếm, Emma và tôi dành cả phần còn lại của buổi chiều tha thẩn ngoài sân trong tầm mắt của tất cả mọi người, và khi mặt trời bắt đầu lặn, tôi đi bộ quay lại đầm lầy một mình.
o O o
Lại thêm một tối mưa tầm tã nữa ở phía thế kỷ hai mươi mốt, và đến khi về tới quán rượu, chỉ nguyên việc được ở trong một nơi khô ráo cũng đủ khiến tôi lấy làm mừng. Tôi tìm thấy bố đang một mình ngồi nhâm nhi vại bia tại một cái bàn, vậy là tôi kéo ghế ngồi xuống rồi bắt đầu dựng lên những câu chuyện về ngày hôm nay của mình trong khi dùng khăn ăn lau khô mặt. (Tôi bắt đầu khám phá ra một điều về việc dối trá: càng thực hành nó nhiều, nó sẽ càng dễ dàng hơn.)
Bố tôi thậm chí hầu như chẳng buồn lắng nghe. “Hừm”, ông nói, “thú vị đấy”, rồi sau đó ánh mắt ông lại rời đi nơi khác, và ông uống tiếp một ngụm bia nữa.
“Có chuyện gì với bố vậy?” tôi hỏi. Bố vẫn còn giận con à?”
“Không, không, không có chuyện đó đâu.” Ông có vẻ định giải thích nhưng rồi lại gạt đi. “À, nó thật ngớ ngẩn.”
“Bố. Nói cho con nghe đi nào.”
“Chỉ là... người này xuất hiện mấy ngày trước. Một người quan sát chim nữa.”
“Bố quen người đó ạ?”
Ông lắc đầu. “Chưa bao giờ nhìn thấy người này trước đây. Thoạt đầu, bố nghĩ anh ta chỉ là một tay nghiệp dư có hứng thú, nhưng anh ta cứ liên tục tìm đến cùng những địa điểm, cùng những bãi làm tổ, rồi ghi chép. Chắc chắn anh ta biết mình đang làm gì. Thế rồi hôm nay bố thấy anh ta mang theo một lồng bẫy và một cặp Predator, vì thế bố biết anh ta là dân chuyên nghiệp.”
“Predator?”
“Ống nhòm. Loại cực kỳ chuyên nghiệp.” Cho đến giờ, bố tôi đã cuộn thật chặt cái khăn giấy lót đĩa của mình rồi lại vuốt phẳng nó ra được ba lần, một thói quen mỗi khi bồn chồn. “Chỉ có điều bố cứ tưởng bố đã giành được cơ hội khám phá quần thể chim này rồi, con biết không? Bố thực sự muốn cuốn sách này trở thành điều gì đó đặc biệt.”
“Và rồi gã thối tha này xuất hiện.”
“Jacob.”
“Ý con là gã mắc dịch vô tích sự này.”
Bố tôi bật cười. “Cảm ơn con trai, nghe được đấy.”
“Cuốn sách sẽ đặc biệt”, tôi quả quyết nói.
Ông nhún vai. “Bố không biết nữa. Hy vọng là vậy.” Nhưng nghe giọng bố tôi có vẻ không gì chắc chắn lắm.
Tôi biết chính xác chuyện gì sắp diễn ra. Đó là một phần của cái vòng luẩn quẩn bệnh hoạn bố tôi bị mắc kẹt vào. Ông trở nên thực sự say mê với một dự án nào đó, nói về nó liên tu bất tận trong hàng tháng liền. Sau đó, không tránh khỏi, một vấn đề tí xíu nào đó sẽ xuất hiện và gây trắc trở, rồi thay vì giải quyết nó bố tôi lại để nó hoàn toàn khống chế mình. Điều tiếp theo bạn được biết là dự án sẽ bị chấm dứt, và ông sẽ nhảy sang dự án kế tiếp, và cái vòng lại bắt đầu. Bố tôi bị ngã lòng quá dễ dàng. Đó là lý do ông có cả tá bản thảo chưa hoàn tất khóa kín trong ngăn kéo bàn làm việc, và lý do tại sao cửa hàng bán chim ông cùng cô Susie định mở chẳng bao giờ trở thành hiện thực và tại sao bố tôi có bằng cử nhân về ngôn ngữ châu Á nhưng chưa bao giờ đến châu Á. Ông đã bốn mươi sáu tuổi mà vẫn đang cố gắng tìm kiếm bản thân mình, cố gắng chứng minh ông không cần tới tiền của mẹ tôi.
Điều ông thực sự cần là một cuộc trò chuyện để cổ vũ tinh thần, mà tôi không cảm thấy mình đủ khả năng để dành nó cho ông, vậy là tôi cố khéo léo thay đổi chủ đề. “Kẻ quấy rối này đang ở đâu ạ?” tôi hỏi. “Con nghĩ thị trấn có phòng nào cho thuê thì bố con mình đã thuê hết rồi.”
“Bố đoán anh ta cắm trại”, bố tôi đáp.
“Trong thời tiết này sao?”
“Đó là phong cách của một tay đam mê điểu cầm học cứng cựa. Điều kiện khó khăn giúp ta gần gũi hơn với đối tượng của mình, cả về thể chất và tâm lý. Thành công qua nghịch cảnh, những thứ kiểu đó.”
Tôi bật cười. “Thế sao bố không ra ngoài đó?” tôi nói, rồi lập tức ước gì đừng nói như vậy.
“Bởi cùng lý do khiến nhiều khả năng cuốn sách của bố sẽ không ra đời. Luôn có ai đó tận tâm hơn bố.”
Tôi bối rối cựa mình trên ghế. “Con không có ý định đó. Ý con là...”
“Suỵt!” Bố tôi cứng người lại, lén nhìn ra phía cửa. “Liếc nhanh vào nhưng đừng lộ liễu quá. Anh ta vừa bước vào đấy.”
Tôi cầm tờ thực đơn lên che mặt và nhìn qua phía trên tờ giấy. Một người đàn ông bộ dạng bẩn thỉu luộm thuộm để râu đang đứng trên ngưỡng cửa, giũ nước từ trong ủng ra. Ông ta đội mũ đi mưa, đeo kính đen và mặc trên người thứ gì đó có vẻ như vài chiếc áo khoác chồng lên nhau chiếc này ngoài chiếc kia, làm ông ta trông vừa béo vừa có vẻ ăn xổi ở thì.
“Con thích bộ dạng ông già Noel vô gia cư ông ta trưng ra”, tôi thì thầm. “Một vẻ bề ngoài khó rời mắt nổi. Rất đi trước thời trang.”
Bố tảng lờ tôi. Người đàn ông khệnh khạng đi tới chỗ quầy bar, và những cuộc trò chuyện xung quanh ông ta chợt hơi lặng xuống. Kev hỏi vị khách muốn gì, người đàn ông nói gì đó và Kev đi vào trong bếp. Ông ta nhìn chằm chằm thẳng về phía trước trông khi chờ đợi, và một phút sau Kev quay trở ra, đưa cho vị khách này một túi đựng đồ ăn. Ông ta cầm lấy, ném vài tờ bạc xuống quầy bar, rồi đi ra cửa. Trước khi rời đi, ông ta quay lại chậm rãi nhìn quanh phòng. Rồi sau một hồi lâu, ông ta rời đi.
“Anh ta hỏi mua gì vậy?” bố tôi lớn tiếng hỏi sau khi cánh cửa đã đóng sập lại.
“Bíp tết”, Kev đáp. “Nói anh ta không quan tâm chúng được nướng thế nào, vậy là anh ta lấy chúng sau khi mỗi mặt được nướng mười giây. Và chẳng phàn nàn gì.”
Mọi người bắt đầu xì xào bàn tán, âm lượng những cuộc trò chuyện của họ lại tăng lên.
“Bíp tết sống”, tôi nói với bố. “Bố phải thừa nhận là chuyện này hơi quái lạ, kể cả với một nhà điểu cầm học.”
“Có thể anh ta là người thích ăn đồ sống”, bố tôi đáp.
“À vâng. Hoặc có thể ông ta đã phát chán với việc sống bằng máu cừu.”
Bố tôi đảo mắt. “Người này hẳn là có bếp nấu dã ngoại. Có thể anh ta chỉ thích nấu ăn ngoài trời thôi.”
“Trong mưa sao? Mà sao bố cứ phải bênh vực ông ta vậy nhỉ? Con nghĩ ông ta là kẻ thù không đội trời chung của bố cơ mà.”
“Bố không hy vọng con sẽ hiểu”, ông nói, “nhưng con không lôi bố ra làm trò cười nữa cũng là tốt lắm rồi.” Và ông đứng dậy đi tới chỗ quầy bar.
o O o
Vài giờ sau, bố tôi loạng choạng leo lên lầu, sặc sụa mùi rượu, và lăn kềnh ra giường. Ông ngủ ngay lập tức, ngáy to khủng khiếp. Tôi vớ lấy một cái áo khoác và ra ngoài đi gặp Emma, không cần phải lén lút nữa.
Các con đường đều vắng tanh và im ắng tới mức ta gần như có thể nghe thấy tiếng sương rơi xuống. Những đám mây lưa thưa giăng ra trên bầu trời, và chỉ còn lại vừa đủ ánh trăng xuyên qua để soi đường cho tôi. Trong khi tôi leo qua triền đồi, một cảm giác gai gai bỗng len lỏi trong người tôi, tôi bèn nhìn quanh, thấy một người đang theo dõi mình từ một mô đất nhô lên đằng xa. Người nọ đang đưa hai bàn tay lên mặt, hai khuỷu tay khuỳnh ra như thể ông ta đang nhìn qua ống nhòm. Điều đầu tiên tôi nghĩ là khỉ thật, mình đã bị bắt gặp, đoán chừng đó là một trong những người nuôi cừu đang canh chừng đóng vai thám tử. Nhưng nếu đúng vậy, tại sao người đó không tới đối diện với tôi? Thay vì thế, ông ta chỉ đứng đó quan sát và tôi nhìn lại.
Cuối cùng, tôi ngẫm ra nếu mình bị bắt gặp thì cũng đã bị bắt gặp rồi, vì cho dù bây giờ tôi có quay về hay đi tiếp, kiểu gì chuyến du hành khuya khoắt của tôi cũng sẽ đến tai bố. Vậy là tôi giơ tay lên làm cử chỉ chào bằng một ngón và đi xuống, dấn bước vào màn sương mù giá buốt.
Khi tôi chui ra khỏi mộ đá, có vẻ như những đám mây đã bị lột sạch đi và mặt trăng căng tròn như một quả bóng lớn màu vàng, sáng đến mức tôi gần như phải nheo mắt lại. Vài phút sau, Emma xuất hiện, lội qua đầm lầy, vừa xin lỗi vừa nói liến thoắng.
“Xin lỗi vì tớ đến muộn. Đợi mãi mọi người mới lên giường đi ngủ hết! Thế rồi trên đường ra ngoài tớ lại bắt gặp Hugh và Fiona đang ôm chặt lấy nhau hôn hít ngoài vườn. Nhưng đừng lo. Họ đã hứa không nói gì nếu tớ cũng làm thế.”
Cô quàng hai cánh tay quanh cổ tôi. “Tớ nhớ cậu”, cô nói. “Xin lỗi vì chuyện lúc trước.”
“Cả tớ cũng vậy”, tôi vừa nói vừa ngượng nghịu vỗ lên lưng cô. “Nào, chúng ta nói chuyện nào.”
Cô kéo tôi đi. “Không phải ở đây. Có một chỗ tốt hơn. Một nơi đặc biệt.”
“Tớ không biết...”
Emma cầm lấy bàn tay tôi. “Đừng thế chứ. Rồi cậu sẽ thích nó, tớ hứa đấy. Và khi chúng ta đó, tớ sẽ kể cho cậu biết tất cả.”
Tôi biết chắc đó là một sắp đặt để kéo tôi đi tâm sự yêu đương cùng cô, và giá như tôi chín chắn hay khôn ngoan hơn, hay là một anh chàng vẫn thường qua lại với các cô nàng hấp dẫn đến mức chuyện đó trở thành cơm bữa, rất có thể tôi đã có đủ cứng rắn để yêu cầu được nói chuyện ngay lập tức tại đó. Nhưng tôi lại chẳng phải mấy loại người kia. Thêm nữa, còn phải kể đến cách cô rạng rỡ nhìn tôi, nở nụ cười với cả tấm lòng, hay một cử chỉ bẽn lẽn như khi cô vuốt tóc ra sau cũng có thể khiến tôi muốn đi theo cô, giúp đỡ cô, làm bất cứ điều gì cô yêu cầu. Tôi đã bị áp đảo tới mức vô phương chống đỡ.
Mình sẽ đi, nhưng mình sẽ không hôn Emma, tôi tự nhủ. Tôi nhắc lại nó như lời niệm chú trong khi cô dẫn tôi băng qua đầm lầy. Không hôn! Không hôn! Chúng tôi hướng về phía thị trấn nhưng lại rẽ về phía bãi biển đầy đá nhìn ra ngọn hải đăng, thận trọng tìm đường theo lối mòn dốc đi xuống bãi cát.
Đến mép nước, Emma bảo tôi đợi rồi chạy đi lấy thứ gì đó. Tôi đứng nhìn luồng sáng của ngọn hải đăng chiếu xoay vòng, lướt qua mọi thứ - cả triệu con chim biển đang ngủ trên các vách đá lỗ chỗ đầy hốc; những tảng đá lớn mà thủy triều xuống để lộ ra; một chiếc thuyền nhỏ đã mục nát vùi trong cát. Khi Emma quay lại, tôi thấy cô đã thay sang bộ đồ bơi của mình và đang cầm hai cái mặt nạ lặn.
“Ồ không”, tôi nói. “Không phải chứ.”
“Có lẽ cậu sẽ muốn cởi bớt đồ ra đấy”, cô nói, nhìn đầy ngờ vực vào cái quần jean và áo khoác của tôi. “Những thứ cậu đang mặc đều chẳng hợp để bơi chút nào.”
“Đó là vì tớ không định bơi! Tớ đồng ý lẻn ra đây gặp cậu giữa đêm khuya, được rồi, nhưng chỉ để nói chuyện thôi chứ không phải...”
“Chúng ta sẽ nói chuyện”, cô quả quyết.
“Dưới nước. Trong khi tớ mặc quần đùi ấy à.”
Emma đá cát về phía tôi và bắt đầu quay đi nhưng rồi lại quay người trở lại. “Tớ sẽ không tấn công cậu đâu, nếu đó là điều cậu đang lo. Đừng có tự tán dương mình như thế.”
“Đâu có.”
“Vậy thì nhanh lên, cởi cái quần dài ngớ ngẩn đó ra!” Và sau đó cô tấn công tôi thật, vật tôi xuống cát, rồi vật lộn dùng một bàn tay cố cởi thắt lưng tôi ra, trong khi dùng bàn tay kia hắt cát lên mặt tôi.
“Ặc!” tôi vừa kêu lên vừa phì phì nhổ cát ra, “đồ chơi xấu, chơi xấu!” Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài đáp trả bằng một vốc tay đầy cát, và chẳng mấy chốc chuyện này biến thành một cuộc đấu ném cát không giới hạn. Khi trận đấu kết thúc, cả hai chúng tôi đều cười ngặt nghẽo và cố gắng giũ hết cát ra khỏi tóc nhưng chẳng ăn thua gì.
“Hay lắm, giờ thì cậu cần phải tắm một lượt, vì thế hãy xuống dưới làn nước khỉ gió kia đi.”
“Rồi, được thôi.”
Thoạt đầu nước lạnh đến rùng mình - một tình thế chẳng mấy hay ho trong điều kiện chỉ có độc chiếc quần đùi trên người - nhưng rồi tôi làm quen với nhiệt độ rất nhanh. Chúng tôi lội ra ngoài, qua các tảng đá tới chỗ có một chiếc xuồng được buộc vào cái cọc đánh dấu độ sâu. Chúng tôi leo vào trong xuồng, rồi Emma đưa cho tôi một mái chèo, cả hai chúng tôi cùng bắt đầu chèo xuồng, hướng tới chỗ ngọn hải đăng. Buổi tối ấm áp, mặt biển lặng sóng, và trong vài phút tôi đắm mình trong giai điệu vui tai của mái chèo khỏa nước. Cách ngọn hải đăng chừng một ki lô mét, Emma ngừng chèo và bước qua mạn. Trước sự kinh ngạc của tôi, cô không chìm nghỉm xuống dưới những con sóng mà đứng thẳng dậy, nước chỉ ngập tới hai đầu gối.
“Cậu đang đứng trên một doi cát hay cái gì vậy?” tôi hỏi.
“Không phải.” Cô với tay vào trong lòng xuồng, lấy ra một cái neo nhỏ và ném xuống. Cái neo rơi chừng một mét thì dừng lại keng một cái. Một khoảnh khắc sau, luồng sáng của ngọn hải đăng quét qua và tôi nhìn thấy một cái thân tàu trải rộng phía dưới chúng tôi.
“Một chiếc tàu đắm!”
“Lại đây nào”, cô nói, “chúng ta gần đến nơi rồi. Và mang theo mặt nạ lặn của cậu.” Cô bắt đầu bước đi trên mặt thân con tàu đắm.
Tôi thận trọng bước ra khỏi xuồng và đi theo. Nếu ai đó quan sát từ trên bờ, trông chúng tôi chắc có vẻ như đang bước đi trên nước.
“Cái tàu này to chừng nào vậy?” tôi hỏi.
“Khổng lồ. Nó là một chiến hạm của Đồng minh. Đụng phải mìn quân nhà và chìm ngay tại đây.”
Emma dừng bước. “Tránh nhìn về phía hải đăng trong một phút”, cô nói. “Hãy để mắt cậu làm quen với bóng tối.”
Vậy là chúng tôi đứng nhìn vào bờ và đợi trong khi những con sóng nhẹ vỗ vào ống chân chúng tôi. “Được rồi, bây giờ làm theo tớ và hít một hơi thật sâu vào.” Cô bước tới một cái lỗ đen ngòm trên thân tàu - một cái cửa theo như hình dạng của nó - rồi ngồi xuống bên mép và nhao người vào trong.
Thật điên rồ, tôi thầm nghĩ. Rồi sau đó tôi chụp cái mặt nạ lặn cô đã đưa cho và lao xuống theo sau cô.
Tôi căng mắt nhìn vào khoảng không gian tối đen bao quanh giữa hai chân mình và thấy Emma đang lao người xuống sâu hơn nữa theo các thanh ngang của một chiếc thang. Tôi nắm lấy đầu trên thang và lặn theo, đưa từng bàn tay một kéo thân người xuống sâu dần cho tới khi cái thang dừng lại ở một mặt sàn kim loại, cô đang đợi ở đó. Dường như chúng tôi đang ở trong một kiểu khoang chứa hàng, cho dù ở đây quá tối để có thể nói được gì nhiều hơn thế.
Tôi gõ vào khuỷu tay Emma rồi chỉ vào miệng mình. Tớ cần thở. Cô vỗ lên cánh tay tôi ra hiệu hiểu rồi với lấy một đoạn ống nhựa nằm gần đó được nối với một cái ống chạy ngược theo thang lên mặt nước. Cô ngậm ống vào miệng thổi, má cô phồng ra vì cố sức, sau đó cô hít một hơi từ đường ống rồi chuyển nó sang cho tôi. Tôi hăm hở hút không khí vào đầy căng hai buồng phổi. Chúng tôi đang ở sâu sáu mét dưới mặt nước, bên trong xác một con tàu đắm cũ, và chúng tôi đang thở.
Emma chỉ về phía một khung cửa phía trước chúng tôi, chẳng hơn một cái lỗ đen ngòm trong bóng tối âm u là mấy. Tôi lắc đầu. Không muốn. Nhưng cô nắm lấy bàn tay tôi như thể tôi là một chú nhóc chưa thay răng sữa đang hoảng sợ và kéo tôi về phía đó, lôi theo cả cái ống.
Chúng tôi trôi qua khung cửa vào bóng tối ken đặc. Trong một hồi, chúng tôi chỉ ở yên đó, thay nhau dùng ống thở. Không có âm thanh nào ngoài những hơi thở của chúng tôi òng ọc sủi bọt ra và những tiếng thình thình mơ hồ từ sâu bên trong con tàu khi những mảnh thân tàu vỡ bị va đập trong dòng nước. Nếu tôi có nhắm mắt lại, không gian xung quanh cũng không thể tối hơn. Chúng tôi giống như hai nhà du hành vũ đang trôi nổi trong một vũ trụ không có lấy một vì sao.
Thế nhưng sau đó, một điều đáng kinh ngạc và thật huy hoàng xảy ra - lần lượt từng vì sao hiện ra, rải rác đây đó trong thứ ánh sáng màu lục lóe lên trong bóng tối. Tôi tưởng mình đang bị ảo giác. Nhưng rồi thêm nhiều đốm sáng nữa bừng lên, rồi nhiều nữa, cho tới khi cả một quầng tinh tú hiện ra quanh chúng tôi như hàng triệu vì sao xanh lục nhấp nháy, soi sáng cơ thể chúng tôi, phản chiếu ánh sáng lên mặt nạ lặn của chúng tôi. Emma giơ một bàn tay ra vẫy, nhưng thay vì tạo ra một quả cầu lửa, bàn tay cô bừng lên một quầng sáng xanh lơ lấp lánh. Những ngôi sao màu lục kết lại quanh bàn tay ấy, lóe sáng và xoay tròn, bắt chước theo những cử động của cô như một đàn cá, và tôi chợt nhận ra đây đúng là một đàn cá thật.
Bị mê hoặc, tôi mất cả ý niệm về thời gian. Chúng tôi ở lại đó có lẽ phải đến hàng giờ, mặc dù thực ra chỉ là vài phút. Sau đó, tôi cảm thấy Emma thúc khuỷu tay vào tôi, và chúng tôi rút lui qua ngưỡng cửa, leo lên thang, và khi chúng tôi ngoi lên khỏi mặt nước, thứ đầu tiên tôi trong thấy là một dải ngân hà dài huy hoàng vắt ngang qua bầu trời và tôi cảm thấy bầy cá và những ngôi sao tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, những phần trùng khớp của một tổng thể cổ xưa và bí hiểm nào đó.
Chúng tôi chui lên ngồi trên vỏ tàu và tháo mặt nạ lặn ra. Suốt hồi lâu, chúng tôi chỉ ngồi như thế, nửa người chìm trong nước, chân chạm vào nhau, không nói nên lời.
“Những con cá đó là gì vậy?” cuối cùng tôi nói.
“Bọn tớ gọi chúng là cá phát sáng.”
“Tớ chưa bao giờ nhìn thấy cá phát sáng.”
“Hầu hết mọi người cũng thế”, cô nói. “Chúng ẩn mình.”
“Chúng thật đẹp.”
“Phải.”
“Và đặc biệt.”
Emma mỉm cười. “Cũng đúng nốt.” Rồi bàn tay cô đặt lên đầu gối tôi, và tôi để nó nằm đó, vì bàn tay ấy thật ấm áp và đem đến cảm giác thật dễ chịu dưới làn nước lạnh. Tôi lắng nghe tìm kiếm giọng nói trong đầu nhắc tôi không được hôn cô, nhưng nó đã lặng thinh.
Thế rồi chúng tôi hôn nhau. Cảm giác mãnh liệt khi môi chúng tôi chạm nhau, lưỡi chúng tôi ép vào nhau còn bàn tay tôi áp lên gò má trắng mịn hoàn hảo của Emma chặn đứng mọi suy nghĩ về đúng hay sai cũng như tất cả ký ức về lý do vì sao ban đầu tôi lại theo cô đến đó. Chúng tôi hôn và hôn, thế rồi đột nhiên tất cả kết thúc. Khi cô lùi ra xa, khuôn mặt tôi vẫn tìm theo cô. Cô đặt một bàn tay lên ngực tôi, vừa dịu dàng vừa kiên quyết. “Tớ cần thởđã, chàng ngốc.”
Tôi bật cười: “Được rồi.”
Cô nắm lấy hai bàn tay tôi và nhìn vào tôi, tôi liền nhìn lại. Chỉ nhìn nhau thôi, nhưng cảm xúc này gần như còn mãnh liệt hơn cả hôn. Rồi Emma nói, “Cậu cần ở lại.”
“Ở lại”, tôi nhắc lại.
“Ở đây. Với bọn tớ.”
Hiện thực trong những lời cô nói len lỏi vào, và sự mê hoặc của những gì vừa xảy ra giữa hai chúng tôi liền tan biến.
“Tớ muốn lắm, nhưng tớ không nghĩ mình có thể.”
“Tại sao lại không?”
Tôi ngẫm nghĩ về ý tưởng đó. Mặt trời, tiệc tùng, bạn bè - và sự đồng nhất, những ngày giống hệt nhau toàn tập. Bạn có thể phát ốm với bất cứ cái gì nếu quá nhiều, như tất cả những thứ xa xỉ phù phiếm mẹ tôi mua về để rồi nhanh chóng phát chán với chúng.
Nhưng Emma. Còn có Emma. Có thể không lạ lắm, những gì chúng tôi có thể có. Tôi hoàn toàn có thể ở lại một thời gian, yêu cô rồi sau đó về nhà. Nhưng không. Đến khi tôi muốn rời khỏi thì đã là quá muộn. Emma chính là một nàng tiên cá mồi chài thủy thủ lao vào chỗ chết. Tôi cần mạnh mẽ lên.
“Người cậu muốn là ông tớ, không phải tớ. Tớ không thể đóng vai ông cho cậu được.”
Emma nhìn đi chỗ khác, vẻ đau khổ. “Đó không phải lý do vì sao cậu nên ở lại. Cậu thuộc về nơi này, Jacob.”
“Không phải. Tớ không giống cậu.”
“Có, có đấy”, cô khăng khăng.
“Không phải. Tớ là một người bình thường, giống như ông nội tớ.”
Emma lắc đầu. “Có thực là cậu nghĩ thế không?”
“Nếu tớ có thể làm được gì đó ngoạn mục như cậu, cậu không nghĩ là giờ này tớ đã bị để ý đến rồi sao?”
“Tớ không định nói với cậu điều này”, cô nói, “nhưng người bình thường không thể đi xuyên qua các vòng thời gian được.”
Tôi ngẫm nghĩ câu nói này trong giây lát, nhưng cũng chẳng thấy có nghĩa lý gì. “Chẳng có gì đặc biệt ở tớ cả. Tớ là người tầm thường nhất trên đời cậu có thể gặp.”
“Tớ lấy làm ngờ chuyện đó lắm”, Emma đáp. “Abe có một năng lực rất hiếm có và đặc biệt, một điều hầu như không ai khác có thể làm được.”
Và sau đó, cô nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói, “Anh ấy có thể nhìn thấy lũ quái vật.”
Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine - Ransom Rigg Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine