Số lần đọc/download: 1403 / 21
Cập nhật: 2016-03-24 21:06:25 +0700
Chương 6: Lẽ Ra Anh Ấy Đã Là Bác Sĩ
“C
hị muốn tôi lắp những thứ này đằng sau mấy tấm mành che cửa hiện tại hay bỏ những tấm kia xuống trước?” người thợ lắp đặt vừa hỏi vừa chỉ ra phía đằng sau anh ta, hướng về phòng ngủ của Julian và Brooke.
Đó chẳng phải là quyết định có tính quan trọng đặc biệt gì, nhưng Brooke không thích phải tự quyết lấy một mình. Julian đang ở đâu đó nơi vùng Tây Bắc Thái Bình Dương - dạo này cô gặp khó khăn trong việc theo dấu anh - và gần đây không giúp được gì nhiều trong bất kỳ việc gì ở nhà.
“Tôi không rõ, thế mọi người thường làm thế nào?”
Người đàn ông nhún vai. Cử chỉ đó của anh ta có nghĩa là, Tôi chả mấy quan tâm tới cách này hay cách kia, chỉ cần chọn lấy một để tôi còn chuồn khỏi nơi này cho lẹ. Brooke hiểu rất rõ anh ta cảm thấy thế nào.
“Ừm, tôi nghĩ nên lắR chúng ở đằng sau những tấm mành kia được không? Dù sao những tấm kia trông cũng đẹp hơn thì phải.”
Anh ta càu nhàu rồi biến vào trong, con Walter phản chủ lại đi theo gót anh ta. Brooke quay lại với cuốn sách của mình nhưng thở phào khi chuông điện thoại reo.
“Chào bố, có việc gì thế ạ?” Có cảm giác như họ không chuyện trò gì hàng năm trời rồi, và khi họ chuyện trò thì ông chỉ rặt nói về Julian mà thôi.
“Ô, Brooke đó à? Xin chào, Cynthia đây.”
“Chào dì Cynthia! Con nhìn thấy số của bố trên điện thoại. Dì khỏe không ạ? Hai người có dịp nào lên New York không?”
Cynthia cố nặn ra một tiếng cười. “Chắc là không sớm đâu. Lần trước... mệt thật. Các con luôn được chào đón ở đây, con biết đấy.”
“Vâng, con biết rồi.” Câu đó thốt ra nghe thô lỗ hơn cô chủ định, mặc dù thật cũng đáng bực mình một chút khi phải nhận lời mời đến thăm cha đẻ tại ngôi nhà thời thơ ấu của mình. Cynthia chắc hẳn đã nhận ra điều này vì chị mau mắn xin lỗi, làm Brooke tức thì cảm thấy áy náy vì mình đã vô cớ ác ý.
“Con cũng xin lỗi,” Brooke nói và thở dài. “Lúc này mọi việc ở đây hơi rối ren.”
“Dì thậm chí không tưởng tượng ra được! Nghe này, dì biết có thể không khả thi, nhưng dì nghĩ rằng dì nên hỏi một câu. Vì nguyên nhân chính đáng, con biết không?”
Brooke hít vào và nén hơi thở. Nó đó, cái khía cạnh hoàn toàn không mong đợi khi là người thân của ai đó vừa mới trở nên nổi tiếng - anh ấy giờ đây đã nổi tiếng, phải không nào? - cái phần mà dường như không ai cảnh báo trước cho ta!
“Dì không hiểu con có biết không, rằng dì là một trong các đồng chủ tịch của Ban Phụ nữ ở Thánh đường Beth Shalom.”
Brooke chờ nhưng Cynthia không nói tiếp.
“À vâng, con nghĩ là con biết có điều đó ạ,” Brooke nói, cố gắng truyền đạt càng ít nhiệt tình càng tốt.
“Ừ, vài tuần nữa bọn dì sẽ tổ chức một bữa tiệc có người diễn thuyết để gây quỹ hằng năm, nhưng diễn giả dự kiến vừa mới hủy lịch với bọn dì. Cái bà viết sách dạy nấu đồ ăn chay đó con biết không? Thực ra thì dì cho rằng những món ăn ấy về bản chất không phải là món chay đích thực, chỉ mang phong vị chay thôi. Bà ấy viết một cuốn cho lễ Quá hải, một cuốn cho lễ Ánh sáng và một cuốn nữa chỉ dành cho trẻ em.”
“Ừm, cũng chả quan trọng nữa vì hóa ra tuần tới bà ấy phải đi phẫu thuật dị tật khớp ngón chân cái gì đó và sẽ không thể đi lại được một thời gian, mặc dù nếu con hỏi thì dì chắc đấy là phẫu thuật hút mỡ thẩm mỹ.”
Brooke tự buộc mình phải kiên nhẫn. Cynthia là người tốt và chị chỉ đang cố gắng quyên tiền cho những người kém may mắn. Cô hít một hơi sâu và chậm rãi, thận trọng để Cynthia khỏi nghe thấy.
“Cũng có thể đó thật sự là dị tật khớp ngón chân cái. Nhưng cũng có thể là bà ấy không thích phải đi từ Shaker Heights đến Philly, dì cũng chẳng biết nữa. Vả lại, dì là ai mà phán xét chứ? Bây giờ nếu có ai đến tặng dì một lần phẫu thuật thẩm mỹ làm đẹp vùng bụng miễn phí thì chắc hẳn dì hy sinh cả mẹ đẻ mình nữa ấy chứ.” Nghỉ. “Trời ạ, nghe khiếp quá, phải không?”
Brooke những muốn giật đứt tóc mình ra. Thay vì thế cô rặn ra một tiếng cười. “Con chắc không chỉ có mình dì như thế, nhưng dì đâu có cần phẫu thuật. Trông dì đẹp lắm.”
“Ồ, con cứ khen khéo!”
Brooke chờ vài giây để Cynthia nhớ ra vì sao chị gọi điện. “Ôi! Dù sao mặc lòng, dì biết hiện giờ chắc cậu ấy bận lu bù, nhưng nếu có cách gì để Julian có thể xuất hiện ở bữa tiệc của bọn dì thì hay quá.”
“Xuất hiện?”
“Đúng thế, ờ, xuất hiện hoặc biểu diễn, cậu ấy muốn làm gì cũng được hết. Có lẽ hát cái bài đã làm cậu ấy nổi danh chăng? Bữa tiệc bắt đầu lúc mười một giờ với một phiên đấu giá câm ở thính phòng và một số món khai vị nhẹ ngon lành, và sau đó chúng ta sẽ chuyển sang đại sảnh, ở đó dì và Gladys sẽ thuyết trình về những công tác trong năm mà Ban Phụ nữ đã thực hiện cho đến nay, tình hình chung về toàn thể hội viên ở Beth Shalom, đưa ra một số kỳ hạn của…”
“Hiểu rồi ạ. Vậy dì muốn anh ấy... biểu diễn? Ở một bữa tiệc của hội Rhụ nữ? Dì biết bài hát đó nói về người anh trai đã mất của anh ấy, phải không? Dì có, ờ, dì có nghĩ là mọi người sẽ thích bài hát đó không?”
Ơn trời Cynthia không thấy câu hỏi này có gì xúc phạm. “Thích ấy à? Ôi Brooke, dì nghĩ họ sẽ mê tơi.”
Hai tháng trước ắt hẳn Brooke đã chẳng tin nếu có ai bảo cô rằng cô sẽ có cuộc nói chuyện như thế này; nhưng giờ đây, sau khi đã được những người như bà hiệu trưởng trường Huntley này, một trong những bạn học thời trung học của cô này, một đồng nghiệp cũ này, không phải một mà là những hai người anh em họ hàng nữa này, tiếp xúc đặt vân đề - ai cũng muốn Julian hát hoặc ký tặng hoặc gửi ình thứ gì đó - Brooke chẳng còn ngạc nhiên với bất kỳ điều gì nữa. Dù vậy, đây vẫn là lời đề nghị sốc nhất. Cô cố hình dung ra Julian hát mộc bài “For the Lost” trên bục Thánh đường Beth Shalom ột nhóm chừng năm trăm các bà các mẹ Do Thái nghe sau khi được giáo sĩ và chủ tịch Ban Phụ nữ giới thiệu một cách cảm động đến rớt nước mắt. Sau đó, các bà các mẹ sẽ người nọ nhìn người kia mà nói đại loại như, “Ừ, cậu ta không phải bác sĩ nhưng chí ít thì cậu ta cũng kiếm sống được bằng nghề này,” và “Nghe nói cậu ta từng là sinh viên dự bị trường y nhưng rồi không theo đuổi sự nghiệp ấy nữa. Thật đáng tiếc làm sao.” Rồi họ sẽ bám nhằng lấy anh và, nhận thấy anh đeo nhẫn cưới, sẽ đòi nghe chân tơ kẽ tóc về vợ anh. Cô ấy có phải một cô gái Do Thái xinh đẹp không? Họ có con chưa? Chưa à, tại sao? Và quan trọng hơn nữa là khi nào thì vợ chồng họ định bắt đầu thử cố? Rồi họ tặc lưõi mà rằng chắc chắn anh xứng đôi vừa lứa với con gái hay cháu gái hoặc con gái của bạn họ hơn. Bất chấp họ sống ở vùng ngoại ô Main Line của Philly và Julian lớn lên ở Manhattan, ít nhất cũng có đến cả tá các bà các mẹ hiện diện tại đó tìm ra dây mơ rễ má với cha mẹ Julian hoặc ông bà anh hoặc cả hai. Tối hôm đó Julian sẽ trở về nhà trong trạng thái choáng nặng, như một cựu binh từ một chiến trường mà chỉ rất ít người hiểu, và Brooke sẽ chẳng thể làm gì hoặc nói gì để an ủi được anh.
“Ờ, thôi để con nói với anh ấy đã. Con biết anh ấy sẽ thấy rất vinh dự vì dì đã nghĩ đến anh ấy và con tin chắc rằng anh ấy rất thích làm việc đó, nhưng con cũng khá chắc chắn là vài tuần tới anh ấy bận kín hết lịch mất rồi.”
“Ừm, nếu quả thật con nghĩ rằng cậu ấy thích làm việc này, dì có thể nói với những người khác trong ban để xem có thể đổi ngày lại được không. Có lẽ bọn dì có thể
“Ồ, con không muốn dì phải làm như vậy,” Brooke vội nói. Trước đây cô chưa từng thấy mặt này trong tính cách Cynthia và lúng túng không biết xử sự ra sao với nó nữa. “Dạo này anh ấy thật khó mà liệu được trước. Cứ cam kết rồi lại phải hủy. Anh ấy ghét phải làm thế nhưng thời gian của anh ấy có còn là của anh ấy nữa đâu, dì hiểu không?”
“Hiển nhiên rồi,” Cynthia lẩm bẩm, và Brooke cố không nghĩ rằng thật mỉa mai làm sao khi cô đang vận dụng chính cái lý do Julian hiện đang đưa ra đối với cô.
Có tiếng chuông cửa phía đầu dây bên kia reo, Cynthia xin lỗi phải cúp máy, và Brooke gửi tới người khách của Cynthia lời cảm ơn thần giao cách cảm. Cô đọc thêm hai chương sách, một cuốn Rhi hư câu về vụ bắt cóc Etan Patz (1) đã làm cô tin tưởng rằng mỗi gã đàn ông có vẻ ngoài khiến ta sởn gai ốc trên phố đều có thể là một kẻ lạm dụng tình dục trẻ em, sau đó cô tiễn anh chàng lắp đặt mành cửa - tức tấm chắn thợ săn ảnh - ra cửa khi anh ta xong việc.
Cô đã bắt đầu quen ở một mình hơn. Vì Julian cứ đi liên tục như thế nên Brooke thường đùa rằng có cảm giác cô đang sống cuộc sống độc thân ngày xưa vậy, chỉ kém trước là giao du ít hẳn mà thôi. Lúc này cô đi loanh quanh xuống đại lộ 9, và khi đi qua hàng bánh mì Ý ở góc phố với tấm bảng sơn chữ PASTICCERIA và những tấm rèm tự chế thì cô không tài nào cưỡng lại việc bước vào trong. Đó là một nơi đáng yêu với quầy cà phê kiểu Âu, nơi mọi người gọi cappuccino vào buổi sáng và espresso vào những giờ khác trong ngày và đứng mà uống.
Cô săm soi chiếc kệ lớn đựng các loại bánh nướng và có thể nếm hầu hết những chiếc bánh quy bơ và bánh sừng bò nhân mứt quả hay bánh tart pho mát phủ các loại quả mọng. Tất nhiên khỏi phải nói là nếu chỉ được chọn một loại thì cô sẽ phải lấy một chiếc cannoli rất ngon nhồi chặt trong lớp vỏ khô giònTrước tiên cô sẽ liếm lớp kem trên cùng, rồi sau khi chiêu một hớp cà phê cô sẽ tự cho phép mình cắn một miếng to từ phía đầu hoặc đuôi bánh, dừng lại để thưởng thức...
“Dimmi! (2)” bà mẹ Ý gọi, cắt đứt giấc mộng ăn uống của Brooke.
“Cho một cà phê latte to, không caffein không béo nhé, và một chiếc kia,” Brooke thở dài nói, tay chỉ vào chiếc biscotti không kem, không nhân mà cũng không tô điểm gì nằm buồn bã trên chiếc khay gần quầy tính tiền. Cô biết chiếc biscotti hạnh nhân đó mới ra lò, ngon và giòn đúng độ, nhưng nó là sự thay thế tốt ột chiếc cannoli. Dù sao thì cũng chẳng có nhiều lựa chọn. Cô tăng hai cân sau khi họ đi nghỉ cuối tuần từ Austin về và chỉ nghĩ đến điều đó đã đủ làm cô muốn thét lên rồi. Có lẽ sẽ chẳng ai nhận thấy vài cân dư thừa ở một người phụ nữ bình thường, nhưng ở cô - không đơn thuần là một bác sĩ dinh dưỡng mà còn là một bác sĩ dinh dưỡng đã kết hôn với một người nổi tiếng - thì điều đó hoàn toàn không thể chấR nhận được. Từ khi ở Austin về, cô đã lập tức bắt đầu lên một nhật ký ăn uống và kèm theo đó là một chế độ ăn kiêng khắt khe 1300 calo mỗi ngày. Cả hai vẫn chưa cho thấy một kết quả ấn tượng nào, nhưng cô rất quyết tâm.
Brooke trả tiền những thứ cô mua và tiến đến gần quầy cà phê thì nghe thấy ai đó gọi tên mình.
“Brooke! Này, đây cơ mà.”
Cô quay lại và thấy Heather, một trong những nhà tư vấn giáo dục của trường Huntley. Văn phòng của họ nằm trên cùng một hành lang, và mặc dù thi thoảng họ mới gặp nhau để thảo luận về một sinh viên mà họ cùng tư vấn, nhưng gần đây vì Kaylie mà họ gặp nhau nhiều hơn thường lệ. Chính Heather là người đầu tiên nhận thấy nỗi ám ảnh về trọng lượng của Kaylie và gợi ý cho cô bé đến gặp Brooke; giờ đây cả hai người phụ nữ này đều quan tâm đến cô bé. Nhưng dù trong vài tháng vừa qua họ có gặp nhau thường hơn ở trường, thực sự họ cũng chưa thành bạn bè, và Brooke cảm thấy hơi bối rối gặp đồng nghiệp của mình ở một tiệm cà phê vào một ngày thứ Bảy.
“Chào!” Brooke vừa nói vừa nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế gỗ nhỏ cạnh Heather. “Tôi thậm chí còn không trông thấy cô ở đây cơ đấy. Cô khỏe không?”
Heather tươi cười. “Tôi khỏe! Sướng quá vì đang là kỳ nghỉ cuối tuần, phải nói là thế. Chị có tin được rằng chúng mình chỉ còn hai tuần nữa ở trường trước khi nghỉ liền một mạch ba tháng không?”
“Tôi biết, tôi nóng lòng chờ đến ngày ấy,” Brooke nói và quyết định không đả động đến việc cô sẽ vẫn phải làm cả ngày ở bệnh viện.
Dù gì thì Heather vẫn nhớ. “Ừ, hè này tôi sẽ đi dạy tư suốt đấy, nhưng chí ít tôi cũng có thể định đoạt được những giờ dạy ấy. Không hiểu có phải vì mùa đông vừa rồi kinh khủng quá hay chỉ là tôi đang bị kiệt sức nữa, nhưng tôi cũng nóng lòng chờ mùa hè.”
“Tôi hiểu mà,” Brooke nói mà cảm thấy hơi lúng túng vì thật ra họ chẳng có gì nhiều để chuyện trò với nhau.
Dường như Heather đọc được suy nghĩ của cô. “Thật lạ khi gặp nhau bên ngoài trường học, phải thế không?”
“Đúng thế! Tôi luôn bị ám ảnh rằng mình sẽ tình cờ đụng một trong những nữ sinh ngoài phố hay trong nhà hàng đấy. Nhớ cảm giác ấy không, khi ta còn là trẻ con và tình cờ đụng thầy cô giáo ở trung tâm thương mại, và ta sững sờ nhận ra rằng thầy cô cũng có cuộc sống riêng bên ngoài lớp học?”
Heather bật cười. “Thật thế đấy. May là chúng ta không hay đi lại trong cùng phạm vi.”
Brooke thở dài. “Kỳ cục thật, phải không?” Và tiếp: “Cuối tuần trước tôi đã có cuộc gặp gỡ rất hữu ích với Kaylie vẫn cảm thấy không yên tâm cho phép cô bé giảm cân chút nào, nhưng tôi đã nhất trí rằng chúng tôi có thể giúp cô bé bắt đầu ghi nhật ký ăn uống để xem cô bé có thể ăn những thức ăn có lợi và bổ ích đến mức nào. Cô bé có vẻ thích thú với điều đó.”
“Tôi rất vui khi nghe chuyện này. Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều biết rằng vấn đề của cô bé không phải là trọng lượng; vấn đề chính ở cái cảm giác dễ hiểu là không hòa đồng được với các bạn cùng lớp, những người đến từ tầng lớp kinh tế xã hội khác với em. Chúng ta thường gặp điều này ở các học sinh được học bổng, đáng tiếc là thế nhưng các em luôn tìm được vị thế của mình.”
Brooke không nhất trí về một phương diện - cô đã làm việc với khá nhiều nữ sinh ở tuổi thanh thiếu niên về vấn đề này, và theo quan điểm của cô thì Kaylie bị trọng lượng của mình ám ảnh thái quá - nhưng lúc này cô không muốn khơi mào cuộc đàm luận về vấn đề ấy. Thay vì thế, cô cười và nói, “Xem chúng ta kìa, nói chuyện công việc cả vào ngày thứ Bảy. Rõ chán!”
Heather nhấp ly cà phê của mình. “Vẫn biết thế, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến. Thậm chí tôi đang cân nhắc đến việc chuyển lại về trường cấp dưới trong một hoặc hai năm tới đây. Thực sự là phù hợp hơn với tôi. Thế còn chị thì sao? Có dự định gì về việc chị sẽ ở lại trường bao lâu nữa không?”
Brooke săm soi vẻ mặt Heather xem có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cô ta đang ám chỉ đến Julian không. Có phải cô này bóng gió gì đó rằng Brooke có thể thôi việc vì Julian giờ đã kiếm được tiền bằng việc chơi nhạc không? Đã bao giờ Brooke nói với cô ta rằng lúc đầu thì đó chính là lý do khiến cô nhận thêm công việc này hay chưa? Cuối cùng cô quyết định là mình đang quá ảo tưởng, vì nếu cô không nói về Julian một cách tự nhiên và bình thường thì sao cô lại mong ai khác nói về anh theo kiểu đó cơ chứ?
“Tôi không biết, thật đấy. Mọi việc, ờ, lúc này cứ như đang lơ lửng đâu đâu vậy.”
Heather nhìn cô với vẻ thông cảm nhưng vẫn giữ ý không giục cô. Brooke nhận thấy rằng đây chính là lần đầu tiên trong vòng ba bốn tuần qua có người - có một ai đó - không ngay lập tức hỏi về Julian. Cô cảm thấy biết Heather và chỉ muốn lái câu chuyện sang hướng nào đó đỡ khó xử hơn. Cô đưa mắt nhìn quanh, cố vắt óc ra điều gì đó để nói, và rồi cả quyết, “Thế hôm nay cô định làm gì?” Cô cắn một miếng biscotti để khỏi phải nói trong vài giây tiếp theo.
“Chả làm gì mấy, thật thế. Những ngày cuối tuần này bạn trai tôi đi chơi xa với gia đình, vậy nên tôi có một mình. Chỉ la cà vơ vẩn thôi, tôi nghĩ thế.”
“Hay lắm. Tôi thích những kỳ cuối tuần như thế,” Brooke nói dối. Cô cố kìm mình để khỏi tuyên bố rằng cô đã nhanh chóng trở thành chuyên gia trong việc làm sao để tiêu khiển kỳ nghỉ cuối tuần một cách thú vị nhất khi nửa kia của mình ở nơi nào khác. “Cô đang đọc gì đấy?”
“Ồ, cái này ư?” Heather hỏi và chỉ về cuốn tạp chí lật sấp gần khuỷu tay cô ta mà không cầm nó lên. “Chả gì cả. Loại tạp chí lá cải vớ vẩn ấy mà. Chả có gì thú vị cả.”
Brooke biết ngay đó chính là số mấy của tạp chí Last night. Cô băn khoăn không hiểu Heather có biết cô ta đã lạc hậu với tin tức những hai tuần không.
“Ààà,” cô nói với vẻ vui tươi gượng gạo mà cô biết rằng nghe khó mà tin được. “Cái bức ảnh tai tiếng ấy.”
Heather đan hai tay vào nhau và nhìn xuống đùi y như cô ta bị lật tẩy là đang xạo như cuội. Cô ta mở miệng định nói gì đó, cân nhắc lại, rồi nói, “Ừ, đúng là một bức ảnh kỳ cục.”
“Kỳ cục á? Ý cô là gì?”
“Ồ, tôi chẳng, ờ, tôi chẳng có ý gì cả đâu. Trông Julian tuyệt lắm.”
“Không phải, tôi hiểu cô ngụ ý gì. Có gì đó không hay trong bức ảnh ấy.” Brooke không hiểu tại sao mình lại lục vấn người phụ nữ mà mình không quen biết gì mấy này, nhưng cô bỗng cảm thấy cực kỳ muốn biết những suy nghĩ của Heather.
“Không phải thế. Tôi nghĩ bức ảnh đó chớp đúng được khoảnh khắc kỳ lạ khi anh ấy, ờ, đắm đuối nhìn cô ta theo kiểu đó.”
Thì ra là vậy. Thiên hạ cũng có những nhận xét tương tự. Những lời như “mê mẩn” và “tôn thờ” đã được vung vãi khắp nơi. Tất cả những lời lẽ đó đều cực kỳ lố bịch.
“Phải, chồng tôi thấy Layla Lawson rất gợi tình. Suy nghĩ đó cũng khiến anh ấy giống một trăm phần trăm những người đàn ông Mỹ dồi dào sinh lực khác thôi.” Brooke cười lớn, cố hết sức để giọng cười nghe bình thản.
“Chính xác!” Heather gật đầu đồng ý một cách quá hăng hái. “Tôi cá là điều đó rất hữu ích cho sự nghiệR của anh ấy về mặt quảng bá hình ảnh của mình.”
Brooke mỉm cười. “Là cái chắc. Chỉ trong một đêm, bức ảnh ấy đã thay đổi, ờ, hết thảy mọi thứ.”
Heather dường như bình tĩnh lại trước lời thú nhận đó. Cô ta nhìn lên Brooke và nói, “Tôi biết điều đó thật phấn khích, nhưng tôi thậm chí không thể tưởng tượng được điều đó đối với chị khó khăn đến độ nào. Tôi cá là người ta chỉ rặt nói về điều đó. Mỗi giây mỗi phút toàn là chuyện về Julian.”
Brooke sững sờ. Không một ai - cả Randy lẫn cha mẹ cô, hoặc thậm chí cả Nola nữa - nghĩ rằng danh tiếng mới có được của Julian là những gì khác nữa chứ không chỉ toàn những điều tuyệt vời mà thôi. Cô nhìn Heather một cách hàm ơn. “Ừ, nhưng tôi chắc điều đó sẽ chóng qua thôi. Vài tuần thời sự vớ vẩn, cô hiểu không? Rồi chúng tôi sẽ mau chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo thôi.”
“Chị cần phải thẳng thừng đừng để họ xâm phạm cuộc sống riêng tư của chị. Amber bạn thời đại học của tôi ấy, ngày nọ cô ấy kết hôn với người yêu từ thời trung học, làm đám cưới ở nhà thờ đàng hoàng nhé, và chỉ chưa đầy một gã chồng mới coóng của cô ấy trở thành American Idol. Thật là cả một cuộc biến động đột ngột về tổng thể.”
“Có phải bạn cô lấy Tommy không? Người thắng một trong những mùa giải đầu tiên ấy?”
Heather gật đầu.
Brooke huýt gió. “Ôi, tôi thậm chí chả bao giờ biết rằng anh ta đã có vợ.”
“Ừ, đúng thế, chắc chắn chị không thể biết được. Chính xác là mỗi tuần một em mới nhé, mà là từ ngày hắn thắng giải đến giờ đấy. Amber tội nghiệp còn rất trẻ - mới hai mươi hai - và ngây thơ đến nỗi cô ấy không bỏ hắn, bất kể hắn lăng nhăng với bao nhiêu cô mặc lòng. Cô ấy nghĩ rằng nếu chờ thêm một thời gian nữa thì hắn sẽ bớt máu mê dần và mọi sự sẽ trở về nếR cũ.”
“Thế rồi sao?”
“Úi chà, thật kinh khủng. Hắn vẫn cứ lang chạ và càng ngày càng công khai hơn về chuyện đó. Chị có nhớ những bức ảnh chụp hắn bơi thoát y với cô người mẫu đó, mấy bức họ làm mờ bộ phận sinh dục của bọn ấy đi nhưng ta có thể thấy hết những chỗ còn lại không?”
Brooke gật đầu. Giữa hàng đống ảnh tràn ngập liên miên do những tay săn ảnh chộp được, cô vẫn nhớ những bức ảnh đó vì chúng đặc biệt gây xôn xao dư luận.
“Ờ, tình hình cứ diễn ra theo kiểu đó hơn một năm trời mà chả có dấu hiệu gì là sẽ dừng lại cả. Tệ đến nỗi bố cô ấy phải bay đến gặp Tommy trong chuyến lưu diễn, xuất hiện ở khách sạn của hắn. Bảo hắn rằng hắn có hai mươi tư giờ đồng hồ để đệ đơn xin ly dị nếu không thì sẽ biết tay. Ông ấy biết Amber sẽ chẳng bao giờ tự làm điều đó - cô ấy là con nhà lành và vẫn không thể nào nhận thức được những gì đang xảy ra - và Tommy đã đệ đơn. Tôi không chắc trước khi nổi tiếng hắn có tử tế hay không, nhưng chả nghi ngờ gì rằng hiện giờ hắn là một tên đểu cáng có hạng.
Brooke gắng giữ vẻ trung lập, nhưng cô những muốn với sang bên kia bàn mà tát vào mặt Heather. “Sao cô lại kể cho tôi chuyện này nhỉ?” cô hỏi với giọng điềm tĩnh nhất mà cô có thể kiềm chế được. “Julian chẳng mảy may giống như vậy.”
Heather đưa tay lên che miệng. “Tôi không định ám chỉ rằng Julian giống Tommy về bất kỳ điều gì. Tất nhiên là anh ấy hoàn toàn khác. Lý do duy nhất khiến tôi bắt đầu câu chuyện này là chỉ sau khi họ ly hôn ít lâu, Amber gửi cho tất cả bạn bè và gia đình một email, yêu cầu họ ngừng gửi cho cô những bức ảnh hay các đường link, những bài báo cắt ra gửi theo đường bưu điện, hoặc gọi điện để cập nhật cho cô những gì đang xảy ra với Tommy. Tôi vẫn nhớ rằng lúc đó tôi nghĩ điều này hơi kỳ cục - có thực có đến chừng ấy người đã gửi cho cô ấy những bài phỏng vấn mà họ đã đọc về thằng chòng cũ của cô ấy không? - nhưng một ngày kia sau khi cô ấy cho tôi xem hộp thư điện tử của cô ấy, tôi mới hoàn toàn hiểu rõ điều đó. Không ai định làm tổn thương cô ấy, họ chỉ quá vô ý thôi. Thế nào đó họ lại nghĩ rằng cô ấy muốn biết. Dù sao thì, kể từ đó, cô ấy đã hoàn toàn giành lại được cuộc sống của mình và chắc hẳn đã hiểu hơn ai hết rằng, ừ, cái thứ nổi tiếng này mới làm tan nhà nát cửa ra sao.”
“Ừ, phần đó chẳng có gì hay ho cả.” Brooke uống nốt cốc cà phê latte của cô và lau bọt kem trên môi. “Chắc hẳn tôi không thể tin được nếu cô kể với tôi vài tuần trước, nhưng trời ạ... Tôi vừa mất cả buổi sáng nay để thuê lắp mành che kín đi đấy. Vài đêm trước tôi chỉ quấn khăn tắm trên người đi từ nhà tắm ra tủ lạnh, và đột nhiên đèn flash chớp như điên như dại. Có một tay săn ảnh ngồi trên nóc xe ô tô ngay dưới cửa sổ nhà chúng tôi, hiển nhiên là mong chộp được một pô ảnh Julian. Thật là cái thứ tởn nhất mà tôi từng thấy.”
“Ồ, tệ thật. Rồi chị làm gì?”
“Tôi gọi vào số máy trực không khẩn cấp của đồn cảnh sát khu vực và báo là có một người đàn ông bên ngoài đang cố lén chụp ảnh tôi khỏa thân. Họ nói cái gì đó tựa như ‘Chào mừng đến New York’ và bảo tôi hạ mành xuống.” Cô đã cố ý lược bớt đoạn trước tiên cô gọi cho Julian, chỉ để nghe anh nói rằng cô phản ứng thái quá và cô cần xử lý những tình huống như vậy và đừng có “lúc nào” cũng gọi anh trong cơn hoảng hốt về ‘đủ thứ’.”
Heather rùng mình trông thấy. “Vụ đó hãi thế. Tôi hi vọng chị có chuông báo động hoặc gì đó chứ?”
“Ừ, tới đây sẽ phải có.” Brooke đang thầm hi vọng họ sẽ chuyển đi trước khi việc này trở nên cần thiết - vừa mới tối qua trên điện thoại, Julian bóng gió đề cập gì đó về việc “nâng cấp” lên một căn hộ mới - nhưng cô không dám chắc điều đó có thành hiện thực hay không.
“Tôi xin phép một giây. Tôi phải chạy vào nhà vệ sinh,” Heather vừa nói vừa cầm chiếc ví của cô ta lên.
Cô nhìn theo Heather đi khuất vào phòng vệ sinh nữ. Ngay khi nghe tiếng chốt cửa từ đó vọng ra, cô chộp vội lấy cuốn tạp chí. Mới chỉ một tiếng đồng hồ, có lẽ chưa đến, kể từ lần cuối cô xem tấm ảnh, nhưng cô không thể không giở ngay trang mười bốn ra. Cặp mắt cô tự động đưa xuống góc trái bên dưới trang, nơi tấm ảnh được nhồi một cách vô tư giữa tấm ảnh Ashton đang tóm cặp mông săn chắc của Demi và tấm ảnh khác của Suri đang cưỡi trên vai Tom trong lúc Katie và Posh (3) chăm chú nhìn.
Brooke trải cuốn tạp chí mở lên bàn và nhoài ra để nhìn cho rõ hơn. Nó vẫn rành rành khó chịu như sáu mươi phút trước. Nếu cô chỉ thoáng liếc qua nó, và nó tình cờ không trưng ra chồng cô và một ngôi sao đang lên nổi tiếng thế giới thì cô đã chẳng thấy nó có gì đáng để ý cả. Ta có thể thấy những cánh tay giơ lên ở vài hàng đầu phía bên dưới khuôn hình. Cánh tay phải của Julian đang huơ lên ột cách đắc thắng, và bàn tay anh nắm chặt micro như thể nó là thanh kiếm có sức mạnh đặc biệt. Brooke lạnh cả người mỗi khi cô nhìn Julian trong tư thế này, không thể tin được rằng trông anh mới ra dáng một ngôi sao nhạc rock thực thụ
Layla mặc một chiếc đầm hoa mùa hè ngắn đến phát choáng, cũng có thể đó là áo liền quần, đi kèm một đôi bốt đinh cao bồi màu trắng. Cô ta rám nắng, trang điểm, đeo đầy phụ kiện, và rướn người lên hết cỡ, và vẻ mặt cô ta trong lúc đăm đắm nhìn Julian thể hiện niềm vui tuyệt đỉnh. Thật buồn nôn, nhưng cái gây đau khổ hơn nhiều là biểu hiện của Julian. Sự mến mộ, vẻ tôn thờ, cái vẻ như muốn nói trời đất ơi em là tạo vật tuyệt hảo nhất mà anh từng để mắt đến là không thể chối cãi được, lồ lộ trên mặt anh với màu sắc chói ngời nhờ chiếc máy ảnh Nikon chuyên nghiệp. Đó là cái nhìn mà một người vợ hi vọng được thấy đôi lần trong đời mình, vào ngày cưới, và có thể là ngày đứa con đầu tiên của cô ta chào đời. Đó chính xác là cái nhìn mà ta không bao giờ muốn chồng ban tặng một phụ nữ khác trên một cuốn tạp chí phát hành toàn quốc.
Brooke nghe tiếng xối nước đằng sau cánh cửa gỗ. Cô nhanh chóng gấp cuốn tạp chí Last night lại và đặt úp xuống phía trước ghế của Heather. Khi Heather quay lại, cô ta nhìn Brooke và liếc cuồn tạp chí; đôi mắt cô ta như muốn nói, Chắc tôi không nên để nó lại đây. Brooke muốn nói với cô ta rằng chẳng sao cả, rằng cô đang dần quen với tất cả những điều này, nhưng dĩ nhiên cô đã không nói gì hết. Thay vì thế, cô thốt ngay điều đầu tiên nảy ra trong đầu để làm dịu đi tình thế lúng túng khó xử lúc đó.
“Gặp cô thật hay quá. Đáng tiếc là chúng mình làm việc cùng nhau hàng bao nhiêu giờ mỗi tuần ở trường như thế mà lại không bao giờ gặp nhau bên ngoài. Chúng ta phải phát triển việc này nhé! Có thể lên kế hoạch một bữa ăn nhẹ vào dịp cuối tuần, hoặc thậm chí là ăn tối...”
“Nghe được lắm đó. Chúc tối nay vui vẻ.” Heather nhẹ vẫy tay trong lúc bước đi. “Tuần tới gặp lại chị ở Huntley nhé.”
Brooke vẫy đáp lại, nhưng Heather đã bước ra vỉa hè rồi. Cô cũng chuẩn bị đi khỏi đó, cố không lăn tăn xem liệu mình có chia sẻ quá đà hay kín kẽ quá hoặc đã làm gì đó để Heather phải sợ hãi không, đúng lúc đó chuông điện thoại của cô reo. Màn hình điện thoại hiện tên người gọi là Neha, một người bạn cùng học cao học với cô
“Chào!” Brooke nói trong lúc để vài đồng đô la lên quầy thu tiền và bước ra ngoài. “Cậu khỏe không?”
“Brooke! Mình chỉ gọi để chào cậu một cái. Cứ như đã hàng thế kỷ kể từ khi chúng mình nói chuyện lần trước rồi ấy nhỉ.”
“Ừ, đúng thế thật. Boston thế nào? Cậu có thích cái phòng khám cậu đang làm không? Và đến đời thuở nào thì cậu mới hạ cố đến thăm mình đây?”
Đã sáu tháng kể từ ngày các cô gặp nhau lần trước khi Neha và chồng là Rohan đến New York trong dịp Giáng sinh. Họ là bạn thân từ thời cao học, chỉ sống cách nhau vài dãy phố ở Brooklyn, nhưng ít liên lạc hơn kể từ khi Neha và Rohan chuyển đến Boston hai năm trước.
“Ừ, mình thích phòng khám đó lắm - thực tế nó tốt hơn là mình nghĩ rất nhiều - nhưng mình đã sẵn sàng quay lại New York. Boston cũng đẹp, nhưng là kiểu khác.”
“Cậu thực sự đang nghĩ đến chuyện quay về đây á? Khi nào vậy? Ồ, kể hết đi xem nào!”
Neha cười to. “Chưa sớm thế đâu. Cả hai vợ chồng mình phải tìm được việc đã, và chắc mình tìm việc dễ hơn Rohan. Nhưng bọn mình sẽ tới thăm vào dịp lễ Tạ ơn vì cả hai đứa bọn mình đều được nghỉ. Dịp ấy cậu và Julian có ở đó không?”
“Vợ chồng mình thường tới thăm bố mình ở Pennsylvania, nhưng bố mình vẫn bảo năm nay họ sẽ đi thăm gia đình mẹ kế mình rồi. Vậy nên có khả năng chúng mình sẽ phải tự thân vận động và làm chủ nhà ở New York. Nếu chúng mình ở lại thì các cậu sẽ đến chứ? Đến nhé?” Brooke biết cả hai bên nội ngoại của bạn đều ở Ấn Độ và cả hai đều không ăn mừng lễ Tạ ơn, nhưng đó sẽ là chuyến xả hơi đáng mừng sau thời gian căng thẳng chuyện gia đình.
“Tất nhiên là bọn mình sẽ đến rồi! Nhưng chúng mình phải quay lại chủ đề chút xíu, được không? Cậu có tin được những gì đang xảy ra trong đời cậu ngay lúc này không? Mỗi ngày cậu có phải tự cấu xem mình tỉnh hay mê không đấy? Thật không tưởng tượng nổi. Cái cảm giác có ông chồng nổi tiếng như thế nào hả cậu?”
Brooke hít thật sâu. Cô nghĩ mình nên thành thật với Neha, kể với cô bạn về bức ảnh đã làm đảo lộn cuộc đời họ ra sao, rằng cô có cảm giác lẫn lộn về mọi thứ đang xảy ra thế nào, nhưng bỗng nhiên việc này dường như làm cô kiệt sức. Không chắc mình phải xử sự ra sao, cô chỉ cười trừ và nói dối.
“Cảm giác thú lắm, Neha à. Đó là điều hết sảy trên đời.”
o O o
Chẳng có gì tệ hơn là phải đi làm vào một ngày thứ Bảy. Là một trong các bác sĩ dinh dưỡng có thâm niên cao của khoa, đã từ lâu Brooke không phải trực định kỳ ngày thứ Bảy và cô đã quên bẵng đi rằng những ca trực đó chán đến mức nào. Đó là một sáng cuối tháng Sáu đẹp trời; tất cả những người cô quen biết đều đang thưởng thức bữa ăn nhẹ bên ngoài hoặc đi picnic ở công viên Trung Tâm hoặc chạy bộ dọc theo công viên Sông Hudson. Một nhóm các thiếu nữ mặc quần soóc jean và đi dép tông đang ngồi buôn chuyện và nhâm nhi sinh tố trái cây ở một tiệm cà phê cách bệnh viện một dãy phố, và Brooke phải cố kiềm chế lắm mới không giật phăng chiếc áo bác sĩ và đôi sục đế gỗ gớm ghiếc ra mà nhập vào nhóm đó để chén những chiếc bánh kếp. Cô vừa dợm bước vào bệnh viện thì chuông điện thoại của cô réo lên.
Cô nhìn chằm chặp vào màn hình và cân nhắc xem có nên trả lời cái số máy có mã vùng 718 không quen cho thấy nó được gọi từ một quận ngoại vi, nhưng có lẽ cô đã nghĩ quá lâu vì cuộc gọi đã được chuyển sang hộp thư thoại. Khi người gọi không để lại lời nhắn mà gọi lại lần thứ hai thì Brooke bắt đầu thấy lo lắng.
“Xin chào, Brooke đây,” cô nói mà ngay lập tức chắc chắn rằng mình đã phạm sai lầm và người gọi bí ẩn này hẳn sẽ là một phóng viên.
“Cô Alter phải không ạ?” một giọng nói rụt rè khọt khẹt qua đường dây. “Em là Kaylie Douglas đây. Từ trường Huntley ấy ạ.”
“Kaylie à! Em khỏe không? Mọi việc ổn cả đấy chứ?’
Mới vài tuần trước, ở buổi tư vấn cuối cùng trước khi trường đóng cửa nghỉ hè, Kaylie dường như có chiều hướng thoái bộ. Cô bé bỏ không ghi nhật ký ăn uống nữa, mặc dù trước đó cô bé đã rất chăm chỉ ghi chép, và cô bé thông báo quyết tâm dành mùa hè đó ột chế độ tập luyện khổ ải và một số chế độ ăn kiêng để giảm cân nhanh. Cô khuyên bảo cô bé cách mấy cũng chẳng ích gì; Brooke chỉ có thể hoàn thành được mỗi một việc là làm cho cô bé khóc và tuyên bố rằng “không ai hiểu được rằng vừa nghèo rớt lại vừa béo phì lại ở cái chốn toàn những người giàu có và xinh đẹp thì sẽ có cảm giác như thế nào đâu.” Brooke lo lắng đến nỗi cô cho Kaylie số di động của mình và nài nỉ cô bé gọi cho cô bất kỳ lúc nào trong dịp hè, dù có bất kỳ trục trặc nào hay không. Cô đã nói rất thật lòng, nhưng cô vẫn ngạc nhiên khi nghe thấy giọng cô bệnh nhân trẻ của mình ở đầu dây bên kia.
“Vâng, em ổn ạ...”
“Em có việc gì thế? Vài tuần nghỉ này em sống thế nào?”
Cô bé bật khóc. Những hơi thở nghẹn ngào thỉnh thoảng lại xen thêm những câu “Em xin lỗi.”
“Kaylie? Hãy nói với cô đi. Nói cho cô xem có chuyện gì?”
“Ôi, thưa cô Alter, mọi thứ thật là thảm họa! Em làm việc ở Taco Bell và mỗi ca làm việc em được một suất ăn miễn phí và cha em bảo rằng em cần phải ăn đồ ăn miễn phí đó, vì vậy em đã ăn. Nhưng lúc em về nhà bà em lại nấu đủ thứ đồ ăn béo và em đến nhà các bạn em, ở trường cũ ấy, và thế là, vâng, hàng xô gà rán và bánh burrito và bánh quy và em ăn hết mọi thứ vì em thấy đói quá. Em chỉ vừa mới xa trường có vài tuần mà đã tăng thêm bốn cân nữa rồi.”
Bốn cân trong ba tuần nghe có vẻ đáng cảnh báo, nhưng Brooke cố nói với giọng dịu dàng và điềm tĩnh. “Cô chắc em không đến nỗi ấy, em thân mến ạ. Em chỉ cần nhớ những gì chúng ta đã nói: suất thịt bằng bàn tay em, xa lát rau lá xanh và các loại rau củ ăn bao nhiêu tùy thích miễn là em cẩn thận với nước xốt rưới lên, bánh quy vừa phải thôi. Bây giờ cô không ở nhà, nhưng cô có thể kiểm tra thực đơn của Taco Bell và cho em những lựa chọn có lợi cho sức khỏe hơn nếu em muốn. Điều quan trọng là đừng có sợ cuống lên. Em rất trẻ và khỏe mạnh - hãy đi dạo với bạn bè, hoặc tập đá bóng trong công viên. Chưa phải là tận thế đâu Kaylie, tin cô đi.”
“Năm học tới em không thể quay về trường nếu trông bộ dạng em như thế này. Hiện tại em đã vượt quá ngưỡng rồi! Trước kia em chỉ chấp chới trên mốc trung bình chút ít, mà thế đã là quá tệ, nhưng bây giờ thì em bị béo phì rõ rành rành rồi!” Giọng cô bé nghe bấn loạn.
“Kaylie này, em còn xa mới đến mức béo phì,” Brooke nói. “Và mùa thu này em sẽ có một năm học rất thú vị ở trường. Nghe này, tối nay cô sẽ khảo sát chút ít, và cô sẽ gọi cho em khi có thông tin, được không? Đừng quá lo lắng như thế, em thân mến.”
Kaylie sụt sịt. “Em xin lỗi đã làm phiền cô,” cô bé nói khẽ.
“Em có làm phiền gì cô đâu! Cô cho em số điện thoại để em có thể gọi mà, và cô vui vì em đã gọi. Em làm cô cảm thấy mình được yêu quý đấy.” Brooke mỉm cười.
Họ cúp máy và Brooke tự gửi ình một email nhắc nhở tìm kiếm thông tin dinh dưỡng về các nhà hàng bán đồ ăn nhanh và chuyển chúng cho Kaylie. Cô trễ vài phút lúc đến phòng nghỉ ở tầng trên bệnh viện, và khi cô đến nơi thì chỉ còn mỗi Rebecca đồng nghiệp của cô ở đó.
“Chị làm gì mà ở đây hôm nay?” cô ta hỏi.
“Ồ, tôi trực bù vài ca nghỉ. Thật không may, thỏa thuận là đổi ba ca lấy hai ca trực đều vào ngày thứ Bảy.”
“Úi chà. Điều kiện khó nhằn đây. Nhưng có đáng không?”
Brooke cười buồn, “Ừ, tôi nghĩ tôi chết mất, nhưng xem Julian biểu diễn ở Bonnaroo thật đã.” Cô đặt xắc tay và gói đồ ăn trưa vào ngăn tủ của mình rồi theo Rebecca ra ngoài hành lang. “Không biết Margaret hôm nay có đến không nhỉ?”
“Tôi đây thôi!” Một giọng nói vui vẻ vang lên đằng sau họ. Sếp của Brooke mặc quần Âu đen, áo kiểu xanh nhạt và đi giày da lười màu đen, phủ ra ngoài là chiếc áo blu hồ là phẳng phiu đẹp đẽ có thêu tên và chức vụ của bà.
“Chào bà Margaret,” Rebecca và Brooke đồng thanh nói trước khi Rebecca tách ra, viện cớ cô ta đã muộn giờ tiếp bệnh nhân đầu tiên rồi.
“Brooke này, sao cô không đi cùng đến văn phòng tôi một phút nhỉ? Chúng ta có thể nói chuyện ở đó.”
Ác mộng. Lẽ ra cô phải nhớ rằng Margaret lúc nào cũng xuất hiện vào các sáng thứ Bảy chỉ để đảm bảo rằng mọi việc diễn ra trôi chảy.
“Ô… ồ, thế nào cũng được ạ,” cô lắp bắp. “Tôi, à, tôi vừa tự hỏi xem có nên đến chào bà không.”
Sếp cô đã bắt đầu đi theo hành lang dài về phía văn phòng của bà. “Đi ngay thôi,” bà gọi Brooke, cô chẳng có lựa chọn nào ngoài cách đi theo bà cả. Người phụ nữ này hẳn đã cảm thấy Brooke đang định xin nghỉ thêm.
Văn phòng của Margaret nằm ở cuối một hành lang tối om, sát phòng chứa đồ và cùng tầng với khoa phụ sản, có nghĩa là có khá nhiều khả năng là câu chuyện sẽ bị ngắt quãng bởi tiếng rên la hoặc gào thét ngoài tầm kiểm soát. Điểm lợi duy nhất là có thể liếc vào phòng chăm sóc trẻ sơ sinh khi họ đi qua. Có lẽ lát nữa cô sẽ có vài giây rỗi rãi để vào đó bế một vài em bé…
“Vào thẳng đây đi,” Margaret nói trong lúc mở toang cửa và bật đèn. “Cô gặp tôi thật đúng lúc.”
Brooke ngập ngừng bước theo sau bà vào phòng và đợi sếp dọn một đống giấy tờ ra khỏi chiếc ghế dành cho khách trước khi ngồi xuống ghế của bà.
“Sao tôi lại có hân hạnh này?” Margaret mỉm miệng cười, nhưng Brooke hiểu ngụ ý của bà. Trước kia họ luôn có mối quan hệ thoải mái tự nhiên, nhưng gần đây Brooke bắt đầu nhận thấy sự căng thẳng giữa họ với nhau.
Cô gượng cười và cầu mong đó không phải là cách khởi đầu bất lợi đối với cuộc nói chuyện mà cô rất cần diễn ra tốt đẹp. “Ồ, tôi chắc chẳng phải là hân hạnh gì đâu, tôi chỉ muốn nói chuyện với bà về…”.
Margaret lại mỉm cười. “Nó là một hân hạnh nho nhỏ nếu xét đến việc gần đây tôi không được gặp cô mấy. Tôi mừng là cô đến đây, vì rằng có một vài việc tôi cần trao đổi với cô.”
Brooke hít một hơi sâu và tự nhủ phải giữ bình tình.
“Brooke, cô biết rằng tôi quý cô biết bao, và không cần nói thì cô cũng biết rằng tôi rất hài lòng với thành tích của cô suốt những năm cô làm việc ở đây. Và tất nhiên, cả các bệnh nhân cũng thế, bằng chứng là những đánh giá tuyệt vời của họ vài tháng trước đây.”
“Cảm ơn bà,” Brooke nói, không biết phải trả lời ra sao nhưng chắc mẩm câu chuyện sẽ chẳng dẫn đến kết cục tốt đẹp nào cả.
“Đó chính là lý do tại sao tôi hết sức phiền lòng khi cô tụt hạng từ chỗ đứng thứ hai ở bảng chuyên cần xuống chỗ đứng thứ hai ở hạng hay nghỉ làm nhất trong toàn bộ danh sách bác sĩ. Chỉ có Perry là tệ hơn cô mà thôi.”
Bà chẳng cần phải nói hết. Cuối cùng mọi người cũng đã được thông báo tóm tắt về những gì xảy ra với Perry, và ai nấy đều thở phào vì đã tưởng là có điều gì đó tệ hơn thế nữa. Có vẻ như sáu tháng trước đó cô này đã bị sẩy thai khi thai nhi đã lớn, và điều đó là nguyên nhân cho vài buổi vắng mặt của cô ta. Giờ đây khi lại có thai, cô ta bị bắt phải nằm nghỉ ngơi một chỗ kể từ tháng thứ ba đến tháng thứ sáu của thai kỳ. Thế có nghĩa là năm chuyên gia dinh dưỡng chính thức khác của khoa phải làm thêm giờ để bù đắp cho Perry, và xét tình hình đó thì không một ai phản đối cả. Brooke đã cố hết mình để bù đủ ngày làm thêm của cô mỗi tuần và những ca gọi cấp cứu thêm vào cuối tuần, hiện nay đã từ sáu tuần một lần nhảy lên năm tuần một lần, nhưng đồng thời vẫn phải gắng bắt nhịp với lịch di chuyển của Julian - để chia sẻ cùng anh niềm hân hoan náo nức - nên việc đó trở nên gần như không kham nổi nữa.
Đừng có thanh minh thanh nga gì ình cả; đừng có xin lỗi; chỉ nên cam đoan với bà ấy lần nữa rằng ta sẽ làm việc tốt hơn, Brooke tự nhủ. Một người bạn là bác sĩ tâm lý từng nói với cô rằng phụ nữ cảm thấy buộc phải đưa ra những lời giải thích dài dòng và lý do lý trấu bất kể khi nào họ phải báo những thông tin tiêu cực, vì vậy nên cái cách tác động mạnh hơn rất nhiều là tuyên bố tin đó mà đừng xin lỗi hoặc viện lý do gì cả. Brooke thường làm theo cách đó, nhưng ít khi thành công.
“Tôi xin lỗi!” cô buột ra trước khi có thể chặn mình lại. “Gần đây tôi đang có, ừm, quá nhiều vấn đề gia đình, và tôi đang cố gắng hết sức để giải quyết những vấn đề đó. Tôi thực sự hi vọng rằng mọi việc sẽ sớm đâu vào đấy.”
Margaret nhướng một bên mày lên nhìn chòng chọc vào Brooke. “Chả lẽ cô nghĩ rằng tôi không biết những gì đang xảy ra ư?” bà ta hỏi.
“Sao kia, không, tất nhiên là không. Chỉ là vì có quá nhiều…”
“Có họa sống tịt trong hang mới không biết cô đang phải trải qua những gì.” Bà lại mỉm cười lần nữa, và Brooke cảm thấy dễ thở hơn chút ít. “Nhưng tôi còn có cả đội ngũ nhân viên phải quản lý và tôi bắt đầu lo ngại. Trong tuần vừa qua cô đã xin nghỉ bảy ngày - đó là chưa kể đến ba ngày cô nghỉ ốm đầu năm nay - và tôi cho rằng hôm nay cô đến đây là để xin nghỉ thêm nữa. Tôi nói có đúng không?”
Brooke mau chóng cân nhắc các lựa chọn của mình. Kết luận rằng mình chẳng có lựa chọn nào khác, cô chỉ còn biết gật đầu.
“Khi nào và bao lâu?”
“Ba tuần nữa, và chỉ một ngày thứ Bảy thôi. Tôi biết tôi đã có lịch làm việc tất cả các ngày cuối tuần, nhưng Rebecca sẽ đổi cho tôi và ba tuần nữa tôi sẽ lấy ngày nghỉ cuối tuần của cô ấy. Vì vậy đó, à, đúng là chỉ một ngày thôi ạ.”
“Chỉ một ngày thôi.”
“Vâng, đó là một sự kiện quan trọng, ừm, trong gia đình, nếu không tôi đã chẳng xin phép.” Cô ghi nhớ trong đầu phải cẩn thận hơn mọi khi để tránh các ống kính máy ảnh trong bữa tiệc sinh nhật của cô đào Kristen Stewart ở Miami cuối tuần tới, nơi Julian được mời biểu diễn bốn bài hát. Khi anh thoái thác không muốn xuất hiện ở bữa tiệc sinh nhật của ngôi sao trẻ tuổi đang lên, Leo cứ nài nỉ khẩn cầu anh mãi. Brooke chẳng thể giúp gì ngoài việc cảm thấy khó chịu thay cho Julian; điều tối thiểu mà cô có thể làm được là đến đó khích lệ anh.
Margaret mở miệng định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Bà gõ nhẹ bút chì lên môi dưới khô nẻ và chằm chằm nhìn Brooke. “Cô có nhận thấy rằng cô đã dùng gần hết ngày phép năm nay của cô mà bây giờ mới là tháng Sáu không đấy?”
Brooke gật đầu.
Margaret gõ bút chì xuống mặt bàn. Cạch-cạch-cạch, tiếng động hòa âm với cơn đau giần giật trong đầu Brooke.
“Và tôi không cần phải nhắc cô nhớ rằng sẽ không bao giờ lặp lại việc báo ốm để đi dự tiệc với chồng cô nữa, phải không? Xin lỗi, Brooke, nhưng tôi không thể đối xử đặc biệt với riêng cô được.”
Úi chà. Cho đến nay Brooke mới chỉ làm thế có một lần và cứ đinh ninh rằng Margaret không biết, nhưng chắc chắn cô đã tính sẽ tiêu nốt mười ngày nghỉ ốm còn lại của mình một khi hết ngày nghỉ phép. Giờ thì hiển nhiên cơ hội đó chẳng còn nữa. Brooke cố gắng lấy vẻ bình tĩnh và nói, “Tất nhiên là không rồi.”
“Ừ, thế thì được rồi. Thứ Bảy là của cô đấy. Còn gì khác nữa không?”
“Không còn gì nữa đâu. Cảm ơn vì bà đã thông cảm.” Brooke xỏ chân vào đôi sục đế gỗ dưới gầm bàn Margaret và đứng lên. Cô vẫy tay nhè nhẹ rồi chuồn ngay qua cửa văn phòng trước khi Margaret kịp nói thêm một lời.
Chú thích
(1) Etan Kalil Patz (1972): cậu bé người Mỹ bị bắt cóc năm lên 6 tuổi ở Manhattan, New York và đến năm 2002 được tuyên bố là đã chết về mặt pháp lí.
(2) Tiếng Ý: “Cho tôi biết (cô cần gì)!”.
(3) Những người nổi tiếng, lần lượt là Ashton Kutcher, Demi Moore, Suri Cruise, Katie Holmes và Victori Beckham.