Số lần đọc/download: 766 / 22
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:41 +0700
Chương 7
B
uổi sáng mang đến mưa, gió và sương mù, thứ thời tiết sầu thảm khiến tôi khó lòng tin nổi ngày hôm qua có thể là gì khác ngoại trừ một giấc mơ lạ lùng và kỳ diệu. Tôi ngấu nghiến thật nhanh bữa sáng của mình và nói với bố là tôi sẽ ra ngoài. Ông nhìn tôi như thể tôi là một kẻ ngớ ngẩn.
“Trong thời tiết này ư? Để làm gì?”
“Đi chơi với...” tôi bắt đầu nói mà không hề suy nghĩ. Thế rồi, để lấp liếm, tôi giả bộ bị nghẹn thức ăn trong cổ họng. Nhưng đã quá muộn; bố đã nghe thấy tôi nói.
“Đi chơi với ai hả? Bố hy vọng là không phải với mấy thằng rapper lưu manh đó.”
Cách duy nhất để thoát khỏi cái hố này là đào xuống sâu hơn nữa. “Không. Bố chưa bao giờ thấy họ đâu, họ sống ở đầu kia của, ừm, hòn đảo, và...”
“Thật sao? Bố không nghĩ có ai sống ở phía đó.”
“À, có đấy, chỉ vài người thôi. Có vẻ là những người chăn cừu và làm mấy việc linh tinh khác. Dù sao thì họ cũng rất hay ho, họ để ý trông chừng cho con trong khi con vào trong ngôi nhà.” Bạn bè và an toàn: hai thứ bố tôi khó lòng có thể phản đối.
“Bố muốn gặp họ”, bố tôi nói, có làm ra vẻ nghiêm khắc. Ông vẫn hay trưng ra bộ mặt này, bắt chước một ông bố nhạy cảm, không chấp nhận những trò vớ vẩn - hình mẫu tôi nghĩ ông mong mỏi trở thành.
“Chắc chắn rồi. Nhưng con đã hẹn gặp họ ở đó, vậy nên để lần khác bố nhé.”
Bố tôi gật đầu và ăn thêm một miếng nữa. “Nhớ về ăn tối đấy”, ông nói.
“Nghe rõ mười mươi rồi, thưa bố.”
Tôi hối hả chạy tới chỗ đầm lầy. Trong lúc thận trọng dò dẫm bước qua đám lầy thụt bẩn thỉu, cố nhớ lại con đường được tạo thành từ những đám cỏ mờ mờ ảo ảo như các hòn đảo Emma đã dùng để vượt qua nơi này, tôi thầm lo tất cả những gì tìm thấy ở phía bên kia sẽ chỉ là thêm nhiều mưa hơn nữa cùng một ngôi nhà đổ nát. Vì thế, quả là nhẹ nhõm khi tôi chui ra khỏi ngôi mộ đá và tìm được ngày mồng ba tháng Chín năm 1940 đúng như khi tôi rời khỏi: một ngày ấm áp, nắng ráo, vắng bóng sương mù, bầu trời tuyền một màu xanh đáng tin cậy, trên đó những đám mây tạo thành các hình dáng có vẻ thật quen thuộc dễ chịu. Thậm chí còn tốt hơn thế, Emma đang ở đó chờ tôi, ngồi bên rìa gò mộ ném đá xuống đầm. “Thật đúng lúc!” cô vừa reo lên vừa đứng bật dậy. “Đi nào, mọi người đang đợi cậu.”
“Vậy sao?”
“Phả... ải”, cô vừa nói vừa đảo mắt đầy sốt ruột, cầm lấy tay tôi và kéo tôi đi theo mình. Tôi cảm thấy rất kích động - không chỉ vì sự đụng chạm của Emma, mà vì cả ý nghĩ về cái ngày phía trước, đầy ắp những khả năng vô tận. Mặc dù theo cả triệu biểu hiện bề ngoài, nó hẳn sẽ giống như ngày hôm trước - cùng cơn gió sẽ thổi, và cùng những cành cây sẽ rơi xuống - song trải nghiệm của tôi về nó sẽ mới mẻ. Và những đứa trẻ đặc biệt cũng thế. Họ là những vị thần của thiên đường bé nhỏ lạ lùng này, còn tôi là vị khách của họ.
Chúng tôi hối hả băng qua đầm lầy và qua khu rừng, như thể đang bị muộn một cuộc hẹn. Khi tới chỗ trại trẻ, Emma dẫn tôi đi vòng ra sân sau, một sân khấu nhỏ bằng gỗ đã được dựng lên ở đó. Những đứa trẻ tíu tít đi ra đi vào, mang các món đồ trang trí sân khấu, mặc lên người những bộ vest hoặc những chiếc đầm sequin lấp lánh. Một ban nhạc nhỏ đang làm quen với nhạc cụ, chỉ gồm một cây đàn xếp, một cây kèn trombon méo mó và một cái cưa nhạc cụ được Horace chơi bằng cây vĩ.
“Gì thế này?” tôi hỏi Emma. “Mọi người đang dàn dựng một vở kịch à?”
“Rồi cậu sẽ thấy”, cô nói.
“Có những ai tham gia vậy?”
“Rồi cậu sẽ thấy.”
“Vở kịch về cái gì vậy?”
Cô liền véo tôi một cái.
Một tiếng còi vang lên, và tất cả mọi người chạy lại tìm chỗ ngồi tại một hàng ghế gấp kê đối diện với sân khấu. Emma và tôi ngồi xuống đúng lúc màn mở, để lộ ra một chiếc mũ rơm dập dềnh trên một bộ vest kẻ sọc lòe loẹt màu đỏ và trắng. Chỉ đến khi nghe thấy một giọng nói tôi mới nhận ra rằng đó - tất nhiên rồi - là Millard.
“Thưa các quý... ý bà... à và quý ô... ông!” cậu ta dài giọng ê a. “Tôi vô cùng hân hạnh được trình diễn trước quý vị một màn vô tiền khoáng hậu! Một chương trình với độ táo bạo vô song, thể hiện phép thuật xuất chúng tới mức chỉ đơn giản là quý vị sẽ không tin nổi vào mắt mình! Các công dân thân mến, tôi xin giới thiệu với quý vị cô Peregrine và Những Đứa Trẻ Đặc Biệt của cô!”
Khán giả vỗ tay hoan hô vang dội. Millard nhấc mũ lên.
“Cho màn ảo thuật thứ nhất của chúng tôi, tôi xin giới thiệu cô Peregrine!” Cậu ta chui vào sau màn rồi lại xuất hiện sau giây lát, trên một cánh tay có vắt một tấm ga được gấp lại, cánh tay kia có một con chim ưng đậu lên. Cậu ta gật đầu với ban nhạc, và ban nhạc bắt đầu cử lên một giai điệu rè rè có vẻ là nhạc hội hè.
Emma thúc khuỷu tay vào tôi. “Xem kìa”, cô thì thầm.
Millard để con chim ưng xuống và giơ tấm ga ra đằng trước, che khuất con chim khỏi tầm nhìn của khán giả. Cậu ta bắt đầu đếm lùi. “Ba, hai, một!”
Đến “một”, tôi nghe thấy tiếng đập cánh không lẫn vào đâu được, rồi sau đó nhìn thấy cái đầu của bà Peregrine - cái đầu người của bà - nhô lên đằng sau tấm ga trong tràng vỗ tay thậm chí còn vang dội hơn. Mái tóc bà rối bời, và tôi chỉ có thể nhìn thấy từ vai bà trở lên; dường như bà ở trần đằng sau tấm ga. Có vẻ khi bạn biến thành chim, quần áo sẽ không đồng hành trong quá trình này. Cầm lấy mép tấm ga, bà kín đáo quấn nó quanh người.
“Cậu Portman!” bà gọi, từ trên sân khấu nhìn xuống tôi. “Ta rất vui vì cậu đã trở lại. Đây là một chương trình chúng ta từng mang đi lưu diễn vòng quanh lục địa hồi những ngày thanh bình. Ta nghĩ cậu sẽ học hỏi được từ nó.” Rồi sau đó bà lướt xuống khỏi sân khấu trên nền một đoạn nhạc đệm, đi vào trong nhà để mặc quần áo.
Lần lượt từng người một, những đứa trẻ đặc biệt rời khỏi vị trí khán giả và bước lên sân khấu, mỗi người trình diễn một tiết mục của riêng mình. Millard bỏ bộ đồ dạ hội của mình ra để trở nên hoàn toàn vô hình và diễn trò tung hứng với những cái chai thủy tinh. Olive cởi đôi giày trọng lực của mình ra và trình diễn một bài thể dục thách thức trọng lực trên những cái cọc cắm song song với nhau. Emma tạo ra lửa, nuốt vào rồi lại khạc ra mà không hề làm mình bị bỏng. Tôi vỗ tay hoan hô cho tới khi nghĩ hai bàn tay mình sẽ bị phồng rộp lên.
Khi Emma trở về chỗ ngồi, tôi quay sang cô và nói, “Tớ không hiểu. Các cậu trình diễn những hết mục này cho mọi người xem sao?”
“Tất nhiên”, cô đáp.
“Những người bình thường à?”
“Tất nhiên là những người bình thường. Vì sao những người đặc biệt lại trả tiền để xem những thứ bản thân họ có thể tự làm chứ?”
“Nhưng chẳng lẽ việc biểu diễn này không làm lộ tẩy các cậu sao?”
Emma tặc lưỡi. “Chẳng ai ngờ vực gì hết”, cô nói. “Người ta tới những buổi trình diễn nhỏ để xem những màn trình diễn mạo hiểm, các tiết mục ảo thuật và những trò loại đó, và theo như tất cả mọi người đều thấy, đó chính xác là những gì chúng tôi trình diễn cho họ xem.”
“Vậy là các cậu náu mình ngay trong tầm mắt mọi người.”
“Đó từng là cách phần lớn những người đặc biệt kiếm sống”, Emma nói.
“Và chưa từng có ai bị bại lộ sao?”
“Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp phải một kẻ ngu ngốc mò ra sau sân khấu hỏi những câu tọc mạch, và cũng vì thế luôn phải có một cánh tay mạnh mẽ thường trực để làm nhiệm vụ đá đít những kẻ đó đi. Mà nói đến quỷ sứ... thì quỷ sứ kia rồi!”
Trên sân khấu, một cô gái có bộ dạng như con trai đang lôi một tảng đá to bằng cỡ cái tủ lạnh mini từ sau màn sân khấu ra. “Bạn ấy có thể không phải là người thông minh nhất trên đời”, Emma thì thầm, “nhưng có một trái tim bao la và sẵn sàng chấp nhận xuống mồ vì bạn bè. Bronwyn và tôi, chúng tôi rất thân nhau.”
Ai đó đã đưa ra để mọi người truyền tay nhau một tập thiếp giới thiệu bà Peregrine từng dùng để quảng cáo cho chương trình biểu diễn của họ. Tập thiếp đến tay tôi, tấm của Bronwyn ở trên cùng. Trong bức ảnh, cô gái đứng chân trần, nhìn chằm chằm vào ống kính với ánh mắt lạnh lùng. Được viết chạy ngang mặt sau tấm thiếp là dòng chữ CÔ GÁI LỰC SĨ KỲ DIỆU CỦA SWANSEA!
“Tại sao bạn ấy không chụp cảnh mình đang nhấc bổng một tảng đá lên, nếu đó là điều bạn ấy thể hiện trên sân khấu?” tôi hỏi.
“Bạn ấy lúc đó đang rất khó chịu vì Chim buộc bạn ấy ăn mặc ‘như một quý bà’ để chụp ảnh. Bạn ấy từ chối nhấc bất cứ cái gì lên, dù là một cái hộp đựng mũ.”
“Trông có vẻ như bạn ấy cũng không thích đi giày nữa.”
“Thường là thế.”
Bronwyn kết thúc việc kéo tảng đá ra giữa sân khấu, và trong một khoảnh khắc lúng túng, cô chỉ nhìn chăm chăm vào các khán giả, như thể ai đó đã bảo cô dừng lại cho thêm phần kịch tính. Sau đó, cô cúi người xuống, giữ lấy tảng đá giữa hai bàn tay to bản của mình rồi từ từ nhấc bổng nó lên cao quá đầu. Tất cả mọi người cùng vỗ tay và hò reo ầm lên, sự hân hoan của đám trẻ không hề giảm xuống cho dù có lẽ họ đã chứng kiến cô gái thực hiện màn trình diễn này đến cả nghìn lần rồi. Cảnh tượng này cũng gần giống như có mặt tại một cuộc tập họp nhằm kích thích tinh thần đồng đội tại một ngôi trường tôi không theo học.
Bronwyn ngáp dài, bước xuống, kẹp lấy tảng đá bằng một cánh tay. Sau đó, cô gái có mái tóc hoang dã lên sân khấu. Emma cho hay tên cô này là Fiona. Cô gái đứng đối diện với các khán giả đằng sau một cái chậu trồng cây đựng đầy đất, hai bàn tay cô giơ lên phía trên chậu đất như một nhạc trưởng. Ban nhạc bắt đầu chơi bản “Chuyến bay của ong nghệ” (ít nhất thì cũng cố hết mức), và Fiona xòe cụp các ngón tay bên trên chậu đất, khuôn mặt cô cau lại khó nhọc vì cố sức và tập trung. Khi giai điệu mạnh dần lên, một hàng cây hoa cúc mọc lên từ đất và mọc lá trổ hoa vươn lên phía hai bàn tay cô gái. Cảnh tượng trông giống như một đoạn phim quay nhanh ghi lại cảnh cây nở hoa, ngoại trừ việc Fiona dường như đang kéo những bông hoa vươn lên khỏi chậu đất của chúng bằng những sợi dây vô hình. Tất cả khán giả đều thích thú cực độ, bật dậy khỏi ghế ngồi để cổ vũ nghệ sĩ.
Emma lật giở tập thiếp tới tấm của Fiona. “Thiếp của bạn ấy là tấm ưa thích của tôi”, cô nói. “Chúng tôi đã bỏ ra nhiều ngày cho trang phục của bạn ấy.”
Tôi nhìn vào tấm thiếp. Fiona mặc như một cô gái hành khất, đứng ôm một con gà con. “Bạn ấy muốn vào vai gì vậy?” tôi hỏi. “Một nông dân vô gia cư à?”
Emma véo tôi. “Bạn ấy muốn trông có vẻ tự nhiên, như một người hoang dã. Jill Người Rừng, bọn tôi gọi bạn ấy như thế.”
“Có thật bạn ấy tới từ trong rừng rậm không?”
“Bạn ấy tới từ Ireland.”
“Có nhiều gà rừng con lắm sao?”
Emma lại véo tôi lần nữa. Trong khi chúng tôi đang thì thầm, Hugh đã lên gia nhập cùng Fiona trên sân khấu. Cậu ta đứng đó há miệng ra, để những con ong bay ra ngoài tới thụ phấn cho những bông hoa Fiona đã tạo nên, như một nghi lễ kết đôi kỳ lạ.
“Fiona còn phát triển lên được thứ gì ngoài những bụi cây và bông hoa không?”
“Tất cả các luống cây cỏ này”, Emma vừa nói vừa chỉ về phía những dải vườn trong sân. “Và đôi khi cả những cây thân gỗ nữa.”
“Thật sao? Cả cây thân gỗ luôn hả?”
Emma lại lật tìm trong tập thiếp. “Đôi khi chúng tôi sẽ diễn màn Jill và cây đậu thần. Ai đó sẽ bám chặt lấy một trong những cái cây nhỏ ở bìa rừng và chúng tôi sẽ cùng xem Fiona có thể làm nó cao lên đến chừng nào trong khi bạn kia cưỡi trên cái cây đó.” Cô giở tới chỗ bức ảnh muốn tìm rồi gõ gõ ngón tay lên nó. “Đó là kỷ lục”, Emma nói đầy tự hào. “Hai mươi mét.”
“Các cậu chắc phải thấy buồn tẻ kinh khủng ở đây nhỉ?”
Cô định véo tôi lần nữa nhưng tôi đã chặn bàn tay cô lại. Tôi chẳng phải chuyên gia về các cô gái, nhưng khi một cô cố véo bạn đến bốn lần, tôi tin chắc đó là tán tỉnh.
Còn có thêm vài tiết mục nữa sau khi Fiona và Hugh rời sân khấu, nhưng đến lúc đó đám trẻ đã trở nên nhốn nháo, và không lâu sau chúng tôi giải tán để dùng thời gian còn lại của ngày hôm đó đắm chìm trong niềm hạnh phúc mùa hè: thảnh thơi uống nước chanh dưới ánh mặt trời; chơi bóng vồ; chăm nom cho những khoảnh vườn mà nhờ có Fiona hầu như chẳng cần phải chăm nom; thảo luận về thực đơn cho bữa trưa. Tôi muốn hỏi bà Peregrine nhiều hơn về ông nội - một chủ đề tôi né tránh với Emma, cô luôn trở nên ủ ê mỗi khi có ai nhắc đến tên ông - nhưng cô phụ trách đã đi giảng bài tại phòng học dành cho những đứa bé hơn đám này. Dẫu vậy, có vẻ như tôi có thoải mái thời gian, và nhịp sống chậm chạp cùng cái nóng buổi trưa làm tôi nhụt hết quyết tâm để làm bất cứ việc gì cần nhiều nỗ lực hơn chuyện tha thẩn quanh khu nhà trong cảm giác kinh ngạc mơ màng.
Sau một bữa ăn trưa ê hề với sandwich kẹp thịt ngỗng và bánh pudding sô cô la, Emma bắt đầu gợi ý lôi kéo những đứa trẻ lớn tuổi hơn đi bơi. “Quên đi”, Millard rên rẩm, cái khuy quần trên cùng của cậu ta mở bung ra. “Tớ căng phồng như một con gà tây Giáng sinh rồi.” Chúng tôi nằm ườn ra trên những cái ghế bọc nhung kê quanh phòng khách, no đến muốn vỡ bụng. Bronwyn nằm co người lại, vùi đầu giữa hai cái gối. “Tớ sẽ chìm nghỉm xuống tận đáy mất”, câu trả của cô vang lên nghèn nghẹt.
Nhưng Emma vẫn khăng khăng hối thúc. Sau mười phút ngon ngọt phỉnh phờ, cô cũng dựng Hugh, Fiona và Horace dậy khỏi giấc ngủ trưa của họ và thách Bronwyn, người có vẻ không thể bỏ qua được bất cứ cuộc cạnh tranh nào, thi bơi với mình. Khi thấy tất cả chúng tôi cùng kéo nhau ra khỏi nhà, Millard liền la lối rằng chúng tôi đã cố tình bỏ cậu ta lại.
Nơi tốt nhất để bơi là gần bến tàu, nhưng đi tới đó cũng đồng nghĩa với việc phải đi bộ qua thị trấn. “Còn đám khùng say khướt cứ nghĩ tớ là gián điệp Đức thì sao hả?” tôi nói. “Hôm nay tớ không thích bị người khác vác gậy lùa đâu.”
“Cậu đãng trí quá”, Emma nói. “Đó là hôm qua. Họ sẽ chẳng còn nhớ gì hết.”
“Chỉ cần choàng một cái khăn quanh người cậu để họ không thấy, ờ, mấy thứ quần áo tương lai của cậu là được”, Horace nói. Tôi đã mặc lại quần jean và một chiếc áo phông, trang phục thường ngày của tôi, còn Horace mặc bộ vest đen quen thuộc của cậu ta. Anh chàng này có vẻ sở hữu cùng phong cách ăn mặc với bà Peregrine: bất cứ lúc nào cũng nghiêm chỉnh thái quá đến mức kinh khủng. Bức ảnh chụp cậu ta cũng nằm trong số ảnh tôi tìm thấy trong cái rương vỡ nát, và trong nỗ lực “phục trang” cho việc chụp ảnh, cậu ta đã vượt quá mọi ranh giới: mũ chóp cao, gậy, kính một mắt - tóm lại là đủ lệ bộ.
“Cậu có lý”, tôi vừa nói vừa nhướng mày về phía Horace. “Tớ không muốn ai nghĩ mình mặc đồ quái dị.”
“Nếu cậu đang đề cập đến cái áo gi lê của tôi”, cậu ta trả lời thật cao ngạo, “phải, tôi thừa nhận mình là một người chạy theo mốt.” Những người khác cười khúc khích. “Tiếp tục đi, cứ việc cười anh bạn Horace của các vị! Cứ việc gọi tôi là một anh chàng bảnh chọe nếu thích, nhưng chuyện những người dân trong làng sẽ chẳng nhớ các vị mặc gì không hề cho các vị quyền được mặc như một kẻ hành khất!” Nói xong, cậu ta quay sang vuốt phẳng phiu các ve áo của mình, hành động chỉ làm đám trẻ cười dữ hơn. Vừa càu nhàu, cậu ta vừa trỏ ngón tay như thể quy tội cho bộ đồ tôi mặc. “Còn về cậu ta, xin Chúa cứu giúp chúng ta nếu đó là tất cả những gì tủ quần áo của chúng ta có thể trông đợi trong tương lai!”
Khi tiếng cười đã lắng xuống, tôi kéo Emma sang một bên và thì thầm, “Chính xác thì cái gì đã làm Horace trở nên đặc biệt - ý tớ là bên cạnh quần áo của cậu ấy?”
“Cậu ấy có những giấc mơ tiên tri. Thường xuyên có những cơn ác mộng khủng khiếp, còn chúng lại có xu hướng rất đáng lo ngại là trở thành hiện thực.”
“Thường xuyên đến mức nào cơ? Nhiều lắm sao?”
“Cậu hãy tự hỏi cậu ấy đi.”
Nhưng Horace đang chẳng có tâm trạng nào để thù tiếp những câu hỏi của tôi. Vậy là tôi đành dành chúng lại cho một dịp khác.
Khi chúng tôi đi vào thị trấn, tôi quàng một cái khăn quanh hông và khoác một cái khăn khác lên vai. Cho dù không hẳn là tiên tri, song Horace đã đúng về một chuyện: không ai nhận ra tôi. Đi xuống đường cái, chúng tôi gặp phải vài ánh mắt lạ lùng, nhưng không ai làm phiền chúng tôi. Chúng tôi thậm chí còn đi ngang qua lão béo đã gây phiền toái đủ điều cho tôi ở chỗ quầy bar. Ông ta đang nhồi một tẩu thuốc bên ngoài tiệm bán thuốc lá và ba hoa về chính trị với một người phụ nữ hầu như chẳng buồn lắng nghe. Tôi không dừng được nhìn ông ta chằm chằm khi chúng tôi đi ngang qua. Ông ta cũng trừng mắt nhìn lại, chẳng hễ có lấy một dấu hiệu là nhận ra.
Cứ như thể ai đó đã “khởi động lại” cả thị trấn. Tôi tiếp tục nhận ra những thứ tôi đã thấy ngày hôm trước: cũng vẫn chiếc xe điên cuồng lao đi vùn vụt xuống con đường, bánh sau của nó trồi trụt trên mặt sỏi, vẫn cùng những người phụ nữ xếp hàng cạnh giếng nước; một người đàn ông quét hắc ín lên đáy một chiếc thuyền chèo tay, tiến độ công việc chẳng nhích lên được thêm chút nào so với hai mươi bốn giờ trước. Tôi gần như trông đợi sẽ thấy bóng ma của chính mình cắm đầu chạy băng qua thị trấn với một đám đông đuổi theo sau, nhưng tôi đoán mọi thứ sẽ không diễn ra như thế.
“Các cậu hẳn phải biết rất nhiều về những gì diễn ra quanh đây”, tôi nói. “Như hôm qua, với những cái máy bay và cái xe đó.”
“Millard là người biết tất cả”, Hugh nói.
“Đúng thế”, Millard nói. “Thực ra tớ đang trên đường hoàn tất bản tường thuật hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới về một ngày trong cuộc sống của một thị trấn, theo trải nghiệm của tất cả mọi người ở đó. Mọi hành động, mọi cuộc hội thoại, mọi âm thanh, tạo ra bởi mỗi cá thể trong số một trăm năm mươi chín con người và ba trăm ba mươi hai con vật cư trú tại Cairnholm, theo từng phút một, từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn.”
“Thật không tin nổi”, tôi nói.
“Tớ không thể không đồng ý”, cậu ta trả lời. “Chỉ trong hai mươi bảy năm tớ đã quan sát được nửa số động vật và gần như toàn bộ con người.”
Tôi há hốc miệng. “Hai mươi bảy năm?”
“Cậu ấy dành ra ba năm riêng cho những con lợn!” Hugh nói. “Có nghĩa là ghi chú lại mọi thứ về những con lợn hằng ngày trong suốt ba năm! Cậu có thể tưởng tượng nổi không? ‘Cơn này phẹt ra một bãi phân!’ ‘Con kia kêu ụt ịt rồi lăn ra ngủ ngay trên chất thải của chính nó!’”
“Các ghi chú là tối cần thiết cho quá trình này”, Millard kiên nhẫn giải thích. “Nhưng tôi có thể hiểu sự ghen tị của cậu, Hugh. Nó hứa hẹn sẽ là một công trình chưa từng có tiền lệ trong lịch sử giới học thuật hàn lâm.”
“À, đừng có mà vểnh mũi lên”, Emma nói. “Nó cũng sẽ là một thứ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của những thứ dở hơi. Nó là thứ dở hơi đệ nhất từng được viết ra!”
Thay vì trả lời, Millard bắt đầu chỉ ra các biến cố ngay trước khi chúng xảy ra. “Bà Higgins sắp sửa lên cơn ho”, cậu ta nói, và sau đó một người phụ nữ trên đường sẽ ho tới ho lui cho tới khi đỏ gay cả mặt, hay “Ngay bây giờ, một ngư dân sẽ than vãn về nỗi khó khăn khi phải hành nghề trong thời chiến tranh”, và sau đó một người đàn ông tựa người vào một cái xe chất đầy lưới đánh cá sẽ quay sang một người đàn ông khác và nói, “Giờ đây dưới nước có quá nhiều lũ U-boat chết tiệt đó tới mức đi kiểm tra lưới của mình cũng không còn an toàn nữa!”
Tôi thật sự bị ấn tượng, và nói với Millard như vậy. “Tớ rất vui là có người trân trọng công trình của mình”, cậu ta đáp.
Chúng tôi đi bộ dọc theo bến tàu ồn ào bận rộn cho tới hết cầu tàu, rồi sau đó men theo bờ biển lởm chởm đá về phía mũi đất, tới chỗ một bãi cát. Mấy cậu con trai bọn tôi cởi đồ ra chỉ mặc lại quần lót (tất cả ngoại trừ Horace, cậu ta chỉ cởi đôi giày và cái nơ ra) trong khi các cô gái biến mất để thay sang những bộ đồ tắm kiểu cổ kín đáo. Sau đó tất cả chúng tôi đều bơi. Bronwyn và Emma bơi thi với nhau, trong khi những người còn lại bơi vòng quanh; khi đã mệt, chúng tôi lên bãi cát và đánh một giấc. Đến lúc trời nóng quá, chúng tôi lại lao xuống nước, và khi nước biển lạnh làm chúng tôi rét run, chúng tôi lại lên bờ, và cứ thế lặp đi lặp lại cho tới khi bóng chúng tôi bắt đầu dài ra trên mặt cát.
Chúng tôi trò chuyện với nhau. Họ có cả triệu câu hỏi dành cho tôi, và khi ở cách xa bà Peregime, tôi có thể trả lời họ một cách thẳng thắn. Thế giới của tôi thế nào? Mọi người ăn, uống, mặc những gì? Khi nào khoa học sẽ khắc chế được bệnh tật và cái chết? Họ sống trong cảnh huy hoàng, nhưng thèm khát những khuôn mặt mới, những câu chuyện mới. Tôi kể cho họ tất cả những gì có thể, cố moi trong óc những mẩu chuyện về lịch sử thế kỷ hai mươi từ giờ giảng của cô Johnston - đổ bộ lên mặt trăng! Bức tường Berlin! Việt Nam! - nhưng họ khó lòng hiểu nổi.
Công nghệ và mức sống trong thời đại của tôi là điều làm họ kinh ngạc nhất. Nhà của chúng tôi có điều hòa không khí. Họ đã nghe nói về vô tuyến truyền hình nhưng chưa bao giờ được thấy một cái, và choáng váng khi được biết gần như phòng nào trong nhà tôi cũng có một cái hộp biết nói và phát hình ảnh. Di chuyển bằng đường hàng không với chúng tôi cũng thông dụng và bình dân như di chuyển bằng tàu hỏa với họ. Quân đội của chúng tôi chiến đấu với những chiếc máy bay không người lái điều khiển từ xa. Chúng tôi mang theo người những chiếc điện thoại kiêm máy tính có thể nhét vừa trong túi quần, và cho dù cái của tôi không hoạt động ở đây (nơi này dường như không có thiết bị điện tử nào hoạt động được), tôi vẫn lấy nó ra để cho họ thấy phần thân máy bóng loáng có mặt kính của nó.
Mặt trời bắt đầu lặn khi cuối cùng chúng tôi lên đường quay về. Emma bám dính lấy tôi, mu bàn tay cô cọ lên bàn tay tôi trong khi chúng tôi bước đi. Đi ngang qua một cây táo ở ngoài rìa thị trấn, cô dừng lại để hái một quả, nhưng ngay cả khi Emma đã đứng kiễng chân, quả táo ở thấp nhất vẫn nằm ngoài tầm tay cô, vậy là tôi làm điều bất cứ quý ông nào cũng sẽ làm là giúp nâng người cô lên, quàng hai cánh tay tôi quanh eo cô và cố không rên lên khi tôi nhấc cô, cánh tay trắng nõn của cô vươn lên, mái tóc ướt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Khi tôi đặt Emma xuống, cô nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên má tôi rồi đưa cho tôi quả táo.
“Này”, cô nói, “cậu dành được nó đấy.”
“Quả táo hay nụ hôn cơ?”
Cô bật cười và chạy vụt đi để bắt kịp những người khác. Tôi không biết phải gọi điều vừa diễn ra giữa hai chúng tôi là gì, song tôi thích nó. Nó có vẻ thật ngây ngô, mong manh và tuyệt vời. Tôi cho quả táo vào túi và chạy theo cô.
Khi chúng tôi đi tới chỗ đầm lầy và tôi nói phải về nhà, Emma giả bộ hờn dỗi. “Ít nhất hãy để tôi đưa cậu về”, cô nói, vậy là chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt những người khác và băng qua đầm tới chỗ ngôi mộ đá, vừa đi, tôi vừa cố hết sức để ghi nhớ những chỗ cô đặt chân.
Khi tới đó, tôi nói, “Hãy đi cùng tớ sang bên kia một phút thôi.”
“Tôi không thể. Tôi phải quay về, nếu không Chim sẽ nghi ngờ chúng ta.”
“Nghi ngờ chúng ta về cái gì?”
Emma rụt rè mỉm cười. “Về... một điều gì đó.”
“Một điều gì đó.”
“Cô ấy luôn cảnh giác tìm kiếm thứ gì đó”, cô gái vừa nói vừa bật cười.
Tôi thay đổi chiến thuật. “Vậy ngày mai cậu tới gặp tớ thì sao nhỉ?”
“Gặp cậu? Ở bên đó ư?”
“Sao không chứ? Bà Peregrine sẽ không có mặt để canh chừng chúng ta. Thậm chí cậu còn có thể gặp bố tớ. Tất nhiên, chúng ta sẽ không nói cho ông ấy biết cậu là ai. Và khi đó có thể ông ấy sẽ thoải mái hơn một chút về chuyện tớ đi đâu và làm gì suốt cả ngày. Tớ đi chơi với một cô gái hấp dẫn ư? Như thế có vẻ giống điều ước trong mơ hay ho nhất của một ông bố.”
Tôi nghĩ có thể Emma sẽ mỉm cười về chuyện cô gái hấp đẫn, nhưng thay vì thế cô lại trở nên nghiêm túc.
“Chim chỉ cho phép bọn tôi sang bên đó mỗi lần vài phút thôi, chỉ để vòng được mở thông, cậu biết đấy.”
“Vậy hãy nói với bà ấy những gì cậu sẽ làm!”
Emma thở dài. “Tôi muốn thế lắm. Thật lòng đấy. Nhưng đó là một ý tưởng tồi.”
“Bà ấy quàng dây vào cổ các cậu chặt quá nhỉ.”
“Cậu không biết cậu đang nói về chuyện gì đâu”, cô cau mày nói. “Và xin cảm ơn vì đã so sánh tôi với một con chó. Thông thái đấy.”
Tôi tự hỏi làm thế nào chúng tôi lại đi từ tán tỉnh sang tranh cãi nhanh đến vậy. “Tớ không hề có ý như thế.”
“Không phải là tôi không thích”, Emma nói. “Mà chỉ là không thể.”
“Được rồi, tớ đề nghị thế này nhé. Quên chuyện tới chỗ tớ cả ngày đi. Chỉ qua đó phút thôi, ngay bây giờ.”
“Một phút? Chúng ta có thể làm gì trong một phút?”
Tôi cười nhăn nhở. “Cậu sẽ ngạc nhiên đấy”
“Nói cho tôi biết đi!” cô vừa nói vừa đẩy tôi.
“Chụp ảnh cậu.”
Nụ cười của Emma vụt biến mất. “Lúc này diện mạo của tôi đâu có hấp dẫn nhất đâu”, cô nói với vẻ ngờ vực.
“Không, trông cậu tuyệt lắm. Thật đấy.”
“Chỉ một phút thôi? Hứa nhé?”
Tôi để cô chui vào trong mộ đá trước. Khi chúng tôi chui trở ra, thế giới mờ mịt sương mù và lạnh lẽo, mặc dù may thay cơn mưa đã dứt. Tôi lấy điện thoại ra và vui mừng thấy lý thuyết của tôi đã đúng. Ở phía bên này vòng thời gian, các thiết bị điện tử hoạt động ngon lành.
“Máy ảnh của cậu đâu?” Emma vừa nói vừa rùng mình vì lạnh. “Làm cho xong chuyện này đi!”
Tôi giơ điện thoại lên và chụp ảnh cô. Cô chỉ lắc đầu, như thể chẳng còn gì về thế giới kỳ lạ của tôi có thể làm cô ngạc nhiên nữa. Sau đó cô chạy né đi, còn tôi phải đuổi theo cô vòng quanh mộ đá, cả hai chúng tôi cùng cười phá lên, Emma trốn mất khỏi tầm mắt tôi để rồi lại lao vụt ra để thu hút ống kính. Một phút sau, tôi đã chụp nhiều ảnh đến mức cái điện thoại của tôi gần như cạn sạch pin.
Emma chạy tới lối vào mộ đá và tặng cho tôi một cái hôn gió. “Gặp lại cậu ngày mai, chàng trai tương lai!”
Tôi giơ tay lên vẫy chào tạm biệt, và cô chui vào trong đường hầm đá.
o O o
Tôi trở lại thị trấn lạnh cóng, ướt sũng và cười toe toét như một gã khùng. Vẫn còn cách quán rượu nhiều căn nhà nữa thì tôi nghe thấy một âm thanh lạ lùng vang lên trên nền rì rầm của các máy phát điện - ai đó đang gọi tên tôi. Theo hướng giọng nói, tôi thấy bố đang đứng giữa phố mặc chiếc áo len sũng nước, hơi thở phả ra mờ mịt đằng trước ông như làn khói ống xả vào một buổi sáng lạnh lẽo.
“Jacob! Bố tìm con mãi!”
“Bố dặn là về trước bữa tối mà, con về đây rồi!”
“Quên bữa tối đi. Lại đây với bố.”
Bố tôi chưa bao giờ bỏ bữa tối. Chắc chắn phải có chuyện gì.
“Có chuyện gì vậy ạ?”,
“Bố sẽ giải thích trên đường”, bố tôi vừa nói vừa sải bước về phía quán rượu. Đến đó, ông chăm chú nhìn tôi. “Con ướt sũng cả người rồi kìa!” ông kêu lên. “Vì Chúa, con đã mất nốt cái áo khoác còn lại rồi sao hả?”
“Con, ừm...”
“Mà sao mặt con đỏ gay thế kia? Trông con như bị cháy nắng vậy.”
Khỉ thật. Suốt cả một buổi chiều trên bãi biển không kem chống nắng. “Con đang nóng bừng cả người vì chạy”, tôi nói, mặc dù làn da trên hai cánh tay tôi đang nổi gai ốc lên vì lạnh. “Có chuyện gì vậy? Có ai chết hay sao ạ?”
“Không, không, không”, bố tôi nói. “À, cũng gần như thế. Một con cừu nào đó.”
“Chuyện đó thì liên quan gì đến chúng ta?”
“Người ta nghĩ lũ trẻ con đã gây ra chuyện đó. Như một hành động phá hoại.”
“Người ta là ai cơ? Cảnh sát bảo vệ cừu sao?”
“Những người nuôi cừu”, bố tôi nói. “Họ vặn hỏi tất cả mọi người dưới hai mươi tuổi. Và tất nhiên họ rất quan tâm tới chuyện con đã ở đâu cả ngày.”
Bụng tôi thắt lại. Tôi không hẳn đã có được một câu chuyện chắc chắn làm bình phong, và tôi cố gắng vắt óc nghĩ ra một chuyện gì đó trong khi chúng tôi về tới gần Priest Hole.
Bên ngoài quán rượu, một đám đông nhỏ đang xúm quanh một vài người nuôi cừu mặt mũi có vẻ rất tức giận. Một người mặc bộ áo liền quần bê bết bùn, tựa người trên một cây chĩa xọc rơm đầy vẻ đe dọa. Một người khác đang tóm lấy cổ áo Worm. Worm mặc một cái quần thể thao màu sáng chói mắt và áo sơ mi có ghi dòng chữ TÔI THÍCH NGƯỜI TA GỌI TÔI LÀ BIG POPPA[19]. Anh chàng đang khóc, bong bóng mũi phập phồng ở môi trên.
Người nuôi cừu thứ ba, gầy khẳng khiu và đội một cái mũ len đan chỉ về phía tôi khi hai bố con tôi lại gần. “Nó đây rồi!” ông ta hét lên. “Mày đã đi đâu hả, con trai?”
Bố vỗ lên lưng tôi. “Hãy nói cho họ biết đi”, ông tự tin nói.
Tôi cố làm ra vẻ mình chẳng có gì để giấu. “Cháu đi khám phá phía bên kia đảo. Chỗ ngôi nhà lớn.”
Mũ Len Đan trông có vẻ lúng túng. “Ngôi nhà lớn nào?”
“Cái đống đổ nát cũ kỹ trong rừng”, Chĩa Xọc Rơm nói. “Chỉ một gã điên hẳn hoi mới đặt chân đến chỗ đó. Chỗ ấy bị ma ám, và là một cái bẫy chết người.”
Mũ Len Đan nheo mắt nhìn tôi. “Ở trong ngôi nhà lớn với ai hả?
“Chẳng ai cả”, tôi nói, và thấy bố ném cho tôi một ánh mắt tinh quái.
“Bố láo! Tao nghĩ mày ở cùng với thằng này”, người đàn ông đang tóm Worm nói.
“Cháu chẳng bao giờ giết con cừu nào cả!” Worm kêu lên.
“Câm mồm!” người đàn ông gắt lên.
“Jake?” bố tôi lên tiếng. “Thế còn chuyện về các bạn con là thế nào?”
“À, chuyện tào lao thôi, bố.”
Mũ Len Đan quay sang gắt lên, “Sao hả, đồ nhóc con dối trá. Tao phải quất cho mày một trận ngay đây trước mặt Chúa và mọi người.”
“Ông tránh xa con tôi ra”, bố tôi nói, thể hiện giọng Ông Bố Cứng Rắn khá nhất của ông. Mũ Len Đan bật rủa và tiến một bước về phía bố tôi, đoạn ông ta cùng bố tôi gườm gườm đối diện nhau. Chưa ai trong hai người kịp tung ra quả thụi thì, một giọng quen thuộc đã cất lên, “Dừng lại, Dennis, chúng ta sẽ thu xếp chuyện này”, và ông Martin chen qua đám đông tới đứng chặn giữa hai người. “Hãy bắt đầu bằng việc cho chúng tôi biết những gì con trai ông nói với ông”, ông nói với bố tôi.
Bố trừng mắt nhìn tôi. “Nó nói sẽ đi gặp mấy người bạn ở phía bên kia đảo.”
“Bạn nào?” Chĩa Xọc Rơm hoạnh họe.
Tôi có thể thấy chuyện này sẽ chỉ xấu đi trừ phi tôi làm điều gì đó thật quyết liệt. Rõ ràng tôi không thể nói với họ về những đứa trẻ - mà đằng nào họ cũng sẽ chẳng tin tôi - vậy nên thay vì thế tôi chấp nhận một rủi ro lường trước được.
“Chẳng có ai cả”, tôi nói, cúi mặt xuống vờ xấu hổ. “Họ chỉ là tưởng tượng.”
“Nó nói gì thế?”
“Con trai tôi nói đám bạn của nó chỉ là tưởng tượng”, bố tôi nhắc lại, nghe có vẻ lo lắng.
Mấy người nuôi cừu trao đổi với nhau những cái nhìn ngỡ ngàng.
“Thấy chưa?” Worm nói, một tia hy vọng lóe lên trên khuôn mặt nó. “Thằng nhóc này là một đứa thần kinh chết tiệt! Chắc chắn phải là nó!”
“Cháu chưa bao giờ chạm đến chúng cả”, tôi nói, cho dù chẳng ai đang thực sự lắng nghe.
“Không phải là cậu người Mỹ”, người nuôi cừu đang túm lấy Worm nói. Ông này giật mạnh cái áo của nó. “Còn thằng này, nó đã có tiền sự rồi. Mấy năm trước, tôi đã thấy nó đá một con cừu rơi từ trên vách đá xuống. Không thể tin nổi nếu tôi không chính mắt nhìn thấy. Sau khi nó làm thế tôi có hỏi nó vì sao. Để xem con cừu có bay được không, nó nói thế. Thằng nhóc này là một đứa bệnh hoạn, hẳn rồi.
Đám đông rì rầm đầy ghê tởm. Worm trông không được thoải mái lắm nhưng cũng không chối cãi gì về câu chuyện.
“Thế còn thằng bạn bán cá của nó đâu?” Chĩa Xọc Rơm hỏi. “Nếu thằng này dính đến chuyện đó, các vị cũng có thể đặt cược ngay là thằng kia cũng thế.” Ai đó nói người ta đã thấy Dylan ở gần chỗ bến tàu, và mấy người được phái đi tìm cậu ta.
“Thế nếu là một con sói thì sao, hoặc là một con chó hoang?” bố tôi nói. “Bố tôi đã bị lũ chó sát hại.”
“Trên đảo Cairnholm chỉ có chó chăn cừu thôi”, Mũ Len Đan trả lời. “Và chính xác thì chó chăn cừu không có bản năng đi giết cừu.”
Tôi ước gì bố tôi chịu kết thúc chuyện này và rút lui khi còn dễ dàng làm được thế, nhưng ông đã dính sâu vào vụ này chẳng khác gì Perry Mason[20]. “Chúng ta đang nói về bao nhiêu con cừu đây nhỉ?” bố tôi hỏi.
“Năm”, người nuôi cừu thứ tư đáp, ông ta là một người lùn hoẳn, mặt mũi cau có từ nãy đến giờ chưa nói câu nào. “Tất cả đều là của tôi. Bị giết ngay trong bãi nhốt. Mấy con vật khốn khổ thậm chí chẳng có cơ hội chạy trốn.”
“Năm con cừu. Theo ông nghĩ năm con cừu sẽ có bao nhiêu máu?”
“Tôi sẽ không lạ nếu là cả một bồn đầy ắp.”
“Vậy thì chẳng phải kẻ gây ra chuyện đó người sẽ bê bết máu sao?”
Mấy người nuôi cừu đưa mắt nhìn nhau. Họ nhìn tôi, rồi sau đó nhìn Worm. Sau đó, họ nhún vai rồi gãi đầu. “Có lẽ là lũ cáo”, Mũ Len Đan nói.
“Cả một bầy cáo thì có thể”, Chĩa Xọc Rơm nói đầy ngờ vực, “nếu hòn đảo này có thể có nhiều đến thế.”
“Tôi vẫn cho rằng những vết cắt quá gọn”, người đàn ông đang tóm Worm nói. “Chắc chắn phải do một con dao gây ra.”
“Tôi không tin như vậy”, bố tôi đáp.
“Vậy thì ông cứ tự đến mà xem”, Mũ Len Đan nói. Vậy là trong khi đám đông bắt đầu giải tán, nhóm nhỏ chúng tôi đi theo mấy người nuôi cừu tới chỗ hiện trường vụ án. Chúng tôi leo qua một ngọn đồi thấp, qua một cánh đồng gần đó, tới chỗ một cái lán nhỏ bằng ván gỗ màu nâu đằng sau là một khu nuôi nhốt súc vật hình chữ nhật. Chúng tôi dè dặt lại gần và nhìn vào qua khe các thanh rào.
Cảnh tượng đẫm máu bên trong trong gần như trong tranh, tác phẩm của một họa sĩ điên theo trường phái ấn tượng chỉ vẽ bằng màu đỏ. Bãi cỏ bị giày xéo ngập sũng máu, cũng như những cọc rào dãi dầu sương gió của bãi nhốt và mấy xác cừu màu trắng nằm cứng đờ, bị quăng quật trong tư thế của cơn đau đớn cực độ đầy cam chịu. Một con đã cố leo qua hàng rào và những cái chân nhỏ bé của nó bị mắc kẹt giữa các thanh rào. Cái xác cừu nằm treo trước mắt tôi ở một tư thế thật kỳ quặc, bị phanh ra làm đôi từ cổ xuống tận đáy chậu, như thể nó đã bị mở khóa kéo ra.
Tôi buộc phải quay mặt đi. Những người khác vừa thì thầm vừa lắc đầu, rồi ai đó khẽ huýt sáo. Worm ậm ọe rồi bắt đầu khóc, hành động bị nhìn nhận như ngầm thừa nhận tội lỗi; tên tội phạm không thể đối diện với tội ác của chính hắn. Nó bị điệu tới nhốt trong bảo tàng của ông Martin - ở chỗ từng là phòng cất đồ thánh và giờ làm xà lim tạm thời của hòn đảo - cho tới khi bị bàn giao lại cho cảnh sát trong đất liền.
Chúng tôi để người chủ bãi nuôi cừu ở lại bần thần với những con cừu bị giết của ông ta và quay trở lại thị trấn, khó nhọc leo qua những ngọn đồi ướt nhẹp trong cảnh chạng vạng xám xịt. Quay về phòng mình, tôi biết sắp phải có một cuộc nói chuyện với Ông Bố Cứng Rắn, vì vậy tôi cố hết sức để tước vũ khí ông trước khi ông kịp động thủ.
“Con đã nói dối bố, và con xin lỗi.”
“Thế à?” bố tôi hỏi đầy mỉa mai, trong khi thay cái áo len ướt bằng một cái áo khô. “Con khá lắm. Giờ chúng ta sẽ nói về chuyện dối trá nào đây? Bố khó lòng hiểu nổi chuyện gì nữa.”
“Về chuyện con nói đi gặp bạn. Chẳng có đứa trẻ nào khác trên đảo cả. Con đã bịa ra bọn họ vì không muốn bố lo lắng về việc con ở đó một mình.”
“À, đúng là bố có lo lắng, thậm chí dù ông bác sĩ của con đã bảo bố đừng lo.”
“Con biết thế.”
“Vậy còn chuyện mấy người bạn tưởng tượng này thì thế nào đây? Golan có biết về chuyện này không?”
Tôi lắc đầu. “Đó cũng là một lời nói dối. Chỉ là con phải tìm cách rũ mấy người kia khỏi bám lấy mình.”
Bố tôi khoanh hai tay lại, không chắc nên tin vào cái gì nữa. “Thật là.”
“Thà để họ nghĩ con hơi lập dị còn hơn là để họ nghĩ con là một kẻ giết cừu, phải không nào?”
Tôi ngồi xuống bên bàn. Bố nhìn tôi một hồi lâu, và tôi không dám chắc ông có tin tôi hay không. Sau đó, ông đi tới chỗ chậu rửa và vục nước lên rửa mặt. Sau khi đã lau khô và quay trở lại, bố tôi có vẻ đã quyết định rằng tin tôi thì đỡ phiền phức hơn nhiều.
“Con chắc chúng ta không cần gọi lại cho bác sĩ Golan chứ?” bố tôi hỏi. “Để có một cuộc nói chuyện dài thú vị?”
“Nếu bố muốn thế. Nhưng con ổn cả.”
“Đây chính xác là lý do vì sao bố không muốn con dây dưa với mấy thằng nhóc rapper kia”, bố tôi nói, vì ông cần viện đến một thứ gì đó đủ vẻ răn dạy để cuộc trò chuyện này có thể tính là nghiêm túc.
“Về chuyện đó thì bố đúng”, tôi nói, mặc dù trong thâm tâm tôi không thể tin có ai trong hai cậu chàng kia đủ khả năng làm chuyện đó. Worm và Dylan thích nói thánh nói tướng, nhưng cũng chỉ có thế thôi.
Bố ngồi xuống đối diện với tôi. Trông ông có vẻ mệt mỏi. “Bố vẫn muốn biết bằng cách nào người ta lại có thể bị bắt nắng vào một ngày như hôm nay.”
Phải rồi. Những vết bắt nắng. “Con đoán là da con hơi nhạy cảm”, tôi nói.
“Chắc là vậy thôi”, bố tôi nói khô khan.
Ông để tôi yên, và tôi đi tắm, đồng thời nghĩ về Emma. Sau đó, tôi đánh răng trong lúc nghĩ về Emma rồi rửa mặt trong lúc nghĩ về Emma. Tiếp theo, tôi về phòng, lấy quả táo cô đưa cho tôi từ trong túi ra, để nó lên bàn đầu giường, rồi sau đó, như thể nhằm đảm bảo với bản thân là cô vẫn còn tồn tại, tôi lấy điện thoại của mình ra và xem qua những bức ảnh tôi đã chụp cô hồi chiều. Khi nghe thấy tiếng bố lên giường ở phòng bên, tôi vẫn đang xem, khi những chiếc máy phát ngừng hoạt động và đèn trong phòng tôi tắt phụt, tôi vẫn đang xem, rồi đến khi không còn ánh sáng ở đâu khác, chỉ có khuôn mặt Emma trên màn hình điện thoại bé nhỏ của tôi, tôi vẫn nằm đó trong bóng tối và tiếp tục xem.