Nguyên tác: The English Patient
Số lần đọc/download: 0 / 16
Cập nhật: 2023-06-17 16:09:57 +0700
Động Người Bơi Lội
T
ôi hứa sẽ kể cho anh nghe người ta biết yêu như thế nào.
Một chàng trai tên Geoffrey Clifton gặp một người bạn ở Oxford, người bạn ấy nhắc đến chuyện chúng tôi đang làm. Clifton liên lạc với tôi, thành hôn vào ngày hôm sau, và hai tuần sau nữa cùng vợ bay đến Cairo. Họ đang ở trong những ngày cuối cùng của tuần trăng mật. Câu chuyện của chúng tôi khởi đầu như thế.
Khi tôi gặp Katharine, nàng đã thành hôn. Một phụ nữ có chồng. Clifton leo ra khỏi máy bay, rồi nàng hiện ra, đầy bất ngờ, vì khi lên kế hoạch cho chuyến thám hiểm chúng tôi chỉ nghĩ đến một mình anh. Quần cụt khaki, đầu gối xương xẩu. Những ngày ấy nàng quá sôi nổi, không hợp với sa mạc. Tôi thích tuổi trẻ của anh ấy hơn là sự nồng nhiệt của cô vợ trẻ anh mới cưới. Anh là phi công của chúng tôi, người chuyển tin, dò đường. Anh là Kỷ Nguyên Mới, bay qua và thả những sợi ruy băng dài đủ màu làm tín hiệu cho chúng tôi biết chúng tôi phải ở đâu. Anh không ngừng chia sẻ nỗi say đắm của anh dành cho nàng. Bọn chúng tôi có bốn người đàn ông, một người đàn bà, và chồng cô ta với niềm vui bày tỏ trong thời kỳ trăng mật của anh ấy. Họ về Cairo, một tháng sau trở lại, và mọi chuyện cũng gần như cũ. Lần này nàng trầm lặng hơn, nhưng anh vẫn là chàng trai trẻ. Nàng sẽ ngồi trên những thùng xăng rỗng, tay chống cằm, khuỷu tay dựa trên đầu gối, nhìn đăm đăm một tấm vải dầu phần phật không ngừng, và Clifton sẽ ca ngợi nàng. Chúng tôi thử đùa cợt cho anh thôi đi, nhưng mong anh khiêm tốn hơn sẽ là trái ý anh, và không ai trong nhóm chúng tôi muốn thế.
Sau một tháng ở Cairo, nàng trở thành câm lặng, đọc sách không ngừng, muốn cô độc, như thể điều gì đấy đã xảy ra, hoặc nàng bỗng dưng nhận ra điều kỳ diệu là con người có thể thay đổi. Nàng không phải tiếp tục làm cô gái thích giao thiệp đã thành hôn với một chàng ham phiêu lưu. Nàng đang khám phá chính mình. Chứng kiến cảnh ấy quả là khó, vì Clifton không nhận ra rằng nàng đang tự học hỏi. Nàng đọc mọi thứ về sa mạc. Nàng có thể nói chuyện về Uweinat và ốc đảo đã mất, thậm chí lùng kiếm những bài viết bên lề.
Anh cũng hiểu, tôi là người đàn ông hơn nàng mười lăm tuổi. Cuộc đời tôi đã đến giai đoạn khi tôi thấy mình đồng cảm với kẻ xấu ngạo đời trong các cuốn sách. Tôi không tin vào vĩnh cửu, vào mối quan hệ giữa hai lứa tuổi khác biệt. Tôi hơn nàng mười lăm tuổi. Nhưng nàng khôn ngoan hơn. Nàng khao khát thay đổi hơn tôi nghĩ.
Điều gì đã thay đổi nàng trong tuần trăng mật muộn của họ ở cửa sông Nile bên ngoài Cairo? Chúng tôi đã gặp họ vài ngày - họ đến hai tuần sau lễ cưới của họ ở Cheshire. Anh đã mang cô vợ mới theo, vì anh không thể rời nàng và không thể bỏ lời hứa với chúng tôi. Với Madox và tôi. Chúng tôi sẽ nuốt chửng anh mất. Vì thế, ngày hôm ấy hai đầu gối xương xẩu của nàng hiện ra từ trong máy bay. Đấy là chủ đề trong câu chuyện của chúng tôi. Tình cảnh của chúng tôi.
Clifton ca ngợi vẻ đẹp của cánh tay nàng, nét mảnh mai của cổ chân nàng. Anh diễn tả nhìn nàng bơi lội. Anh nói về những bồn rửa hậu môn mới trong khách sạn. Cái đói ngốn ngấu của nàng trong bữa điểm tâm.
Tôi không nói lời nào khi nghe tất cả những chuyện ấy. Đôi khi, tôi ngước nhìn lên trong lúc anh nói và bắt gặp cái liếc mắt của nàng, chứng kiến nỗi khó chịu không nói ra của tôi, rồi nụ cười mỉm kín đáo của nàng. Chuyện ấy có phần mỉa mai. Tôi là người đàn ông đứng tuổi hơn. Tôi là người đàn ông từng trải, mười năm trước đã đi bộ từ ốc đảo Dakhla đến Gilf Kebir, người vẽ họa đồ Farafra, người biết Cyrenaica và đã hơn hai lần lạc trong Biển Cát. Nàng gặp tôi khi tôi đã có tất cả những danh hiệu ấy. Hoặc nàng có thể xoay vài độ và nhìn thấy những danh hiệu trên người Madox. Tuy thế, bên ngoài Hội Địa lý chúng tôi là những kẻ vô danh; chúng tôi là những người tiên phong của một nhóm nhỏ nàng tình cờ gặp vì cuộc hôn nhân này.
Những lời chồng nàng ca tụng nàng không có nghĩa lý gì. Nhưng cuộc đời tôi, ngay cả khi tôi là nhà thám hiểm, đã bị từ ngữ chi phối trong nhiều khía cạnh. Bằng lời đồn và truyền thuyết. Những biểu đồ. Những mảnh gốm viết chữ. Sự tế nhị của từ ngữ. Trong sa mạc, lập lại một điều gì sẽ là hắt thêm nước vào lòng đất. Ở đây sự ý nhị đưa người ta vượt qua hàng trăm dặm.
Đoàn thám hiểm của chúng tôi ở cách Uweinat khoảng bốn mươi dặm, Madox và tôi dự định sẽ đi riêng để dò đường. Hai vợ chồng Clifton và những người khác sẽ ở lại. Nàng đã đọc tất cả sách vở mang theo và hỏi mượn sách của tôi. Tôi không có gì ngoài những tấm bản đồ. “Còn cuốn sách anh xem vào buổi tối?” “Cuốn sách của Herodotus. À. Cô muốn mượn cuốn ấy?” “Tôi không dám mạo muội. Nếu nó là riêng tư.” “Tôi có ghi chép của tôi trong ấy. Và những mẩu cắt rời. Tôi cần nó bên mình.” “Tôi sỗ sàng quá, xin anh thứ lỗi.” “Khi tôi về tôi sẽ cho cô xem. Thường đi đâu tôi cũng mang nó theo.”
Tất cả chuyện này xảy ra với rất nhiều duyên dáng và nhã nhặn. Tôi giải thích rằng nó không phải là một cuốn sách bình thường, và nàng nhượng bộ. Tôi có thể rời đi mà không cảm thấy mình ích kỷ trong bất cứ phương diện nào. Tôi biết ơn sự nhã nhặn của nàng. Clifton không có ở đấy. Chỉ có hai chúng tôi. Tôi đang thu xếp hành trang trong lều của mình khi nàng đến gặp tôi. Tôi là người đã quay lưng với hầu hết chuyện giao thiệp, nhưng đôi khi tôi cảm kích một cử chỉ tế nhị.
Một tuần sau chúng tôi trở về. Việc tìm kiếm và ghép nối mọi thứ với nhau có nhiều tiến triển. Chúng tôi hứng khởi. Ở trại có một bữa tiệc mừng nhỏ. Clifton là người lúc nào cũng ăn mừng người khác. Tính ấy dễ thương.
Nàng đến bên tôi với một cốc nước. “Chúc mừng anh. Tôi đã nghe anh Geoffrey nói…” “Vâng!” “Đây, anh uống đi.” Tôi giơ tay ra và nàng đặt cái cốc vào tay tôi. Nước rất lạnh sau thứ nước trong bi đông chúng tôi đã uống. “Geoffrey dự định tổ chức một buổi họp mặt cho anh. Anh ấy đang viết một bài nhạc và muốn tôi đọc một bài thơ, nhưng tôi muốn làm một chuyện khác.” “Đây, cô cầm lấy sách mà đọc.” Tôi rút cuốn sách từ trong ba lô của tôi và đưa cho nàng.
Sau bữa ăn và trà dược thảo, Clifton mang ra một chai rượu cognac anh đã giấu mọi người cho đến giây phút ấy. Chúng tôi phải uống hết cả chai tối hôm ấy trong khi Madox tường trình chuyến đi của chúng tôi, Clifton hát bài nhạc tếu của anh. Rồi nàng bắt đầu đọc trong cuốn Lịch sử - câu chuyện của Candaules và hoàng hậu của ông. Thường tôi chỉ đọc phớt qua câu chuyện ấy. Nó ở phần đầu cuốn sách, không liên hệ nhiều đến những nơi chốn và thời kỳ khiến tôi chú ý. Nhưng dĩ nhiên nó là một câu chuyện nổi tiếng. Nó cũng là câu chuyện nàng chọn để đọc.
Candaules đã yêu say đắm vợ mình; đã yêu đến thế, ông cho rằng vợ ông đẹp hơn nhiều so với tất cả phụ nữ khác. Ông thường diễn tả sắc đẹp của vợ ông, ca ngợi nó hết mực với Gyges, con trai của Daskylus (vì anh làm ông đẹp lòng nhất trong tất cả các dũng sĩ dùng giáo của ông).
“Anh đang nghe đấy chứ, Geoffrey?” “Anh đang nghe đây, em yêu.”
Ông nói với Gyges: “Gyges, ta nghĩ ngươi không tin ta khi ta nói đến sắc đẹp của vợ ta, vì rằng tai đàn ông không dễ tin bằng mắt họ. Vì thế, hãy tìm cách nhìn nàng lõa thể”.
Người ta có thể nói nhiều điều. Biết rằng cuối cùng tôi sẽ là người tình của nàng, cũng như Gyges sẽ trở thành người tình của hoàng hậu và người giết chết Candaules. Tôi thường mở cuốn sách của Herodotus để tìm những manh mối về địa lý. Nhưng Katharine mở cuốn sách như mở một cửa sổ của cuộc đời nàng. Giọng nàng cẩn trọng khi nàng đọc. Mắt nàng chỉ đặt trên trang giấy có câu chuyện, như thể nàng đang chìm vào cát lún trong khi nàng nói.
“Thần thực lòng tin rằng hoàng hậu là người đẹp nhất trong tất cả phụ nữ, và thần xin bệ hạ đừng bắt thần làm điều trái luật.” Nhưng nhà vua trả lời anh như thế này: “Can đảm lên Gyges, và đừng sợ, dù là sợ ta, rằng ta nói những điều này để thử lòng ngươi, hoặc sợ vợ ta, e nàng có thể hại ngươi. Vì ta sẽ sắp xếp để nàng không biết ngươi đã nhìn thấy nàng”.
Đây là chuyện tôi biết yêu một người đàn bà như thế nào, người đã đọc cho tôi nghe một câu chuyện đặc biệt trong cuốn sách của Herodotus. Tôi nghe những lời nàng đọc ngang qua đống lửa, không hề nhìn lên, ngay cả khi nàng trêu chồng nàng. Có thể nàng chỉ đọc cho mình anh ấy nghe. Có thể nàng chỉ chọn câu chuyện ấy cho chính họ, không có ẩn ý nào khác. Đấy chỉ là một câu chuyện khiến nàng giật mình nghĩ đến tình huống tương tự của mình. Nhưng trong đời thực một con đường đã đột nhiên lộ hình. Mặc dù nàng không hề toan tính rằng chuyện ấy sẽ là bước lầm lạc đầu tiên. Tôi chắc chắn như thế.
“Ta sẽ để ngươi ở trong phòng ngủ của ta, sau cánh cửa mở; sau khi ta đã vào phòng, vợ ta cũng sẽ vào nằm. Gần cửa ra vào có một cái ghế để nàng đặt xiêm áo nàng cởi ra từng lớp một; và như thế ngươi sẽ có thể thong thả nhìn ngắm nàng.”
Nhưng Gyges bị hoàng hậu nhìn thấy khi anh rời phòng ngủ. Lúc ấy nàng hiểu ra chuyện chồng nàng đã làm; mặc dù hổ thẹn, nàng không than trách… nàng giữ yên lặng.
Đấy là một câu chuyện lạ lùng. Có phải không, Caravaggio? Một người đàn ông kiêu căng đến mức ông ta muốn được ghen tỵ. Hoặc ông muốn được tin tưởng, vì ông nghĩ ông không được tin tưởng. Đây hoàn toàn không phải là hình ảnh của Clifton, nhưng anh ấy trở thành một phần của câu chuyện này. Trong hành vi của người chồng có một điều gì rất kinh ngạc nhưng cũng rất con người. Một điều làm chúng ta tin nó có thể xảy ra.
Ngày hôm sau người vợ gọi Gyges vào và cho anh hai sự lựa chọn.
“Giờ đây có hai cách ngươi có thể làm, và ta sẽ cho ngươi quyền lựa chọn cách ngươi muốn. Hoặc là ngươi giết Candaules và chiếm hữu ta cùng vương quốc Lydia, hoặc ngươi phải bị giết ngay chốn này, để trong tương lai ngươi không thể tuân lời Candaules trong mọi chuyện, nhìn điều ngươi không nên nhìn. Hoặc là nhà vua, người gây ra chuyện này, chết, hoặc ngươi, người đã nhìn ta khỏa thân, chết.”
Thế là nhà vua bị giết. Một Kỷ Nguyên Mới bắt đầu. Có những bài thơ ba âm tiết đôi về Gyges. Ông là người man rợ[87] đầu tiên dâng lễ cúng ở Delphi. Ông cai trị Lydia hai mươi tám năm, nhưng chúng ta vẫn chỉ nhớ đến ông như một chiếc răng cưa trong chuyện tình lạ thường này.
Nàng ngưng đọc và ngước nhìn lên. Ra khỏi cát lún. Nàng đang tiến hóa. Thế là quyền lực đổi tay. Trong lúc ấy, một giai thoại đã giúp tôi biết yêu.
Từ ngữ, Caravaggio. Chúng có quyền năng.
Khi vợ chồng Clifton không ở cùng chúng tôi, họ trú tại Cairo. Clifton đang làm những việc khác cho người Anh, chỉ có trời mới biết là chuyện gì, một ông cố vấn trong một văn phòng chính phủ nào đấy. Tất cả chuyện này xảy ra trước chiến tranh. Nhưng lúc ấy tất cả mọi quốc gia ngụp lặn trong thành phố Cairo, gặp gỡ ở khu Groppi để nghe những buổi hòa nhạc tối, khiêu vũ đến khuya. Họ là một cặp vợ chồng trẻ được ưa thích, con nhà danh giá, còn tôi ở ngoài lề giới thượng lưu Cairo. Họ sống giàu sang. Một cuộc sống nhiều lễ nghi thỉnh thoảng tôi len vào. Ăn tối, hội họp ngoài vườn. Những sự kiện bình thường tôi không chú ý đến nhưng bây giờ tham dự vì nàng có mặt ở đấy. Tôi là người nhịn cho đến khi nào gặp điều mình muốn.
Làm thế nào tôi giải thích về nàng với anh đây? Bằng hai bàn tay tôi? Như tôi có thể vòng tay trong không khí thành hình dáng núi mặt bằng hoặc hòn đá? Nàng đã là một thành viên trong đoàn thám hiểm gần một năm. Tôi gặp nàng, nói chuyện với nàng. Chúng tôi thường xuyên ở trước mặt nhau. Sau này, khi chúng tôi biết được chúng tôi khao khát nhau, những khoảnh khắc trước đấy tràn về trong trái tim, bây giờ đầy gợi ý, như bàn tay bồn chồn siết lấy cánh tay trên một vách đá, những ánh mắt không nhìn thấy hoặc bị hiểu lầm.
Lúc ấy ít khi tôi ở Cairo, chỉ khoảng một phần ba thời gian. Tôi viết cuốn sách của tôi tại Bộ Ai Cập học, Récentes Explorations dans le Désert Libyque[88]. Mỗi ngày trôi qua, càng lúc tôi càng đến gần mặt chữ hơn, như thể sa mạc đang ở trong trang sách, nên thậm chí tôi có thể ngửi thấy mùi mực khi nó rời khỏi cây bút máy. Đồng thời tôi phải chống chọi với sự hiện diện gần bên của nàng. Trong khi tôi viết cuốn sách ngắn của tôi, dài bảy mươi trang, cô đọng và đi thẳng vào vấn đề, cùng với bản đồ du hành, nói thực tôi bị ám ảnh nhiều hơn vì cái miệng hứa hẹn của nàng, làn da mịn sau đầu gối, phần bụng trắng thon. Tôi không thể tách rời thân thể nàng ra khỏi trang giấy. Tôi mong được đề tặng công trình chuyên khảo của tôi cho nàng, cho giọng nói của nàng, cho thân hình nàng tôi tưởng tượng đang ngồi dậy trên giường, trắng nuột như một cánh cung dài, nhưng đấy là cuốn sách tôi hiến tặng một vị vua. Tin rằng một sự mê say như thế sẽ bị chế nhạo, xem thường bởi cái lắc đầu lễ độ và ngượng ngập của nàng.
Tôi bắt đầu khách sáo gấp đôi khi ở bên nàng. Một đặc điểm trong bản tính của tôi. Như thể bối rối vì một vẻ lõa thể phô bày trước đấy. Một lề thói châu Âu. Sau khi đã thể hiện nàng một cách kỳ lạ vào những dòng chữ tôi viết về sa mạc, lẽ tất nhiên giờ đây tôi sẽ bước vào bộ giáp kim loại mỗi khi nàng có mặt.
Bài thơ hoang dại là thế thân
Cho người phụ nữ được yêu hoặc phải được yêu
Niềm hân hoan điên cuồng là giả mạo của một khoái cảm khác.[89]
Trên bãi cỏ của Hassanein Bey - ông già uy nghi của chuyến thám hiểm năm 1923 - nàng bước lại cùng với phụ tá chính phủ Roundell, bắt tay tôi, nhờ anh ta lấy cho nàng một ly rượu, quay lại phía tôi nói, “em muốn anh chiếm lấy em.” Roundell trở lại. Nàng nói thế, như đã đưa cho tôi một con dao. Trong vòng một tháng, tôi trở thành người tình của nàng. Trong căn phòng trên khu chợ souk, phía bắc con đường bán vẹt.
Tôi quỳ xuống trong hành lang khảm gạch, mặt tôi úp vào tấm rèm là áo dạ hội của nàng, vị mặn của những ngón tay này trong miệng nàng. Hai chúng tôi là một pho tượng lạ trước khi chúng tôi bắt đầu mở khóa cho thèm khát của mình. Những ngón tay nàng cào lên mái tóc màu cát bắt đầu thưa của tôi. Cairo và tất cả sa mạc của nó quanh chúng tôi.
Có phải đấy là nỗi khao khát vì tuổi trẻ của nàng, vì nét trẻ con mảnh mai và háo hức của nàng? Khi tôi nói đến những khu vườn với anh, tôi nói đến những khu vườn của nàng.
Chúng tôi gọi vết lõm nhỏ ở cổ nàng là Bosphorus. Tôi sẽ lao từ vai nàng vào Bosphorus. Nhắm mắt ở đấy. Tôi sẽ quỳ trong lúc nàng nhìn xuống với vẻ giễu cợt như tôi là một kẻ lạ hành tinh. Nàng, người có cái nhìn giễu cợt. Bàn tay mát rượi của nàng bỗng áp lên cổ tôi trên một chuyến xe bus ở Cairo. Đi trong một chiếc taxi đóng kín và chúng tôi dùng tay yêu nhau từ cầu Khedive Ismail đến Hội Tipperary. Hoặc ánh nắng xuyên qua móng tay nàng khi bàn tay nàng phủ lấy mặt tôi trong hành lang trên lầu ba của bảo tàng viện.
Với chúng tôi, chỉ có một người chúng tôi phải tránh không để bị bắt gặp.
Nhưng Geoffrey Clifton là một người gắn chặt vào guồng máy Anh quốc. Gia phả của anh bắt đầu từ thời Canute. Guồng máy không nhất thiết để lộ cho Clifton, mới thành hôn mười tám tháng, thấy sự ngoại tình của vợ anh, nhưng nó bắt đầu bao quanh chỗ sai, căn bệnh của hệ thống. Nó biết tất cả hành vi của chúng tôi từ ngày đầu tiên chúng tôi vụng về chạm vào nhau ở porte cochère[90] của khách sạn Semiramis.
Tôi đã bỏ qua những câu nói của nàng về họ hàng của chồng nàng. Geoffrey Clifton cũng ngây thơ như chúng tôi về mạng lưới Anh quốc trên đầu chúng tôi. Nhưng cả đám hộ vệ canh chừng và bảo vệ chồng nàng. Chỉ có Madox, một quý tộc trước kia có người quen trong quân đội, biết những rắc rối bí mật ấy. Chỉ có Madox, với khá nhiều tế nhị, cảnh cáo tôi về một thế giới như thế.
Tôi mang theo cuốn sách của Herodotus, và Madox - một ông thánh trong hôn nhân của anh - mang theo Anna Karenina, không ngừng đọc đi đọc lại câu chuyện về tình yêu và lừa dối. Một ngày, đã quá muộn để ngăn chặn guồng máy chúng tôi đã khởi động, anh cố gắng giải thích thế giới của Clifton bằng lời của người em trai Anna Karenina. Đưa cuốn sách của tôi đây. Nghe này.
Phân nửa Moscow và Petersburg là họ hàng hoặc bạn bè của Oblonsky. Ông được sinh ra trong giới những người là hoặc sẽ trở thành những người tài ba của địa cầu. Một phần ba chính giới, những người đứng tuổi hơn, là bạn của cha ông và đã biết ông từ lúc ông còn là đứa bé quấn tã… Vì thế, những người phân phát ơn phước của thế giới này đều là bạn của ông. Họ không thể bỏ qua một người trong số họ… Ông chỉ cần không phản đối hoặc ghen tỵ, không cãi cọ hoặc mếch lòng, những điều ông chưa hề làm vì lòng tốt bẩm sinh.
Tôi đã dần dà yêu tiếng móng tay anh gõ trên ống tiêm, Caravaggio. Lần đầu tiên Hana tiêm morphine cho tôi trong lúc anh có mặt, anh đứng ở cửa sổ, và đầu anh quay phắt về phía chúng tôi khi anh nghe tiếng móng tay cô gõ. Tôi biết tôi có bạn rồi đây. Như một người tình sẽ luôn luôn nhận ra lớp ngụy trang của những người tình khác.
Phụ nữ muốn tất cả ở người tình. Và tôi lặn mất quá thường xuyên. Như những đội quân biến đi dưới cát. Rồi còn nỗi e sợ của nàng đối với chồng nàng, lòng tin của nàng vào danh tiết của nàng, lòng khao khát xưa kia của tôi muốn được tự túc, những lần tôi biến mất, ngờ vực của nàng đối với tôi, sự hoài nghi về tình yêu của nàng dành cho tôi. Nỗi hoảng sợ không nguyên cớ và sự ngột ngạt của tình yêu che giấu.
“Em nghĩ anh đã trở thành bất nhân”, nàng nói với tôi. “Anh không phải là kẻ phản bội duy nhất.”
“Em không nghĩ anh màng đến - rằng chuyện này đã xảy ra giữa chúng ta. Anh lướt qua mọi chuyện với lòng e sợ và căm ghét của anh về sự sở hữu, chiếm hữu, bị chiếm hữu, bị nêu tên. Anh nghĩ đấy là một đức tính. Em nghĩ anh bất nhân. Nếu em rời bỏ anh, anh sẽ đến với ai? Anh có tìm một người tình khác không?”
Tôi không nói gì.
“Anh chối đi chứ, đồ khốn.”
Nàng vẫn hằng muốn từ ngữ, nàng yêu chúng, lớn lên với chúng. Từ ngữ cho nàng sự sáng suốt, mang lại lẽ phải, hình dáng. Trong khi tôi nghĩ từ ngữ uốn cong cảm xúc như những cây gậy trong nước.
Nàng trở về với chồng.
Từ thời điểm này, nàng thì thào, chúng mình hoặc sẽ tìm ra hoặc sẽ đánh mất linh hồn mình.
Đại dương chuyển dời, tại sao tình nhân lại không? Những bến cảng ở Ephesus, những dòng sông của Heraclitus biến mất, thay vào đấy là những cửa sông ngập phù sa. Vợ Candaules trở thành vợ của Gyges. Những thư viện cháy rụi.
Mối quan hệ của chúng tôi đã là cái gì? Sự phản bội những người chung quanh chúng tôi, hay ước muốn về một cuộc sống khác?
Nàng leo lại vào căn nhà của nàng bên cạnh chồng nàng, và tôi rút về những quán rượu quầy kẽm.
Anh sẽ nhìn mặt trăng
Nhưng anh sẽ thấy em.[91]
Nhà học giả về Herodotus già nua ấy. Âm ư và hát bài ca ấy nhiều lần, đập lời hát mỏng ra để uốn chúng vào chính đời mình. Người ta có nhiều cách để bình phục từ một mất mát thầm kín. Một người trong nhóm nàng nhìn thấy tôi ngồi với một thương buôn gia vị. Nàng đã có lần nhận được từ ông ta một cái đê khâu bằng thiếc trong đựng nhụy hoa nghệ tây. Một trong hàng vạn thứ khác nhau.
Nếu Bagnold - đã nhìn thấy tôi ngồi bên người thương buôn nhụy hoa nghệ tây - nhắc đến chuyện ấy trong bàn ăn tối nơi nàng ngồi, chuyện ấy khiến tôi cảm thấy như thế nào? Tôi có thấy được an ủi rằng nàng sẽ nhớ đến một người đã tặng cho nàng một món quà nhỏ, một cái đê khâu bằng thiếc nàng đã đeo quanh cổ với một sợi dây mỏng đậm màu trong hai ngày khi chồng nàng đi xa? Nhụy hoa nghệ tây vẫn còn trong cái đê khâu, vì thế ngực nàng có vết màu vàng.
Nàng đã thấy câu chuyện về tôi như thế nào, người bị cả nhóm lảng tránh sau khi tôi làm mất mặt chính mình trong một cảnh ầm ĩ này hay một cảnh ầm ĩ khác, Bagnold cười, chồng nàng lo lắng cho tôi vì anh là một người tốt, còn Madox đứng lên, bước đến cửa sổ và nhìn vùng phía nam thành phố. Trò chuyện có lẽ đã chuyển sang những cuộc gặp gỡ khác. Dù sao đi nữa, họ vẫn là những người vẽ bản đồ. Nhưng nàng có leo xuống cái giếng chúng tôi giúp nhau cùng đào và ôm lấy chính mình, như tôi thèm khát được ôm nàng trong tay?
Mỗi chúng tôi bây giờ có cuộc sống riêng, vũ trang bằng hiệp ước sâu sắc nhất với người kia.
“Anh đang làm gì đấy?”, nàng nói khi gặp tôi trên đường. “Anh không thấy anh làm tất cả chúng tôi phát điên lên sao.”
Với Madox, tôi nói tôi đang theo đuổi một góa phụ. Nhưng nàng chưa phải là góa phụ. Khi Madox trở về Anh quốc, nàng và tôi không còn là tình nhân. “Gửi lời chào của tôi đến góa phụ Cairo của anh”, Madox lẩm bẩm. “Tôi vẫn muốn được gặp cô ấy.” Anh ấy có biết không? Với anh ấy, người bạn làm việc chung với tôi mười năm, người đàn ông tôi yêu hơn bất cứ người đàn ông nào khác, tôi vẫn luôn cảm thấy tôi là kẻ lường gạt. Đấy là năm 1939, dù sao đi nữa tất cả chúng tôi sẽ để xứ sở này lại cho chiến tranh.
Madox trở về làng Marston Magna, ở Somerset, nơi anh sinh ra, và một tháng sau, anh ngồi trong nhà thờ giáo xứ, nghe bài giảng ca tụng chiến tranh, rút khẩu súng lục sa mạc của anh và tự sát.
Tôi, Herodotus của xứ Halicarnassus, trình bày lịch sử của tôi, để thời gian không thể làm phai đi điều Con Người đã tạo ra, hoặc những hành động vĩ đại và tuyệt vời của người Hy Lạp và người Man Rợ… cùng với lý do họ đánh nhau.
Đàn ông vẫn thường là người đọc thơ trong sa mạc. Madox - với Hội Địa lý - đã phát biểu những bài tường trình đẹp đẽ về những lối đi và cuộc săn lùng của chúng tôi. Bermann thổi lý thuyết vào đống tro tàn còn âm ỉ. Còn tôi? Tôi là kỹ năng trong số họ. Người thợ kỹ thuật. Những người khác viết về tình yêu dành cho nỗi cô đơn và nghiền ngẫm những gì họ tìm thấy ở đấy. Họ chưa bao giờ biết chắc tôi nghĩ gì về tất cả mọi chuyện. “Anh có thích mặt trăng ấy không?”, Madox hỏi tôi sau khi anh đã biết tôi mười năm. Anh hỏi với vẻ ngập ngừng, như thể anh đã xâm phạm một điều riêng tư. Đối với họ, tôi quá khôn ranh để trở thành một người yêu sa mạc. Tôi giống Odysseus hơn. Dù vậy, tôi là người yêu sa mạc. Hãy cho tôi thấy sa mạc, như anh cho một người khác thấy dòng sông, hoặc một người khác thấy thành phố thuở ấu thơ của anh ta.
Khi chúng tôi chia tay lần cuối cùng, Madox dùng câu từ biệt cũ. “Mong Thượng đế khiến an bình ở cùng anh.” Tôi vừa sải bước đi xa anh vừa nói, “Không có Thượng đế”. Chúng tôi không giống nhau chút nào.
Madox nói Odysseus không bao giờ viết một chữ, một cuốn sách riêng tư. Có lẽ ông cảm thấy lạc lõng trong niềm hân hoan giả tạo của nghệ thuật. Tôi phải thừa nhận là công trình chuyên khảo của tôi chính xác đến nghiêm khắc. Nỗi e sợ rằng tôi sẽ diễn tả sự hiện diện của nàng trong khi tôi viết đã khiến tôi thiêu hủy tất cả cảm xúc, tất cả hùng biện tình yêu. Dù vậy, tôi diễn tả sa mạc thuần khiết như tôi nói đến nàng. Madox hỏi tôi về mặt trăng trong những ngày cuối cùng bên nhau trước khi chiến tranh bắt đầu. Chúng tôi chia tay. Anh đi Anh quốc, khả năng cuộc chiến đang đến làm gián đoạn tất cả, cuộc khai quật lịch sử chậm chạp của chúng tôi trong sa mạc. Chào nhé, Odysseus, anh vừa nói vừa cười, biết rằng tôi vẫn không thích Odysseus bao nhiêu, và ít thích Aeneas hơn nữa, nhưng chúng tôi đã quyết định rằng Bagnold là Aeneas. Nhưng tôi cũng không thích Odysseus. Chào nhé, tôi nói.
Tôi nhớ anh quay lại, cười vang. Anh chỉ ngón tay thô của anh vào chỗ trái cổ của anh và nói. “Cái này gọi là mạch sizood.” Mang đến cho chỗ lõm ở cổ nàng một cái tên chính thức. Anh trở về với vợ ở làng Marston Magna, chỉ mang cuốn sách của Tolstoy anh ưa thích, để lại tất cả la bàn và bản đồ cho tôi. Nỗi cảm mến của chúng tôi vẫn chưa nói thành lời.
Marston Magna ở Somerset, nơi anh nhắc đến nhiều lần trong trò chuyện với tôi, đã biến những cánh đồng xanh của nó thành một sân bay. Những chiếc máy bay đốt khí thải trên những lâu đài thời vua Arthur. Tôi không biết điều gì đã khiến anh tự tử. Có thể là tiếng động thường trực của những chuyến bay, bây giờ quá ồn ào đối với anh sau tiếng o o đơn giản của chiếc Gypsy Moth trong những khoảng im lặng của chúng tôi ở Libya và Ai Cập. Cuộc chiến của ai kia đã cắt đứt những nối kết bạn bè mỏng manh của anh. Tôi là Odysseus, tôi hiểu những ngăn cấm biến chuyển và tạm thời của chiến tranh. Nhưng anh là một người khó kết bạn. Anh là người suốt đời chỉ quen biết hai, ba người, và bây giờ họ đã biến thành kẻ thù.
Anh ở Somerset một mình với vợ, chị chưa bao giờ gặp chúng tôi. Với anh những cử chỉ nho nhỏ là đủ. Một viên đạn kết thúc chiến tranh.
Lúc ấy là tháng Bảy năm 1939. Họ đi xe bus từ làng đến Yeovil. Xe bus đi chậm, vì thế họ trễ giờ dự lễ. Ở gần cửa nhà thờ đông người, họ quyết định ngồi riêng để tìm được chỗ ngồi. Nửa giờ sau, bài giảng bắt đầu, nó hiếu chiến và rõ ràng ủng hộ chiến tranh. Giọng cha xứ lên bổng xuống trầm nói về cuộc chiến, ban phước lành cho chính phủ và những người sắp đi vào chiến tranh. Madox lắng nghe bài giảng càng lúc càng trở nên hăng hái. Anh rút khẩu súng sa mạc, cúi người và tự bắn vào tim mình. Anh chết ngay lập tức. Một sự thinh lặng ghê gớm. Thinh lặng của sa mạc. Thinh lặng khi không có máy bay. Họ nghe tiếng thân hình anh đổ xuống chiếc ghế dài. Không có chuyển động nào khác. Cha xứ sững lại. Sự thinh lặng như khi một cái phễu thủy tinh bọc cây nến trong nhà thờ nứt ra và mọi người quay lại. Vợ anh bước xuống lối đi chính, dừng ở hàng ghế của anh, lẩm bẩm một điều gì, và họ để chị vào bên cạnh anh. Chị quỳ xuống, vòng tay ôm anh.
Odysseus đã chết như thế nào? Tự tử, phải không nhỉ? Hình như tôi nhớ thế. Bây giờ. Có thể sa mạc đã làm hỏng Madox. Thời gian ấy khi chúng tôi không liên hệ gì đến thế giới. Tôi cứ nghĩ đến cuốn sách Nga anh ấy thường mang theo. Nước Nga vẫn gần quốc gia của tôi hơn quốc gia của anh ấy. Vâng, Madox là người chết vì những quốc gia.
Tôi yêu sự bình thản của anh trong tất cả mọi chuyện. Tôi thường tranh cãi dữ dội về những địa điểm trên bản đồ, và không hiểu sao những báo cáo của anh sẽ nhắc đến cuộc “tranh luận” của chúng tôi bằng từ ngữ rất phải chăng. Anh điềm tĩnh và vui vẻ viết về những chuyến đi của chúng tôi khi có niềm vui để diễn tả, như thể chúng tôi là Anna và Vronsky[92] trong một vũ hội. Dù vậy, anh là người không bao giờ vào phòng khiêu vũ ở Cairo với tôi. Còn tôi là người ngã lòng yêu trong khi khiêu vũ.
Anh có dáng đi chậm rãi. Tôi chưa bao giờ thấy anh khiêu vũ. Anh là một người viết, người diễn dịch thế giới. Một mảnh cảm xúc bé xíu có thể nảy sinh hiểu biết. Một cái liếc mắt có thể dẫn đến nhiều đoạn lý thuyết. Nếu anh nhìn thấy một kiểu nút thắt mới trong những bộ lạc sa mạc, hoặc tìm ra một loại cây cọ hiếm, anh sẽ mê say nhiều tuần liền. Khi chúng tôi gặp những thông tin trong khi du hành - bất cứ từ ngữ nào, hiện đại hay cổ xưa, chữ Ả Rập trên một bức tường đất, một mẩu tiếng Anh viết bằng phấn trên vạt chắn bùn của xe jeep - anh sẽ đọc nó rồi áp bàn tay vào nó như thể anh đang chạm vào những ý nghĩa sâu xa có thể chứa đựng trong ấy, để trở nên thân thiết hết mức với những chữ ấy.
Ông giơ cánh tay ra, những mạch máu bầm tím nằm ngang, lật ngửa lên, đợi luồng morphine. Khi nó tràn vào người, ông nghe tiếng Caravaggio thả cây kim rơi xuống chiếc hộp thiếc men sứ hình bầu dục. Ông nhìn thấy hình dáng cồng kềnh như con gấu quay lưng lại phía ông, rồi lại xuất hiện, cũng đã tiêm thuốc, một công dân nước morphine giống như ông.
Có những ngày tôi về nhà sau khi viết những dòng chữ khô khan, và điều duy nhất có thể cứu tôi là bài Hoa kim ngân hồng[93] do Django Reinhardt viết và Stéphane Grappelly trình diễn với ban nhạc Hot Club của Pháp. Năm 1935, 1936, 1937. Những năm nhạc jazz tuyệt vời. Những năm khi nhạc jazz bồng bềnh trôi ra ngoài khách sạn Claridge trên đại lộ Champs-Élysées vào những quán rượu của London, miền Nam nước Pháp, Morocco, rồi len vào Ai Cập, ở đấy tiếng rì rầm của những âm điệu như thế được một ban nhạc khiêu vũ vô danh của Cairo lẳng lặng giới thiệu. Khi tôi trở lại sa mạc, tôi mang theo mình những tối khiêu vũ cùng với đĩa nhạc 78 vòng của bài Kỷ vật[94] trong những quán rượu, những người đàn bà đi qua lại như những con chó săn, tựa người vào bạn khi bạn thì thầm vào vai họ giữa bài Em yêu[95]. Món quà của công ty thu âm Société Ultraphone Française[96]. Năm 1938, 1939. Có tiếng thì thầm tình yêu ở dãy bàn trong quán. Chiến tranh đã đến góc đường.
Trong những đêm cuối cùng ấy ở Cairo, nhiều tháng sau khi mối tình chấm dứt, rốt cuộc chúng tôi cũng thuyết phục được Madox vào một quán rượu quầy kẽm cho bữa tiệc chia tay của anh. Nàng và chồng nàng cũng có mặt. Đêm cuối cùng. Bản khiêu vũ cuối cùng. Almásy say rượu và thử một điệu khiêu vũ cũ hắn chế ra tên là vòng ôm Bosphorus, nhấc bổng Katharine Clifton trong hai cánh tay khẳng khiu của hắn và bước qua lại trên sàn cho đến khi hắn với nàng ngã lên mấy bụi dong sông Nile.
Ông ấy bây giờ đang là ai? Caravaggio nghĩ.
Almásy say, và đối với những người khác lối nhảy của hắn dường như là một chuỗi chuyển động thô bạo. Những ngày ấy hắn và nàng dường như không thuận với nhau. Hắn lắc nàng từ bên này qua bên kia như nàng là một con búp bê vô danh, và nhận chìm trong rượu nỗi buồn vì Madox ra đi. Hắn ồn ào khi ngồi cùng bàn với chúng tôi. Khi Almásy như thế này chúng tôi thường lảng đi, nhưng đây là đêm cuối cùng của Madox ở Cairo nên chúng tôi ở lại. Một người Ai Cập chơi vĩ cầm rất dở đang bắt chước Stéphane Grappelly, và Almásy như một hành tinh cuồng loạn. “Mừng chúng ta - những kẻ lạ hành tinh”, hắn nâng ly. Hắn muốn nhảy với mọi người, đàn ông cũng như đàn bà. Hắn vỗ tay tuyên bố, “Bây giờ là điệu vòng ôm Bosphorus. Anh nhảy không, Bernhardt? Hetherton?”. Đa số rút lui. Hắn quay lại cô vợ trẻ của Clifton, đang nhìn hắn với một vẻ cáu giận lễ độ, và khi hắn vẫy tay nàng tiến tới, rồi hắn va mạnh vào người nàng, cổ hắn đã ở trên vai trái của nàng, nơi khoảng da trần trên những hạt sequin. Tiếp theo là một điệu tango của người điên cho đến khi một trong hai người bước sai nhịp. Nàng giận dữ không chịu thua, không chịu bỏ về bàn để cho hắn thắng. Nàng chỉ nhìn hắn trừng trừng khi hắn ngửa đầu ra sau, không phải nghiêm trang mà với một khuôn mặt công kích. Miệng hắn thì thầm với nàng khi hắn cúi xuống, có lẽ đang gằn giọng hát lời nhạc của bài Hoa kim ngân hồng.
Ở Cairo, giữa những cuộc thám hiểm, không ai gặp Almásy nhiều. Hắn trông xa cách hoặc bứt rứt. Ban ngày hắn làm việc trong bảo tàng viện và ban đêm hay đến những quán rượu trong khu chợ Nam Cairo. Biến vào một xứ Ai Cập khác. Họ đã đến đây chỉ vì Madox. Nhưng bây giờ Almásy đang khiêu vũ với Katharine Clifton. Hàng chậu cây phớt qua hình dáng mảnh mai của nàng. Hắn xoay tròn với nàng, nhấc nàng lên, rồi ngã xuống. Clifton ngồi yên trên ghế, chỉ thoáng nhìn họ. Almásy nằm ngang người nàng, rồi chậm chạp gắng đứng lên, vuốt lại mái tóc vàng của hắn, quỳ bên nàng trong góc xa của căn phòng. Đã có lúc hắn là một người đàn ông tao nhã.
Đã quá nửa đêm. Những người khách không thích cảnh ấy, ngoại trừ những khách quen dễ mua vui, đã quen với kiểu cách ấy của những người Âu sa mạc. Họ là những người phụ nữ đeo hoa tai dài bằng bạc, mặc áo đính hạt sequin, những giọt kim loại nhỏ ấm lên trong hơi nóng của quán rượu, những hạt sequin lúc xưa Almásy vẫn thích, những người hất đôi bông tai bạc lởm chởm vào mặt hắn trong khi khiêu vũ. Những đêm khác hắn khiêu vũ với họ, khi hắn say hơn, hắn ôm eo họ và vác cả thân hình họ lên. Vâng, họ thấy thú vị, cười cái bụng của Almásy khi áo sơ mi của hắn bung ra, không mê sức nặng của hắn, sức nặng tựa trên vai họ khi hắn ngừng giữa điệu khiêu vũ, một lúc nào đó gục ngã xuống sàn trong điệu schottische.
Điều quan trọng trong những buổi tối như thế là tiến đến kế hoạch của buổi tối, trong khi những chòm sao con người xoay trượt chung quanh bạn. Không nghĩ ngợi hoặc suy tính. Những ghi chép tại chỗ của buổi tối đến sau này, trong sa mạc, trong những địa hình giữa Dakhla và Kufra. Lúc ấy, đang nhìn mặt la bàn nổi trong dầu, hắn sẽ nhớ tiếng kêu như tiếng con chó làm hắn nhìn quanh tìm con chó trên sàn nhảy, và nhận ra rằng không chừng hắn đã giẫm lên một người phụ nữ. Khi nhìn thấy ốc đảo hắn sẽ tự hào về màn nhảy múa của mình, vẫy hai tay và đồng hồ đeo tay lên trời.
Những đêm lạnh trong sa mạc. Hắn rút một sợi chỉ từ đêm tối và đặt vào miệng như thức ăn. Hai ngày đầu tiên của chuyến đi là như thế, lúc hắn ở lưng chừng giữa thành phố và cao nguyên. Sau sáu ngày hắn không hề nghĩ đến Cairo hoặc âm nhạc hoặc những con đường hoặc những người phụ nữ; đến lúc ấy hắn đã đang di chuyển trong thời xưa, đã thích nghi với lối thở trong nước sâu. Liên hệ duy nhất của hắn với thế giới của những thành phố là cuốn sách của Herodotus, cuốn cẩm nang của hắn về những lời dường như dối trá, xưa và nay. Khi hắn khám phá ra sự thật trong điều dường như là dối trá, hắn mang lọ hồ của hắn ra và dán vào sách một bản đồ hoặc mẩu tin, hoặc dùng một khoảng trống trong cuốn sách để vẽ những người đàn ông mặc váy với những con thú lờ mờ không rõ là thú gì bên cạnh họ. Những cư dân ốc đảo thuở ban đầu thường không vẽ gia súc, dù Herodotus nói rằng họ có gia súc. Họ sùng bái một nữ thần thai nghén, những hình vẽ trên đá của họ đa số là về phụ nữ đang mang thai.
Trong vòng hai tuần, thậm chí ý nghĩ về thành phố không còn lọt vào tâm trí hắn. Như thể hắn đang bước đi dưới một lớp mù mỏng trên thớ giấy tẩm mực của một tấm bản đồ, miền tinh túy giữa đất và biểu đồ giữa những khoảng cách và truyền thuyết giữa thiên nhiên và người kể chuyện. Sandford gọi nó là địa mạo học. Nơi họ chọn để đến, để thành cái tôi tốt đẹp nhất của mình, để không còn nhận thức về tổ tiên. Ở đây, ngoài la bàn mặt trời và số đường dài trong máy đo và cuốn sách, hắn chỉ có một mình, là sáng tạo của riêng hắn. Trong những thời gian này hắn biết ảo ảnh, fata morgana, là như thế nào, vì hắn ở trong ấy.
Ông thức giấc và thấy Hana đang lau mình cho ông. Trong phòng có một cái bàn giấy cao ngang eo. Nàng cúi xuống, hai bàn tay nàng mang nước từ cái chậu sứ đến ngực ông. Khi làm xong, nàng lùa những ngón tay ướt chải tóc vài lần, khiến tóc nàng ướt và thẫm lại. Nàng ngước nhìn lên, thấy mắt ông đang mở, và mỉm cười.
Khi ông mở mắt một lần nữa, Madox đang ở đấy, vẻ xơ xác, mệt mỏi, cầm ống tiêm morphine, anh phải dùng cả hai tay vì tay anh không có ngón cái. Ông nghĩ, làm sao anh ấy tự chích cho mình được nhỉ? Ông nhận ra đôi mắt, thói quen của cái lưỡi hay liếm môi, sự minh mẫn của trí óc anh hiểu được tất cả lời ông nói. Hai lão già quái gở.
Khi người đàn ông nói, Caravaggio nhìn màu hồng trong miệng ông. Lợi răng có lẽ là màu iodine nhạt của những hình vẽ trên đá khám phá ở Uweinat. Có nhiều thứ hơn để khám phá, để nhận đoán từ tấm thân trên giường, không còn hiện hữu ngoài cái miệng, một mạch máu trên cánh tay, đôi mắt xám như mắt sói. Anh vẫn kinh ngạc vì kỷ luật rành rẽ của người đàn ông, có khi xưng ngôi thứ nhất, đôi khi ngôi thứ ba, vẫn chưa thừa nhận ông là Almásy.
“Lúc nãy, ai nói chuyện thế?”
“‘Cái chết có nghĩa là bạn ở trong ngôi thứ ba.’”
Cả ngày họ chia nhau những ống morphine. Để lần gỡ câu chuyện của ông, Caravaggio du hành trong bộ mã ký hiệu. Khi người đàn ông bị bỏng nói chậm lại, hoặc khi Caravaggio cảm thấy anh không hiểu hết mọi chuyện - mối tình, cái chết của Madox - anh cầm ống tiêm trong hộp thiếc men sứ hình bầu dục lên, dùng khớp ngón tay ép vỡ đầu ống thuốc thủy tinh và bơm thuốc vào ống tiêm. Bây giờ, đã xé tay áo bên trái của anh ra hẳn, anh nói thẳng thừng chuyện này với Hana. Almásy chỉ mặc một cái áo lót màu xám, vì thế cánh tay đen đúa của ông để trần dưới khăn trải giường.
Mỗi lần cơ thể nuốt morphine vào, một cánh cửa khác mở ra, hoặc ông nhảy về những hình vẽ trong động hoặc về chiếc máy bay chôn vùi hoặc một lần nữa nấn ná bên người đàn bà bên cạnh ông dưới cái quạt, má nàng áp vào bụng ông.
Caravaggio cầm cuốn sách của Herodotus lên. Anh lật một trang, băng qua một đụn cát để khám phá ra Gilf Kebir, Uweinat, Gebel Kissu. Khi Almásy nói, anh ở bên ông, sắp xếp lại những sự kiện. Chỉ có khao khát khiến câu chuyện lạc đề, lắt lay như một mũi kim la bàn. Dù sao đi nữa, đây là thế giới của dân du mục, một câu chuyện đáng ngờ. Một tâm trí du hành đông tây trong lớp trá hình của bão cát.
Trên mặt đất trong động Người Bơi Lội, sau khi chồng nàng đâm máy bay của họ xuống đất, hắn đã cắt tấm vải dù nàng mang theo và trải nó ra. Nàng hạ người nằm xuống, nhăn mặt đau đớn vì những vết thương. Hắn nhẹ nhàng lùa những ngón tay vào tóc nàng, tìm những vết thương khác, rồi sờ vào vai nàng và chân nàng.
Ở trong động, sắc đẹp của nàng là điều hắn không muốn mất đi, nét duyên dáng của nàng, chân tay nàng. Bản chất của nàng, thì hắn biết hắn đã nắm chặt trong tay.
Nàng là một phụ nữ biến đổi khuôn mặt mình khi trang điểm. Đến một buổi họp mặt, leo vào giường, nàng tô son môi màu máu đỏ, một vệt đỏ cam trên mỗi mắt.
Hắn ngước nhìn lên một hình vẽ trong động và lấy trộm màu sắc của nó. Màu đất son cho khuôn mặt nàng, hắn bôi màu xanh lên mắt nàng. Hắn bước quanh động, tay hắn đầy màu đỏ, và chải những ngón tay của hắn vào tóc nàng. Rồi tất cả làn da nàng, để đầu gối đã thò ra ngoài máy bay ngày đầu tiên có màu nhụy hoa nghệ tây. Vùng âm hộ. Những vòng màu sắc quanh chân nàng để nàng thoát khỏi loài người. Hắn khám phá trong cuốn sách của Herodotus các truyền thuyết về những chiến binh già tôn vinh người thân yêu của mình bằng cách mang họ vào và giữ họ trong bất cứ thế giới nào khiến họ bất tử - một dung dịch sặc sỡ, một bài hát, một hình vẽ trên đá.
Trong hang động trời đã lạnh. Hắn quấn nàng trong vải dù cho nàng ấm. Hắn nhóm một ngọn lửa nhỏ bằng những cành cây keo và xua khói vào các góc hang động. Hắn thấy mình không thể nói trực tiếp với nàng, vì thế hắn nói trang trọng, giọng hắn vang dội quanh vách hang động. Bây giờ anh đi tìm người giúp đỡ đây, Katharine. Em hiểu không? Có một chiếc máy bay gần đây, nhưng không có xăng. Anh có thể gặp được một đoàn lữ hành hoặc một xe jeep, có nghĩa anh sẽ về sớm hơn. Anh không biết nữa. Hắn rút cuốn sách của Herodotus và đặt nó bên cạnh nàng. Lúc ấy là tháng Chín năm 1939. Hắn bước ra ngoài động, ngoài ánh sáng ngọn lửa, xuyên qua bóng tối xuống sa mạc ngập ánh trăng.
Hắn leo xuống những tảng đá đến đáy cao nguyên và đứng đấy.
Không có xe tải. Không có máy bay. Không có la bàn. Chỉ có vầng trăng và chiếc bóng của hắn. Hắn tìm ra mốc chỉ đường cũ bằng đá từ thời xưa để định hướng El Taj, bắc-tây bắc. Hắn ghi nhớ góc độ của chiếc bóng mình rồi bắt đầu bước đi. Cách đấy bảy mươi dặm là khu chợ souk với con đường bán đồng hồ. Nước ain[97] đổ đầy trong túi da đeo trên vai hắn ọc ạch như một lá nhau.
Có hai khoảng thời gian hắn không thể di chuyển. Giữa trưa, khi chiếc bóng núp dưới chân hắn, và lúc hoàng hôn, giữa lúc mặt trời lặn và lúc những vì sao xuất hiện. Khi ấy tất cả mọi thứ trên mặt sa mạc đều giống nhau. Nếu hắn di chuyển, hắn có thể đi lạc đến chín mươi độ ngoài hướng đi của mình. Hắn đợi tấm biểu đồ sống động của những vì sao, rồi tiến tới, mỗi giờ đọc chúng một lần. Trước kia, khi họ có những người dẫn đường trong sa mạc, họ sẽ treo một ngọn đèn trên một cây sào dài và những người còn lại sẽ theo tia sáng dội lại phía trên người đọc sao.
Một người đàn ông đi bộ cùng vận tốc với lạc đà. Hai dặm rưỡi một giờ. Nếu may mắn, hắn sẽ gặp trứng đà điểu.
Nếu không may, một trận bão cát sẽ xóa đi tất cả. Hắn đi bộ ba ngày không có thức ăn. Hắn không muốn nghĩ đến nàng. Nếu hắn đến El Taj hắn sẽ ăn abra, thức ăn của bộ lạc Goran làm bằng trái colocynth[98], họ luộc hột để tẩy mùi đắng rồi giã nó cùng với chà là và châu chấu. Hắn sẽ bước qua con đường đồng hồ và thạch cao. Mong Thượng đế khiến an bình ở cùng anh. Madox đã nói thế. Chào nhé. Một cái vẫy tay. Thượng đế chỉ hiện hữu trong sa mạc, bây giờ hắn muốn xác nhận điều ấy. Bên ngoài sa mạc chỉ có giao dịch và quyền lực, tiền bạc và chiến tranh. Những bạo chúa tài chính và quân sự nắn hình thế giới.
Hắn đang ở trong một vùng nứt nẻ, chuyển từ cát sang đá. Hắn không muốn nghĩ đến nàng. Rồi những ngọn đồi xuất hiện như những lâu đài thời Trung cổ. Hắn bước đi cho đến khi hắn bước cùng chiếc bóng của hắn vào bóng của một ngọn núi. Những bụi hoa mimosa. Dây leo colocynth. Hắn gào tên nàng vào những hòn đá. Vì tiếng dội là linh hồn của âm thanh tự xao động trong trống vắng.
Rồi hắn đến El Taj. Hầu hết cuộc hành trình hắn đã tưởng tượng ra con đường bán gương. Khi hắn đến vòng ngoài khu định cư, xe jeep quân đội Anh vây quanh hắn và bắt hắn đi, không nghe câu chuyện của hắn về một người phụ nữ bị thương ở Uweinat, chỉ cách đấy bảy mươi dặm, thật ra không nghe bất cứ điều gì hắn nói.
“Ý ông muốn nói người Anh không tin lời ông? Không ai chịu nghe ông?”
“Không ai nghe tôi.” “Tại sao?”
“Tôi không nói cái tên đúng với họ.” “Tên của ông?”
“Tôi cho họ biết tên tôi.” “Vậy thì…“
“Tên của nàng. Tên của chồng nàng.”
“Vậy thì ông đã nói gì?” Ông không trả lời.
“Tỉnh dậy đi! Ông đã nói gì?”
“Tôi nói nàng là vợ tôi. Tôi nói Katharine. Chồng nàng đã chết. Tôi nói nàng bị thương nặng, trong một cái động ở Gilf Kebir, trong Uweinat, phía bắc giếng Ain Dua. Nàng cần nước. Nàng cần thức ăn. Tôi sẽ trở lại với họ để làm người dẫn đường. Tôi nói tôi chỉ muốn một chiếc xe jeep. Một trong những chiếc xe jeep khốn kiếp của họ… Có lẽ sau cuộc hành trình tôi trông giống như một trong số những nhà tiên tri sa mạc điên khùng, nhưng tôi không nghĩ thế. Cuộc chiến đã đang bắt đầu. Họ đang rút điệp viên ra khỏi sa mạc. Bất cứ ai có cái tên ngoại quốc dạt vào trong những thị trấn ốc đảo nhỏ này đều là kẻ tình nghi. Nàng chỉ cách đấy bảy mươi dặm và họ không chịu nghe. Một đơn vị Anh rơi rớt ở El Taj. Lúc ấy chắc tôi đã nổi điên lên. Họ dùng những phòng giam bằng mây, lớn cỡ bằng phòng tắm vòi sen vừa cho một người. Tôi bị bỏ vào một phòng giam như thế và chở đi bằng xe tải. Tôi lăn lóc trong xe tải cho đến khi tôi té xuống đường, vẫn nằm trong cũi. Tôi gào tên Katharine. Gào tên Gilf Kebir. Trong khi cái tên duy nhất đáng lẽ tôi phải gào, phải thả như tấm danh thiếp vào tay họ, là tên của Clifton.
“Họ lôi tôi lên xe tải trở lại. Tôi chỉ là một người nữa có thể là điệp viên hạng nhì. Chỉ là một tên con hoang quốc tế nữa.”
Caravaggio muốn đứng lên và rời khỏi tòa villa này, xứ sở này, mảnh vụn của chiến tranh. Anh chỉ là một tên trộm. Điều Caravaggio muốn là ôm chầm lấy anh công binh và Hana, hoặc tốt hơn nữa, những người cùng độ tuổi với anh, trong một quán rượu anh biết tất cả mọi người, nơi anh có thể khiêu vũ và nói chuyện với một người phụ nữ, tựa đầu anh lên vai nàng, nghiêng đầu lên lông mày nàng, sao cũng được, nhưng anh biết trước tiên anh phải rời sa mạc này, cấu trúc morphine của nó. Anh cần lùi ra xa con đường vô hình dẫn đến El Taj. Người đàn ông anh tin là Almásy đã dùng anh và morphine để trở về thế giới của ông, vì nỗi buồn của ông. Ông ấy thuộc về phe nào trong chiến tranh không còn quan trọng gì.
Nhưng Caravaggio nghiêng về phía trước. “Tôi cần biết một điều.”
“Điều gì?”
“Tôi cần biết ông có giết Katharine Clifton không. Có nghĩa là, ông giết Clifton, và khi làm thế ông giết nàng.”
“Không. Thậm chí tôi chưa từng tưởng tượng ra điều ấy.”
“Lý do tôi hỏi là vì Geoffrey Clifton làm việc cho Sở Tình báo Anh. Tôi e rằng anh ta không chỉ là một người Anh ngây thơ. Chàng trai thân thiện của ông đấy. Đối với người Anh, anh ta đang canh chừng nhóm người lạ lùng của ông trong sa mạc Ai Cập-Libya. Họ biết một ngày kia sa mạc sẽ trở thành bãi chiến trường. Anh ta là nhiếp ảnh viên chụp trên không. Cái chết của anh ta làm họ không yên, vẫn chưa yên. Họ vẫn đặt dấu hỏi. Sở Tình báo biết về mối tình giữa ông và vợ anh ta ngay từ đầu. Cho dù Clifton không biết đi chăng nữa. Họ nghĩ có thể cái chết của anh ta được dàn xếp để bảo vệ ông, mở cầu kéo[99] lên cho ông lọt qua. Họ đợi ông ở Cairo, nhưng dĩ nhiên ông đã quay về sa mạc. Sau này, khi tôi được gửi đến Ý, tôi bỏ lỡ phần cuối trong câu chuyện của ông. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với ông.”
“Thế là anh đã đuổi theo tôi đến cùng.”
“Tôi đến vì con bé. Tôi biết cha cô ấy. Tôi chưa hề nghĩ là tôi sẽ gặp Bá tước Ladislaus de Almásy trong tu viện nữ bị pháo kích này. Nói thật tình, tôi mến ông nhiều hơn hầu hết những người tôi đã làm việc chung.”
Khung ánh sáng hình chữ nhật lướt lên trên ghế của Caravaggio, đóng khung đầu và ngực anh, khiến bệnh nhân người Anh thấy khuôn mặt anh dường như là một bức chân dung. Trong ánh sáng mờ, tóc anh trông sẫm màu, nhưng bây giờ mái tóc rối bừng lên rực rỡ, hai bìu mắt anh biến đi trong ánh sáng màu hồng cuối ngày.
Anh đã xoay chiếc ghế lại để anh có thể nghiêng về phía trước, tựa vào lưng ghế, đối diện Almásy. Caravaggio không dễ thốt ra lời. Anh sẽ xoa cằm, mặt nhăn lại, mắt nhắm, để nghĩ ngợi trong bóng tối, và chỉ lúc ấy anh mới bật ra được một câu, dứt ra khỏi những suy nghĩ của chính mình. Bóng tối ấy lộ ra trong anh lúc này khi anh ngồi trong khung ánh sáng hình thoi, cúi gập trên một chiếc ghế cạnh giường Almásy. Một trong hai người đàn ông lớn tuổi của câu chuyện này.
“Tôi có thể nói chuyện với anh, Caravaggio, vì tôi cảm thấy cả hai chúng ta đã gần cái chết. Cô bé, cậu nhỏ, chúng chưa gần cái chết. Mặc dù chúng đã trải qua rất nhiều chuyện. Khi tôi mới gặp Hana, cô ấy rất buồn.”
“Cha cô ấy bị giết ở Pháp.”
“Tôi hiểu. Cô ấy không chịu nói đến chuyện đó. Cô ấy xa lánh tất cả mọi người. Cách duy nhất tôi có thể khiến cô ấy nói chuyện với tôi là nhờ cô ấy đọc cho tôi nghe… Anh có nhận ra là cả hai chúng ta đều không có con?”
Rồi ông ngưng lại, như để cân nhắc một khả năng. “Anh có vợ không?”, Almásy hỏi.
Caravaggio ngồi trong ánh sáng màu hồng, hai bàn tay che mặt để xóa đi tất cả, để anh có thể nghĩ chính xác, như thể đấy là một món quà nữa của tuổi trẻ không còn dễ dàng đến với anh.
“Anh phải nói chuyện với tôi, Caravaggio. Hay tôi chỉ là một cuốn sách? Một thứ để đọc, một sinh vật lạ để nhử ra khỏi hồ và tiêm đầy morphine, đầy những hành lang, lời dối trá, cây cỏ, hẻm đá.”
“Kẻ trộm chúng tôi được dùng nhiều trong cuộc chiến này. Chúng tôi được hợp thức hóa. Chúng tôi ăn trộm. Rồi một số trong chúng tôi bắt đầu cố vấn. Chúng tôi có năng khiếu nhìn thấu qua lớp ngụy trang của dối trá hơn là tình báo chính quy. Chúng tôi tạo nên chuyện lừa bịp thực ra là sự thật. Cả chiến dịch được chỉ huy bằng hỗn hợp của tội phạm và trí thức này. Tôi đi khắp vùng Trung Đông, đấy là nơi tôi nghe đến ông lần đầu tiên. Ông là một bí mật, một khoảng không trên biểu đồ của họ. Đem kiến thức về sa mạc của ông trao vào tay người Đức.”
“Quá nhiều chuyện đã xảy ra ở El Taj vào năm 1939, khi tôi bị bắt và bị nghi là điệp viên.”
“Vậy đó là lúc ông sang phe người Đức.” Im lặng.
“Và ông vẫn không thể trở lại động Người Bơi Lội và Uweinat?”
“Không, cho đến khi tôi tình nguyện dẫn Eppler băng qua sa mạc.”
“Tôi có chuyện phải nói với ông. Về năm 1942, khi ông dẫn người điệp viên vào Cairo…”
“Cuộc hành quân Salaam.”
“Vâng. Khi ông đang làm việc cho Rommel.”
“Một người tài ba… Anh muốn nói với tôi chuyện gì?” “Tôi định nói, khi ông băng qua sa mạc, tránh né quân Đồng Minh, đi cùng với Eppler - chuyện ấy thật dũng cảm. Từ ốc đảo Gialo đến tận Cairo. Chỉ có ông mới mang được người của Rommel vào Cairo với cuốn Rebecca của hắn.”
“Làm sao anh biết được chuyện ấy?”
“Chuyện tôi muốn nói là họ không chỉ khám phá ra Eppler ở Cairo. Họ biết về cả cuộc hành trình. Trước đó rất lâu một mật mã của Đức đã bị giải, nhưng chúng tôi không thể để Rommel biết được điều ấy, nếu không người của chúng tôi sẽ bị phát hiện. Vì thế chúng tôi phải đợi Eppler đến Cairo để bắt.
Chúng tôi theo dõi ông suốt lộ trình. Suốt con đường xuyên qua sa mạc. Vì Sở Tình báo có tên ông, biết ông có dính líu, nên họ càng thêm chú ý. Họ cũng muốn bắt ông. Ông lẽ ra phải bị giết… Nếu ông không tin tôi, ông rời Gialo và ông đi mất hai mươi ngày. Ông theo con đường có giếng lấp dưới cát. Ông không thể đến gần Uweinat vì quân Đồng Minh, và ông tránh Abu Ballas. Có lúc Eppler lên cơn sốt sa mạc và ông phải chăm sóc hắn, mặc dù ông nói ông không ưa hắn…
Máy bay lẽ ra ‘mất dấu’ ông, nhưng ông bị theo dõi rất sát sao. Ông và Eppler không phải là điệp viên, chúng tôi mới là điệp viên. Sở Tình báo nghĩ ông đã giết Geoffrey Clifton vì người phụ nữ ấy. Họ tìm ra mộ anh ta năm 1939, nhưng không có dấu vết nào của vợ anh ta. Ông đã trở thành kẻ thù không phải vào lúc ông về phe với người Đức mà từ khi ông dan díu với Katharine Clifton.”
“Tôi hiểu.”
“Sau khi ông rời Cairo năm 1942, chúng tôi mất dấu ông. Họ dự định bắt và giết ông trong sa mạc. Nhưng họ mất dấu ông. Hai ngày sau đó. Chắc hẳn ông không tỉnh táo, thiếu lý trí, nếu không chúng tôi đã tìm ra ông. Chúng tôi đã gài mìn chiếc xe jeep. Sau này chúng tôi tìm thấy nó đã bị nổ, nhưng ông thì không thấy đâu. Ông đã biến mất. Chắc đấy mới là cuộc hành trình quan trọng của ông, chứ không phải là chuyến đi đến Cairo. Trong lúc ông hẳn đang điên.”
“Anh có ở Cairo theo dõi tôi cùng với họ không?” “Không. Tôi đọc hồ sơ. Tôi sắp đi Ý và họ nghĩ không chừng ông ở đấy.”
“Ở đây.”
“Vâng.”
Khung ánh sáng hình thoi di chuyển lên tường, bỏ Caravaggio lại trong bóng tối. Tóc anh lại sẫm màu. Anh ngả ra sau, vai anh chạm vào cây lá.
“Tôi đoán mọi chuyện chẳng còn quan trọng gì”, Almásy lẩm bẩm.
“Ông có muốn morphine không?”
“Không. Tôi đang suy nghĩ mọi việc. Tôi vẫn luôn là một người riêng tư. Thật khó hiểu rằng tôi đã được bàn thảo nhiều đến thế.”
“Ông dan díu với một người liên quan với Sở Tình báo. Có những người trong Sở Tình báo quen biết ông.”
“Bagnold, có lẽ.”
“Vâng.”
“Một người Anh rất Anh quốc.”
“Đúng thế.”
Caravaggio ngưng lại.
“Tôi phải nói với ông về một chuyện cuối cùng.” “Tôi biết.”
“Chuyện gì đã xảy ra với Katharine Clifton? Chuyện gì đã xảy ra trước chiến tranh khiến mọi người đến Gilf Kebir một lần nữa? Sau khi Madox đã về Anh quốc.”
Tôi định đi một chuyến nữa đến Gilf Kebir để dọn hết trại chính ở Uweinat. Cuộc sống của chúng tôi ở đấy đã qua rồi. Tôi nghĩ sẽ không còn chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi nữa. Tôi đã không gặp nàng như người tình đã gần một năm. Cuộc chiến đang chuẩn bị ở đâu đấy như bàn tay thò vào cửa sổ gác xép. Nàng và tôi đã rút vào sau những bức tường của các thói quen trước kia, vào quan hệ dường như là trong sạch. Chúng tôi không còn gặp nhau nhiều.
Trong mùa hè năm 1939 tôi định đi đường bộ đến Gilf Kebir với Gough, thu dọn trại chính, rồi Gough sẽ rời đi bằng xe tải, Clifton sẽ bay vào đón tôi. Rồi chúng tôi sẽ tản mác, ra khỏi mối liên hệ tay ba của chúng tôi.
Khi tôi nghe tiếng máy bay, nhìn thấy nó, tôi đang leo xuống những tảng đá của cao nguyên. Clifton bao giờ cũng đúng hẹn.
Máy bay nhỏ có một cách chạm đất là hạ thấp xuống dưới đường chân trời, nghiêng cánh trong ánh sáng sa mạc, rồi tiếng động tắt, nó trôi xuống mặt đất. Tôi chưa bao giờ hoàn toàn hiểu cách hoạt động của máy bay. Tôi đã nhìn chúng đến gần tôi trong sa mạc, và tôi vẫn sợ hãi khi ra khỏi lều đón chúng. Chúng nghiêng cánh trong ánh sáng rồi chúng đi vào sự thinh lặng ấy.
Chiếc Moth đến, bay là sát trên cao nguyên. Tôi vẫy tấm vải dầu màu xanh. Clifton hạ độ cao và gầm bay qua đầu tôi, thấp đến nỗi làm những bụi cây keo rụng lá. Chiếc máy bay nghiêng qua trái và đảo vòng lại, nhìn thấy tôi, chỉnh lại vị trí và bay thẳng đến tôi. Cách tôi năm mươi mét, đột nhiên nó chao nghiêng và đâm xuống đất. Tôi bắt đầu chạy đến.
Tôi nghĩ anh ấy đi một mình. Theo dự định anh phải đi một mình. Nhưng khi tôi đến đấy để kéo anh ấy ra, nàng ngồi bên cạnh anh. Anh đã chết. Nàng đang cố cử động phần thân dưới của nàng, mắt nhìn thẳng trước mặt. Cát đã vào qua cửa sổ buồng lái và ngập trên đùi nàng. Hình như nàng không bị thương. Bàn tay trái của nàng giơ ra phía trước để đỡ khi chiếc máy bay nhào xuống. Tôi kéo nàng ra khỏi chiếc máy bay Clifton gọi là Rupert và mang nàng vào những động đá. Vào động Người Bơi Lội, nơi có những hình vẽ. Vĩ độ 23°30’ trên bản đồ, kinh độ 25°15’. Tối hôm ấy tôi chôn Geoffrey Clifton.
Phải chăng tôi là tai ương của họ? Của nàng? Của Madox? Của sa mạc bị chiến tranh cưỡng bức, bị đạn pháo như thể ở đấy chỉ có cát? Lũ Man rợ đấu với lũ Man rợ. Cả hai đạo quân đi qua sa mạc mà không cảm nhận được nó. Những sa mạc Libya. Bỏ chính trị đi, thì đấy là những chữ đẹp nhất tôi biết. Libya. Một chữ khêu gợi, kéo dài, một giếng nước ngọt ngào. Chữ b và y. Madox nói nó là một trong vài chữ hiếm hoi người ta nghe cái lưỡi chuyển hướng. Còn nhớ Dido trong những sa mạc của Libya không? Một người sẽ như sông nước nơi chốn khô cằn…[100]
Tôi không tin tôi đã đi vào một mảnh đất bị nguyền rủa, hoặc tôi bị vướng vào một tình huống ác nghiệt. Đối với tôi, mỗi người, mỗi nơi chốn là một món quà. Tìm thấy những hình vẽ trên đá trong động Người Bơi Lội. Hát những đoạn “chủ đề” với Madox trong những chuyến thám hiểm. Sự xuất hiện của Katharine trong nhóm chúng tôi ở sa mạc. Cách tôi bước đến bên nàng trên sàn bê tông đỏ chùi bóng rồi quỳ xuống, đầu tôi áp vào bụng nàng như thể tôi là một cậu bé. Bộ lạc súng chữa lành cho tôi. Thậm chí bốn người chúng ta, Hana và anh và cậu công binh.
Mọi thứ tôi yêu hoặc quý trọng đã bị lấy đi.
Tôi ở lại bên nàng. Tôi phát hiện ba xương sườn của nàng bị gẫy. Tôi cứ đợi đôi mắt nàng lay động, cho cổ tay gẫy của nàng gập lại, cho cái miệng bất động của nàng nói.
Anh ghét em như thế nào? Nàng thì thào. Anh đã giết gần hết mọi thứ trong em.
Katharine… em đã không…
Ôm em đi. Đừng chống chế nữa. Không có điều gì thay đổi anh được.
Ánh mắt của nàng là vĩnh cửu. Tôi không thể ra khỏi cái nhìn ấy. Tôi sẽ là hình ảnh cuối cùng nàng nhìn thấy. Con chó rừng trong hang động sẽ hướng dẫn và bảo vệ cho nàng, sẽ không bao giờ lừa dối nàng.
Có hàng trăm vị thần liên quan đến thú vật, tôi bảo nàng như thế. Có những vị thần gắn liền với chó rừng - Anubis, Duamutef, Wepwawet. Đây là những tạo vật sẽ hướng dẫn em vào thế giới bên kia - như bóng ma thuở xưa của anh đã theo em những năm trước khi chúng ta gặp gỡ. Tất cả những buổi họp mặt ở London và Oxford. Nhìn ngắm em. Anh ngồi đối diện em khi em làm bài, tay cầm một cây bút chì lớn. Anh có mặt khi em gặp Geoffrey Clifton lúc hai giờ sáng trong thư viện Câu lạc bộ trường Oxford. Áo khoác của mọi người ngổn ngang trên sàn nhà, em chân trần như một con diệc nhón gót đi giữa chúng. Anh ấy đang nhìn em, nhưng anh cũng đang nhìn em, mặc dù em không thấy sự hiện diện của anh, lơ là anh. Em đang ở độ tuổi chỉ nhìn thấy những người đàn ông điển trai. Em chưa nhận biết những người ở ngoài tầm duyên dáng của em. Ở Oxford con chó rừng không được dùng làm kẻ hộ tống nhiều. Trong khi anh là người nhịn cho đến khi gặp thứ mình muốn. Bức tường đằng sau em đầy sách. Bàn tay trái của em cầm một chuỗi hạt trai dài em đang đeo ở cổ. Đôi chân trần của em nhón bước qua. Em đang tìm một thứ gì đấy. Những ngày ấy em tròn trĩnh hơn, dù vẫn xinh đẹp vừa đủ cho đời sống đại học.
Có ba chúng ta trong thư viện Câu lạc bộ trường Oxford, nhưng em chỉ tìm thấy Geoffrey Clifton. Đấy sẽ là một mối tình chớp nhoáng. Anh ấy có việc gì đấy với những nhà khảo cổ ở tận Bắc Phi. “Một lão già quái lạ đang làm việc cùng anh.” Mẹ em rất vui vì chuyến phiêu lưu của em.
Nhưng linh hồn của con chó rừng, “người mở lối”, tên là Wepwawet hoặc Almásy, đã đứng trong phòng cùng với em và anh ấy. Hai tay anh khoanh lại, nhìn em và anh ấy cố hăng hái nói chuyện gẫu, không dễ dàng lắm vì cả hai đều say. Nhưng điều tuyệt diệu là ngay trong cơn say lúc hai giờ sáng, em và anh ấy bằng cách nào đấy đã cùng nhận ra giá trị và niềm vui bền vững ở người kia. Có thể hai người đã đến cùng với những người khác, có lẽ sẽ qua đêm cùng với những người khác, nhưng cả hai người đã tìm thấy định mệnh của mình.
Lúc ba giờ sáng, em cảm thấy em phải về, nhưng em không thể tìm ra một chiếc giày. Em cầm chiếc giày kia trong tay, một chiếc giày khiêu vũ màu hồng. Anh nhìn thấy chiếc giày còn lại vùi bên cạnh mình, và anh nhặt nó lên. Chiếc giày rực rỡ. Nó rõ ràng là đôi giày em ưa thích, có mang dấu ngón chân em. Em nói cám ơn, nhận lại chiếc giày khi về, thậm chí không nhìn đến mặt anh.
Anh tin điều này. Khi chúng ta gặp những người chúng ta yêu, linh hồn chúng ta có vai trò là sử gia, với chút thông thái rởm, sẽ tưởng tượng hay nhớ lại một cuộc gặp gỡ khi người kia vô tình đi ngang qua, cũng như Clifton có thể đã mở cửa xe cho em một năm trước đấy và không chú ý đến định mệnh của đời anh ấy. Nhưng tất cả mọi phần thân thể phải sẵn sàng cho người kia, tất cả những nguyên tử phải nhảy về cùng một phía để khao khát được hình thành.
Anh đã sống trong sa mạc nhiều năm và đã dần dà tin những điều như thế. Đấy là nơi chốn của những cái túi. Một trompe l’oeil của thời gian và nước. Con chó rừng một mắt ngoái nhìn và mắt kia ngắm con đường em đang cân nhắc. Trong hàm nó là những mảnh quá khứ nó mang đến cho em, và sau khi tất cả thời gian ấy qua đi rồi, em sẽ tin rằng mọi chuyện đã được tiên tri.
Đôi mắt nàng nhìn tôi, mỏi mệt với tất cả. Một sự mỏi mệt ghê gớm. Khi tôi kéo nàng ra khỏi máy bay, ánh mắt nàng cố nhận lấy tất cả mọi vật chung quanh mình. Bây giờ đôi mắt đề phòng, như để bảo vệ một điều bên trong. Tôi lại gần nàng hơn, ngồi xổm xuống. Tôi cúi xuống và đặt lưỡi lên con mắt màu xanh bên phải, thấy vị mặn của muối. Phấn hoa. Tôi mang vị ấy đến miệng nàng. Rồi con mắt kia. Lưỡi tôi lau đi màu xanh trên làn da mịn của mi mắt; khi tôi lùi lại, một vệt trắng giăng ngang tia nhìn của nàng. Tôi hé môi nàng, lần này tôi để những ngón tay vào sâu hơn, cạy hàm răng mở ra, cái lưỡi “thụt vào” và tôi phải kéo nó ra đằng trước, trong nàng đã có một sợi chỉ, một hơi thở của sự chết. Hầu như đã quá muộn. Tôi nghiêng xuống và dùng lưỡi mang phấn hoa màu xanh đến lưỡi nàng. Có lần chúng tôi từng ve vuốt như thế này. Không có gì xảy ra. Tôi lùi ra, hít một hơi và lại nghiêng xuống. Khi tôi gặp cái lưỡi, nó giật nhè nhẹ.
Rồi tiếng gừ dữ dội, hung hãn và thân thiết, thoát ra từ người nàng phủ lên tôi. Một cơn co giật suốt người nàng như dòng điện. Nàng bị hất ra khỏi thế ngồi dựa vào bức tường có hình vẽ. Con vật ấy đã vào trong nàng, nó lao đến và ngã gục vào người tôi. Dường như càng lúc hang động càng tối hơn. Cổ nàng vật vã qua lại.
Tôi biết những mưu chước của ma quỷ. Lúc nhỏ tôi được dạy về người tình ma quỷ. Tôi được kể về một người đàn bà xinh đẹp quyến rũ đến phòng một chàng trai trẻ. Nếu anh ta khôn ngoan, anh ta sẽ đòi cô ta quay người lại, vì ma quỷ và phù thủy không có lưng, chỉ có thứ họ muốn cho anh thấy. Tôi đã làm gì? Tôi đã đem loài thú nào vào người nàng? Tôi nghĩ tôi đã nói chuyện với nàng hơn một giờ. Phải chăng tôi đã là người tình ma quỷ của nàng? Phải chăng tôi đã là người bạn ma quỷ của Madox? Xứ sở này, có phải tôi đã vẽ biểu đồ cho nó và biến nó thành một chiến trường?
Chết ở thánh địa là điều quan trọng. Đấy là một trong những bí mật của sa mạc. Thế nên Madox vào nhà thờ ở Somerset, chỗ anh cảm thấy đã mất tính thiêng liêng, và anh làm điều anh tin là một hành vi thánh thiện.
Khi tôi xoay người nàng lại, cả người nàng phủ màu rực rỡ. Dược thảo và đá và ánh sáng và tro cây keo để biến nàng thành bất tử. Thân thể nàng ép sát vào màu sắc thiêng liêng. Chỉ màu xanh của mắt đã mất đi, biến con mắt thành vô danh, một bản đồ trống không vẽ gì, không dấu hiệu hồ nước, không cụm núi sẫm màu như ở phía bắc Borkou- Ennedi-Tibesti, không có cây quạt xanh màu chanh nơi con sông Nile chảy vào lòng bàn tay mở của Alexandria, bìa của châu Phi.
Và tất cả những cái tên của các bộ lạc, những người du mục sùng tín đã bước đi trong vẻ đơn điệu của sa mạc và nhìn thấy ánh rực rỡ và tín ngưỡng và màu sắc. Như một viên đá hoặc một hộp kim loại được tìm thấy hoặc xương có thể được yêu quý và biến thành bất tử trong những lời cầu nguyện. Bây giờ nàng đi vào và trở thành một phần sự huy hoàng của xứ sở này. Chúng tôi chết đi chứa đựng biết bao người tình và bộ lạc, mùi vị chúng tôi đã nuốt, thân thể chúng tôi đã lao vào và bơi lên như thể đấy là dòng sông tri thức, tính cách chúng tôi đã leo lên như cây cối, sợ hãi chúng tôi đã giấu đi như hang động. Tôi ước mong tất cả chuyện này được đánh dấu trên người tôi lúc tôi chết. Tôi tin vào nghệ thuật vẽ bản đồ như thế - mang dấu của thiên nhiên, không chỉ là chúng ta tự đặt mình lên một tấm bản đồ, như những tòa nhà mang tên của những ông bà giàu sang. Chúng ta là lịch sử chung, sách vở chung. Chúng ta không bị chiếm hữu hoặc chung thủy trong ý thích hoặc kinh nghiệm. Tôi chỉ mong ước được bước đi trên một quả đất không có bản đồ.
Tôi mang Katharine Clifton vào sa mạc, nơi có cuốn sách chung của ánh trăng. Chúng tôi ở giữa lời thì thầm của giếng nước. Trong cung điện của gió.
Khuôn mặt Almásy ngả về bên trái, nhìn vào khoảng không - đầu gối của Caravaggio, có lẽ.
“Ông có muốn morphine không?” “Không.”
“Ông có muốn thứ gì không?”
“Không.”