Người khôn ngoan nhất không phải là người gặt hái được nhiều thành công, mà là người biết biến thất bại thành những lợi thế nhất định.

Richard R. Grant

 
 
 
 
 
Tác giả: Yoko Ogawa
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3506 / 125
Cập nhật: 2017-11-22 20:59:00 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
ễ cứ nhìn thấy số nguyên tố là tôi lại nhớ tới giáo sư. Chúng ẩn mình ở mọi nơi trong cuộc sống thường nhật. Mác giá trong siêu thị, số nhà, bảng giờ xe buýt, hạn sử dụng của món thịt hun khói, điểm kiểm tra của Căn… Vừa trung thành với vai trò mà ai cũng nhìn thấy vừa can đảm bảo vệ và gánh vác cái nghĩa vốn có đằng sau.
Tất nhiên, không phải cứ nhìn một cái là nhận ngay ra số nguyên tố. Nhờ được giáo sư rèn giũa, tôi có thể đoán biết được các số nguyên tố dưới 100 bằng cảm giác mà không cần làm tính. Nhưng khi những con số lớn hơn, tôi bắt buộc phải dùng đến phép chia. Có trường hợp mới nhìn thì tưởng hợp số nhưng hóa ra lại là số nguyên tố, ấy vậy mà cũng không ít trường hợp chắc mẩm là số nguyên tố song rốt cuộc lại tìm được nhiều ước số.
Tôi cũng học giáo sư bỏ sẵn một cây bút chì và cuốn sổ nhỏ vào trong túi tạp dề. Để lúc nào đó có thể tính toán khi chợt nảy ra điều gì. Chẳng hạn, lúc lau chùi tủ lạnh trong bếp nhà vị tư vấn thuế, dòng số hiệu sản xuất 2311 khắc chìm ở mặt sau cánh cửa bỗng đập vào mắt. Linh cảm rằng đó sẽ là một con số thú vị, tôi rút cuốn sổ ra, quẳng nước rửa bát cùng giẻ lau sang một bên và bắt đầu tính toán. Trước tiên tôi chia cho 3, rồi đến 7, rồi đến 11. Không được. Số nào cũng bị lẻ 1. Tiếp đó là 13, 17, 19. Nhưng cũng không chia hết. Hơn nữa, cái cách không chia hết ấy thật kỳ lạ. Nó tuột khỏi tay vào đúng cái giây phút tưởng chừng như đã tóm được chân tướng của nó. Nó vừa khiến người ta linh cảm về một bước tiến mới vừa gây ra một cảm giác theo đuổi vô vọng đến khó tả. Đó bao giờ cũng là phong cách của số nguyên tố.
Tôi nhận định 2311 là số nguyên tố, cất giấy bút vào túi rồi tiếp tục lau chùi. Chỉ đơn giản vì số hiệu sản xuất của nó là số nguyên tố mà tôi bỗng cảm thấy quý mến cái tủ lạnh này. Một cái tủ lạnh trực tính, không thỏa hiệp, luôn luôn giữ vững sự thanh cao. Tôi có cảm giác như vậy.
Trong lúc cọ sàn văn phòng, tôi tình cờ bắt gặp con số 341. Tờ khai thuế màu xanh đánh số 341 rơi dưới gầm bàn.
Có thể đó là số nguyên tố. Tôi ngay lập tức dừng tay đưa cây cọ sàn. Tờ khai thuế có vẻ bị rơi đã lâu, bụi phủ đầy, nhưng tín hiệu mà số 341 phát ra vẫn không mất đi sức sống. Nó có một vẻ quyến rũ xứng đáng được nhận sự ân sủng của giáo sư.
Đã không còn bóng dáng nhân viên trong văn phòng, đèn điện cũng đã tắt quá nửa, tôi bắt tay vào việc kiểm chứng. Tôi vẫn chưa có cho mình một quy trình chuẩn mực để phân biệt số nguyên tố nên chỉ biết phó mặc cho linh cảm. Một lần, tôi được giáo sư dạy cho phương pháp do ông viện trưởng thư viện Alexandria tên là Eratosthenes phát minh ra, nhưng rối rắm quá nên không còn nhớ nữa. Song một người coi trọng trực giác như giáo sư hẳn sẽ tha thứ cho cách làm bất nguyên tắc của tôi.
341 không phải số nguyên tố.
- Ồ, chuyện gì thế…
Tôi làm lại phép tính 34111.
341 : 11 = 31
Chia hết.
Tất nhiên, tôi vui khi tìm ra số nguyên tố. Nhưng không vì vậy mà thất vọng khi hiểu rằng đó không phải là một số nguyên tố. Ngay cả khi phán đoán trật khấc, tôi vẫn có những thu hoạch khác. Nhân 11 với 31 tôi có được một số giả nguyên tố. Đây là một phát kiến mới mẻ, nó chỉ ra cho tôi một hướng đi khác, đó là liệu có quy luật nào để tạo ra một số giả nguyên tố gần giống nhất với số nguyên tố không?
Tôi đặt tờ khai thuế lên bàn, giặt cây cọ trong xô nước đục ngầu rồi vắt mạnh. Cho dù tôi có tìm ra một số nguyên tố, hay xác định một số không phải là số nguyên tố, chẳng có gì đổi khác. Trước mắt tôi, công việc cần làm còn nhiều như núi. Số hiệu sản xuất dẫu là bao nhiêu thì chiếc tủ lạnh vẫn phải hoàn thành bổn phận của mình, và người nộp tờ khai thuế số 341 vẫn không thôi đau đầu vì tiền thuế. Đã chẳng thấy lợi đâu mà cái hại đã bày ra trước mắt. Kem trong tủ lạnh chảy, việc cọ sàn đình đốn, khiến cho vị tư vấn thuế bực dọc. Vậy mà cái sự thật rằng 2311 là số nguyên tố, 341 là hợp số vẫn in đậm trong óc tôi.
- Trật tự của toán học chẳng có ích lợi gì đối với thực tế, chính vì vậy mà nó đẹp.
Tôi nhớ lại điều giáo sư từng nói.
- Việc giải mã những tính chất của số nguyên tố chẳng đem lại sự tiện lợi cho cuộc sống hay giúp ta kiếm được nhiều tiền hơn. Tất nhiên, cho dù có quay lưng lại với thế giới thì những phát kiến của toán học trên thực tế vẫn được ứng dụng rất nhiều. Nghiên cứu đường cong ellip giúp tìm ra quỹ đạo của các hành tinh, hình học phi Euclid giúp Einstein đề xuất hình dạng vũ trụ. Bản thân số nguyên tố phải chịu một phần trách nhiệm trong chiến tranh, vì nó là nền tảng của mật mã. Đó là việc xấu. Song đó không phải là mục đích của toán học. Mục đích duy nhất của toán học là tìm ra sự thật.
Giáo sư coi "sự thật" cũng quan trọng như số nguyên tố.
- Nào, cô thử kẻ một đường thẳng ở đây xem.
Giáo sư nói với tôi như vậy bên bàn ăn vào một buổi chiều. Tôi dùng bút chì và đũa thay cho thước kẻ vạch một đường thẳng lên sau tờ quảng cáo (nháp của chúng tôi lúc nào cũng là những tờ quảng cáo trên báo).
- Đúng rồi. Đó là một đường thẳng. Cô hiểu chính xác định nghĩa đường thẳng. Nhưng thử nghĩ xem. Đường thẳng cô vẽ có điểm đầu và điểm cuối, đúng không nào? Như vậy nó là đoạn thẳng, đường ngắn nhất nối hai điểm. Đường thẳng thực sự theo định nghĩa không có đầu mút. Phải chạy dài vô hạn. Tuy nhiên, khổ của một tờ giấy thì hữu hạn, sức vóc của cô cũng có giới hạn, nên chỉ có cách thừa nhận đoạn thẳng này là đường thẳng mà thôi. Hơn nữa, dù dao có sắc đến đâu, ta cũng không thể gọt cây bút chì nhọn tuyệt đối. Theo đó, đường thẳng này có độ dày nhất định. Tức có diện tích. Tóm lại, ta không thể vẽ một đường thẳng thực sự trên một tờ giấy thật.
Tôi chăm chú nhìn cây bút chì.
- Đường thẳng thực sự nằm ở đâu? Chỉ có ở nơi này.
Giáo sư ấp tay lên ngực mình. Giống hệt như hồi dạy tôi về hư số.
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, cái sự thật vĩnh hằng không bao giờ lay chuyển bởi vật chất, hiện tượng tự nhiên hay tình cảm. Toán học có thể giải mã và biểu hiện sự thật mà không thứ gì ngăn trở được.
Một kẻ vừa cọ sàn nhà với cái bụng đói vừa lo lắng cho Căn như tôi cần biết bao nhiêu sự tồn tại của cái chân lý vĩnh hằng mà giáo sư nói tới. Tôi thực sự cần cái cảm giác mà ở đó thế giới vô hình đang nâng đỡ thế giới hữu hình. Một đường thẳng đích thực chạy dài vô hạn, không có độ dày hay diện tích, xuyên qua bóng đêm một cách uy nghiêm. Chính đường thẳng đó đã đem lại cho tôi chút ít bình tâm.
- Cô hãy mở to đôi mắt thông minh của mình ra.
Tôi căng mắt trong bóng tối giữa lúc nhớ lại lời giáo sư.
- Cô phải tới ngay nhà của vị giáo sư toán học đó. Nghe nói con trai cô đã gây chuyện rắc rối. Tôi không nắm được chi tiết, nhưng cô phải đi ngay. Đó là mệnh lệnh của chủ tịch nghiệp đoàn.
Một nhân viên của nghiệp đoàn Akebono gọi điện tới nhà vị tư vấn thuế cho tôi vào lúc tôi vừa đi chợ về và đang định chuẩn bị bữa cơm chiều. Tôi chưa kịp hỏi gì thì máy đã ngắt.
Điều đầu tiên hiện ra trong tôi là lời nguyền của trái bóng lạc. Phải chăng chuỗi chuyện chẳng lành vẫn chưa kết thúc, mà ngược lại, trái bóng tưởng đã tránh được lần ấy bây giờ quay lại và rơi trúng đầu Căn? Lời cảnh báo của giáo sư đã ứng nghiệm: "Không được bỏ mặc trẻ con một mình."
Biết đâu Căn đang nghẹn vì chiếc bánh mì Donut. Hay có thể chiếc phích cắm của máy thu thanh đã khiến nó bị giật điện. Những ý nghĩ hỗn độn cứ quanh quẩn trong đầu tôi. Sợ hãi và run rẩy, tôi vội lao tới nhà giáo sư trong tình cảnh không sao có thể giải thích rõ tình hình với bà chủ và còn bị vị tư vấn thuế ném vào mặt những lời không hay.
Mới chưa đầy một tháng mà căn nhà ngang đã biến thành một nơi xa lạ. Chiếc chuông cửa bị hỏng, những đồ gỗ tẻ nhạt và khu vườn hoang vẫn như trước, nhưng vừa bước chân vào nhà, tôi đã thấy một cảm giác nặng nề. Song tôi lập tức hiểu rằng, đó không phải do Căn, nên bước đầu thấy yên tâm. Nó không bị nghẹn cũng không bị điện giật mà đang ngồi cạnh bàn ăn với giáo sư. Chiếc cặp sách để dưới chân.
Cái cảm giác nặng nề ấy là vì có bà quả phụ ở trên ngôi nhà chính đang ngồi trước mặt họ. Đứng chờ bên cạnh bà ta là một phụ nữ trung niên tôi không hề quen biết. Chắc hẳn là người giúp việc kế nhiệm tôi. Tôi không nói được gì, không khí đầy ác cảm bởi đã có một kẻ chen ngang vào cái nơi thuộc về ký ức mà đáng lẽ ra chỉ có ba người là giáo sư, Căn và tôi.
Vừa thở phào nhẹ nhõm, tôi lại ngạc nhiên tự hỏi cớ sao Căn ở đây. Bà quả phụ đang ngồi ở đoạn giữa bàn ăn vẫn cách ăn mặc quý phái hệt như hồi phỏng vấn tôi. Và cây gậy vẫn nằm trong bàn tay trái. Căn không đưa mắt nhìn tôi mà vẫn ngồi im ngoan ngoãn. Ở bên cạnh, giáo sư đã chìm vào trạng thái suy nghĩ. Ông tập trung toàn bộ ý thức về phía không bắt gặp ánh mắt của bất cứ ai.
- Xin lỗi vì đã làm phiền cô trong lúc cô đang bận rộn. Mời cô ngồi xuống đây.
Bà quả phụ chỉ cho tôi chiếc ghế. Vì phải chạy suốt dọc đường từ ga tới đây, nên hơi thở của tôi vẫn còn gấp gáp và chưa thể nói thành lời.
- Xin cô cứ ngồi xuống, không cần khách sáo. Còn cô, đi pha trà cho khách.
Người giúp việc mà tôi không rõ có phải người của Akebono hay không đi vào trong bếp. Tôi có thể đọc được vẻ bất nhẫn của bà quả phụ qua những cử chỉ thiếu bình tĩnh như liếm môi liên tục hay gại móng tay lên bàn mặc cho nhửng lời lẽ lịch duyệt. Tôi ngồi xuống theo lời bà ta mà không biết nên mào đầu thế nào.
Im lặng kéo dài một lúc lâu.
- Cô…
Bà quả phụ mở đầu trong lúc cào mạnh móng tay xuống bàn.
- …đang toan tính điều gì vậy?
Sau khi lấy lại hơi, tôi nói:
Thưa bà, con trai tôi đã quấy quả điều gì chăng?
Căn cúi đầu, hết gấp rồi lại mở chiếc mũ Tigers trên đầu gối.
- Lỗi phép cô tôi đang hỏi trước. Cớ sao con của một người giúp việc đã thôi việc lại cần thiết đến nhà em chồng tôi?
Lớp sơn móng tay kỳ công bong ra, rơi lả tả trên mặt bàn.
- Cháu chẳng làm gì xấu cả.
Căn lên tiếng, mặt vẫn cúi gằm.
- Hơn thế nữa, đó lại là đứa con của một người giúp việc đã thôi việc từ xửa xưa.
Bà quả phụ nói, cắt ngang lời Căn. Bà ta luôn miệng nhắc đến "con của một người giúp việc" nhưng chẳng thèm ngó ngàng đến Căn, cũng không buồn để mắt tới giáo sư. Bà ta tỏ vẻ như hai người họ không hề hiện diện ở đó.
- Không, đây không phải là vấn đề cần thiết hay không cần thiết …
Tôi đáp, vẫn chưa thực sự nắm được tình hình.
- Tôi nghĩ cháu chỉ muốn đến chơi một chút thôi…
- Cháu định cùng giáo sư đọc Truyện về Ludwig Heinrich Gehrig mượn được ở thư viện.
Cuối cùng Căn cũng chịu ngẩng mặt lên.
- Xin hỏi cô, một ông già hơn sáu mươi tuổi và một đứa bé mười tuổi thì chơi gì với nhau?
Một lần nữa, lời nói của Căn bị bỏ ngoài tai.
- Tôi xin lỗi vì để cháu tùy tiện đến gây phiền toái cho gia đình. Việc này là do tôi giám sát cháu không đến nơi đến chốn, mong bà lượng thứ.
- Ồ không. Tôi không định nọ này về chuyện ấy. Vấn đề tôi muốn hỏi là cô có ý định gì khi đã bị sa thải mà vẫn gửi con đến đây.
Tiếng móng tay kêu ken két mỗi lúc một chói tai.
- Ý đồ? Hình như bà đang hiểu lầm. Cháu nhà tôi mới có mười tuổi thôi. Cháu đến vì muốn chơi với giáo sư. Tìm thấy cuốn sách hay thì cháu rủ giáo sư đọc cùng. Chỉ đơn giản như vậy thôi, thưa bà.
- Ồ cô nói đúng. Trẻ con không có tà ý. Chính vì vậy tôi mới hỏi cô đang toan tính gì.
Tôi không có ước vọng gì hơn việc làm sao cho cháu được vui vẻ.
Nhưng cớ sao cô lại lôi kéo cả em chồng tôi vào? Đang đêm mà cả ba người dắt nhau ra ngoài, rồi còn ngủ lại trông nom nhau. Tôi đâu có yêu cầu cô làm việc đó.
Người giúp việc vừa mang trà tới. Một người giúp việc tận tụy với công việc. Không nói một lời, không gây một tiếng động trong lúc bày trà cho mọi người. Rõ ràng là chị ta không có ý định trở thành đồng minh của tôi. Chị ta vội đi vào bếp như muốn tránh dính líu vào chuyện rắc rối.
- Tôi thừa nhận mình đã không làm đúng nguyên tắc công việc. Nhưng tôi chẳng có ý đồ hay mưu toan gì hết. Chuyện đơn giản hơn thế bội phần.
- Phải chăng là vì tiền?
- Tiền?
Bất ngờ trước câu nói của bà ta, tôi buột miệng:
- Sao bà có thể nói những lời như thế, mà lại trước mặt một đứa trẻ? Xin bà hãy rút lại câu nói của mình.
- Tôi đâu có thể nghĩ khác. Cô định lấy lòng em chồng tôi để lung lạc chú ấy.
- Hồ đồ…
- Cô đã bị sa thải. Cô không còn liên hệ gì với chúng tôi nữa.
- Bà thôi đi.
- Xin lỗi...
Người giúp việc lại xuất hiện. Chị ta tháo tạp dề, xách túi.
Đã đến giờ, tôi xin phép về trước.
Chị ta bước ra không một tiếng động khi bưng trà đến. Chúng tôi nhìn theo dáng đi ấy.
Giáo sư mỗi lúc chìm sâu vào suy nghĩ, cái mũ của Căn nhàu nhĩ. Tôi thở trút ra một hơi dài.
- Vì chúng tôi là bạn. - Tôi tiếp tục. - Chẳng lẽ bạn bè không được đến nhà nhau chơi?
Cô nói ai với ai là bạn?
- Tôi, con trai tôi và giáo sư.
Bà quả phụ lắc đầu.
- Có lẽ cô đã tính nhầm. Em chồng tôi không có chút tài sản nào hết. Chú ấy đã ném toàn bộ những gì bố mẹ để lại vào toán học mà chẳng thu về được một cắc nào.
- Chuyện đó không liên quan tới tôi.
- Em chồng tôi không có bạn. Chưa từng có người bạn nào tới đây chơi.
Giáo sư bất thần đứng dậy.
- Không được. Không được ức hiếp trẻ nhỏ.
Thế rồi giáo sư viết một cái gì đó lên mẩu giấy nhớ móc ra từ trong túi, đặt lên giữa bàn ăn và đi ra ngoài với thái độ cương quyết như thể đã quyết định sẽ làm như thế từ trước. Không tức giận hay bấn loạn, chỉ có sự tĩnh lặng bao quanh ông.
Chỉ còn ba người chúng tôi trân trân nhìn mẩu giấy. không ai nhúc nhích một lúc lâu. Trên đó có duy nhất một công thức toán.
eπi + 1 = 0
Không ai nói thêm một lời nào nữa. Bà quả phụ thôi cào móng tay. Tôi nhận thấy trong mắt bà ta sự bất nhẫn vẻ lãnh đạm và mối nghi ngờ dần biến mất. Tôi nghĩ rằng đó là người thấu hiểu vẻ đẹp của công thức đó.
Ít lâu sau, tôi nhận được thông báo từ nghiệp đoàn yêu cầu quay lại nhà giáo sư làm việc. Phải chăng bà quả phụ đã đổi ý sau cuộc trao đổi giữa chúng tôi? Hay chỉ đơn giản là người giúp việc mới không tài nào quen nổi nên nghiệp đoàn cũng hết cách. Nhưng dù sao thì giáo sư cũng đã có được ngôi sao xanh thứ mười một. Còn về chuyện bà quả phụ đã thôi cái ý nghĩ hiểu lầm vô lý đổ bấy lên đầu tôi hay chưa thì tôi không cách nào kiểm tra được. Lần nào nghĩ lại, tôi cũng thấy phản ứng của bà ta cứ kỳ quặc thế nào. Cái kiểu mách lẻo với nghiệp đoàn để sa thải tôi hay tỏ ra thái quá về chuyện Căn đến chơi thật là khó hiểu
Cái đêm chúng tôi đi xem bóng chày, hẳn là chính bà ta chứ không ai khác đã nhòm trộm vào nhà ngang từ khu vườn phía sau. Tưởng tượng ra cảnh bà ta kéo lê đôi chân bị tật, núp mình trong bụi rậm và tay nắm chặt cây gậy, tôi bỗng nhiên quên hẳn những nghi ngờ vô căn cứ của bà ta với tôi, và chỉ còn lại mối cảm thương.
Đôi lúc, tôi từng nghĩ, biết đâu chuyện tiền nong chỉ là cái cớ dựng nên để che giấu lòng ghen tuông của bà ta với tôi. Biết đâu bà ta yêu giáo sư theo cách riêng của mình, nên tôi chính là cái gai trong mắt. Biết đâu việc cấm đi lại giữa nhà ngang với nhà chính không phải để tránh mối quan hệ với người em chồng mà chỉ nhằm giữ kín cái bí mật kia và để tôi không thành kẻ ngáng đường
Ngày đầu tiên tôi quay trở lại nhà giáo sư là ngày mồng 7 tháng Bảy. Lúc giáo sư xuất hiện nơi ngưỡng cửa, bộ com lê đầy những mẩu giấy nhớ phất phơ trông như đám tua rua. Trong số đó, mẩu giấy có hình tôi và Căn vẫn đính trên băng sét.
Lúc chào đời, cô được mấy cân?
Màn vấn đáp về các con số ở ngưỡng cửa vẫn không có gì thay đổi, những câu hỏi về cân nặng lúc chào đời là một câu hỏi mới.
Tôi quên mất cân nặng của mình nên trả lời theo số cân nặng của Căn.
Lấy lũy thừa bậc 3217 của 2 trừ đi 1, ta được một số nguyên tố Mersenne.
Vừa lẩm bẩm, giáo sư vừa quay người bước về phía thư phòng.
Trong một tháng qua, Tigers đã có những bước tiến vững chắc và liên tục bám sát ngôi đầu bảng. Kể từ sau thành tích no- hit- no- run của Yufune, các cầu thủ ném bóng luôn là động lực cho các cầu thủ đánh bóng. Thế nhưng, bước vào cuối tháng Sáu, phong độ của Tigers bắt đầu tuột dốc, tính tới hôm vừa rồi đội đã liên tiếp thua sáu trận, để Giants qua mặt và rớt xuống vị trí thứ ba.
Người giúp việc thế chân tôi hình như là một người tỉ mẩn, chị đã xếp lại toàn bộ chỗ sách toán mà tôi hầu như không động đến vì sợ quấy rầy công việc của giáo sư lên giá, số nào không xếp thì chị ta để lên nóc tủ quần áo hoặc nhét xuống cái khe bé tí dưới gầm sofa. Hơn nữa, tiêu chí phân loại duy nhất của chị ta là khổ sách. Thoạt nhìn qua thì thấy có vẻ thật dễ chịu, nhưng cái trật tự ẩn giấu trong sự hỗn độn tích tụ sau nhiều năm đã hoàn toàn bị phá vỡ.
Tôi bỗng lo lắng đi tìm chiếc hộp bánh bích quy đựng những quân bài bóng chày. Ở một chỗ không xa chỗ cũ, nó được kê dưới các cuốn sách để điều chỉnh cho độ cao của chúng bằng nhau. Bên trong đó, Enatsu vẫn vô sự.
Cho dù vị trí xếp hạng của Tigers có biến động, thư phòng có sạch sẽ hơn thì cuộc sống của giáo sư vẫn chẳng có gì thay đổi. Hơn thế nữa, chỉ cần chưa đầy hai ngày, mọi nỗ lực của người giúp việc trước tan tành như bong bóng, thư phòng lại trở về khung cảnh quen thuộc ngày xưa.
Cái mẩu giấy nhớ giáo sư đặt lên giữa bàn ăn hôm đó tôi vẫn giữ gìn cẩn thận. May mắn thay bà quả phụ đã để mặc tôi lấy nó. Tôi cẩn trọng gấp nó lại, cất vào chiếc ví có ảnh của Căn.
Để biết được ý nghĩa của cái công thức ghi trên đó, tôi đã phải đến thư viện thị trấn. Chỉ cần hỏi, chắc là giáo sư sẽ giảng cho tôi ngay, song tôi không làm thế vì linh cảm rằng nếu tự mình mày mò, ý nghĩa của nó sẽ khắc vào đầu sâu hơn. Đó chỉ là linh cảm, chứ chẳng dựa trên căn cứ nào. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi quen biết giáo sư, dần dà trí tưởng tượng của tôi đối với những con số và ký hiệu bắt đầu phát triển tựa như với âm nhạc hay văn chương. Ở công thức chẳng lấy gì làm dài ấy có một sức nặng không thể bỏ qua.
Tôi đã đặt chân đến thư viện suốt từ dạo tới mượn sách về khủng long cho bài nghiên cứu ngoại khóa của Căn vào kỳ nghỉ hè năm ngóai. Khu vực dành cho toán học nằm ở góc trong cùng phía Đông trên tầng hai. Chẳng có ai khác ngoài tôi, mọi thứ vắng lặng như tờ.
Những cuốn sách trong thư phòng tất thảy đều cáu ghét, hoặc bị gấp trang, hoặc dính thức ăn, nói chung là luôn luôn có dấu tay của giáo sư, nhưng sách trong thư viện thì quá đỗi gọn gàng, thật xa lạ. Hẳn là trong số sách toán kia, có những cuốn cả đời chẳng được ai động đến.
Tôi rút mẩu giấy trong ví ra.
eπi + 1 = 0
Vẫn là bút tích thường lệ của giáo sư. Về tổng thể, chúng mang một vẻ tròn trịa, đôi chỗ, nét chì bị nhạt, song không hề có cảm giác cẩu thả, mà ngược lại, người ta có thể thấy sự nắn nót trong hình dạng của các ký hiệu hay cách khoanh tròn số 0. Dòng công thức hơi nhỏ so với diện tích mẩu giấy và được ghi hơi chếch lên phía trên một cách cẩn thận.
Nhìn kỹ lại, đó là một công thức khác thường. Chẳng hạn, nó có một vẻ mất cân đối khó diễn tả so với những công thức ít ỏi mà tôi từng biết như diện tích hình chữ nhật thì bằng chiều rộng nhân với chiều dài, hay bình phương cạnh huyền của tam giác vuông thì bằng tổng bình phương hai cạnh còn lại v.v. Chỉ có hai con số xuất hiện là 1 và 0, chỉ có một phép tính duy nhất là phép cộng, vô cùng đơn giản nhưng sao ký hiệu đầu tiên lại giống một cái đầu bất cân xứng đến vậy. Và kẻ cuối cùng nâng đỡ cái đầu quá khổ ấy là một số 0.
Tuy nói là tra cứu, song tôi cũng chưa biết bắt đầu từ đâu. Tôi bất đắc dĩ rút phứt mấy quyển sách gần mình nhất rồi lật thử vài trang.
Thuần là toán học. Tôi không dám tin rằng đây là vật sở hữu chung của những con người giống tôi. Mỗi trang giấy ở đây là một bản vẽ giải mã những bí mật của vũ trụ? Hay là những thứ được chép ra từ cuốn sổ của Thượng đế?
Trong tưởng tượng của tôi, Đấng sáng thế đang đan một tấm ren lớn ở nơi tận cùng của bầu trời xa xôi. Một tấm ren được móc bằng thứ chỉ thượng hạng để những tia nắng dù yếu ớt nhất cũng có thể xuyên qua. Các mẫu họa tiết chỉ có trong đầu Ngài, không một kẻ nào có thể đánh cắp hay đoán trước được họa tiết nào sẽ xuất hiện tiếp theo. Cây kim chuyển động không ngừng. Tấm ren kéo dài ra bất tận, tạo thành những đợt sóng, uốn lượn trong gió. Loài người bất giác đưa tay với lấy, họ không thể cầm lòng soi nó lên ánh nắng. Họ khóc và cọ má mình vào đó. Rồi họ cầu nguyện để có thể đan lại những họa tiết trên đó bằng ngôn ngữ của mình. Ai cũng muốn có riêng cho mình dù chỉ là một mảnh bé tí xíu, để mang về mặt đất.
Bất chợt đập vào mắt tôi là cuốn sách về định lý cuối cùng của Fermat. Nội dung của nó giống với một cuốn sách lịch sử hơn là sách toán nên tôi cũng hiểu được đôi phần. Tôi từng biết rằng định lý cuối cùng của Fermat là một bài toán lớn vẫn chưa có lời giải, song không ngờ lại được phát biểu đơn giản đến thế.
"Không có số tự nhiên X, Y, Z nào thỏa mãn phương trình Xn + Yn = Zn với n là số tự nhiên lớn hơn 3."
Ô, chỉ có vậy thôi ư? Suýt nữa thì ý nghĩ ấy bật ra khỏi miệng tôi. Tôi tin rằng có thể tìm thấy vô khối số tự nhiên thỏa mãn phương trình này. Nếu n bằng 2 thì đó chính là định lý Pythagoras, vậy mà n mới chỉ lớn hơn một đơn vị thôi, mọi trật tư sẽ bị phá vỡ hay sao? Theo những gì đọc lướt qua, tôi được biết người ta tìm thấy mệnh đề này không phải từ một luận văn mà từ vài dòng viết vội của Fermat bên một lề giấy, nghe đâu ông không ghi lại phần chứng minh vì không đủ chỗ viết. Kể từ đó, có biết bao thiên tài đã dốc sức chứng minh cái định lý được coi như đích đến hoàn hảo của giới toán học, song đều tốn công vô ích. Chỉ vì sự đỏng đảnh của một người đàn ông mà các nhà toán học suốt ba thế kỷ vẫn không ngừng trăn trở, nghĩ đến đấy tôi thấy thương cho họ.
Tôi nghĩ tới độ dày và sức nặng của cuốn sổ Thượng đế, sự tinh diệu của tấm ren do Đấng sáng thế đan. Dù đã cần mẫn dò dẫm theo từng mũi đan, nhưng chỉ sơ sểnh một chút thôi, người ta sẽ mất đầu mối để bước tiếp. Vừa mới hoan hỉ vì chạm tới đích, những hoạ tiết phức tạp hơn lại xuất hiện.
Hẳn là giáo sư đã có cho mình một vài mảnh ren như thế. Liệu chúng có những hoạ tiết cầu kỳ trong suốt không? Tôi cầu mong cho chúng vẫn khắc sâu trong ký ức của ông.
Tôi tìm thấy cái công thức trong mẩu giấy nhớ của giáo sư ở giữa chương ba, phần giải thích về việc định lý cuối cùng của Fermat có liên quan như thế nào tới nền tảng lý thuyết số chứ không chỉ đơn thuần là một trò chơi ghép hình thỏa mãn trí tò mò của giới mê toán. Tôi đã không bỏ lỡ dòng công thức thoáng lưu lại trong khóe mắt khi lật giở những trang sách một cách không chủ đích. Tôi thận trọng so sánh trong mẩu giấy với trang sách. Không nhầm. Nó được gọi là công thức Euler.
Tôi hiểu rằng còn cả một chặng đường gian nan từ chỗ biết tên gọi tới chỗ hiểu được ý nghĩa của nó. Tôi vẫn đứng giữa các kệ sách, đọc đi đọc lại những trang có liên quan tới công thức này. Tôi thử đọc to những đoạn đặc biệt khó theo phương pháp giáo sư.Vẫn chỉ có mình tôi ở khu vực toán học, nên rốt cuộc không ai bị quấy rầy. Tôi lắng nghe giọng đọc của chính mình đang chui vào giữa những khe sách toán.
Tôi biết π. Đó là hằng số chu vi. Tôi cũng đã được giáo sư chỉ cho thế nào là i. Đó là căn bậc hai của - 1, là hư số. Rắc rối là e. e cũng giống như π, là số vô tỷ không tuần hoàn và hình như là một trong những hằng số quan trọng nhất của toán học.
Tôi phải bắt đầu từ định nghĩa, thế nào là logarith. Logarith là số mũ mà khi lũy thừa một hằng số với số mũ đó sẽ được một số xác định cho trước. Nhân tiện cũng phải nói rằng hằng số trong trường hợp này được gọi là "cơ số". Ví dụ: 100= 102, suy ra logarithm cơ số 10 của 100 (log10100) là 2.
Với hệ thập phân, việc sử dụng logarithm với cơ số 10 rất tiện lợi, nên người ta gọi đó là logarithm thông dụng(1), tuy nhiên, trong lý thuyết số, logarith cơ số e cũng đảm nhiệm một vai trò không thể đo đếm được. Người ta gọi đó là logarith tự nhiên. Ở đây, người ta xét đến một số mũ mà khi lũy thừa e với số mũ đó thì được một số xác định cho trước. Và e chính là "cơ số của logarith tự nhiên".
Theo tính toán của Euler, giá trị của hằng số e như sau:
e = 2,71828182845904523536028…
Các con số cứ tiếp diễn không ngừng. Công thức tính, so với tính phức tạp của câu chuyện này,lại vô cùng sáng rõ:
e = 1/0! + 1/1! + 1/2! + ...
Chỉ có điều, càng sáng rõ bao nhiêu thì sự bí ẩn của e càng sâu thẳm bấy nhiêu.
Người ta gọi đó là logarith tự nhiên, nhưng tự nhiên ở chỗ nào chứ? Chẳng phải quá bất tự nhiên hay sao khi lấy làm cơ số một số mà nếu không dùng được ký hiệu thì không thể biểu diễn được, không có trang giấy khổng lồ nào chứa nổi và không ai biết cái đuôi đó ra sao?
Một dãy số ngẫu nhiên, vô trật tự và bất tận giống như một đàn kiến xếp thành hàng dài lộn xộn hay như đứa trẻ vụng về xếp chồng các khối lập phương lên nhau thực ra lại mang một ý chí thống nhất. Việc liệt kê dãy số ấy quả là quá sức tôi. Mưu chước của Thượng đế thật khó lường. Vậy mà vẫn có kẻ bắt thóp được mưu chước ấy. Song biết bao người, kể cả tôi, chẳng ai biết ơn một cách đúng mực công lao của họ.
Tôi đổi bàn tay đã tê đi vì sức nặng của cuốn sách, lật thêm vài trang và mường tượng ra Leonhard Euler, nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ XVIII. Tiếp xúc với chỉ cái công thức ấy, tôi ngỡ như mình cảm thấy cả thân nhiệt của ông trong khi chẳng biết gì về ông. Euler đã sử dụng một khái niệm cực kỳ bất tự nhiên để tao ra một công thức. Ông đã phát hiện ra mối ràng buộc tự nhiên giữa những con số tưởng như vô can.
e mũ π nhân i cộng 1 bằng 0.
Tôi nhìn lại mẩu giấy nhớ của giáo sư một lần nữa. Một số kéo dài triền miên bất tận và một số hư ảo không bao giờ để lộ chân tướng vẽ nên một quỹ đạo gọn gàng rồi cũng nhau tiếp đất. Chẳng có hình tròn nào xuất hiện, nhưng từ tầng không, π bất ngờ sà xuống bên e, bắt tay với i - kẻ nhút nhát. Chúng nép vào nhau, nín thở, song vạn vật bỗng dưng biến đổi không báo trước vào cái ngày một người thêm vào đó phép cộng. Tất cả nằm gọn trong vòng tay của 0.
Công thức của Euler là ngôi sao băng chói giữa bóng đêm. Là câu thơ khắc trong hang tối. Vừa ngây ngất với vẻ đẹp giấu kín ấy, tôi vừa cất giấy vào ví.
Lúc bước xuống cầu thang thư viện, tôi bất giác ngoảnh đầu lại, nhưng vẫn chẳng có bóng người nào ở khu vực toán học, chẳng ai biết tới những thứ đẹp đẽ nhường ấy đang giấu mình ở đó, ngoại trừ sự tĩnh lặng.
Hôm sau, tôi lại đến thư viện để điều tra thêm một việc nữa vốn khiến tôi thắc mắc từ lâu. Tôi rút tập lưu chiểu dày cộp lưu trữ các số báo địa phương phát hành năm 1975 ra, nhẫn nại lật giở từng trang. Bài báo tôi tìm kiếm nằm trong số ra ngày 24 tháng Chín năm 1975.
Khoảng 4h10 chiều ngày 23, trên quốc lộ 2 thuộc khối 3 thị trấn OO, tài xế ●● (28 tuổi) lái chiếc xe tải hạng nhẹ của hãng vận tải đã lao qua dải phân cách và đâm thẳng vào chiếc xe bốn chỗ đang lưu thông trên làn đường ngược chiều do ông ▲▲ (47 tuổi) hiện là giáo sư toán học tại đại học điều khiển. Ông ▲▲ bị chấn thương nặng vùng đầu. Bà ▼▼ (55 tuổi) ngồi ghế trước là chị dâu của ông ▲▲ bị gãy chân trái. Tài xế xe tải cũng bị thương nhẹ ở trán. Cảnh sát cho rằng nguyên nhân của vụ tai nạn là do tài xế xe tải ngủ gật và đang lấy lời khai của người này…
Tôi gấp tập lưu chiểu lại. Tiếng chống gậy của bà quả phụ hiện lên trong đầu.
Suốt từ dạo ấy, tôi luôn giữ mẩu giấy nhớ của giáo sư bên mình ngay cả khi tấm ảnh của Căn đã nhạt màu. Đối với tôi, công thức Euler vừa là trụ đỡ, vừa là cách ngôn, vừa là bảo bối, vừa là di vật.
Tôi luôn tự hỏi tại sao lúc đó giáo sư lại viết ra công thức ấy. Không quát tháo, không đập bàn nạt nộ, chỉ với một công thức, giáo sư đã buộc trận cãi vã của bà quả phụ và tôi phải chấm dứt. Kết quả là tôi lại quay về làm người giúp việc, mối giao lưu của ông với Căn được khôi phục. Phải chăng giáo sư đã trù tính sẵn là sẽ làm như thế? Hay chỉ đơn thuần là một hành động bộc phát vì quá rối trí chứ chẳng có ý gì sâu xa?
Duy có một điều tôi dám chắc: Căn là mối lo lắng lớn nhất của giáo sư. Ông e sợ trận đôi co giữa những người đàn bà chúng tôi vì ông sẽ khiến thằng bé phải nghĩ ngợi. Bởi vậy, ông đã cứu Căn thoát khỏi tình cảnh ấy theo cái cách độc nhất vô nhị của riêng ông và chỉ mình ông mới làm được.
Bây giờ ngẫm lại, tôi không biết nói sao về lòng yêu thương thuần khiết mà giáo sư dành cho con trẻ. Đó là một sự thật vĩnh hằng và bất biến như công thức Euler.
Giáo sư luôn cố bảo vệ Căn trong mọi trường hợp. Ông cho rằng Căn lúc nào cũng cần rất rất nhiều sự giúp đỡ và ông là người có nghĩa vụ thực hiện điều đó mặc cho chính mình đang ở vào một tình cảnh chẳng lấy gì làm thuận lợi. Và ông coi việc thực hiện nghĩa vụ ấy là niềm vui tối thượng.
Sự quan tâm của giáo sự không phải lúc nào cũng thể hiện bằng hành động, đôi khi chúng biểu lộ theo những cách không thể thấy bằng mắt thường. Nhưng cảm giác của Căn chẳng bỏ sót điều gì. Thằng bé không đón nhận chúng với vẻ mặt thản nhiên hay vô ý bỏ qua. Nó hiểu rằng những gì giáo sư giành cho nó thật đáng biết ơn và trân trọng. Khả năng ấy của Căn có từ khi nào nhỉ, tôi ngạc nhiên tự hỏi.
Hễ thấy phần thức ăn của mình nhiều hơn của Căn là giáo sư sẽ cau mày nhắc nhở tôi. Bất kể là cá, bíp tết hay dưa hấu, phần ngon nhất phải dành cho người ít tuổi nhất. Đó là tín điều của giáo sư. Ông luôn dành cho Căn một quỹ thời gian vô hạn, ngay cả khi đang say sưa giải toán. Ông vui sướng đón nhận bất cứ câu hỏi nào của Căn vì tin rằng trẻ con thường băn khoăn nhiều hơn người lớn về những câu hỏi khó. Không những đưa ra câu trả lời chính xác, giáo sư còn khiến người đặt câu hỏi cảm thấy tự hào. Căn không chỉ thấy sự xuất sắc nơi những câu trả lời, mà còn chết đắm bởi ý nghĩ: ồ, mình cũng hỏi ra trò đấy chứ!
Giáo sư còn là một thiên tài trong việc quan sát cơ thể Căn. Ông phát hiện ra lông mi quặm hay mụn ở gốc tai Căn nhanh hơn tôi nhiều. Chẳng cần quan sát hay sờ nắn vào đâu, chỉ cần thằng bé ở trước mặt là ông lập tức biết được chỗ nào có vấn đề. Hơn thế nữa, để khỏi làm thằng bé lo lắng, ông thường ý tứ nói nhỏ với tôi những phát hiện của mình.
Tôi vẫn còn nhớ rõ giọng thì thào của giáo sư sau lưng lúc tôi đang rửa bát trong bếp.
- Này, tôi nghĩ là cần phải chữa cái mụn kia cho thằng bé đi.
Cách nói của ông nghe như sắp đến ngày tận thế.
- Quá trình trao đổi chất ở trẻ con diễn ra rất mãnh liệt, nên nếu cứ để nguyên, cái mụn sẽ sưng to ra và có thể đè lên các hạch bạch huyết hoặc làm nghẹt khí quản.
Sự lo lắng của giáo sư luôn được đẩy đến đỉnh điểm trong những tình huống có liên qua đến cơ thể Căn.
- Vâng, để tôi lấy kim chích nó đi.
Giáo sư phát cáu vì câu trả lời tắc trách của tôi.
- Làm thế nhỡ nhiễm trùng thì sao?
- Chỉ cần hơ qua lửa để sát trùng thì được thôi mà, thưa giáo sư.
Việc tôi cố tình chọc tức sẽ khiến ông càng lúc càng lo lắng một cách vô cớ, điều đó làm tôi thích thú. Và còn một điều nữa, tôi vui khi thấy ông lo lắng cho Căn như thế.
- Không được, vi khuẩn có ở khắp nơi. Chúng mà nhiễm vào máu rồi lên não thì không cách nào cứu vãn được đâu.
Giáo sư không chịu xuống nước cho tới khi tôi phải đồng ý: Vâng, tôi sẽ đưa cháu đến bệnh viện.
Giáo sư coi Căn như số nguyên tố. Ông cho rằng trẻ con là những nguyên tử vô cùng cần thiết với những người lớn như chúng tôi, tựa như số nguyên tố là nhân tố cấu thành mọi số tự nhiên khác. Ông tin rằng bản thân mình tồn tại được là nhờ những đứa trẻ.
Mỗi lần cần bình tâm, tôi lại bỏ mẩu giấy nhớ ra ngắm nghía. Những đêm không ngủ, những buổi chiều cô đơn hay những lúc chảy nước mắt vì nhớ ai đó. Và cúi đầu trước sự vĩ đại của dòng công thức ấy.
Giáo Sư Và Công Thức Toán Giáo Sư Và Công Thức Toán - Yoko Ogawa Giáo Sư Và Công Thức Toán