Số lần đọc/download: 4104 / 176
Cập nhật: 2014-12-04 15:47:54 +0700
Chương 6
C
hương 6: Tấm bia vô danh
Các bậc cha mẹ của những người di trú trẻ có trực giác rất tệ hại. Trong mọi trường hợp, họ đều đưa ra những lời khuyên tồi, họ là chuyên gia của những kiến thức đã lỗi thời và cực kỳ bảo thủ bắt nguồn từ sợ hãi. Vài người còn cấm tiệt con cái mình, đặc biệt là những cô con gái, không được rời bỏ quê hương ra đi. Nhưng một khi con cái đã lên thành phố, những lời nhắn nhủ của cha mẹ đột ngột thay đổi: gửi tiền về nhà, càng nhiều càng tốt. Một số bậc phụ huynh gây áp lực buộc con gái mình kết hôn, nhưng chỉ được kết hôn với người nào quê ở tỉnh nhà - một việc cũng vô lý như kiểu bảo một người sống ở New York chỉ được hẹn hò với ai quê gốc ở bang Ohio. Trên lĩnh vực nghề nghiệp, lời khuyên của họ cũng luôn luôn tệ hại: họ ngăn cản con cái mình nhảy việc ở các nhà máy, nhưng đó lại là con đường tốt nhất để tiến lên phía trước.
Dân di trú mau chóng học được cách xử trí với cha mẹ. Họ không nghe lời, họ cãi lại, và họ nói dối. Họ giữ khoảng cách giữa hai bên. Xuân Minh không về quê lần nào trong suốt ba năm đầu cô lên thành phố. Các cô gái đều rất thực tế về hành vi "tội lỗi" này của mình. "Các cụ chẳng biết bên ngoài mọi chuyện diễn ra như thế nào cả, vì vậy tôi làm gì đó trước, rồi sau đó mới nói cho họ biết sau," Mẫn nói. Một cuộc sống mới bắt đầu kể từ ngày họ đặt chân đến thành phố, và họ sẽ làm những gì cần làm để bảo vệ nó. Quá khứ không còn quan trọng, hiện tại mới là tất cả mọi thứ. Nếu không cẩn thận, gia đình sẽ là cạm bẫy kéo bạn ngược trở về.
Sau khi đến Trung Quốc, tôi luôn luôn phản kháng lại lực kéo từ phía gia đình của chính mình, và có lẽ một phần lý do cũng tương tự như những cô gái ở đây vậy. Đất nước Trung Quốc của bố mẹ tôi đã lỗi thời năm mươi năm, khi tôi còn nhỏ, bố mẹ tôi đã dạy tôi rằng người Trung Quốc luôn luôn kính trọng các học giả và coi thường thương nhân, nhưng mọi người tôi gặp đều hoàn toàn ngược lại. Tôi không cố gắng đi tìm những người họ hàng vẫn còn sống ở đây. Tôi muốn tìm hiểu về đất nước này theo cách của chính mình. Và lịch sử gia đình có lẽ giống như một cái bẫy - một cách nhìn định sẵn về Trung Quốc bằng con mắt bi quan, một cách nhìn đã không còn liên quan nhiều đến hiện tại đang diễn tiến như thế nào nữa.
Cùng khoảng thời gian bắt đầu gặp gỡ các công nhân di trú ở Đông Quản, tôi cũng bắt đầu nghiên cúu về lịch sử gia đình mình. Mới đầu đó là hai dự án hoàn toàn tách biệt, một sự tương phản - chẳng thể nào có nền tảng gì chung giữa sự hỗn loạn nhốn nháo của các nhà máy miền Nam Trung Quốc với những thành phố nặng nề xám xịt miền Đông Bắc, với những nhà máy cán thép và tượng đài đá già nua đầy kiêu hãnh. Tôi thích tiết tấu của những chuyến du hành ấy mỗi khi đi đi lại lại giữa miền Nam và miền Bắc, từ tương lai trở về quá khứ, rồi lại trở về với tương lai.
Nhưng càng tìm hiểu sâu, tôi lại càng thấy nhiều mối liên hệ. Gần một trăm năm về trước, ông nội tôi cũng từng là một người dân di trú. Ông đã bỏ làng ra đi, thay tên đổi họ, cố làm mới con người mình để phù hợp với thời đại. Thời ông còn trẻ, Trung Quốc đang vùng mình thoát khỏi sự tự cô lập kéo dài để hòa nhập với thế giới - ngày nay điều ấy lại lặp lại lần nữa. Ông nội tôi rời bỏ quê hương ra đi vĩnh viễn khi ông mười sáu tuổi - tuy nhiên có lẽ ông không biết điều đó, cũng giống như những người di trú hiện nay không biết điều đó vậy. Xuất khứ, ra đi: đây cũng là cách mà câu chuyện của gia đình tôi bắt đầu.
o O o
Suốt quãng thời gian tôi lớn lên ở nước Mỹ, cha mẹ tôi rất hiếm khi nói về quá khứ. Có một thứ cảm giác tha hương ngụ trong mọi thứ đã mất - những con đường lớn mờ mờ tối ở thủ đô, ngôi nhà lớn và những người hầu, khu vườn râm mát đầy những cây hồng mà chúng tôi sẽ trở về khi chế độ sụp đổ, sẽ đòi lại những gì thực sự thuộc về mình. Nhưng những người Trung Quốc đã trốn chạy khỏi chế độ Cộng sản rất ít khi chìm đắm trong những ảo tưởng như thế. Con đường của họ là tiến lên phía trước và tạo lập một cuộc sống mới, cứ nấn ná với những gì đã mất là vô nghĩa. Những người di trú và nhập cư mà tôi quen biết cũng có chung suy nghĩ thực dụng này, có vẻ như nó đã bám rễ sâu vào tính cách con người Trung Quốc. Hiện tại là tất cả, còn quá khứ đã lùi xa.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi chỉ được nghe những mẩu vụn trong lịch sử gia đình qua lời kể của cha, rồi tôi lại trăn trở chúng trong óc mình cho đến khi mỗi mảnh vụn ấy trở thành một câu chuyện riêng biệt, bí hiểm và hoàn chỉnh. Những câu chuyện ấy chẳng bao giờ kết nối được với nhau, hoặc cũng có thể chúng kết nối theo một cách bí mật nào đó mà tôi không biết.
Bốn trường mỏ tốt nhất nước Mỹ là ở các bang Michigan, Colorado, New Mexico và Tây Virginia.
Chúng ta để những thỏi vàng ở thắt lưng trong những chuyến du hành.
Chúng ta đã để lại bộ sưu tập tem khi trốn chạy khỏi đám Cộng sản. Chúng ta đã bỏ lại mọi thứ sau lưng.
Ngày nào bố cũng đến lãnh sự quán Mỹ ở Đài Bắc chờ người ta gọi tên mình.
Cả đất nước Trung Quốc cũng hiện lên trong tôi với những mảnh vụn nhỏ. Trung Quốc là những chiếc áo len được phủ kín những viên băng phiến mà bà ngoại gửi cho chúng tôi từ Đài Loan, từ trong hộp carton, chúng đã bốc lên cái mùi như mùi bên trong tầng áp mái vậy. Mặc một chiếc áo như thế đến trường, tôi cảm nhận được một cách sâu sắc rằng tôi trông khác, tôi có mùi khác với mọi người khác. Trung Quốc là tờ báo của Quốc dân Đảng được gửi từ Đài Loan đến hòm thư nhà chúng tôi, những tờ báo được gấp chặt đến nỗi bật tung ra, như thể chúng đang hồ hởi kể hết tin tức từ phương xa vậy. Đó cũng là những vận động viên bóng bàn Trung Quốc có cánh tay dẻo dai và gương mặt xanh xao nhợt nhạt mà cha mẹ tôi cổ vũ trong những kỳ Olympic - một điều mà tôi không thể hiểu nổi. Trung Quốc là những chiếc đĩa hát vinyl mà cha tôi mang về từ chuyến đi tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên vào năm 1975, hồi Mao Trạch Đông vẫn còn sống, nghe mà đến rùng mình.
Vầng dương phương Đông đang nhô lên,
Nước Cộng hòa Nhân dân đang trưởng thành,
Lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông Chỉ đường cho ta đi tới.
Đời ta ngày ngày một tốt đẹp,
Tương lai ta rạng ngời ánh sáng huy hoàng.
Bài hát này tên là "Ca ngợi Tổ quốc". Tôi nghe bài hát này lần đầu tiên năm lên sáu tuổi, thiên đường đầy nắng ấm mà nó ngợi ca đã tan rã từ rất lâu trước đó. Nhưng cho đến bây giờ, đoạn mở đầu bài hất ấy vẫn khiến tôi rùng mình.
Tôi thuộc lòng rất nhiều bài hát như vậy. Trung Quốc là tiếng mẹ đẻ của tôi, và những điệu hát ru, những bài hát trữ tình của thứ ngôn ngữ ấy đi qua tuổi thơ tôi từ những ngày đầu tiên nhất, tựa như những ký ức kiếp trước của tôi vậy. Gia đình cha tôi vốn quê gốc ở Mãn Châu, vùng đất mà người Trung Quốc chỉ gọi một cách đơn giản là Đông Bắc, trong những bài hát tôi nghe từ thuở ban đầu, có rất nhiều bài đến từ vùng đất ấy. Tôi không có cảm giác gắn kết chặt chẽ với Trung Quốc khi đã trưởng thành, song tôi biết một điều, tôi là người Đông Bắc.
Quê nhà tôi ở sông Tùng Hoa vùng Đông Bắc Nơi có những cánh rừng và mỏ than
Đậu nành lúa miến trên những triền đồi, trên những cánh đồng
Quê nhà tôi ở sông Tùng Hoa vùng Đông Bắc
Nơi có những anh em cùng quê hương xứ sở
Và cha mẹ già của tôi
Tôi đã rời khỏi làng quê yêu dấu
Bỏ cả kho báu vô cùng vô tận nơi dây.
Đi, đi, đi
Đi mãi vào quan nội.
Quan ải mà bài hát nhắc đến là Sơn Hải Quan, pháo đài đá hùng vĩ ở ven Bột Hải, nơi Vạn Lý Trường Thành chạy ra biển. Được xây dựng từ thời nhà Minh để bảo vệ biên giới phía Bắc Trung Quốc, nó là cột mốc đánh dấu điểm tận cùng của xã hội văn minh và nơi bắt đầu của miền hoang dã Mãn Châu.
Với tôi, bài hát buồn nhất là bài về Vạn Lý Trường Thành, được hát bởi một người vùng Đông Bắc tha hương sau cuộc xâm lược của người Nhật Bản. Các tháp canh và lỗ châu mai của trường thành đã được xây dựng trong nhiều thế kỷ với mục đích bảo vệ Trung Quốc khỏi kẻ thù ở mạn phía Bắc. Sau khi quân đội Nhật Bản tràn vào Mãn Châu năm 1931, bức tường ấy lại có một ý nghĩa khác - vạch ra ranh giới của vùng đất đang dưới ách thống trị của người Nhật. Bài hát là một lời thú nhận ngấm ngầm rằng Vạn Lý Trường Thành đã vô tích sự, bởi kẻ thù của người Trung Quốc đã ở Đông Bắc rồi.
Vạn Lý Trường Thành dài vạn dặm
Bên ngoài Trường Thành là quê hương tôi
Lúa miến màu mỡ, đậu nành thơm hương
Vàng ở khắp nơi nơi, và tai ương hầu như chẳng có.
Thế rồi trận đại tai ương bất ngờ ập đến
Cưỡng hiếp, cướp bóc và bắt bớ, nỗi bi thảm sao quá đắng cay
Nỗi bi thảm sao quá dắng cay, trốn chạy đến những miền xa lạ
Gia đình ly tán, cha mẹ thương vong
Đời tôi nhớ mãi nỗi căm hờn
Ngày đêm chỉ mong trở về quê hương...
Để bốn trăm triệu đồng bào cùng đứng dậy:
Trường Thành trong tim ta sẽ dài vạn dặm xa.
Bố mẹ tôi học bài hát này từ khi còn là những đứa trẻ, cũng giống như tôi. Bài hát kể lại câu chuyện của thế hệ cha ông họ, phải sống tha hương và bị chia cắt khỏi mẹ cha mà họ không bao giờ được gặp lại. Trong truyền thống Trung Quốc, thơ ca tuân theo những niêm luật rất chặt chẽ - với hết khả năng có thể, cái tôi chìm khuất trong trải nghiệm của lời thơ. Bên trong giai điệu của những bài hát ấy dồn nén một cảm xúc chẳng bao giờ được nói ra.
SAU NHIỀU NĂM trăn trở với những mẩu vụn quá khứ, những đoạn lời hát, và những mảnh ký ức, cuối cùng tôi cũng ngồi xuống với cha mình, yêu cầu ông kể cho tôi nghe mọi điều ông biết về lịch sử gia đình. Ông kể cho tôi nghe về sự vươn lên từ nguồn gốc thấp kém của gia tộc trong những năm triều Thanh suy bại. Ông diễn tả lại ông nội tôi đã tha thiết mong muốn rời bỏ quê hương bản quán và đi cho biết đó biết đây như thế nào. Ông nhớ lại cuộc rút lui hỗn loạn trước quân đội Nhật Bản và những hồi còi báo động có oanh kích, đồng thời cũng có nghĩa rằng ngày hôm ấy sẽ không thể đến trường. Nhưng câu chuyện của cha tôi hổng lỗ chỗ: ký ức của ông về Trung Quốc là những ký ức của tuổi thơ, những ký ức bị bó chặt trong nỗi sợ của một đứa trẻ đối với thế giới bên ngoài.
Bạn bè chơi trốn tìm với bố. Ông nội của con thì đang nằm nghỉ. Bố nấp trong cửa sổ lồi ở phía bên kia chiếc giường nơi ông con đang nằm ngủ, và bố sợ không dám ra ngoài. Nhưng ông nội đã phát hiện ra bố nấp ở đó, và ông nói: "Ra đi," sau đó ông chơi chung với bọn bố. Đó là ký ức duy nhất của bố về ông.
Tôi đã nói chuyện với các cô bác anh chị em của cha tôi, tất cả đều nhập cư vào Mỹ từ thuở còn đôi mươi. Một sự kiện xảy ra cách đây nửa thế kỷ có thể được nhớ lại theo nhiều cách khác nhau, phiên bản của mỗi người được ấn định và khác biệt - những mảnh vụn của Trung Quốc mà họ mang theo mình đã rắn lại theo thời gian, tựa như những viên đá quý để càng lâu càng bóng nhoáng vậy. Tôi gặp cả những người trong gia đình vẫn ở lại Trung Quốc; kể cả những anh em họ và bà con xa của cha, những người chưa bao giờ rời khỏi ngôi làng của tổ tiên chúng tôi. Có vài người cố gắng tìm hiểu về quá khứ, nhưng hầu hết là không - cho dù ta đã rời khỏi Trung Quốc hay vẫn ở lại nơi đây, cứ để cho quá khứ trôi đi thì sẽ bớt đau đớn hơn.
Họ mạc của tôi không thích kể câu chuyện của họ. Họ thường bắt đầu bằng việc khăng khăng mình không có gì để nói hết. Lời kể của họ thường mở ra bằng một sự không biết, một lời phủ định, hay thậm chí cả cái chết, như thể họ muốn kết thúc câu chuyện trước khi nó thực sự bắt đầu vậy. Có vẻ như tôi không phải một người trong số họ, tôi tin rằng những ký ức của họ là điều quan trọng. Thực ra thì, trải nghiệm của bác ở Trung Quốc rất nông cạn, đó là điều đầu tiên bác gái Nellie nói với tôi. Bọn bác không biết nhiều về lịch sử gia đình, bác Luke nói, vì bọn bác chẳng bao giờ có cơ hội nói về nó cả. Câu chuyện của bố tôi bắt đầu với một sự thiếu vắng: Bố của ông nội bố. Không ai biết tên cụ cả. Họ xóa nhòa các chi tiết và coi nhẹ các sự kiện xúc động. Đôi lúc khi họ nhớ lại chuyện gì đó vô cùng dau đớn, họ cười. Có lẽ trong một thế giới nơi có quá nhiều người phải chịu đựng đớn đau, câu chuyện của một người chẳng đáng để nhắc đến. Đau đớn chỉ khiến bạn thêm giống những người khác.
Những cô gái trẻ ở các thành phố công nghiệp miền Nam không nghĩ theo cách đó. Trong một thành phố không bị quá khứ vây nhiễu, mỗi người đều đang sống, đang kể, đang viết câu chuyện của chính mình, giữa hàng triệu cuộc vật lộn đơn độc ấy, chủ nghĩa cá nhân đã ăn sâu bén rễ. Điều này được thể hiện ở những tầng lớp tự nâng cấp bản thân và chợ việc làm, ở những cuộc cãi vã với cha mẹ và những bài học được chép lại một cách cẩn thận trong những cuốn sổ ghi chép: Đừng để vuột mất cơ hội. Chết nghèo khó là tội lỗi. Những chi tiết trong cuộc đời họ có thể tàn nhẫn và trần tục tầm thường, nhưng những phụ nữ trẻ ấy kể cho tôi nghe câu chuyện của họ, như thể chúng rất quan trọng.
o O o
Đâu đó vào thời hoàng đế Khang Hy, có lẽ là khoảng năm 1700, một người nông dân tên Trương Hoa Long đã rời khỏi quê nhà ở miền đồng bằng Hoa Bắc đông đúc dân cư để tới thảo nguyên Mãn Châu, nơi đất hoang vẫn còn rất nhiều, đủ cho bất cứ ai tạo lập một khởi đầu mới. Những ngày ấy, hầu như ngôi làng nào ở miền Bắc Trung Quốc cũng đều có ai đó rời bỏ quê hương tha phương cầu thực, và cũng như hiện tại, thường là những người trẻ tuổi và mạnh dạn cất bước ra đi. Trương Hoa Long có hai người con trai, hai người này đã đi xa hơn về phía Bắc lập nên một ngôi làng tên Lục Đài ở tỉnh Cát Lâm, vùng Mãn Châu. Nơi họ chọn lựa còn được biết đến với cái tên Thung lũng Hành khất bởi khí hậu khắc nghiệt và đất đai lầy lội. Mười bốn thế hệ nhà họ Trương đã sống ở đó. Tôi thuộc thế hệ thứ mười một.
Khác với những người di trú thời những năm 1980, hành trình được biết đến của cụ tổ đầu tiên trong gia đình chúng tôi là bất hợp pháp. Năm 1644, người Mãn Châu, tộc người sống ở miền biên viễn phía Đông Bắc đã xâm chiếm Trung Quốc lập nên triều đại nhà Thanh. Ngay sau đó, những người đứng đầu triều Thanh tuyên bố vùng Mãn Châu là cấm địa đối với người Hán, dân tộc chiếm số đông ở khắp phần còn lại của đất nước. Họ làm vậy nhằm độc chiếm tài nguyên thiên nhiên của vùng đất này, đồng thời cũng để bảo vệ miền đất quê hương: chỉ cần biên giới vẫn được giữ nghiêm, họ tin rằng, dân tộc họ sẽ bảo tồn được sức sống và ngăn chặn trước sự thối rữa và trụy lạc khiến cho các triều đại sụp đổ. Để phong tỏa vùng Mãn Châu, các hoàng đế nhà Thanh đã ra lệnh cho xây dựng một bức tường đất bùn dài hai trăm dặm trồng đầy cây liễu. Bức tường này kéo dài từ phía Đông Bắc Vạn Lý Trường Thành qua hầu hết tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm hiện nay, có các trạm canh phòng thủ dọc theo chiều dài của nó.
Đường biên này gọi là Liễu điều biên (Tường rào liễu), thậm chí nó còn nhiều chỗ thủng phải vá hơn cả Vạn Lý Trường Thành. Nó được hoàn thành vào năm 1681, có lẽ khoảng hai mươi năm sau đó tổ tiên của tôi đã vượt qua bức tường rào này để định cư ở Lục Đài, có nghĩa là "trạm thứ sáu" - một trong những tiền đồn phòng ngự dọc đường biên được xây dựng chính xác là để ngăn ngừa những người như ông. Những người tiến vào vùng đất này một cách phi pháp để cấy cày trồng trọt gọi là liumin - lưu dân, những kẻ lưu lạc. Trong hai thế kỷ tiếp sau đó, tổ tiên của chúng tôi làm nghề nông - trồng lúa miến và đậu nành, và sống trong những túp lều gỗ xung quanh bao bọc bởi rừng cây nguyên sinh.
Cuối thế kỷ mười chín, dân số Mãn Châu bắt đầu tăng mạnh vì nông dân miền Bắc Trung Quốc chạy đến đây để tránh hạn hán và nạn đói. Cuộc di trú của hai mươi lăm triệu con người trong nửa thế kỷ tiếp sau đó là làn sóng dân di trú lớn nhất trong lịch sử, tính đến trước khi làn sóng di trú hiện nay xuất hiện. Nền kinh tế của cả vùng bùng phát mạnh mẽ, những tuyến đường sắt mới nối liền vùng nội địa tới miền duyên hải và thị trường nước ngoài, dự đoán của người nước ngoài cũng khiến người ta say sưa rung động như những gì chúng ta vẫn nghe bây giờ vậy. Năm 1910, Tổng lãnh sự Anh ở Thiên Tân viết:
Khó có thể nghi ngờ, trong tương lai không xa nữa, Mãn Châu sẽ trở thành một đối thủ cạnh tranh của Mỹ trong việc cung cấp các sản phẩm nông nghiệp cho thị trường châu Âu. Những nhà máy xay bột ở Cáp Nhĩ Tân... đang bày bán hàng hóa của họ ở thị trường bản địa với giá mà các nhà máy xay bột Mỹ không thể nào cạnh tranh nổi... Những gì Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ sẽ mất vì giảm doanh thu từ các sản phẩm nông nghiệp chắc hẳn sẽ phải nhiều hơn những gì họ kiếm được nhờ tăng cường kinh doanh mặt hàng đã chế biến.
Gia đình tôi nổi lên trong giai đoạn bùng nổ kinh tế ấy. Cụ tôi, Trương Nhã Nam, mua một xưởng ép dầu và một nhà máy xay bột, rồi dùng số tiền kiếm được từ hai nơi này để trở thành dịa chủ lớn nhất ở Lục Đài. Khoảng năm 1890, cụ Trương Nhã Nam cho xây dựng một khu nhà của gia đình với năm phòng ở giữa và tám ở hai bên cánh. Bàn thờ và các bức ảnh chân dung tổ tiên chiếm mấy phòng giữa, trong khi những người còn sống, ăn, ngủ và làm việc ở hai bên cánh. Đó là cách sống của một gia đình Trung Quốc - đạo hiếu được hiển hiện trong từng chi tiết của khu nhà. Khu nhà được đặt tên là Tân Phát Nguyên, có nghĩa là "khởi nguồn mới". Nó được bao tường cao xung quanh, với những khẩu Mauser đặt ở các góc và một đội dân quân có vũ trang để bảo vệ gia đình chống lại bọn giặc cướp. Thời ấy, thực phẩm là thước đo đánh giá mức độ thịnh vượng của một gia đình, ở Tân Phát Nguyên thậm chí cả những người làm công cũng được ăn bánh bao nhân đậu xay nhuyễn. Khẩu phần ăn phong phú đến nỗi họ còn sáng tác ra một bài hát mà cả thế kỷ sau đó cha tôi vẫn nhớ.
Tân Phát Nguyên, một nơi tuyệt trần
Chó tung tăng chạy trước, người mang thức ăn đi
Hai cân rưỡi bánh bao đậu.
Cuối thời nhà Thanh, cụ tổ tôi được ban một chức vụ trong chính quyền địa phương và được triều đình thưởng ba trăm lạng bạc để xây từ đường thờ cúng tổ tiên. Đây là thông lệ: khi ai đó làm quan, người đó phải thờ cúng tổ tiên mình đúng theo nghi lễ của đạo Khổng. Cụ tổ tôi có bốn người vợ - cũng là một thông lệ - và đã lập nên một ngôi trường bên trong khu nhà của gia đình cho chín người con của ông, cả con trai lẫn con gái theo học. Có lẽ vì sự vươn lên của cụ tổ, triều đình ban thưởng cho cha của cụ một danh hiệu trong quân đội, Tướng quân Tam phẩm của triều đình Mãn Thanh, và cấp tiền cho gia đình xây dựng một cổng chào để ngợi ca lòng hiếu thảo của cụ. Mặc dù chuyện này chẳng có nghĩa lý gì ngoài việc tạo ra một cây phả hệ lẫy lừng cho gia tộc. Một nông dân trở thành tướng quân, một chủ nhà máy xay bột thành quan chức của triều đình: ở miền biên viễn này, xây dựng một cuộc đời mới không cần nhiều thời gian lắm.
Cụ tổ tôi đã thực hiện hết những nhiệm vụ khác của một người tộc trưởng Nho gia. Cụ giám sát việc viết lên mộc bản phả hệ kéo ngược trở về đến đời vị tổ tiên đã di cư đến vùng Mãn Châu. Và cụ liệt kê ra một chuỗi những cái tên mà con cháu cụ sau này sẽ mang trong hai mươi thế hệ tiếp sau, hợp lại thành một bài thơ.
Phượng Lập Đồng Hưng Điện
Hồng Liên Dục Bảo Triều
Vạn Truyền Gia Khánh Yến
Cửu Dương Quốc Ân Chiếu
(Chim Phượng đứng trong cung diện của sự giàu sang
Chim Hồng nối liền nuôi dưỡng những triều đại giàu có
Vạn thế hệ tiếp nối khánh chúc gia đình
Chín vầng dương soi chiếu ân huệ của đất nước).
Gia đình tôi phồn vinh hơi muộn, chúng tôi giành được vinh quang đúng vào thời điểm triều đình nhà Thanh đi hết vòng đời của nó. Nhà cửa, từ đường, bàn thờ tổ tiên và các tấm chân dung, cùng đồ thờ đều bị phá hủy trong thế kỷ hỗn loạn sau đó; nhiều cuộc đời bị rút ngắn lại. Nhưng không phải thứ gì cũng bị uổng phí. Tên Trung Quốc của tôi là Đồng Hà: chữ đầu tiên trong tên tôi đã được quyết định từ một thế kỷ trước bởi một cụ tổ mà tôi chưa từng biết đến.
o O o
Ở ngôi làng ông nội Trương Xuân Ân của tôi sinh ra vào năm 1899, hầu hết mọi người đều cùng họ với ông. Khi còn nhỏ, ông đi học trong trường tư của gia đình, học thuộc lòng những đoạn dài trong Tứ Thư và Ngũ Kinh có từ thời Khổng Tử. Việc ông không hiểu một chữ nào trong những tác phẩm đó không hề quan trọng, mục đích của giáo dục thời ấy là rèn uốn một đứa trẻ cách hành xử đúng đắn, khắc sâu vào nó những đức tính về phục tùng, tôn trọng và kiềm chế. Mục đích tối thượng của việc học hành là để vượt qua kỳ thi khoa cử và trở thành một viên quan của triều đình - hệ thống này đã tồn tại và hầu như không hề thay đổi trong suốt một nghìn năm.
Nhưng thế giới ấy đã vỡ tan từ khi ông nội tôi còn là một đứa trẻ. Thế kỷ mười chín đã chứng kiến những cuộc chạm trán đau đớn với phương Tây; sau thất bại của Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Nha phiến vào những năm 1840 và 1850, triều đình Đại Thanh bị buộc phải ký vào một loạt "điều ước bất bình đẳng", mở cửa các hải cảng cho giao thương với nước ngoài và cấp đặc quyền kinh tế cho các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Những người chủ trương cải cách đổ lỗi cho nền giáo dục truyền thống đã làm đất nước Trung Quốc phải chịu cảnh nhục nhã ê chề. Những nỗ lực của họ đã dẫn đến việc hủy bỏ kỳ thi khoa cử cũ vào năm 1905 và sự phổ biến của những ngôi trường giảng dạy các môn học hiện đại. Năm 1911, khi ông nội tôi mới bước vào tuổi thiếu niên, triều đình nhà Thanh sụp đổ và nền cộng hòa thay thế.
Từ khi còn là một đứa trẻ, ông nội tôi đã kiên quyết rời khỏi gia đình - giống như bây giờ, mọi con đường dẫn đến thành công đều đi khỏi làng quê. Anh trai ông, Trương Phượng Ân, một ngày nào đó sẽ tiếp quản sản nghiệp của gia đình. Là con thứ của người vợ cả, ông tôi ở vị thế đặc biệt: ông có thể ra đi. Mùa xuân năm 1913, ông vào học trường Trung học tỉnh Cát Lâm. Đó là trường đầu tiên trong tỉnh dạy cái gọi là Tân học, học trình bỏ hết các kinh điển mà tập trung vào toán học, lịch sử, địa lý và khoa học tự nhiên. Ba năm sau đó, ông rời nhà đến học ở Đại học Bắc Kinh, cánh chim đầu đàn trong mạng lưới trường học hiện đại của nước Trung Quốc.
Hầu hết các sinh viên học ở đây đều đến từ những gia đình thương gia giàu có ở miền duyên hải, ông nội tôi là một trường hợp ngoại lệ, giống như một cậu chàng Colorado được học bổng xuất hiện ở Đại học Harvard vậy. Nhưng với vị thế trung tâm của nền giáo dục tiến bộ, trường đại học này cũng thu hút nhiều người trẻ tuổi tham vọng từ các tỉnh thành khác nữa. Một trong những người cùng thời với ông nội tôi làm việc trong thư viện trường chính là Mao Trạch Đông. Ông nội tôi hồi ấy gần như đã phải vật lộn với chương trình Tân học. Trong hồ sơ lưu trữ của trường Đại học Bắc Kinh, tôi tìm thấy một cuốn sách bìa khâu bằng chỉ, bên trong ghi lại điểm thi của các: sinh viên khóa tiền luật(15) năm 1917 bằng nét bút nguệch ngoạc. Các môn học nước ngoài không phải thế mạnh của ông nội tôi.
LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY: 73
VĂN CHƯƠNG ANH: 70
NGÔN NGỮ TRUNG QUỐC: 80
LOGIC: 90
ĐẠO ĐỨC: 100
Nếu hệ thống giá trị truyền thống vẫn còn nguyên vẹn, có lẽ ông nội tôi đã tốt nghiệp đại học với vị trí cao nhất và nhận được một công việc trong chính quyền. Nhưng Tân học đã đưa ông theo một hướng không lường trước: ông nội tôi giành được một học bổng của tỉnh để đi học ở Mỹ, vì vậy ông đã rời trường đại học sau khi kết thúc năm thứ hai. Ông cưới một cô gái trẻ tên là Lý Tú Lan, người được gia đình lựa chọn cho ông - ba ngày sau đám cưới, ông lên tàu thủy đến nước Mỹ.
Sau đó bà nội tôi học ở Cao đẳng Sư phạm nữ Bắc Kinh, một trong những trường cao đẳng đầu tiên tiếp nhận nữ sinh viên của Trung Quốc. Bà học chuyên ngành vật lý và âm nhạc, tham gia vào các cuộc biểu tình phản đối của sinh viên, hút thuốc và đã tự chọn cho mình một cái tên mới, Lý Hương Hành, bởi nó có nhiều chữ lạ hơn cái tên cũ. Sau khi tốt nghiệp, bà tôi dạy tại một trường cấp III ở thành phố Cát Lâm, thủ phủ tỉnh nhà.
Trong bảy năm, bà đã viết rất nhiều thư gửi sang Mỹ, miền đất đã khiến bà phải cô đơn vò võ suốt những năm tháng tuổi đôi mươi, đồng thời cũng là miền đất đã thu nhận những đứa con của bà sau này, từng đứa một. Những lá thư của bà nay đã không còn nữa. Tất cả những gì còn lại của người thiếu phụ trẻ trong bà là vài câu ngắn ngủi trong cuốn nhật ký của ông nội tôi, như thể một bóng thú rừng thoáng lướt qua những hàng cây: nỗi cô đơn, hiu quạnh, những khoảnh khắc nổi nóng.
Hương Hành định về nhà vì mẹ tôi ốm.
Tôi mua một đôi giày để gửi về cho Hương Hành.
Trong thư, Hương Hành phản ứng rất dữ dội, nói rằng cô ấy đang phải chịu đựng một sai lầm khủng khiếp.
Tôi nhận được ba lá thư của Hương Hành, tất cả đều thúc giục tôi về nhà. Nhưng kế hoạch của tôi còn chưa thực hiện xong, tôi không thể trở về được.
Bà nội tôi cũng mong muốn được đến nước Mỹ, nhưng cụ tôi đã đặt ra luật lệ. Ngoại quốc không phải là nơi dành cho đàn bà, cụ nói. Một người đàn bà nên ở nhà.
o O o
Ngày 1 tháng Một, 1926
Nội loạn ở Trung Quốc là một nguyên nhân khiến tôi lo lắng. Trung Quốc một ngày nào đó chắc chắn sẽ trở nên thịnh vượng phồn vinh. Tôi sẽ thấy ngày ấy khi tôi còn sống. Mọi người đều phải làm việc chăm chỉ để chờ đón nó.
Hành vi cá nhân của tôi phải đáng để người ta kính trọng và tôi phải tằn tiện hơn trong cung cách sống.
Tôi ăn trưa với ông chủ nhà, Hairy Weart. Hàng xóm của ông ta, một cặp vợ chồng già, thích chơi với lũ chó và lũ chim, họ luôn miệng nói về lũ thú cưng của mình. Tôi thấy chán ngấy cái kiểu nói chuyện như vậy.
Ông nội tôi đến Mỹ năm 1920. Đó là kỷ nguyên của rượu lậu, cuộc vui sờ soạng hôn hít (petting parties), và AI Capone(16), nhưng ông hầu như không để ý đến những chuyện đó. Trong những trang nhật ký của mình, ông viết về chuyện tìm kiếm một khóa học tử tế và tình hình chính trị ở Trung Quốc. Hai chủ đề này được kết nối với nhau: bằng cách thu lượm những kỹ năng cần thiết ở Mỹ, ông sẽ tìm hiểu được điều gì cần để giúp đất nước quê hương mình trở thành một quốc gia hiện đại. Ông lướt qua văn học và kinh tế một chút trước khi quyết định chọn ngành kỹ thuật khai khoáng: phát triển công nghiệp sẽ là cứu tinh của đất nước Trung Quốc.
Trong bảy năm ông ở Mỹ, tình hình ở quê nhà trở nên tệ hơn rất nhiều. Chính phủ Trung ương về cơ bản không còn tồn tại, bởi các quân phiệt với đội quân của riêng mình không ngừng gây chiến với nhau trên khắp đất nước. Trong cuốn nhật ký của ông tôi ở Mỹ khoảng những năm 1920, những người xuất hiện nhiều nhất là hai nhà quân phiệt Trung Quốc Ngô Bội Phu và Trương Tác Lâm.
Ngày 26 tháng Một
Trương Tác Lâm đã thả Ivanov [Giám đốc người Nga của hãng đường sắt miền Đông Trung Quốc], vì vậy vấn đề Cáp Nhĩ Tân đã tạm thời được giải quyết. Nguyên nhân gây ra sự kiện Cáp Nhĩ Tân có liên quan trực tiếp đến sự trở về của Phùng Ngọc Tường ở vùng Đông Bắc. Một người thích liên minh với người Nga, kẻ còn lại thì với người Nhật, nhưng mỗi người đều đang theo đuổi mục đích riêng của mình.
Trung Quốc vẫn chưa có người sản xuất các loại máy móc. Để tôi bắt đầu chuyện đó trong tương lai chắc chắn sẽ là điều tuyệt vời nhất.
Ngày 28 tháng Một
Hôm nay có tuyết lớn và gió mạnh, các con đường hầu như không thể nào đi nổi. Đồng nghiệp Backland của tôi chiều nay làm đám cưới lúc năm giờ...
Mãn Châu và Mông Cổ đã trở thành một trong những vấn đề lớn của thế giới. Nếu chúng ta không xử lý một cách đúng đắn, sẽ rất khó ngăn cản chúng trở thành một Triều Tiên thứ hai(17). Đây là quê cha đất tổ của tôi. Làm sao tôi có thể để nó vào tay kẻ khác? Tôi thề rằng tôi sẽ coi bảo vệ đất đai và sự phồn vinh hạnh phúc của người dân nơi đó là trách nhiệm của chính bản thân mình.
Ngày 4 tháng Ba
Mắt kính vỡ, vì vậy tôi đến chỗ bác sỹ nhãn khoa để mua một đôi mới. Những hai mươi bốn đô la Mỹ. Thật đắt quá!
Những cánh rừng ở Cát Lâm hết sức thích hợp để sản xuất giấy, mỗi năm Cát Lâm xuất khẩu một lượng lớn các sản phẩm da, lông thú thì thậm chí còn nhiều hơn, bởi các tuyến đường sắt ở đây hết sức thuận tiện. Tôi sẽ nghĩ đến chuyện làm việc trong ngành công nghiệp sản xuất giấy.
Ngày 4 tháng Sáu
Hôm nay tôi đi điều nghiên ở núi Franklin. Cây cối sum sê thơm nức, không khí trong lành vô cùng. Buổi sáng sớm trời rất lạnh và đến tôi thì cổ họng tôi ngứa ran đau rát...
Nếu Trung Quốc muốn trở nên giàu mạnh, đất nước phải phát triển ngành công nghiệp thép, bằng không nó sẽ không thể nào kháng cự nổi sự xâm lấn của các quốc gia khác. Trong thời điểm này, tất cả máy móc của Trung Quốc đều dựa vào xuất khẩu. Nếu xảy ra chiến tranh, những nguồn cung cấp từ thế giới bên ngoài bị cắt đứt, Trung Quốc chắc chắn sẽ chiến bại.
Ngày 12 tháng Mười hai
Hôm nay tôi đã làm vệ sinh một cái máy khai thác than và tháo rời nó ra. Đó là phần thú vị nhất.
Để điều hành một đất nước và giáo dục con người của đất nước ấy, hay để chiếm lĩnh một vùng đất, cần phải có chính sách tuyên truyền tốt. Chỉ dựa vào sức mạnh quân sự thì sẽ chỉ dẫn đến thất bại mà thôi.
Hàng ngàn sinh viên Trung Quốc đến Mỹ trong khoảng hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ hai mươi, đây được coi là làn sóng du học nước ngoài lớn đầu tiên.
Họ cho rằng Tây học là con đường tốt nhất để giúp đỡ nước Trung Quốc, và đều tập trung vào các môn học mang tính chất thực tiễn như kinh tế học, khoa học tự nhiên và đặc biệt là kỹ thuật chế tạo máy - ngành học được hơn một phần ba sinh viên Trung Quốc ở Mỹ lựa chọn trong khoảng thời gian giữa năm 1905 và năm 1924. Ông nội tôi học ở trường Đại học Mỏ Michigan, trong một khu vực khai thác đồng cũ gần biên giới Canada. Ông tốt nghiệp năm 1925, xếp thứ ba mươi ba trên tổng số bốn mươi tư thành viên trong lớp. Có vẻ Tân học vẫn khiến ông thấy khó khăn.
TÔI TÌNH CỜ TÌM THẤY cuốn nhật ký của ông nội tôi. Cha tôi nói cả gia đình đã bỏ lại tất cả những gì họ sở hữu trong những năm tháng Thế chiến thứ hai, trong cuộc nội chiến, trong chuyến bay đến Đài Loan và chuyến du hành tới nước Mỹ. Hơn một năm sau khi tôi bắt đầu tìm hiểu về lịch sử gia đình mình, tôi nói chuyện điện thoại với cha tôi và hỏi xem ông có giữ thứ gì của ông nội hay không. Thật bất ngờ, cha tôi nói ông cụ có hai cuốn nhật ký, một cuốn viết trong khoảng thời gian ông nội tôi ở Mỹ và cuốn thứ hai được viết từ khi gia đình sống ở Trùng Khánh trong chiến tranh. Cả hai gộp vào được khoảng gần một nghìn trang viết.
"Nó không hấp dẫn lắm đâu," cha tôi nói. "Ông chỉ viết những thứ kiểu như "Hôm nay quân đội Nhật đã áp sát thành phố," những chuyện tầm phào vậy thôi."
"Thực ra thì," tôi nói, "thế là hấp dẫn lắm rồi ạ."
Qua những trang nhật ký của ông nội, tôi bắt đầu hiểu người ông mà tôi chưa từng gặp mặt một lán trong đời. Ông là một người đàn ông trẻ tuổi đang tìm kiếm mục đích của đời mình, mơ về một sự nghiệp có thể phát triển rộng mở. Ông tìm việc và nghỉ việc cũng thường xuyên như những người di trú hiện nay, nhanh chóng thấy buồn chán và luôn bồn chồn lo lắng rằng mình chưa học đủ. Ông cô đơn và trôi dạt.
Ngày 14 tháng Bảy
Mỗi khi rảnh rỗi ở nhà máy, tôi lại nghĩ đến đủ các rắc rối khác nhau. Tôi cảm tưởng mình như một con thuyền lẻ loi lênh đênh trên đại dương mênh mông. Ngay cả khi lòng tôi khát khao được bình lặng, nó cũng không thể bình lặng được.
Ngày 18 tháng Mười một
Tôi đã đi làm được gần hai năm rồi. Thỉnh thoảng tôi thấy mình không hứng thú gì với công việc. Nhưng người ta phải tự xử lý công việc ngay cả khi nó chẳng làm ta hứng thú chút nào. Với tình hình tồi tệ của Trung Quốc hiện nay, đây chính xác là thời điểm để người đàn ông thực hiện quyết tâm xây dựng sự nghiệp của riêng mình. Tôi phải cố gắng 120 phần trăm mới được.
Tự hoàn thiên mình là chủ đề chính trong cuốn nhật ký. Sau khi tốt nghiệp ở trường, ông nội tôi bỏ ra hai năm rèn luyện thực tế ở các khu mỏ và nhà máy ở miền Đông Bắc và Trung Tây. Ông đăng ký vào trường ban đêm ở Chicago để học ngành điện máy. Các đoạn nhật ký đầy những từ tiếng Anh lạ mà ông đang cố học thuộc: Goodman Standard Shortwall Machine (Máy khai thác gương lò ngắn chuẩn Goodman). Ratio of cement sand and slag (Tỷ lệ xi măng cát và xỉ). Pyramid Pump Open Hearth Mixer Blast Furnace Corrugated Underframe Door (Bơm hình chóp máy trộn lò Martin lò cao cửa lượn sóng dưới khung). Ông còn chép lại lời khuyên đã truyền cảm hứng cho bao người của người khổng lồ trong ngành công nghiệp Mỹ.
Mười điều đáng nhớ của Marshall Field(18)
1. Giá trị của thời gian
2. Thành công của nghị lực
3. Niềm vui lao động
4. Tầm quan trọng của tính cách
5. Chân giá trị của sự giản dị
6. Sự tiến bộ của năng lực
7. Sự hân hoan sáng tạo
8. Đức kiên nhẫn
9. Trí tuệ kinh tế
10. Sức mạnh của sự tử tế
Ở quê nhà xa xôi, gia đình ông gây áp lực buộc ông trở về. Đọc câu trả lời của ông nội trong nhật ký - khao khát trở về của tôi rất mạnh mẽ, song sự học của tôi vẫn chưa xong - làm tôi nhớ đến Xuân Minh, cô gái cũng có suy nghĩ gần như giống hệt. Có ai biết đuợc tại sao tôi không về nhà đón Tết chứ? Lý áo chính là: tôi thực sự không muốn lãng phí thời gian. Bởi vì tôi phải học! Nhưng ở sâu thẳm trong lòng, hành trình của họ có những chủ đích khác nhau. Các cô gái ở nhà máy đến thành phố để tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn, còn ông nội tôi rời quê hương để một ngày nào đó ông có thể trở về và phục vụ đất nước tốt hơn. Bạn có thể nói rằng ông nội tôi rời quê hương là vì quê hương, trong khi những cô gái rời bỏ quê hương chỉ vì bản thân họ. Trong cuốn nhật ký của mình, Xuân Minh không bao giờ ngừng xoay quanh chủ đề ưa thích của cô, là chính bản thân cô: thành phố làm thay đổi cô thế nào, những người khác sẽ nhìn cô với ánh mắt ra sao, và từng chi tiết nhỏ về ngoại hình cơ thể cô: Mắt tôi không có hai mí, cô viết, nhưng mắt cũng không nhỏ lắm. Một mí không ảnh hưởng gì đến tầm nhìn. Tôi không có cặp môi mỏng nhưng miệng tôi có thể nói ra những lời thuyết phục được người khác. Tôi nói to, và hay hấp tấp, nhưng từ khi sinh ra tôi đã thế rồi. Trong hàng trăm trang nhật ký của ông nội tôi, không xuất hiện đoạn nào tự miêu tả về bản thân như thế. Những đoạn nhật ký của ông như thể là những bài thơ cổ - ngắn gọn và được kiểm soát, cá tính ẩn chứa bên trong nhưng không bao giờ lộ rõ. Trong thời gian ở Mỹ, ông nội tôi đã đổi tên tiếng Trung của mình. Những chữ được chọn cho tên mới của ông, Sân Phu, có vẻ như bắt nguồn từ một từ cổ là shenshen zhengfu (sân sân chinh phu), nghĩa là "người người lũ lượt tòng quân". Đó chính là điều ông nội tôi ôm ấp: một đội quân tận hiến phục vụ, bản ngã của ông đã ẩn khuất đi trong cái tên ấy.
o O o
Ông nội trở về Trung Quốc vào mùa hè năm 1927. Trong ngày đầu tiên trở về nhà, cụ tôi đã tổ chức một bữa tiệc trong làng để chào mừng đứa con trai yêu quý đã mang lại vinh quang cho gia đình vì đã sang tận nước Mỹ xa xôi. Ngày thứ hai, người đứng đầu gia đình lấy ra một chiếc gậy gỗ gọi là jiafa - gia pháp - vật chuyên dụng để trừng phạt những đứa trẻ và người hầu phạm lỗi trong các gia tộc truyền thống - và dùng nó để đánh ông. Ở Mỹ, con trai cụ đã chuyển ngành học từ văn học sang kỹ thuật khai thác mỏ mà không được cha mẹ đồng ý, cho dù cha của ông nội tôi ở cách ông bảy nghìn dặm và chẳng hiểu gì về hệ thống trường đại học ở Mỹ. Trong một gia đình Trung Quốc, lời người cha là luật lệ. Trận đòn ấy nặng đến nỗi ông nội tôi không thể ngồi xuống trong suốt mấy ngày liền.
Cụ nội tôi muốn ông ở nhà giúp đỡ điều hành sản nghiệp gia đình, nhưng chàng trai trẻ đã từ chối: ông ghét cuộc sống gò bó trong khu nhà của gia đình và hân hoan được thoát khỏi nó. Ông đi phụ trách khai thác mỏ ở mỏ than Mục Lăng gần Cáp Nhĩ Tân, ở xa tít tận phía Đông Bắc đất nước.
Năm 1931, quân đội Nhật Bản tiến vào miền Nam đất Mãn Châu. Trong vòng sáu tháng, quân đội Nhật đã chiếm đóng toàn bộ khu vực và lập nên nhà nước Mãn Châu độc lập trên danh nghĩa, còn về bản chất thì chỉ là thuộc địa của nước Nhật. Khi người Nhật tiến vào, ông bà nội tôi đã chạy "vào quan nội", phía Nam đường biên giới chia cắt Mãn Châu với phần còn lại của Trung Quốc. Năm 1937, quân đội Nhật Bản xâm lược vào vùng "bản thổ" Trung Quốc(19), tiến dọc theo các con đường và tuyến đường sắt để chiếm các thành phố ở miền Bắc và miền Đông. Phần lãnh thổ không bị chiếm đóng của Trung Quốc chuyển vào sâu trong nội địa, và gia đình tôi cũng đi theo. Ngôi nhà ở Mãn Châu trở thành một nơi xa xôi mà lũ trẻ chỉ biết đến trong những câu chuyện và bài hát.
Tôi đã rời khỏi làng quê yêu dấu
Bỏ cả kho báu vô cùng vô tận nơi đây.
Đi, đi, đi
Đi mãi vào quan nội.
CHIẾN TRANH ĐÃ khởi động hành trình di cư của một triệu con người. Trong suốt tám năm kháng chiến chống Nhật, cách người Trung Quốc gọi Thế chiến II, đất nước đã hai lần đổi thủ đô - từ Nam Kinh đến Vũ Hán, rồi đến Trùng Khánh vào cuối năm 1938, sâu trong miền Tây Nam, ra xa khỏi tầm với của các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại và đường giao thông huyết mạch, để quân đội Nhật không thể truy theo mà không bị ảnh hưởng đến nguồn tiếp tế. Trong núi, chính phủ Trung Quốc cố thủ và đợi quân Đồng minh đánh bại nước Nhật.
Khi chiến tranh bùng phát vào năm 1937, ông nội tôi đã giúp đỡ chuyển các thiết bị từ một mỏ than ở tỉnh Hà Nam, nơi ông làm giám đốc nhà máy đi hơn năm trăm dặm vào sâu trong nội địa đến tỉnh Tứ Xuyên. Là quan chức trong ủy ban Tài nguyên Quốc gia - cơ quan của chính phủ phụ trách xây dựng cơ sở công nghiệp cho chiến tranh của đất nước - ông được cử đi những vùng mỏ rải rác khắp nơi để giám sát việc sản xuất các mặt hàng chiến lược. Ông tôi thường đi trước và viết thư cho bà nội khi nơi đó đã an toàn để có thể đi theo ông. Năm người con của ông, mỗi người sinh ra ở một thành phố mỏ xa xôi. Bác Nellie, chị cả, sinh ở mỏ than Cáp Nhĩ Tân, nơi ông tôi làm việc sau khi trở về từ nước Mỹ, bác Luke và bố tôi ra đời trong một vùng khai thác than ở trung tâm tỉnh Hà Nam. Than Tứ Xuyên, có cô Irene; thủy ngân Hồ Nam, có chú Leo. Sự cô lập của những địa phương này đã nói lên sự phát triển của chủ nghĩa lý tưởng trong ông nội tôi. Hầu hết các sinh viên trở về từ nước ngoài đều sống ở các thành phố lớn, nhưng ông nội tôi nghĩ rằng công việc của ông sẽ cần thiết hơn ở những vùng lạc hậu của đất nước.
Những ràng buộc cá nhân trôi tuột đi - trong chiến tranh hỗn loạn, điều dễ xảy ra nhất trên đời này chính là mất liên lạc với ai đó. Gia đình có thể chuyển đến một nơi ở mới, đăng ký cho lũ trẻ vào trường, rồi lại rời đi chỉ vài tuần sau đó. Trong sáu năm học tiểu học, bác Luke kể với tôi, gia đình đã chuyển đi tới bảy lần. Liên lạc với gia đình ở quê rất khó khăn, những lá thư gửi về nhà ở Mãn Châu phải đi loanh quanh một quãng dài phía sau giới tuyến của kẻ địch. Đáng ngạc nhiên hơn là cách người ta tìm lại được nhau. Một hôm, khi chiến tranh đã gần kết thúc, một sinh viên đẹp trai tên là Triệu Hồng Chí bước vào nhà ăn dành cho nhân viên Cục Khai khoáng ở Trùng Khánh và nhận ra ông nội tôi. Gia đình bác Triệu Hồng Chí và gia đình tôi là bạn từ khi còn ở mỏ than Hà Nam mười năm về trước. Bác Triệu được mời đến nhà tôi ăn tối và bắt đầu theo đuổi bác Nellie của tôi, người bác ấy đã biết từ khi họ còn là những đứa trẻ.
Gia đình cũng được đoàn tụ trong diễn biến của chiến tranh. Khi anh cả của ông nội tôi ở nhà để quản lý sản nghiệp gia đình, thì con trai ông, bác Trương Lập Giao đến Bắc Kinh để học đúng vào thời điểm gia đình tôi đang sống ở đó. Trong các gia đình Trung Quốc truyền thống, anh em và anh em họ của cha được coi là thân cận như nhau. Ông nội tôi đã cho bác Lập Giao một ngôi nhà và trả học phí cho bác; từ khi họ còn là những đứa trẻ, bác Luke và bố tôi đã hết sức ngưỡng mộ và sùng bái "Anh Lập Giao". Khi gia đình tôi chuyển đến Trùng Khánh để tránh khỏi sự xâm lấn của người Nhật, bác Lập Giao cũng đi theo họ.
Chiến tranh là một khoảng thời gian gây khó khăn cho ông nội tôi. Chiến tranh mang lại chết chóc, đổ nát và cả những lần lỡ hẹn, công việc bị đình chỉ, cùng những chiếc xe buýt hỏng.
Thỉnh thoảng, ông còn băn khoăn không hiểu công việc của ông có đáng bỏ ra ngần ấy nỗ lực hay không.
Ngày 14 tháng Bảy năm 1940
Mấy năm này trôi qua thật nhanh và không có nhiều ý nghĩa lắm. Trước tiên, tôi không có bạn bè, bởi tôi đã sống quá lâu trong vùng núi, cách biệt với thế giới bên ngoài. Thứ hai, tôi chẳng có lý tưởng sống gì cả, chỉ biết về mỏ và công việc khai thác mỏ. Mục đích tối thượng của cuộc đời là gì? Tôi vẫn còn chưa quyết định xong. Bốn mươi hai năm đã trôi qua như thế. Điều này đáng để tiếc nuối và ân hận đây.
Mùa hè năm 1939, cụ tôi, Trương Nhã Nam bị ốm và trở về khu nhà của gia đình ở thành phố Cát Lâm, thủ phủ tỉnh Cát Lâm. Người đàn ông đứng đầu một gia tộc giàu sang có thể đòi hỏi một tang lễ trọng thể, nhưng cụ tôi đã để lại di chúc rằng hãy chôn ông trong một chiếc áo choàng trắng, một cái mũ trắng và một đôi dép cỏ - những thứ phục sức mộc mạc của một nhà tu hành. Trên chiếc mũ phải viết dòng chữ baohen zhongtian (bão hận trung thiên): "ôm mối hận cho đến tận cuối đời," biểu thị nỗi đau khổ vì quê nhà vẫn bị người Nhật chiếm đóng. Mãi đến tận năm sau, ông nội tôi mới biết tin cha mình qua đời. Tổ chức tang lễ theo đúng truyền thống cho cha mẹ là nhiệm vụ chính yếu của người con hiếu thảo, nhưng chiến tranh đã khiến trở về nhà thành một nhiệm vụ bất khả thực thi.
Ngày 24 tháng Ba, năm 1940
Tôi đã rất sửng sốt khi biết tin cha mình qua đời hôm mùng Năm. Hè năm trước ông đã một khối u trong dạ dày. Trong suốt ba tháng mùa đông, ông chỉ có thể ăn sữa bột thay khẩu phần hằng ngày. Trong cơn đau bệnh, ông mong mỏi được gặp chúng tôi. Năm nay ông bảy mươi lăm tuổi. Ông luôn khỏe mạnh và đáng lẽ có thể sống đến tám mươi hoặc chín mươi. Chỉ vì nỗi bất hạnh chung của cả đất nước, tinh thần ông rất kém và chính điều đó đã thúc đẩy ông mau đi đến chỗ lìa đời. Chúng tôi không thể đội trời chung với kẻ thù lâu hơn được nữa...
Ngày 18 tháng Chín năm 1931, tôi rời nhà ra đi. Đã chín năm rồi. Cả ông nội và bố tôi đều đã qua đời. Cuộc đời tôi đã thấy quá nhiều thay đổi. Là một người con, một người cháu, tôi làm cách nào để đền đáp đất nước, làm cách nào để đền đáp ông nội và cha mình đây!
Đã bốn mươi lăm tuổi khi triều đình nhà Thanh sụp đổ, cụ Trương Nhã Nam đã sống đủ lâu để thấy thế giới mà cụ biết đã biến mất và được thay thế bởi một thế giới khác, thế giới mà lũ con gái thì mong mỏi được đi xa còn bọn con trai bỏ lại người cha ngày một già nua để đi làm ở những nơi xa lạ. Cụ không đồng tình với những lựa chọn ấy; có lẽ khi con trai cụ rời bỏ nhà ra đi, giữa họ đã có những trăn trở giận dữ hoặc những điều không vui. Nhưng cuốn nhật ký truyền thống Trung Quốc không phải là chỗ để bộc lộ những điều riêng tư, và người con trai cụ đã không viết về những điều ấy.
o O o
Gia đình tôi đang sống ở Trùng Khánh khi người Nhật đầu hàng vào tháng Tám năm 1945. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ là giành lại quyền kiểm soát cơ sở hạ tầng công nghiệp khá phát triển của Mãn Châu; ông nội tôi và một người bạn, đồng thời cũng là đồng nghiệp tên Tôn Việt Kỳ được chỉ định đi giám sát quá trình trao trả lại các khu mỏ ở Đông Bắc cho người Trung Quốc. Khu khai thác chính của cả vùng nằm bên dưới một thị trấn xa xôi tên là Phủ Thuận - mỏ than lớn nhất cả nước, cũng là mỏ than lộ thiên lớn nhất thế giới vào thời điểm đó.
Đó là một nhiệm vụ rất nguy hiểm. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng một cuộc chiến khác lại vừa mới bắt đầu. Xung đột giữa chính phủ Quốc dân Đảng và những người Cộng sản - chỉ giữ được trong tầm kiểm soát trong những năm tháng chiến tranh, do vậy vùng Đông Bắc chuyển thành một chiến trường có giá trị then chốt. Những người Cộng sản có lợi thế hơn: được quân đội Xô viết đã tiến vào vùng Đông Bắc trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến giúp đỡ, quân du kích Cộng sản nhanh chóng tiến vào Mãn Châu để chiếm giữ đất đai và những vật tư chiến tranh bị những kẻ chiếm đóng bỏ lại. Ở phía bên kia chiến tuyến, những người lính Quốc dân Đảng đang ở căn cứ thời chiến Trùng Khánh nên không thể kịp quay lại nơi này.
Ban đầu, Tôn Việt Kỳ được chọn để xử lý vụ việc trao trả mỏ Phủ Thuận, nhưng ông này tìm cớ là đã nhận việc ở một nơi khác và đề cử ông nội tôi đi thay mình. Nhiệm vụ ấy hẳn là giống như một định mệnh với ông nội tôi. Cuối cùng thì cũng có một nhiệm vụ để cứu chuộc cho những vai khác hẳn nhau mà ông đã đóng trong cuộc đời mình: sinh viên du học, chuyên gia mỏ, người Mãn Châu lưu vong, nhà yêu nước Trung Quốc. Ông nội tôi nhận nhiệm vụ, mặc dù vậy ông không cho bà nội tôi biết là ông sẽ đi đâu. Trên đường đi khỏi Trùng Khánh, ông đã dừng lại để chào tạm biệt con gái, bác Nellie ở trường trung học của bác ấy. Năm đó bác ấy mười lăm tuổi, và cũng không nghĩ nhiều về lần chia tay này; suốt cả cuộc đời bác ấy, người cha lúc nào cũng đi một nơi nào đó công tác.
Ông đến Thẩm Dương, thành phố lớn nhất vùng Đông Bắc, ngày 7 tháng Một năm 1946 - lần đầu tiên ông trở về quê hương sau mười lăm năm. Một người bạn cũ của ông, Đổng Văn Kỳ, hồi ấy đang là thị trưởng thành phố, đã cảnh báo ông hãy cẩn thận. "Anh ở Trùng Khánh đến," Ông Đổng Văn Kỳ nói. "Anh không biết ở đây như thế nào đâu." Ông nội tôi cũng nhận được cảnh báo từ một đầu mối liên lạc bên phía Liên Xô. Người Nga bảo ông hãy đợi cho đến khi tình hình trị an ở Phủ Thuận được cải thiện, và ông nội tôi đã lưu lại Thẩm Dương trong một tuần.
Tin đồn bắt đầu lan đi: ông sợ phải ra ngoài, người ta nói; ông đã đi suốt quãng đường dài đến Thẩm Dương chẳng để làm gì cả. Sáng ngày 14 tháng Một, cấp trên ở ủy ban Kinh tế Đông Bắc gọi điện hỏi về nhiệm vụ bị trì hoãn. Nổi giận trước ngụ ý ám chỉ mình hèn nhát đó, ông nội tôi đến khu mỏ ngay hôm ấy với khoảng sáu kỹ sư mỏ và vài người bảo vệ từ nhà ga địa phương. Ở khu mỏ, họ bị bắt làm tù nhân không chính thức, và bị giám sát bởi những người lính Xô viết và cảnh sát Trung Quốc. Trong hai ngày họ chẳng làm được bất cứ việc gì, rồi nhận được yêu cầu rời khỏi khu mỏ. Buổi tối ngày 16 tháng Một, ông nội tôi và đội của ông, vẫn bị giám sát nghiêm ngặt, tất cả lên một chiếc tàu của Liên Xô để trở về Thẩm Dương. Chín giờ tối hôm ấy, một đám lính vũ trang lên tàu ở một nhà ga bỏ hoang ở phía Tây Phủ Thuận. Họ ra lệnh cho ông nội tôi cùng đồng nghiệp của ông xuống tàu và áp giải họ đến một triền đồi gần đấy. Trong đêm đông tối tăm, xung quanh là vùng Mãn Châu hoang vu vắng vẻ, những tên lính ấy đã đâm họ đến chết bằng lưỡi lê.
Ông nội tôi thốt lên vài chữ khi ông hấp hối, theo lời một tờ báo thời bấy giờ. "Tôi là người của chính phủ Trung ương," ông nói. "Chết vì nhiệm vụ, tôi không có gì để oán trách cả."
o O o
Không có tin tức gì ở Trùng Khánh cả. Một hôm, bà nội tôi đến chùa để hỏi về số phận người chồng mất tích của mình.
Khách viếng chùa sẽ ném hai mảnh gỗ lên cho đến khi chúng rơi tạo thành một sự kết hợp nhất định, rồi sau có rút một thanh tre có khắc số. Con số đó tương ứng với một lời sấm, được diễn giải bằng một bài thơ mà ý nghĩa thường mơ hồ nhập nhằng. Lời sấm này được xếp hạng, từ "thượng thượng" đến "hạ hạ".
Ngày hôm ấy, bà nội tôi bắt được thẻ xăm "hạ hạ". Và ý nghĩa của bài thơ đó quá rõ ràng, đến nỗi sáu mươi năm sau đó, cha tôi, hồi ấy mới chỉ là đứa trẻ mười tuổi vẫn nhớ và ngâm lại cho tôi từng chữ một:
Ngày xưa bánh lái bị lạc tay
Ngày nay vẫn tìm giữa biển cả
Cho dù thứ ngày xưa có thể tìm lại lần nữa
Thì cũng mất nhiều nỗ lực và mệt mỏi con tim
Ở Thẩm Dương, có tin đồn rằng ông nội tôi và sáu người đồng nghiệp đã bị sát hại. Ông Đổng Văn Kỳ, thị trưởng đồng thời cũng là bạn của ông tôi nhận được một cuộc điện thoại từ vị chỉ huy quân đội Xô viết trong vùng. Ông đến tổng hành dinh của họ, trong cuốn hồi ký viết bốn mươi năm sau đó, ông nhớ lại cảnh tượng ấy:
Tôi thấy một chiếc xe tải đỗ giữa sân, bên trong có một chiếc quan tài bọc vải đen. Tôi nhảy lên xe và mở nắp quan tài ra, không nghi ngờ gì nữa, đó chính là Sân Phu. Anh ấy vẫn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn màu xanh sẫm mà tôi và anh đã cùng đi may ở Bắc Bình [Bắc Kinh]. Thân thể anh ấy đã bị đâm mười tám nhát.
Thi thể của ông nội tôi đã được tắm rửa sạch sẽ và chụp ảnh, những bức ảnh chỉ rõ nhiều vết thương do lưỡi lê gây ra và những dấu dây thừng ở chỗ cánh tay ông bị trói. Quan tài ông được đưa đến đền thờ Thần Chiến tranh ở Thẩm Dương, được trưng bày ở đó trong ba tháng. Bộ quần áo thấm máu anh ấy đã mặc khi bị đâm mười tám lần treo trong đền để mọi người đến nhìn, Đổng Văn Kỳ viết, để làm tăng thêm cảm giác căm giận kẻ thù trong họ. Những bức ảnh chụp xác ông tôi cũng được phát tán rộng rãi, cũng với mục đích tuyên truyền. Khi tin tức về vụ sát hại bùng lên vào tháng Hai năm 1946, sinh viên biểu tình ở khắp các thành phố lớn trên đất nước Trung Quốc yêu cầu quân đội Xô viết nhanh chóng rời khỏi Mãn Châu. Ở Trùng Khánh, có khoảng hai mươi nghìn sinh viên phản đối vụ giết chóc và sự hiện diện của quân đội Xô viết ở vùng Đông Bắc. Cách đó nửa vòng thế giới, ở Pulton, bang Missouri (Hoa Kỳ) ngày 5 tháng Ba, Winston Churchill đã có bài phát biểu về Bức màn sắt nổi tiếng của mình và viện dẫn hành động của quân Xô viết ở Mãn Châu như một ví dụ của ý hướng thù địch của họ.
Vụ giết người đó không bao giờ được giải quyết. Quốc dân Đảng cho rằng những người Cộng sản đã giết ông nội tôi và cả đội của ông, như một lời cảnh báo chính phủ Quốc dân Đảng hãy tránh xa đất Mãn Châu ra. Còn những người Cộng sản, ngược lại, nói rằng Quốc dân Đảng đã dàn dựng nên vụ sát hại đó để gây dư luận chống lại Đảng Cộng sản. Liên bang Xô viết quy trách nhiệm vụ này cho "thổ phỉ phiến loạn" ở địa phương. Không một ai đứng lên nhận trách nhiệm về hành vi sát hại một nhóm công dân không có vũ khí - một hành động hèn nhát. Mục đích không được nhắc đến nhưng thông điệp thì rõ ràng như nhau: cuộc chiến cũ đã kết thúc, cuộc chiến mới đã bắt đầu, cái chết của ông nội tôi chỉ là mở đầu cho nhiều cái chết khác.
NHỮNG ĐỨA CON NHỚ LẠI đã nghe tin ấy như thế nào. Một buổi chiều mùa đông, mẹ của họ được gọi đến nhà một người bạn. Khi trở về, bà đi thẳng vào phòng ngủ và bắt đầu khóc lớn đến nỗi tất cả các con đều nghe thấy tiếng bà. Rồi sau đó, bà bước ra ngoài, gọi các con lại xung quanh và nói với chúng rằng, cha chúng đã bị sát hại. "Đừng lo lắng," người mẹ nói. "Mẹ ở đây." Bà bảo với những đứa con rằng họ sẽ không bao giờ thấy bà rơi nước mắt một lần nữa.
Sau cái chết của ông nội, bà nội tôi bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội - theo cách nào đó, vũ đài lớn hơn ấy phù hợp với tính cách mạnh mẽ của bà hơn. Bà được bầu vào Quốc hội và tiêu tốn hầu hết thời gian của mình ở thủ đô Nam Kinh. Đồng thời, bà cũng xây dựng một đường dây phân phối than để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Bà đã nói sự thật: những đứa con của bà không bao giờ thấy bà khóc lần nào nữa. Nhưng mái tóc bà đã ngả sang màu xám bạc và bà bắt đầu hút thuốc liên tục, suốt đêm, dường như đối với những đứa con, bà đã trở nên già cỗi. Lời tiên tri ở ngôi chùa cũng đúng về điều này. Cho dù thứ ngày xưa có thể tìm lại lần nữa. Thì cũng mất nhiều nỗ lực và mệt mỏi con tim.
Bà nội tôi luôn tin rằng chính những người Cộng sản đã giết chồng bà. Bà nói, ông Tôn Việt Kỳ, người bạn đã không đến Phủ Thuận của ông nội, đáng lẽ ra phải chết ở đó mới đúng. Nhưng Tôn Việt Kỳ đã sống sót. Ông ta về sau đã đầu hàng Cộng sản vào năm 1949 - một năm có rất nhiều vụ đầu hàng như thế - và lãnh đạo ủy ban Cách mạng Quốc dân Đảng, một đảng phái không có thực quyền tồn tại chỉ để chứng minh sự hư cấu rằng Trung Quốc không phải một đất nước độc đảng. Nhiều năm sau đó, cha tôi kể rằng ông đã nhận được tin tức từ Tôn Việt Kỳ.
Sau khi bố đến Mỹ, làm việc ở IBM, Tôn Việt Kỳ gửi cho bố một tấm thiệp Giáng sinh. Ông ta nói muốn gặp bố khi bố tới Bắc Kinh lần tới.
Bố không bao giờ gặp ông ta. Bố từ chối.
Tôn Việt Kỳ đã hưởng một sự nghiệp khá dài trong chính phủ, ông ta thọ những 102 tuổi.
o O o
Tang lễ bị hoãn hơn một năm. Sau khi cuộc nội chiến chính thức bắt đầu trở lại vào mùa hè năm 1946, cuộc chiến càn qua làng Lục Đài, khu vực này thay đổi phe kiểm soát ba lần trong năm đầu tiên của chiến tranh. Cuối cùng chính phủ cũng quyết định an táng ông nội tôi trong một công viên ở Thẩm Dương, nơi có lăng mộ của vị hoàng đế đầu tiên của triều Thanh. Chỉ có ba người con trai đến tham dự lễ tang, điều mà cô Irene của tôi vẫn nhớ lại đầy phẫn nộ mãi sáu mươi năm sau đó. Chuyến hành trình đến tham dự lễ truy điệu cha họ là cái mốc đánh dấu việc lần đầu tiên cha tôi, bác Luke và chú Leo lúc ấy mới ba tuổi đi ra "quan ngoại", đến Mãn Châu. Anh họ của họ, bác Lập Giao, khi đó đã trở thành một giảng viên Đại học Bắc Kinh cũng đi cùng bà nội tôi.
Đoàn diễu hành tang lễ có một đội quân vũ trang đi theo hộ tống. Có tin đồn rằng những người Cộng sản muốn tiêu diệt toàn bộ gia đình chúng tôi, một hình phạt có từ thời phong kiến, gọi là miemen (diệt môn). Hơn mười nghìn người đã đứng hai bên đường đi, chen chúc bày tỏ lòng kính trọng và cố nhìn vào chiếc quan tài gỗ đàn nặng nề. Cha tôi, năm ấy mới mười tuổi, vẫn còn nhớ mình đã bị đám đông làm cho kích động thế nào. Trong công viên của hoàng tộc ở Bắc Lăng - nghĩa là "Lăng mộ phương Bắc" - ông tôi được đặt nằm yên nghỉ gần "linh đạo," một con đường hai bên có những bức tượng đá khổng lồ hình người và thú vật để phục vụ cho vị hoàng đế dưới suối vàng. Một miếng cẩm thạch đen nhỏ khắc hàng chữ "Mộ của ông Trương Sân Phu" là vật duy nhất để đánh dấu ngôi mộ. Bên cạnh ngôi mộ có dựng một tảng đá cao, được gọi là bia, mà theo truyền thống, tấm bia này sẽ được khắc lên câu chuyện về cuộc đời ông, ngợi ca tài năng và đức độ của ông nội tôi.
Chính phủ đã thảo ra một bản khắc trên tấm bia để quy trách nhiệm cái chết của ông nội tôi cho phe Cộng sản. Nhưng gia đình tôi cự tuyệt quyết định này. Bác Lập Giao, như hầu hết những tri thức trẻ thời bấy giờ, là một người nồng nhiệt ủng hộ Cộng sản, không đồng ý với phiên bản câu chuyện của chính phủ về cái chết của chú mình. Bà nội tôi cũng phản đối, mặc dù lý do của bà thực tế hơn nhiều: bà tin rằng phe Cộng sản sẽ thắng trong cuộc chiến. Một tấm bảng chỉ trích Đảng Cộng sản có hành vi ám sát chính trị sẽ không thể tồn tại trong chế độ mới. Tốt hơn là, bà nghĩ, không nói gì hết. Sau tang lễ, cuối năm 1947, gia đình tôi chuyển đến Bắc Kinh. Năm tiếp sau đó, phe Cộng sản chiếm được Thẩm Dương và cả vùng Đông Bắc, nhưng đến lúc đó gia đình tôi đã chạy sang Đài Loan. Sau chiến thắng của phe Cộng sản, bác Lập Giao bị điều động đến Cáp Nhĩ Tân và đất nước bị các cuộc vận động chính trị nuốt chửng, đồng thời việc đi lại tự do cũng bị cấm. Không còn thành viên nào trong gia đình ở lại Thẩm Dương để chăm nom cho ngôi mộ của ông nội. Và tấm bia bên cạnh mộ ông vẫn để trống trong gần nửa thế kỷ. Năm tháng trôi đi, những người ở Thẩm Dương biết câu chuyện về nó đều đã chuyển đi hoặc qua đời. Dân chúng thành phố bắt đầu gọi ngôi mộ là vô danh bi: tấm bia vô danh.
o O o
Cách mạng vô sản tràn vào Lục Đài mùa hè năm 1946. Tổ chức đảng lan tỏa đến khắp các ngôi làng ở Mãn Châu, đánh giá "tình trạng giai cấp" của từng gia đình một, tịch thu đất đai và gia súc từ những nhà giàu có để chia cho những người nghèo nhất. Làn sóng cải cách ruộng đất thứ hai, cuộc vận động "Đào hầm" vào năm 1947, lùng sục để tìm bằng được của cải mà các gia đình đã giấu đi. Các nhà hoạt động chính trị dạy cho dân làng tố cáo những địa chủ trong các cuộc mít tinh tập thể, hay còn gọi là "đấu tố", những mục tiêu mà họ lựa chọn bị chửi bới, nhục mạ và đánh đập. Làn sóng thứ ba, nổi lên vào mùa đông năm 1948, là cực đoan nhất và đã kết thúc trong cái chết của vô số "kẻ thù của cách mạng". Bạo lực ngày một tăng cao là nhân tố chủ chốt để phá vỡ hệ thống cũ. Để sửa chữa sai lầm, Mao Trạch Đông đã viết trong một bài luận năm 1927 về các cuộc khởi nghĩa nông dân, cần phải trở nên cực đoan nếu không sai lầm sẽ không bao giờ được sửa chữa.
Ở Lục Đài, cán bộ Đảng Cộng sản và dân làng đã tấn công Tân Phát Nguyên, sản nghiệp của gia đình tôi. Họ kéo đổ những mái hiên gỗ của căn nhà và đốt hết sách trong thư viện, họ lấy bộ sưu tập mẫu khoáng vật ông nội tôi thu thập từ thời sinh viên đi rồi ném hết xuống sông. Chính quyền mới của thôn trưng dụng chái phía Đông của nhà chính để làm trụ sở, trong khi chái phía Tây bị biến thành nhà kho và nơi xay xát gạo. Vài gia đình nghèo chuyển vào sống trong chái phía Tây và nhà sau, nơi các thành viên trong gia đình chúng tôi thờ cúng tổ tiên.
Anh cả của ông nội tôi là Trương Phượng Ân chạy khỏi làng khi cuộc tấn công bắt đầu. Ông đến sống ở Bắc Kinh với bác Lập Giao và những người còn lại trong gia đình. Ông Phượng Ân là người con trai cả và chủ nhân của Tân Phát Nguyên suốt cả cuộc đời mình, nhưng ở Bắc Kinh, điều này chẳng có ý nghĩa gì cả. Bà nội tôi cằn nhằn cách sống lạc hậu và tính tình biếng nhác của ông; bà nhiếc móc thói quen khạc nhổ xuống sàn nhà của ông. Ông Phượng Ân chịu đựng những lời chỉ trích này trong im lặng. Ở thủ đô, ông biết vị thế của mình: ông chỉ là một ông già đến từ vùng quê, và đã hết thời được hưởng đặc quyền của người con cả.
Mặc dù vậy, lũ trẻ con lại thích ông. Ông hay kể cho các cháu mình về tài sản khổng lồ của gia đình mà chúng chưa bao giờ trông thấy.
"Bác có nhiều tỳ thiếp lắm phải không ạ?" Mấy đứa con trai hăm hở hỏi, nhưng chỉ khi nào mẹ chúng không nghe thấy.
"Không, chỉ có bố bác có nhiều tỳ thiếp thôi," ông trả lời với một chút tiếc nuối pha trong giọng nói.
Cuộc cách mạng ở những làng quê nông thôn giống như Lục Đài đã trở thành mô hình kiểu mẫu cho những cuộc vận động trên diện rộng của kỷ nguyên Cộng sản. Các chiến dịch chính trị thành từng đợt, đợt sau cực đoan hơn đợt trước, hành vi bạo lực được cổ vũ như sự minh chứng của sự trong sạch cách mạng. Lịch sử không nói nhiều về cuộc cải cách ruộng đất những năm 1940 và những cuộc đời mà nó hủy hoại, có lẽ vì những cuộc vận động sau này xảy ra ở các thành phố và có nhiều nạn nhân dễ nhận thấy hơn. Các nhà sử học không chú ý nhiều đến những người như ông trẻ của tôi, những người đã bị buộc phải trốn chạy khỏi ngôi nhà của mình và sống qua ngày như một người khách trong căn nhà của người khác. Số phận của vợ ông còn bất hạnh hơn nhiều. Khi chồng bà đã trốn đến Bắc Kinh, bà vẫn ở lại làng. Và đó là điều hợp lẽ phải: một người đàn bà thì không nên đi đâu hết. Đàn bà nên ở nhà. Bà trẻ tôi bị đánh cho đến chết, có vẻ như là bởi những người bà đã quen biết cả đời mình, trong một trong những cơn sóng cồn bạo lực cách mạng càn quét qua gia đình tôi vào cuối những năm 1940. Tôi thậm chí còn không biết tên bà là gì.
o O o
Bản đồ Bắc Kinh của cha con tôi không giống nhau. Vài năm trước, cha mẹ đến thăm tôi ở đó và chúng tôi lái xe về miền quê ở phía Đông Bắc thành phố. Trong xe, cha tôi trải ra một tấm bản đồ và đọc lớn tên các thị trấn: Cổ Bắc Khẩu, Hỷ Phong Khẩu. Đó là những quan ải nổi tiếng được các hoàng đế triều Minh xây trên Vạn Lý Trường Thành; đối với tôi, chúng là những địa điểm du lịch đông nghịt vào những ngày cuối tuần mùa hè. Đối với cha tôi, đó là những nơi đã đầu hàng mà không hề chiến đấu, từng nơi một, khi Quân Giải phóng Nhân dân khép chặt vòng vây xung quanh Bắc Kinh hồi ông mới mười hai tuổi.
"Không có trận chiến nào để bảo vệ Bắc Kinh cả," cha tôi nói. "Con có biết tại sao không? Những vị tướng đóng ở đây chưa bao giờ trung thành với Tưởng Giới Thạch. Họ đầu hàng Cộng sản ngay cả khi chưa hề chiến đấu."
Đó là mùa thu năm 1948, và bà nội tôi đã đoán đúng: phe Cộng sản thắng trong cuộc chiến. Cùng với thất bại về mặt quân sự, số người đầu hàng ngày một tăng, người ta bắt đầu hướng ra các vùng ngoại vi của đất nước để trốn chạy. Đảo Đài Loan, cách bờ biển Trung Quốc một trăm dặm là một nơi có thể ẩn náu; những gia đình thương gia Thượng Hải thì thích thuộc địa Hồng Kông của nước Anh hơn. Một số người bàn đến chuyện rút về miền Tây Nam, vùng đất đã cứu Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật: từ những căn cứ trong núi ở Trùng Khánh và tỉnh Quảng Tây, ở biên giới Trung Quốc-Việt Nam, những người trốn chạy một ngày nào đó sẽ đánh ngược trở về trung tâm đất nước.
Các gia đình chia lìa trước sự tấn công của phe Cộng sản. Người cha có thể lên đường với những đứa con lớn trong khi mẹ và các em chúng ở lại phía sau, hoặc một gia đình sẽ để lại đứa con nhỏ nhất cho ông bà chăm sóc, còn các thành viên còn lại sẽ đi trước. Mọi người đều nghĩ sự chia tách này chỉ là tạm thời - tất cả đều mong mỏi phe Quốc dân Đảng sẽ giành lại thế chủ động về mặt quân sự trong thời gian ngắn. Bà nội tôi bị dằn vặt vì không biết đi đâu. Và một lần nữa, bà lại đến chùa, lần này những tấm thẻ tre đã bảo với bà: đi Đài Loan.
Mùa thu năm 1948, Tưởng Giới Thạch và phu nhân Tống Mỹ Linh đến Bắc Kinh. Họ đã đi tham quan Di Hòa Viên, một công viên mênh mông ở khu ngoại ô phía Tây Bắc thành phố được các hoàng đế triều Thanh xây dựng để tránh cái nóng mùa hè. Triệu Hồng Chí, bạn trai của bác Nellie tình cờ cũng đến Di Hòa Viên ngày hôm ấy. Bác ấy đã chụp một tấm ảnh vị tổng thống nước Trung Hoa Dân quốc và phu nhân khi họ dạo bước qua những khu vườn và đình đài, bên bờ hồ nước trồng hàng liễu xanh um lần cuối cùng. Năm sau đó, khi đã mất hầu hết quyền kiểm soát đất nước, Tưởng Giới Thạch di chuyển thủ đô trở lại căn cứ thời chiến là Trùng Khánh. Rất nhiều gia đình đã chuyển đi cùng ông ta, sau đó thủ đô lại di dời một lần nữa, đến thành phố Thành Đô gần đó. Cuối cùng, tháng Mười hai năm 1949, Tưởng Giới Thạch lên máy bay đến Đài Loan, lập nên một chính quyền mới ở đó, bỏ lại phía sau rất nhiều người đã theo ông đến tận cùng.
KHÔNG PHẢI AI CŨNG MUỐN RA ĐI. Bà nội tôi đã mời bác Lập Giao và bác Triệu Hồng Chí cùng đi với gia đình đến Đài Loan, nhưng cả hai người bọn họ đều làm bà phải thất vọng. Bác Triệu Hồng Chí là một sinh viên còn bác Lập Giao là một giảng viên đại học. Như nhiều trí thức cùng thời, họ ủng hộ phe Cộng sản và mong chờ được xây dựng một đất nước mới. Cha tôi và bác Luke còn quá nhỏ để có cái gọi là quan điểm chính trị. Còn bác Triệu và bác Lập Giao thì đã đủ lớn, chính sự trưởng thành ấy đã phong kín số phận của họ lại.
Bác Nellie của tôi; theo như những người khác trong gia đình kể, cũng muốn ở lại. Là một nữ sinh trung học, bác bị dằn vặt giữa mong muốn của gia đình và sự ủng hộ phe Cộng sản trong mình. Bác cũng đang yêu nữa - bạn trai bác, bác Triệu Hồng Chí, tin vào cuộc cách mạng và dự định sẽ ở lại. Nhưng bác Triệu lại thuyết phục bác Nellie rằng bác nên ra đi, để giúp đỡ mẹ và bốn đứa em của mình. Hai người đã thỏa thuận rằng cho dù kết cục có thế nào, mỗi người cũng sẽ đăng một quảng cáo "Tìm người" trên tờ báo lớn nhất thành phố để họ có thể tìm lại được nhau.
"Chuyện đó thật vớ vẩn!" Bác Nellie nói khi tôi kể lại phiên bản này của câu chuyện cho bác hồi mới gần đây. "Anh ấy muốn bác đến Đài Loan với lũ trẻ rồi trở lại Trung Quốc."
Là chị cả trong gia đình, bác Nellie luôn là người được cha cưng chiều. Bác đón nhận lấy sự cưng chiều đó như đặc quyền của riêng mình, nhưng; bác cũng được dạy bảo là phải biết trách nhiệm của mình. Khi tôi hỏi xem bác có muốn ở lại vào mùa thu năm 1948 ấy hay không, bác gạt phăng tôi đi. "Bác không cần biết là có đi hay không," bác ấy nói, "nhưng bác có trách nhiệm phải trông nom những đứa em nhỏ hơn mình."
Một buổi chiều mùa hè ở Bắc Kinh, tôi đến thăm bác Triệu Hồng Chí, bạn trai cũ của bác Nellie. Bác ấy đã tám mươi tuổi và vừa mới chuyển đến khu chung cư cách chỗ tôi ở một khu phố. Vợ bác Triệu ở nhà. Ngay lần đầu tiên đến, tôi đã gặp bà. Gương mặt bà không để lộ chút cảm xúc nào khi ra đón tôi: cháu của bạn gái cũ của chồng mình, đến để nói chuyện về chuyện tình đã xa xưa ấy.
Trong phòng khách, bác Triệu cẩn trọng nói về tuổi thơ và mối quan hệ với gia đình tôi. Vợ bác đi qua căn phòng, rồi ngồi xuống bàn ở phòng ăn bên cạnh đọc báo. Thi thoảng bà ấy lại sột soạt những trang báo để chúng tôi biết bà ấy vẫn đang đọc. Điều hòa nhiệt độ của căn hộ mới vẫn chưa được nối điện, nên căn buồng hết sức nóng bức ngột ngạt.
"Bác Nellie có tham gia các hoạt động của phe Cộng sản không?" Tôi hỏi bác Triệu.
"Không," bác ấy đáp. "Hồi đó, cô ấy vẫn còn đang đi học."
"Nhưng cháu luôn nghe mọi người bảo bác ấy không muốn rời khỏi Trung Quốc."
"Cô ấy không muốn rời khỏi Trung Quốc."
Tôi liếc nhìn ông. Bác Triệu ngồi thẳng thớm trên ghế bành - nghiêm nghị như một chàng sĩ quan trẻ kiêu ngạo với điều mình biết.
Bác lặng lẽ chỉ vào mình, ngón tay cái trỏ lên ngực như một lưỡi dao găm dã tìm thấy mục tiêu của nó. Ở căn phòng bên cạnh, không có tiếng giở báo sột soạt nữa.
MÙA THU NĂM 1948 ĐÓ, Quốc hội vẫn đang họp. Bà nội tôi, lúc ấy đang ở Nam Kinh, cố gắng một cách điên dại để bí mật đưa các con ra khỏi Bắc Kinh khi quân đội Cộng sản đang tiến về thành phố. Vé tàu đi Thượng Hải đã bán hết, còn sân bay địa phương thì đã đóng cửa. Bà nội tôi đến gặp một vị tướng trong Không quân tên là Chu Chí Nhu(20), và lật lá bài cuối cùng bà có trong tay lên. "Chồng tôi đã hy sinh vì đất nước này," bà nói, "tôi muốn đưa con của tôi đi khỏi đó." Những người con của bà rời Bắc Kinh đến Nam Kinh trên một chiếc máy bay vận tải quân sự DC-3 cất cánh từ một con phố đã được chuyển thành đường băng tạm thời. Đó là một trong những chuyến bay cuối cùng rời khỏi Bắc Kinh vào tháng Mười năm 1948.
Triệu Hồng Chí đi cùng cả gia đình để tiễn họ. Bác đạp xe về nhà khi chiếc DC-3 gầm rú trên đầu, mang theo tình yêu của bác đi, cảnh tượng hệt như đoạn cuối cùng trong phim Casablanca. Nhiều năm sau đó, bác Triệu đã viết trong một bài văn của mình thế này:
Tôi đã tiễn biệt tình yêu thuở ấu thơ, cô ấy sẽ đi học ở trường Trung học nữ Nam Khai ở Thiên Tân. Khi chiếc máy bay cất cánh và bay qua trên đầu, tôi vừa đạp xe rời khỏi sân bay và đi qua Vườn thú Bắc Kinh. Tôi đã nói với cô ấy rằng tôi sẽ ra vùng tự do trong một tuần nữa. Trong khoảnh khắc ấy, tôi nghĩ hành động ấy thật anh hùng và hấp dẫn.
Bác Triệu có nhận được một bức thư của bác Nellie gửi từ đảo Đài Loan. Bác Nellie quyết định học chuyên ngành ngoại ngữ, ngành học mà bác Triệu cho rằng thích hợp với phụ nữ. Bác không nhận được tin gì của bác Nellie kể từ đó - không có liên lạc gì nữa giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục trong khoảng bốn thập kỷ tiếp đó. Sau khi bác Nellie đi, bác Triệu nghỉ học và cùng mấy người bạn sinh viên đi đến "vùng tự do" đã nằm dưới quyền khống chế của Cộng sản bên ngoài Bắc Kinh. Bác đổi tên mà cha mẹ đặt cho mình thành Lập Sinh, nghĩa là "xây dựng cuộc đời": chuyện này khá phổ biến, trong thời kỳ cách mạng, lấy một tên mới tượng trưng cho sự cắt đứt với quá khứ. Mùa đông năm sau đó, các sinh viên diễu hành bên cạnh những người lính Cộng sản khi họ tiến vào thủ đô. Bác Triệu tìm được công việc ở Sở Giáo dục thành phố. Trong cuộc vận động chống phái hữu nhằm vào các phần tử trí thức năm 1957, bác mất chức giáo sư đại học và bị đưa về nông thôn lao động. Bác Triệu ở đó hai mươi năm. Đến hơn năm mươi tuổi, bác mới được trả lại công việc và Đảng tịch của mình. Đến lúc đó, bác không còn muốn ở trong Đảng nữa, nhưng bác cũng không dám từ chối nó.
Tôi chưa bao giờ nghe bác Triệu nói mình hối hận vì đã ở lại Trung Quốc. Người Trung Quốc không có cái kiểu hối tiếc như vậy - bởi sẽ có quá nhiều điều để nói và chẳng được ích lợi gì. Trong sâu thẳm, có vẻ như bác Triệu còn tự hào với sự lựa chọn của mình, ký ức về nó vẫn chói lọi ánh vàng, không hề bị lấm bẩn bởi tất cả những gì xảy ra sau đó. "Bác muốn ở lại, để giúp đất nước Trung Quốc," bác Triệu nói với tôi. "Hồi ấy bọn bác rất có lý tưởng. Ai có thể nói bọn bác đã sai chứ?"
o O o
Con tàu đưa những người tị nạn của cuộc nội chiến đến Đài Loan tên là Thịnh Vượng (Prosperity). Bác Nellie đi trước với ba em trai và một người giúp việc trong gia đình, bà này từng là vú nuôi của cha tôi, cha tôi và các anh chị em của ông gọi bà là má Vương. Chuyến hải hành kéo dài hai ngày hai đêm, hầu hết mọi người đều bị say sóng. Khi con tàu đến cảng Cơ Long ở Đài Loan, bác Nellie trông thấy các đồng nghiệp cũ và sinh viên của cha mình ra đón ở cầu tàu. Nhưng không ai được xuống khỏi con tàu nếu không có giấy tờ hợp lệ - ngay cả trong những thời khắc hỗn loạn cuối cùng của cuộc nội chiến, thói quan liêu của người Trung Quốc vẫn cứ hoành hành - không đứa trẻ nào có giấy tờ. Bác Nellie như phát điên lên. Sau đó bác nhận ra vài người trong thủy thủ đoàn đang vác hành lý khỏi tàu qua một lối đi mé bên cạnh, vậy là bác liền dẫn các em đi theo lối đó. Má Vương ngần ngừ ở lại phía sau, chân bà bị bó và bà sợ mất thăng bằng khi đi trên lối đi hẹp ấy. "Má phải đi, hoặc bọn cháu sẽ quay lại," Nellie ra lệnh, và má Vương nghe lời bác ấy. Trên thực tế, con tàu đã trở lại Trung Quốc với rất nhiều hành khách vẫn đang ở trên tàu - họ trở thành công dân nước Trung Quốc Cộng sản khi chỉ còn cách Đài Loan chỉ vài bước chân. Bà nội và cô Irene của tôi cũng đến được Đài Loan hai tuần sau đó.
Đối với họ, hòn đảo ấy chưa bao giờ là quê hương. Trong mắt họ, nó chỉ là một trạm dừng chân chờ đến ngày họ trở về Đại lục. Những ngưòi tị nạn đến từ Trung Quốc Đại lục được gọi là waishengren (ngoại tỉnh nhân), người đến từ các tỉnh ngoài. Họ sống tách rời khỏi những người Đài Loan bản địa và không bao giờ thâu nhận thổ âm địa phương. Ở trường, con cái họ học thuộc lòng tên núi tên sông ở Trung Quốc và hát những bài hát về bức Vạn Lý Trường Thành mà có thể chúng không bao giờ trông thấy. Vạn Lý Trường Thành trong tim ta dài vạn dặm. Đất nước của thời ấu thơ và của tổ tiên họ trở thành vùng đất trong ký ức, một vùng đất để tái tạo lại trong trí tưởng tượng của họ.
Cha tôi sống ở Đài Loan mười một năm, gần bằng thời gian ông sống ở Trung Quốc. Khi kể tôi nghe câu chuyện của gia đình, ông mất vài tiếng đồng hồ để nói về Trung Quốc; còn Đài Loan, ông bỏ qua chỉ sau ba bốn câu ngắn ngủi.
Bố và những người thân sống ở Đài Bắc khoảng sáu tháng, sau đó chuyển đến Đài Trung. Bọn bố chỉ được ăn thịt gà khi Tết đến và hai hay ba quả dưa hấu trong mùa hè. Mẹ bố là một nhà lập pháp khi bà ấy qua đời.
Từng người một, bố cùng những người thân đến Mỹ.
Chính phủ đã lập một quỹ quyên góp để hỗ trợ gia đình sau khi ông nội tôi bị giết. Bà nội đã dùng số tiền đó để mua vàng miếng và trái phiếu chính phủ, đống trái phiếu đã thành một mớ giấy lộn vô giá trị, nhưng số vàng thì đã giúp gia đình duy trì được trong nhiều năm. Bố và người thân để vàng miếng trong thắt lưng mỗi khi đi đâu, bố tôi hồi tưởng lại. Vì họ là con liệt sĩ, nên chính phủ trả tiền học và thậm chí cả tiền đồng phục ở trường cho họ.
Trong ngày giỗ thứ tư của cha họ, bác Nellie, lúc ấy đã là một tân sinh viên đại học, có viết một bài thơ được đăng trên tờ Nhật báo Tin tức Trung ương, tờ báo của Quốc dân Đảng:
Bốn năm rồi, cha ơi.
Cỏ trên mộ cha đã mọc cao,
Những cánh đồng phương Bắc một lần nữa lại phủ tuyết,
Ôi, con của cha đang lang thang trên hòn đảo giữa biển khơi
Đang thành tâm gửi nỗi nhớ vời vợi đến cha.
Những thứ đã mất
Có thể tìm lại được
Nhưng những gì con mất
Là tình yêu của cha
Quần áo rách có thể vá lành
Nhưng, than ôi, đây là
Một trái tim bị xé nát!
Ngày 16 tháng Một, ngày hôm nay của bốn năm về trước,
Ngày hôm đó, khi người ta ca khúc khải hoàn
Cha trở thành kẻ hy sinh đầu tiên của sự chuyển đổi
Liêu Ninh, mỏ than Phủ Thuận -
Vùng đất không ai dám tới
Nhưng cha...
Có lẽ đó cũng giống như những gì cha hay nói
"Đã sống, thì phải sống mạnh mẽ,
Đã chết, thì phải chết có mục đích."
"Con đường được tạo nên bởi bước chân người,
Thành công phụ thuộc vào công lao chăm chỉ"...
Vâng,
Nước mắt không bao giờ ngưng chảy,
Những lời cay đắng sẽ không bao giờ dứt,
Món nợ máu sẽ không bao giờ được rửa sạch,
Vết thương sẽ chẳng bao giờ lành,
Biến đau thương thành sức mạnh để sổng tiếp!
Nhưng con ghét điều ấy,
Cha ơi.
Nhiều người viết thư cho bác Nellie nói họ cảm động trước bài thơ của bác làm. Một chàng trai trẻ tự gọi mình là "Người Lười" gửi cho bác Nellie những vần thơ do chính anh sáng tác. Bài thơ của anh ta đã tránh nói đến nỗi đau khổ của chính bác ấy; cái chết của cha cô, anh viết, sẽ thôi thúc mọi người thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước. Chàng trai trẻ kia không biết địa chỉ của bác Nellie, vì vậy trên phong bì anh chỉ viết rất đơn giản: Trương Ái Lôi(21), Đại học Quốc lập Đài Loan, thành phố Đài Bắc.
Hét lên chỉ là điên rồ
Chỉ im lặng mới là sức mạnh
Gào lên than trách là mất đi dũng khí
Chỉ có sắt ở trong lò mới luyện được thành thép.
Trước cơn bão tố,
Biển lặng không gợn sóng cồn
Ở dưới đáy sâu
Dòng nước chảy không một tiếng động
Hãy thu nỗi đau của em lại
Cả một ngòi bút cũng thành súng
Đó là căm hờn
Đó là món nợ máu
Ôi, một món nợ!
Không chỉ của em,
Không chỉ của ông,
Không chỉ của anh,
Nó là của mọi người,
Những ai có xương
Những ai có máu có thịt
Những ai dáng người, và một trái tim
Những ai một tâm hồn
Món nợ ấy thuộc về tất cả chúng ta!
Bác Nellie đã giữ lại những bài thơ ấy, bác nghĩ chúng hay hơn bài mình viết. Năm sau đó, chàng trai trẻ ấy đến Đại học Quốc gia Đài Loan nhập học và hai người họ đã gặp nhau. Tên người đó là Triệu Ngôn Kỳ, cuối cùng thì bác Triệu này đã trở thành chồng bác Nellie.
o O o
Những thành viên gia đình tôi ở lại Trung Quốc đã phải chịu những năm tháng tồi tệ. Năm 1950, một năm sau chiến thắng của phe Cộng sản, anh họ Lập Giao của cha tôi kết hôn với một cô y tá tên là Chu Thư Lan và chuyển đến Cáp Nhĩ Tân, nơi bác làm giáo sư của một trường đại học nông nghiệp. Họ có hai người con trai và một con gái. Năm 1957, Mao Trạch Đông có bài phát biểu mời trí thức phê bình các biểu hiện của Đảng Cộng sản. Bác Lập Giao, lúc ấy đang là trưởng khoa, đã công khai đề nghị rằng Đảng nên đánh giá các trí thức dựa trên kỹ năng và kiến thức của họ. Trình độ học vấn của một người, bác nói, không phải là thước đo đánh giá cống hiến của anh ta đối với cách mạng.
Đó là một tuyên bố ở mức độ vừa phải - nhưng trong hoàn cảnh thời điểm đó, nó là chất độc. Những người lãnh đạo đất nước, lấy làm kinh ngạc trước những lời phê bình Đảng Cộng sản và thậm chí cả bản thân Mao Trạch Đông ngày một nhiều hơn, nên cuối cùng họ quay lưng lại những con người mà chính họ đã cổ vũ để đứng lên cất tiếng nói. Hơn năm trăm nghìn người bị dán nhãn "hữu khuynh" và mất việc hoặc bị điều về nông thôn để lao động chân tay. Bác Lập Giao mất chức trưởng khoa và bị cắt lương. Tội thật thà của bác còn được tăng nặng thêm bởi nguồn gốc gia đình: cha và ông nội bác từng là địa chủ ở Mãn Châu, gia đình chú bác đã chạy sang Đài Loan. Lịch sử gia đình khiến bác Lập Giao mãi mãi là kẻ đáng nghi trong con mắt Đảng Cộng sản.
Trước khi các con của bác Lập Giao bắt đầu đến trường tiểu học, họ đã hiểu rằng dòng máu chảy trong người họ là dòng máu xấu. Trong tất cả các biểu mẫu họ phải điền ở trường học, có một ô trống dành cho "thành phần giai cấp". Và họ sẽ viết "địa chủ" vào đó, chỉ vì có một gia sản mà đã biến mất từ rất lâu trước khi họ có mặt trên cõi đời này. Các giáo viên trù dập lũ con trai và con gái của địa chủ, lũ trẻ con thì xóc xỉa nhau bằng vốn từ vựng đấu tranh giai cấp của chúng: Cha mày là đồ phái hữu! Nhà mày là nhà địa chủ. Đất nước Trung Quốc dưới quyền cai trị của Mao Trạch Đông là một nhà nước theo chế độ quý tộc đảo ngược: huyết thống luôn luôn là một nỗi ám ảnh mang tầm quốc gia, vị thế của một gia đình trước đó cao bao nhiêu, thì khi ấy tình hình của nó sẽ càng tệ bấy nhiêu.
Cuộc Cách mạng Văn hóa bắt đầu năm 1966 hoàn toàn lật đổ các trật tự đã được thiết lập. Trong hơn một thế kỷ, các nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng của Trung Quốc dã dằn vặt nghĩ cách làm thế nào để điều chỉnh truyền thống của họ cho phù hợp với thế giới hiện đại. Cách mạng Văn hóa đã đưa ra một câu trả lời đơn giản: ném bỏ tất cả đi. Trong hơn một thập kỷ sau đó, những nhóm học sinh cực đoan gọi là Hồng vệ binh đánh đập, và đôi khi giết hại chính thầy cô giáo dạy mình. Mười bảy triệu sinh viên về nông thôn lao động trên những cánh đồng cằn cỗi, cuộc sống mà người Trung Quốc ở nông thôn đã trốn chạy trong nhiều thế kỷ. Giáo dục, dấu hiệu của sự thành đạt và con đường dẫn đến đổi thay, được cho là "phản cách mạng". Cách mạng Văn hóa đã lấy đi mọi thứ người Trung Quốc từng sùng kính trong cả một thời gian dài và nghiền nát chúng ra thành từng mảnh nhỏ, giống như ném một chiếc bình gốm cổ vào tường vậy. Nó chấm dứt thế giới của rường cột đạo đức và giá trị Khổng giáo mà ông nội tôi, cùng vô số thế hệ trước ông được sinh ra trong đó.
Và thay vào đó là gì? Trong một khoảng thời gian nhất định, sự nhiệt tình đến cực đoan đã là đủ. Nhưng khi Cách mạng Văn hóa cuối cùng cũng chấm dứt và những nhà lãnh đạo thực dụng như Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, người Trung Quốc sẽ nhận ra họ đang sống trong một xã hội rỗng tuếch - bị lột sạch mọi niềm tin và trống rỗng như đứa trẻ sơ sinh, ngắm nhìn một thế giới hoang tàn mà họ phải tạo dựng lại bằng cách nào đó.
Năm 1968, Hồng vệ binh đến ngôi mộ ông nội tôi ở Thẩm Dương. Chúng đào quan tài lên và vứt vung vãi những gì còn lại của ông trong đó, chúng đập nát ngôi mộ và dấu tích ngôi mộ. Chúng đập cái bệ tấm bia bên cạnh cho đến khi nó vỡ toác, nhưng chúng lại để tấm bia được nguyên vẹn. Có vẻ như không ai biết đó là cái gì - bề mặt trống không của nó chẳng gợi nên điều gì cả.
o O o
Lần lượt từng người một, những người con của ông nội đến nước Mỹ, như cha họ đã từng làm. Nhưng ông nội tôi ra nước ngoài để một ngày nào đó trở lại và giúp đất nước Trung Quốc. Còn con cái ông thì rời bỏ quê hương để phát triển sự nghiệp riêng của mình - không còn Trung Quốc nào để mà trở về nữa. Số tiền dùng để di cư sang bên ấy, một phần là vay mượn từ bạn bè, một phần là tiền bán những miếng vàng, số tiền đã được quyên góp ủng hộ gia đình tôi khi ông nội bị sát hại. Cái chết của ông đã được chuyển thành chuyến đi tới nước Mỹ.
Những ngày ấy, nếu muốn đến Mỹ [cha tôi kể], phải cần có 2.400 đô la trong ngân hàng cho đến khi tốt nghiệp. Chị gái bố đã đi mà không gặp nhiều trở ngại lắm. Gia đình gom góp được 2.400 đô nhờ tiết kiệm và vay mượn. Bác ấy đã tiêu mất một ít trong số đó, nhưng bác ấy kiếm được tiền và gửi trả lại 2.400 đô la đó, vì vậy bác Luke cũng có thể đến Mỹ với số tiền ấy. Họ cách nhau bốn tuổi. Nhưng bác Luke và bố chỉ cách nhau hai tuổi, vì vậy khi đến lượt bố đi, số tiền đó vẫn chưa được bổ sung lại...
Anh chị em bố giữ các miếng vàng trong một cái hộp màu vàng, mọi thứ dần dần đội nón ra đi. Anh chị em bố đi mượn tiền bạn bè, nhưng không ai muốn giúp đỡ cả. Cha bố đã qua đời, tại sao họ phải giúp bọn bố cơ chứ?
Bố là người đứng ra đi vay tiền. Bố còn nhớ mình đã đến nhà một người bạn của gia đình và ngồi lì ở đấy. Họ lờ bố đi. Cuối cùng, họ nói cha họ không có nhà, nhưng bố biết ông ấy đang ăn cơm trưa ở trong.
Sau khi có tiền trong tay, nhiêm vụ tiếp theo là phải có được một con dấu visa. Bất cứ ai rời khỏi Đài Loan đều phải đảm bảo với những viên chức ở tòa lãnh sự Mỹ rằng anh hoặc cô ta sẽ trở lại ngay sau khi kết thúc khóa học của mình.
Bố tốt nghiệp trường cao đẳng năm 1957 rồi đi nghĩa vụ quân sự một năm rưỡi. Tháng Một năm 1959, bố ra quân. Ngày nào bố cũng đến lãnh sự quán Mỹ ở Đài Bắc với một cuốn tiểu thuyết và đợi nhân viên ở đó gọi tên mình. Sau sáu tháng, cuối cùng bố cũng có được visa.
Bà nội tôi thúc giục các con mình ra đi. Bà cảm thấy Đài Loan quá nhỏ bé, nước Mỹ là nơi duy nhất để học lên cao hơn. Nhưng chuyến đi bằng tàu biển vượt Thái Bình Dương nên khó có thể đi một lần. Mỗi lần nói chào tạm biệt với một đứa con, bà đều biết đó là lời vĩnh biệt.
Ở bên kia đại dương, những đứa con bà tiếp tục làm những gì họ được trông chờ. Các cô con gái có nhiều tự do hơn để học những gì họ muốn, bác Nellie học chuyên ngành giáo dục học còn cô Irene học tiếng Anh. Cha tôi, người có giọng lưỡi sắc bén nhất trong một gia đình toàn những người hay nói, bị chính trị và luật học hấp dẫn. Nhưng những người con trai được mong đợi sẽ nghiên cứu khoa học và kỹ thuật như cha họ, và như tất cả những sinh viên du học giỏi nhất. Khi bác Luke tốt nghiệp trung học, bà nội tôi nói với bác: "Con muốn học ngành gì? Mẹ hy vọng con sẽ theo bước của cha các con." Bác Luke đồng ý với nguyện vọng của bà. Sau đó bà nội đưa cho bác một cuốn sách tên là Field Geology (Địa chất học thực địa), một cuốn sách giáo khoa đã ba mươi năm tuổi mà ông nội tôi đã dùng khi học ở Mỹ. Và vậy là chấm dứt cuộc nói chuyện duy nhất của bác Luke với mẹ về tương lai của bác.
Bà nội tôi biết những điểm mạnh và điểm yếu của các con mình, và bà đã bảo cho họ biết điều đó. Bác Nellie thông minh nhưng thiếu sự kiên trì bền bỉ cho nghề y mà bác muốn theo đuổi. Bác Luke cứng đầu và có thể phát triển trong giới học thuật. Cha tôi thông minh nhưng hay nói quá nhiều về ưu điểm của mình. Cô Irene cần cù nhưng hay khóc. Chú Leo là một sinh viên kém, nhưng chú sẽ giỏi việc kinh doanh. Tất cả những dự đoán đó hóa ra đều thành sự thật. Bác Nellie bỏ ngành y để trở thành một giáo viên trường tiểu học và giáo dục đặc biệt, bác Luke trở thành một giáo sư địa chất học và trưởng khoa ở Đại học Maryland. Cha tôi học kỹ thuật điện và sau đó chuyển sang vật lý, ông làm nghiên cứu khoa học cho hãng IBM và nhận chức chủ nhiệm khoa kiêm phó hiệu trưởng Đại học Khoa học và Kỹ thuật Hồng Kông. Cô Irene, người hồi nhỏ thường xuyên khóc nhè vì bị các anh trêu chọc, đã trở nên cứng rắn hơn và trở thành chuyên gia ngành dược, sau đó lãnh đạo một công ty chuyên về công nghệ sinh học. Còn chú út của tôi, chú Leo, trở thành một doanh nhân thành công và giàu có ở Đài Loan. Bằng cách này, bà nội tôi đã quyết định số phận cho tất cả các con.
BÀ NỘI TÔI QUA ĐỜI vì bệnh khí thũng (giãn phế nang) năm 1965. Mùa hè năm đó, cô Irene đến Đài Loan thăm bà; các anh chị cô đã góp tiền lại để chi trả cho chuyến đi. Trên giường bệnh, bà nội tôi đã gọi cô Irene đến bên cạnh. Bà đã tiết kiệm tất cả số tiền các con ở Mỹ gửi về, và bà muốn số tiền đó được chuyển cho con trai út. Chú Leo là người con duy nhất của bà không ra nước ngoài. Vì bốn anh chị em của chú đều không thực hiện lời hứa trở lại Đài Loan, lãnh sự quán Mỹ đã từ chối cấp thị thực nhập cảnh cho chú. Bà nội tôi bảo cô Irene tìm cho bà bộ quần áo bà muốn mặc khi được chôn cất. "Mặc cho mẹ luôn bây giờ đi," bà bảo, "vì sẽ khó hơn sau khi mẹ chết đấy." Bà đã điều khiển mọi thứ, cho đến tận lúc chết.
o O o
Bố tôi trở lại Trung Quốc lần đầu tiên năm 1975. Ông là thành viên của một phái đoàn đại biểu các nhà Vật lý được Viện Khoa học Hoa Kỳ lựa chọn - một trong những phái đoàn đầu tiên của Mỹ đến Trung Quốc, vào thời điểm mà hai quốc gia vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau. Khoa học là một vùng trung lập, không cần đến sự can thiệp của chính phủ - chính là khoa học đã đưa cha tôi đến nước Mỹ, và cũng chính khoa học đã mang ông trở về. Năm ấy cha tôi ba mươi chín tuổi. Ông đã rời Trung Hoa đại lục khi ông mười hai, và nó là một đất nước hoàn toàn mới khi ông trở lại. Trong một giải thi đấu thể thao cấp quốc gia, ông đã hết sức xúc động khi nghe người dẫn chương trình gọi tên "Tỉnh Cát Lâm!" Ông nghe thấy tiếng hoan hô, có vẻ dường như tất cả những khẩu hiệu chống Trung Quốc ông đã được dạy ở Đài Loan đều tan biến trong khoảnh khắc ấy. "Bố cảm thấy cuối cùng nó cũng là nước Trung Quốc thực thụ," ông kể với tôi. "Bao nhiêu năm nay họ nói Đài Loan là Trung Quốc, nhưng đây mới thực sự là Trung Quốc."
Ông thấy những thứ còn sót lại của kỷ nguyên chính trị cực đoan đang ở giai đoạn kết thúc. Phái đoàn của cha tôi đến thăm một công xã - sau này ông được biết, đó là một công xã giả được dựng lên để gây ấn tượng với khách tham quan. Khi đến thăm các trường học, cha tôi đã lấy làm ngạc nhiên khi thấy sinh viên cãi lại giáo viên của họ. Đây là một hệ quả của Cách mạng Văn hóa, nhưng vẫn là một tiến bộ so với nền nếp cũ, ông cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, cha tôi đến thăm trường trung học cũ của mình, một nơi cách Tử Cấm Thành chừng nửa dặm về phía Đông. Khi ông nhìn qua cánh cổng, một người đàn ông đi dép lê và mặc áo phông ngắn tay bước ra để nói chuyện. Ông ta là người đứng đầu ủy ban cách mạng của trường này, một cương vị gần như là hiệu trưởng trong những ngày đó. Người đàn ông đó hỏi một câu: "Đi tàu hỏa đến Mỹ thì mất bao nhiêu tiếng?"
Cha tôi yêu cầu được gặp anh họ Lập Giao của mình. Ông nói với người dẫn đoàn đại biểu rằng anh họ ông đã từng dạy ở Đại học Bắc Kinh giai đoạn cuối những năm 1940 nhưng ông không biết chuyện gì đã xảy ra với anh ấy sau đó. Câu trả lời là, bác Lập Giao của tôi, đã được cử đến vùng Tây Bắc xa xôi và không thể gặp bác ấy được. Đó là một lời nói dối, sau này cha tôi được biết, bác Lập Giao và vợ đang sống ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, miền Đông Bắc, nhưng họ sẽ đối diện với nguy hiểm về mặt chính trị nếu gặp một khách nước ngoài ở thời điểm đó.
Cuộc Cách mạng Văn hóa đã đến giai đoạn cuối cùng, nhưng nó vẫn còn gây rất nhiều tổn hại. Thủ tướng Chu Ân Lai đang nằm viện vì bệnh ung thư; Bè lũ bốn tên, nhóm tả khuynh gắn liền với những hành vi thái quá nhất của Cách mạng Văn hóa, đang nắm quyền. Một hôm cha tôi đã rất ngạc nhiên khi nghe thấy những cán bộ chính phủ làm hướng dẫn cho mình nói Đặng Tiểu Bình, người cán bộ Đảng Cộng sản tận tụy nhất với sự nghiệp cải cách và hiện đại hóa, sẽ sớm bị miễn chức. Những người hướng dẫn này quá lo lắng về tương lai của chính họ, nên đã để lộ tin này trước mặt cha tôi. Tháng Tư sau đó, Đặng Tiểu Bình bị loại khỏi hàng ngũ lãnh đạo Đảng lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng. Trong ngôi nhà ở ngoại ô New York của mình, chúng tôi nghe đi nghe lại những đĩa nhạc cha tôi mang về từ Trung Quốc.
Vầng dương phuơng Đông đang nhô lên,
Nước Cộng hòa Nhân dân đang trưởng thành,
Lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông chỉ đường cho ta đi tới.
Đời ta ngày ngày một tốt đẹp,
Tương lai ta rạng ngời ánh sáng huy hoàng.
Cha tôi trở lại Trung Quốc lần thứ hai vào năm 1979. Mỹ và Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Đặng Tiểu Bình đã vững chắc ở ghế cầm quyền, khôi phục lại vị trí cho hàng triệu nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa và thực hiện chính sách cải cách kinh tế mà chỉ không lâu sau đã làm thay đổi bộ mặt cả đất nước. Một lần nữa, cha tôi lại yêu cầu được gặp bác Lập Giao, lần này hai vợ chồng bác ấy đã được đưa dến Thẩm Dương để gặp ông. Khi chuyến tàu của cha tôi vào ga, ông trông thấy bác Lập Giao đang đợi trên sân ga, bác ấy đang khóc.
Bác Lập Giao muốn biết tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong ba mươi năm xa cách. Cha tôi kể cho bác nghe về cuộc sống khó khăn ở Đài Loan, về người mẹ đã một mình nuôi dạy năm đứa con và chuyện tất cả bạn bè của gia đình đã lặng lẽ biến mất sau khi cha họ qua đời. Bác Lập Giao nói về cuộc sống dưới chế độ Cộng sản tươi đẹp hơn nhiều như thế nào. Bác không kể với cha tôi rằng bác đã bị đưa đi diễu qua các phố như một tên kẻ thù giai cấp khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, sau đó bị đày đi làm việc trong một nông trang trồng lúa gần biên giới Liên Xô. Bác cũng không nhắc đến chuyện hai người con trai bác chỉ vừa mới trở về thành phố sau mười năm lao động ở nông thôn, hay cả hai người bọn họ đều chưa học hết lớp tám. Bác không nói cha mẹ bác đã phải chết thế nào.
Rồi vợ bác Lập Giao hỏi cha tôi: "Chú có biết chuyện gì đang xảy ra ở Trung Quốc không?"
"Có," cha tôi trả lời. "Nhiều hơn so với chị."
Cùng với những đợt trao đổi khoa học giữa Trung Quốc và phương Tây càng lúc càng nhiều, cha tôi cũng thường xuyên trở lại Trung Quốc. Năm 1982, ông ở với gia đình bác Lập Giao tại Cáp Nhĩ Tân, con trai thứ hai của bác Lập Giao nhớ lại, cha tôi đã từng đứng vài phút trước bản tin buổi tối và nói: "Chú không thể xem thứ tin tức giả tạo này được." Năm 1984, cha tôi đứng trên lễ đài ở Quảng trường Thiên An Môn trong lễ kỷ niệm ba mươi lăm năm cuộc Cách mạng của Đảng Cộng sản.
Sau khi tôi chuyển đến Bắc Kinh năm 2000, cha mẹ tôi đến thăm tôi ít nhất một lần mỗi năm. Thỉnh thoảng tôi có cảm giác họ đã quên mất cách giao thiệp với người Trung Quốc. Họ thiếu sự kiên nhẫn cho những cuộc nói chuyện phiếm và những lễ tiết nhỏ nhặt vốn là nền tảng của giao tiếp xã hội, và họ lảng tránh việc đến thăm họ hàng, những người mà tôi biết chắc là đang nôn nóng chờ họ gọi điện tới. Thi thoảng họ làm tôi thấy bối rối vì ngượng: có lần cha tôi đã gọi cô lau nhà giúp việc cho một người bạn là yongren (dụng nhân), nghĩa đen là "người bị sử dụng", một từ cũ dùng cho những người hầu đã không được nhắc đến từ thời Cách mạng của Đảng Cộng sản. Nhưng họ vẫn biết tất cả về lịch sử, ngôn ngữ, văn học và văn hóa Trung Quốc, và bằng một khả năng ngoại cảm thần bí nào đó, họ luôn biết được nhà hàng nào là ngon nhất trong thành phố.
Khi tôi kể chuyện gia đình mình cho những người bạn Mỹ, họ hỏi tôi bằng cách nào mà cha tôi có thể trở lại Trung Quốc và tốn thời gian với những quan chức thuộc Đảng phái đã giết chết cha của ông. Hồi ở Prague, tôi đã gặp những đứa con của người Czech lưu vong sinh ra ở Mỹ, những người phản đối chế độ Cộng sản đến nỗi họ đã không dạy con cái mình nói tiếng Czech khi chúng lớn lên. Dân lưu vong Cuba thì chống Castro tới mức họ sẽ không trở về Cuba khi nào ông ta còn nắm quyền ở đó. Nhưng người nhập cư Trung Quốc thì khác: cho dù chuyện tệ hại đến đâu xảy ra với gia đình họ ở Trung Quốc, họ vẫn trở về, bất cứ dịp nào mà chính phủ cho phép. Điều này một phần là do chủ nghĩa thực dụng đã bén rễ quá sâu và nó có thể tha thứ cho quá khứ, nhưng còn hơn thế, Trung Quốc đối với họ không phải là một thể chế chính trị hay một nhóm những người lãnh đạo, mà là thứ gì đó lớn hơn mà họ mang bên trong con người mình, ký ức về một vùng đất đã không còn tồn tại trên thế giới này nữa. Trung Quốc kêu gọi họ trở về với sức nặng của truyền thống, sự giàu có của ngôn ngữ và năm ngàn năm lịch sử mà đôi khi có vẻ như một vòng lặp của những bi kịch và đau thương. Lực kéo của Trung Quốc rất mạnh, đó là lý do tại sao tôi cưỡng lại nó lâu đến vậy.
o O o
Ngôi nhà ở số 6 ngõ Phấn Tử Hồ Đồng, phố phấn thoa mặt; thời nhà Minh, đây từng là một trong những khu đèn đỏ của Bắc Kinh, được đặt tên theo những cô kỹ nữ trang điểm rất đậm sống ở đây. Ngôi nhà giờ là Nhà dưỡng lão Phồn Vinh Viên, nơi chăm sóc người già được điều hành bởi chi bộ Đảng địa phương. Đó là tòa nhà một tầng màu đỏ lợp ngói men màu vàng, trên một con phố nhỏ toàn những căn nhà với khoảnh sân nhỏ gồ ghề, nứt nẻ. Tôi mở cánh cửa trước, bước qua một hành lang lờ mờ tối, bước vào nơi đã từng là sân chính của một ngôi nhà Trung Quốc theo kiểu truyền thống.
Sáu mươi năm trước, cha tôi đã sống ở đây. Đây từng là ngôi nhà cuối cùng của gia đình trước khi họ rời Trung Quốc vào mùa thu năm 1948. Và đây cũng là nơi, tôi bắt đầu cuộc điều tra về lịch sử gia đình mình ở Trung Quốc vào một chiều trời trong và lạnh tháng Một năm 2004. Người dẫn đường cho tôi là bác Triệu Hồng Chí, ông già tám mươi tuổi một thời hẹn hò với bác Nellie của tôi. Khoảng sân đã được lợp mái che, và những cành cây từng rủ bóng che phủ nó không còn nữa. Một giàn cây thường xuân giả và hoa nhựa vươn qua chỗ mái lợp. Hai ông già đang ngồi bên dưới giàn cây đọc báo, một trong hai người khòng về phía trước với cái lưng còng, khiến ông trông như một dấu hỏi.
Bác Triệu theo sau tôi bước vào trong sân. Bác chỉ một dãy phòng phía trái. "Chỗ đó từng là nhà bếp." Rồi bác chỉ vào bên phải. "Chỗ kia là phòng ngủ."
"Làm ơn nói nhỏ thôi," một y tá nhắc nhở chúng tôi. "Đang là giờ nghỉ ngơi của họ." Bác Triệu lại chỉ tay, như thể đang lần theo dấu vết tinh thần của những người mà chỉ mình bác mới nhìn thấy. "Đó là nơi bà nội cháu ngủ. Thỉnh thoảng bác ngủ trong phòng khách ngay bên ngoài phòng ngủ của bà. Cháu biết đấy, bác là con trai đỡ đầu của bà mà."
CHÚNG TÔI RỜI CĂN NHÀ SỐ 6. Một cơn gió buốt thổi qua, bác Triệu bước đi nhanh với những sải chân dài. Bác cao, mái tóc bạc, sống mũi cao và đôi gò má cân xứng được nhào nặn bởi một bàn tay tỉ mỉ. Ở tuổi tám mươi, cùng với tất cả những nỗi đau bác đã chịu đựng, không ai có thể cằn nhằn nếu bác có một kỳ nghỉ dài ở Nhà dưỡng lão Phồn Vinh Viên. Nhưng trong đầu bác vẫn còn những thứ khác.
"Cháu có biết chuyện của bác với bác gái cháu không?" Bác Triệu hỏi.
Tôi đáp rằng có, và cảm thấy bối rối.
"Bác ấy đã lấy Triệu Ngôn Kỳ, bác rể cháu. Và họ đã giành được rất nhiều giải thưởng khiêu vũ. Còn bác, bác còn chẳng biết khiêu vũ nữa," bác ấy nói, như thể khuyết điểm duy nhất này gây ra mọi chuyện vậy.
Chúng tôi đi bộ vài khu phố đến căn hộ của bác. Vợ bác đã ra khỏi thành phố trong vài ngày, tâm trạng bác lúc ấy khá cởi mở. Bác lấy ra một chiếc phong bì hồ sơ đựng các tấm ảnh. Tấm đầu tiên là một tấm ảnh đen trắng chụp ở tiệm của cha tôi và các anh chị em vào hôm trước khi họ rời klìỏi Trung Quốc. Bác Triệu đứng ở hàng sau, trông khá đẹp trai và nghiêm túc với cặp kính có vành; bên cạnh bác, bác Nellie trông rất giống một đứa trẻ với gương mặt tròn và cái áo len xoắn. Cha tôi, đứng trước, có gương mặt ngăm đen xương xương và cái đầu vểnh về một phía. Một tấm ảnh khác: bác Nellie đứng trên con đường lợp mái che của ngôi nhà bác ở Ottavva, khi ấy bác đã ngoài sáu mươi, trông rất thanh lịch trong một chiếc váy vừa vặn cắt may kiểu Trung Quốc màu ngà điểm hoa đỏ.
"Bác gái có không hài lòng không?" Tôi hỏi.
"Bà ấy thoải mái lắm." Như để chứng minh, một tấm ảnh khác: bác Triệu và bác Nellie đang đứng bên nhau. "Thậm chí bà ấy còn để bọn bác chụp ảnh chung nữa."
Bác Triệu Hồng Chí đã không thể trở thành con rể của gia tộc tôi, nhưng bác lại trở thành người bảo vệ cho lịch sử gia tộc. Khi các chú, các bác tôi đến Bắc Kinh, lần nào họ cũng đến thăm bác. Mỗi khi có một người họ hàng xa trong gia đình tôi qua đời, bác là người đầu tiên biết tin. Và khi tôi muốn đến thăm ngôi nhà số 6, cha tôi bảo tôi nên đến gặp bác Triệu Hồng Chí, vì bác vẫn còn sống ở Bắc Kinh và chỉ có bác mới nhớ đường về đó.
Tôi nghĩ gia đình tôi là mối dây liên kết đến một cuộc đời mà đáng lẽ bác đã có, nếu như mọi thứ khác đi. Bác Triệu cẩn trọng bảo vệ mối liên kết đó qua nhiều thập kỷ hỗn loạn chính trị. Khi bác chọn cái tên Lập Sinh vào thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng, nó không chỉ tượng trưng cho niềm tin chính trị mới tìm thấy của bác. Chữ lập có ở trong tên đệm của tất cả những người đàn ông thế hệ cha tôi trong gia đình chúng tôi. Bên trong tuyên ngôn chính trị còn ẩn chứa một ý nghĩa cá nhân: bác Triệu đã tái sinh là một người Cộng sản và là một thành viên của gia đình chúng tôi.
Chúng tôi có được ngôi nhà số 6 này theo một cách lạ kỳ. Trong thời chiến, nó đã bị quân xâm lược Nhật Bản chiếm dụng, sau đó chuyển sang tay Tôn Việt Kỳ, người bạn đã không đi Phủ Thuận của ông nội tôi. Sau cái chết của ông, Tôn Việt Kỳ bán ngôi nhà cho bà nội với giá rẻ. Có lẽ đây là cách ông ta ăn năn hối lỗi, mặc dù ông ta không bao giờ nói thế.
Gia đình tôi mất ngôi nhà này hai lần. Chúng tôi đã đánh mất nó vào tháng Mười năm 1948 khi chúng tôi trốn chạy khỏi Trung Quốc, rồi lại mất nó lần nữa vào sự phát triển kinh tế. Ngôi nhà cũ đã bị kéo sập xuống để xây lại thành một nhà hàng, tiếp đó là một vườn trẻ, sau nữa là trụ sở của chi bộ Đảng địa phương, và giờ là một nhà dưỡng lão. Người sống ở đây trả một trăm đô la một tháng và có ba chỗ ở cho ba mươi con người ở nơi gia đình tôi đã từng sinh sống. Nhưng những người thuê hiện nay cũng sẽ phải đi sớm: ngôi nhà sẽ bị phá dỡ để làm đường tàu điện ngầm.
Những năm 1990, gia đình tôi đã đệ đơn lên chính quyền thành phố để lấy lại ngôi nhà dựa trên một đạo luật cho phép trả lại những căn nhà đã bị tước đoạt thời Cách mạng Văn hóa. Thành phố từ chối đề nghị của chúng tôi nhưng đền bù khoản tiền chín mươi nghìn đô la. Gia đình đã chia số tiền làm bảy phần: cho cha tôi và bốn anh chị em đang sống ở nước ngoài của ông, cho gia đình bác Lập Giao, và người bà đang sống ở Bắc Kinh. Số tiền đó không có ý nghĩa nhiều lắm với chúng tôi. Nhưng con gái của bà trẻ tôi khi ấy đang có dự định sang Mỹ học, số tiền đó đã giúp cô chi trả cho chuyến đi. Trong gần một trăm năm, gia đình tôi đã rời Trung Quốc để đến nước Mỹ. Ông nội tôi trở lại, cái chết của ông đã mang đến ngôi nhà số 6; nửa thế kỷ sau, nó lại chuyển thành một chuyến đi khác đến Mỹ. Và điều đó rất phù hợp, bởi lịch sử một gia đình bắt đầu khi có một người rời bỏ ngôi nhà ra đi.