Số lần đọc/download: 0 / 12
Cập nhật: 2021-01-29 22:22:44 +0700
Chương 5: Minh Lộ Anh Đề
N
hững mảnh ngọc vỡ của vị tướng sĩ vô danh thời Nam Tống rơi xuống trước ngôi mộ của hai vợ chồng Hàn Thế Trung và Lương Hồng Ngọc. Tâm trạng ủ rũ của Tiểu Thực cũng dần khá lên, cậu bắt đầu quấn lấy Phương Hồng Khanh và Tần Thu, bắt họ kể lại câu chuyện “Tần Thu đại chiến cá heo” hôm ấy. Phương Hồng Khanh bật cười, cốc đầu cậu một cái. “Cậu thực sự coi tôi là người thuyết thư[24*] rồi à?”
Người chuyên kể chuyện.
Tiểu Thực đưa tay che đầu. Thật ra cậu không đau tí nào nhưng vẫn giả bộ như đang phải chịu sự ức hiếp, miệng kêu “Ai da” mấy tiếng. “Hồng Khanh đáng bị phạt! Tôi sẽ tố cáo anh lên Bộ Giáo dục!”
Phương Hồng Khanh nghe câu ấy liền thở dài. “Trẻ em bây giờ thật hết nói nổi, động một tí là lôi cái “luật bảo vệ trẻ vị thành niên” ra, khiến cho thầy cô muốn đánh cũng không dám đánh, mắng cũng không dám mắng, sơ sẩy một chút là bị khiếu nại ngay. Muốn dạy dỗ cũng khó.”
Tần Thu liếc ánh mắt sắc như dao về phía họ, kết luận: “Đáng đánh!”
Dọc đường đi rộn tiếng cười nói. Ngắm nhìn phong cảnh Giang Nam dưới màn mưa phùn mùa đông cũng có nét thú vị riêng. Trời đất như bị ngăn cách bởi một tấm rèm châu mờ mờ ảo ảo. Hình ảnh ngọn núi phía xa cũng trở nên mông lung, giống như đường kẻ lông mày nhi nữ, xanh thẳm một màu. Ngọn núi Linh Nham này vốn có nhiều tảng đá có hình dáng kì lạ, vậy nên từ xưa mới có câu “Linh Nham tứ tuyệt quán Giang Nam” [25*], trong màn mưa phùn mờ mịt lại càng trở nên kì ảo. Đằng xa có một tảng đá hình con mãng xà, bộ dạng giống như đang ngóc đầu dậy. Ngoài ra còn có một tảng đá giống như con rùa đang cõng chiếc mai nặng nề trên lưng… Tiểu Thực nhìn không chớp mắt, vừa ngoảnh lại, đã thấy Phương Hồng Khanh cúi người nhặt một hòn đá trên mắt đất, rồi đột nhiên chạy tới, chui vào dưới chiếc ô của cậu.
Cảnh vật núi Linh Nham đẹp nhất Giang Nam.
Phương Hồng Khanh cười, xòe bàn tay ra, Tiểu Thực liền phát hiện, hòn đá này có màu sắc đặc biệt kì lạ. Phương Hồng Khanh cười nói: “Đá trên ngọn núi Linh Nham này không giống đá ở những nơi khác. Nó có màu tím sẫm, có thể dùng làm nghiên mực, cho nên ngọc núi này mới có tên là núi Nghiên Thạch.”
Tiểu Thực tò mò nhón lấy viên đá, đặt vào lòng bàn tay nghịch ngợm một hồi, bỗng cậu nghe thấy Phương Hồng Khanh cười “phì” một tiếng. Tiểu Thực ngoái đầu sang, chỉ thấy Phương Hồng Khanh chỉ vào một hòn đá, nói: “Tiểu Thực, cậu xem thứ này có giống cậu không nào?”
Tiểu Thực nhìn thật kĩ, thấy viên đá đó có hình thù một con vật thân to, đầu dẹt, bốn chân ngắn, rất giống một con ếch. Bây giờ cậu mới biết mình bị Phương Hồng Khanh trêu ghẹo, liền chọc vào sườn hắn, nói: “Anh mới là con ếch ấy!”
Nào ngờ cậu vừa chọc một cái, Phương Hồng Khanh liền kêu “Ai da” rồi vừa cuống quýt chạy trốn vừa nài nỉ xin tha. Ánh mắt Tiểu Thực sáng lên. Cuối cùng cậu cũng biết được nhược điểm của Phương Hồng Khanh. Hắn sợ nhột. Tiểu Thực lập tức trở nên hăng hái, giơ hai ngón tay lên, cười khà khà mấy tiếng, bắt đầu tiến hành cuộc tổng tấn công vào eo của Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh liên tục tránh né, trong một phút bất cẩn liền vấp chân vào tảng đá. Cũng may, Tần Thu kịp giơ tay đỡ lấy vai hắn nên hắn mới không bị ngã, có điều trong lúc mất thăng bằng, hắn đã đánh rơi chiếc ô.
Mưa phùn táp thẳng vào mặt, nhưng màn mưa mờ ảo trước mắt rất nhanh chóng đã bị tán ô màu đen của Tần Thu che đi. Phương Hồng Khanh vịn tay bạn mình đứng thẳng dậy rồi cười với đối phương, chẳng hề nói câu cảm ơn. Từ lúc quen nhau tới giờ, hai người bọn họ từng cùng nhau xuống mộ cổ mấy lần, cũng nhiều lần phải đối mắt với những tình huống sinh tử ngàn cân treo sợi tóc. Nếu phải nói hai tiếng “cảm ơn”, chỉ e đến chết cũng không nói hết được.
So với bộ dạng cười nói vui vẻ của Phương Hồng Khanh, khuôn mặt Tần Thu lúc nào cũng như đâm lê. Y không nhiều lời, chỉ quay đầu nhìn Tiểu Thực. Tiểu Thực tự biết bản thân đã phạm tội, liền lè lưỡi, lập tức chạy đến nhặt chiếc ô rơi dưới đất lên. Thế nhưng dù nói thế nào Phương Hồng Khanh cũng không dám đứng gần Tiểu Thực nữa. Hắn dứt khoát che chung ô với bạn mình, để mặc Tiểu Thực đứng một bên dàn vặt.
Mưa phùn rơi trên tán ô. Ba người đi ngang qua những cảnh đẹp của ngọn núi này, chẳng hạn như đình Trường Thọ trong truyền thuyết, nơi Tây Thi từng đứng trang điểm hay giếng Trí Tích hình bát giác có làn nước xanh ngắt. Vừa nhìn thấy cái giếng, Phương Hồng Khanh không bước nổi nữa. Trong sách cổ có chép, nếu dùng nước giếng ở đây để pha trà thì sẽ đặc biệt thơm ngon, vì thế hắn bèn lấy từ trong ba lô của Tần Thu ra một chai nước khoáng rỗng, định lấy một ít nước giếng về. Tần Thu liếc nhìn hắn một cái. “Múc vào đó để mang về thì còn gì ngon nữa?” Chỉ một câu nói này đủ khiến cho Phương Hồng Khanh nghẹn giọng, đành hậm hực từ bỏ ý định.
Ba người cứ nhàn rỗi dạo chơi như thế được chừng hơn một giờ đồng hồ, Phương Hồng Khanh bỗng kêu “Á” một tiếng. “Đây không phải là đá Tiểu Thực à?”
Tiểu Thức ngước mắt lên. Lại là hòn đá kì dị ấy. Cậu đang định chạy đến cù Phương Hồng Khanh vì dám gọi thứ đó là “đá Tiểu Thực”, nhưng vừa định nhấc chân lên thì lại cảm thấy có gì đấy không đúng lắm. Chẳng phải lúc nãy họ đã đi qua đoạn đường này rồi sao?
Tần Thu nhíu mày, âm thầm đánh giá con đường nhỏ trên núi này một lượt. Đằng xa có tảng đá hình mãng xà và mai rùa, quả thật giống hệt cảnh vật đã gặp lúc nãy. Đúng là ba người đã quay trở lại con đường vừa mới đi qua.
Tần Thu bèn ra hiệu cho Tiểu Thực đi đằng sau Phương Hồng Khanh, còn mình đi lên trước dẫn đầu. Lần này, ba người đi được chừng nửa tiếng đồng hồ thì lại thấy mình đã quay về vị trí cũ, thế nhưng lúc này không còn thấy đình Trường Thọ và giếng Trí Tích đâu nữa.
Tiểu Thực ớn lạnh nói: “Chẳng… chẳng lẽ đây chính là “ma chặn tường”?”
Phương Hồng Khanh lắc đầu, nói: “Không phải đâu, đây là ngọn núi nổi danh của Phật giáo, hương hỏa rất thịnh. Dưới chân núi còn có mộ của vị võ tướng trung liệt Hàn Thế Trung. Xét về mặt lí thuyết, không thể có thứ gì quấy nhiễu được.”
Tiểu Thực nghĩ ngợi một lúc, lại hỏi: “Vậy có phải là thứ giống như anh đã bày ra để trêu tôi trong tiệm đồ cổ của ông chủ lần trước không? Là một loại trận pháp gì đấy?”
Lần này, Phương Hồng Khanh không trả lời. Hắn chỉ đưa ngón tay lên môi, khẽ “suỵt” một tiếng. Tiểu Thực lập tức im bặt. Trên con đường nhỏ chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi tí tách…
“Hu hu…”
Đột nhiên, Tiểu Thực láng máng nghe thấy tiếng khóc. Hai người bèn quay đầu nhìn về hướng đó, nhưng chỉ thấy rừng cây dày đặc, tuyệt không có gì bất thường. Con đường nhỏ hun hút không biết kéo dài đến chỗ nào bỗng trở nên mở mịt dần trong màn mưa.
“Hu hu… Oa oa…”
Tiếng khóc càng lúc càng gần, nghe như tiếng trẻ con vậy. Tiểu Thực cứ đứng ngẩn ra. Phương Hồng Khanh định sải bước về hướng rừng cây liền bị Tần Thu kéo lại. Sắc mặt Tần Thu vô cùng nghiêm trọng. Y nhìn Phương Hồng Khanh, lắc lắc đầu rồi lấy từ trong ba lô ra một khẩu súng, ném cho Phương Hồng Khanh, còn mình thì rút chiếc thắt lưng da đang quấn quanh eo ra, quất mạnh một cái. Chỉ nghe “cạch” một tiếng, chiếc thắt lưng bỗng biến thành một cây côn dài rất cứng cáp. Nếu như không phải đang ở trong tình huống kì quái thế này, Tiểu Thực nhất định sẽ mở miệng tán thưởng “Ngàu quá!”
Tần Thu dùng cô sắt rẽ đám cỏ dại dưới đất ra, chầm chậm tiến từng bước về phía rừng cây. Tiếng trẻ con khóc càng lúc càng rõ, Tần Thu không dám sơ suất, cứ bước từng bước về hướng đó, từ từ tiếp cận mục tiêu. Phương Hồng Khanh nắm chặt vũ khí trong tay, Tiểu Thực cũng siết chặt cán ô sắt, dù có phải đối diện với yêu ma quỷ quái gì thì thứ này cũng có thể giúp cậu cầm cự được một lúc.
Tiếng khóc dường như đã ở ngay trước mắt. Tần Thu cẩn thận gạt đám cỏ dại um tùm ra, cả ba người cùng kinh ngạc đến sững sờ.
Chỉ thấy dưới đất có một đứa bé trắng trẻo, bụ bẫm đang nằm khóc. Thế nhưng điều khiến người ta kinh hãi là nó không hề có tay chân.
Phương Hồng Khanh hít một hơi, lẩm bẩm nói: “Người lợn!” Tiểu Thực sửng sốt đến đờ đẫn, đột nhiên cảm thấy tay chân lạnh ngát. Cuối cùng, Tần Thu bế đứa bé lên.
Từ trước đến giờ, Tiểu Thực chưa từng nhìn thấy cảnh tượng nào khủng khiếp đến vậy. Đến khi trấn tĩnh lại rồi, cậu liền móc ngay điện thoại trong túi ra, gọi 110. Tần Thu lập tức lên tiếng can ngăn: “Cậu định làm gì thế?”
“Tôi báo cảnh sát!”
“Báo cái con khỉ ấy!” Tần Thu trừng mắt nhìn cậu, đồng thời lật ngược đứa bé lại, để lộ ra cái mông của nó. Trên cái mông trắng trẻo của đứa bé có khắc hai chữ: Định Dao.
Khoảnh khắc đó, Tiểu Thực cảm thấy mắt mình hoa lên. Trên tay Tần Thu làm gì có đứa trẻ nào chứ! Chỉ có một miếng gạch sứ hình vuông sứt mẻ mà thôi. Trên mặt sứ có khắc hình một đứa trẻ.
Nhìn thấy sự biến hóa ấy, Phương Hồng Khanh thở phào một hơi, sau đó chạy ngay đến bên Tần Thu, đón lấy miếng gạch sứ, cẩn thận ôm vào lòng. “Xót xa quá! Tiểu Thực, cậu mau tìm thử dưới đất xem, nói không chừng có thể tìm được tay chân đấy!”
“Tay chân?” Tiểu Thực không hiểu. “Đây không phải chỉ là một miếng gạch à?”
Phương Hồng Khanh vừa dùng tay tỉ mỉ lau chùi bề mặt món đồ sứ vừa trả lời: “Đây không phải miếng gạch mà là một cái gối. Nhìn hình dáng bên ngoài, có lẽ là loại gối sứ trẻ em Định Dao thời nhà Tống, là một báu vật quốc qia đấy. Hiện tại trên toàn thế giới chỉ còn lại ba cái, trong đó một đôi đang được trưng bày ở viện bảo tàng Cố Cung tại Đài Bắc, còn một chiếc đang ở viện bào tàng Cố Cung tại Bắc Kinh.”
Biết Phương Hồng Khanh thông thuộc bảo vật như nắm trong lòng bàn tay, Tiểu Thực không dám hỏi nhiều, lập tức cúi đầu tìm kiếm trên những bụi cỏ dưới chân. Quả nhiên chưa đi được bao xa đã nhìn thấy những mảnh vỡ bằng sứ, Tiểu Thực liền nhặt lên đưa cho Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh nhận lấy, đem ướm thử vào chiếc gối bằng sứ, thấy đã đủ mới cẩn thận dùng áo quần bọc chặt chúng lại, bỏ vào trong ba lô của Tần Thu.
Lúc này đã không còn nghe thấy tiếng khóc của trẻ sơ sinh nữa, ba người thuận lợi tìm được đường xuống núi. Phương Hồng Khanh vỗ vỗ ba lô, khẽ nói: “Quả nhiên là do ngươi gây rối.”
Cái gối sứ đương nhiên không thể đáp lời hắn được. Tiểu Thực thuận miệng hỏi: “Hồng Khanh, lúc nãy anh nói “người lợn” là có ý gì vậy?”
Phương Hồng Khanh thở dài một tiếng. “Đó là một loại cực hình. Năm xưa, Hán Cao Tổ Lưu Bang sủng ái Thích phu nhân, khiến cho Hoàng hậu Lữ Trĩ sinh lòng oán hận. Đợi đến khi Lưu Bang băng hà, bà liền ra lệnh chặt hết tay chân của Thích phu nhân, móc mắt, đổ đồng chảy vào hai lỗ tai, đổ thuốc độc vào cổ họng, cắt lưỡi, cuối cùng đem vứt Thích phu nhân đã biến thành bộ dạng giống như loài lợn vào trong nhà xí…”
“Trời ơi, không ngờ lại có người độc ác như vậy!” Tiểu Thực trợn tròn mắt, cứ như cảnh tượng thảm khốc đó đang diễn ra ngay trước mặt, bỗng dưng không rét mà run.
Sau khi nghe kể về loại cực hình đó, Tiểu Thực trở nên khiếp hãi. Còn Phương Hồng Khanh bây giờ chỉ muốn nhanh chóng quay về khách sạn để gắn lại những mảnh vỡ của cái gối bằng sứ. Cả ba người đều không còn tâm trạng thưởng ngoạn cảnh đẹp nữa, chân rảo bước nhanh hơn, chẳng mấy chốc đã rời khỏi núi Linh Nham.
Về đến khách sạn, Phương Hồng Khanh chẳng buồn ăn cơm, ôm cái gối sứ chui ngay lên phòng. Tần Thu mặc kệ hắn, gọi Tiểu Thực đi ăn trưa trước, đến khi cả hai đã no bụng mới gọi phục vụ mang hộp nhựa đến để gói đồ ăn thừa mang lên. Tiểu Thực thấy Tần Thu gọi thêm một bát cháo trắng rồi cho ngón tay vào bát cháo ngoáy vài cái, liền hoảng hốt kêu lên: “Á! Ông chủ, cho dù anh trách Hồng Khanh không ăn cơm, cũng không nên ghét bỏ anh ấy đến mức đó chứ!”
Tần Thu lườm Tiểu Thực một cái, nhưng cũng chẳng giải thích gì, chỉ đưa hộp đồ ăn thừa và bát cháo trắng cho cậu. “Cầm lấy!”
Tiểu Thực nghĩ bụng, mình chẳng thèm làm chuyện thất đức như thế, trên ngón tay có bao nhiêu vi khuẩn, bẩn biết chừng nào! Ông chủ cũng thật là, muốn trừng trị người khác cũng không nên chơi khăm như vậy! Ngộ nhỡ ăn xong, Hồng Khanh bị đau bụng thì làm thế nào? Nhưng nhìn bộ mặt lạnh lùng như băng của Tần Thu, Tiểu Thực lại chẳng dám mở miệng từ chối. Cậu đành hậm hực đáp “Vâng” rồi mang đồ ăn lên lầu.
Tần Thu cũng không có ý định về phòng ngay. Tiểu Thực thấy y quay người đi ra khỏi khách sạn, liền giả vờ đi vệ sinh rồi lén lút đổ bát cháo đi, sau đó mới chạy lên lầu. Về đến phòng, chỉ thấy Phương Hồng Khanh đang ngồi cúi đầu bên bàn, mải miết lau chùi cái gối sứ và những mảnh vỡ.
“Hồng Khanh, ăn chút gì đã!” Tiểu Thực nói.
Phương Hồng Khanh chẳng buồn ngẩng đầu lên, chỉ đáp “Ừ” một tiếng rồi nói: “Cứ để đó đi!”
Tiểu Thực kéo một chiếc ghế đến bên bàn, ngồi xuống, chống cằm nhìn từng động tác của Hồng Khanh. Động tác của hắn cực kì nhẹ nhàng, những ngón tay thon dài lau phần hoa văn trên mặt sứ một cách cẩn thận, rồi lại vô cùng tỉ mỉ men theo từng góc cạnh của chiếc gối sứ, chùi sạch bụi và bùn đất giữa các khe hở. Nhờ bàn tay của hắn mà chiếc gối sứ bám đầy bụi dần trở nên sáng bóng.
Đột nhiên Phương Hồng Khanh ngẩng đầu lên, nhìn ngó xung quanh một hồi, vẻ như đang tìm kiếm gì đó. Tiểu Thực liền hỏi: “Anh tìm gì thế? Để tôi giúp anh!”
“Cháo.” Vẫn đang bận tâm đến chiếc gối sứ nên Phương Hồng Khanh vừa tìm vừa đáp lại với vẻ không mấy quan tâm.
“Anh muốn ăn cháo à? Tôi xuống mua cho anh nhé!” Tiểu Thực vội vàng đứng dậy, phẫn nộ kể lại câu chuyện Tần Thu mua cháo rồi cho ngón tay vào khuấy. Nào ngờ sau khi nghe xong, Phương Hồng Khanh không hề giận dữ mà lại cười lớn, nói:
“Ngốc ạ! Cháo đấy không dùng để ăn, mà dùng để gắn đồ sứ.”
Tiểu Thực ngơ ngác kêu “Hả?” một tiếng. Giờ cậu mới nhận ra mình đã trách nhầm Tần Thu. Cậu đang định đi mua cháo về lấy công chuộc tội thì Hồng Khanh cản lại: “Đừng đi nữa! Tần Thu chắc cũng về đến nơi rồi.”
Lời vừa dứt thì nghe thấy tiếng cửa mở. Tần Thu đẩy cửa bước vào. Thấy Tần Thu xách hai túi nilon, một túi đựng tỏi, một túi đựng trứng gà, Tiểu Thực cười nói: “Ông chủ đi chợ làm gì thế? Không lẽ định tự mình vào bếp sao?”
“Xuống tầng lấy một cái bát lên đây mau!” Tần Thu lạnh lùng yêu cầu.
Tiểu Thực ấm ức trong lòng, y muốn sai mình đi làm việc nọ việc kia thì cũng cần nói rõ lí do tại sao chứ, nhưng ngoài mặt vẫn bất đắc dĩ “Vâng” một tiếng rồi xuống lầu hỏi mượn bát. Lúc cậu trở về phòng thì thấy Phương Hồng Khanh đã bỏ cái gối sứ xuống, mang hộp cơm đến ngồi trên xô pha. Chẳng biết Tần Thu đã dùng chiêu gì mà Phương Hồng Khanh lại nghe lời như vậy?
Sau khi lấy chiếc bát từ tay Tiểu Thực, Tần Thu liền ngồi xuống bên bàn, vẻ mặt đăm chiêu. Phương Hồng Khanh đang nhìn xem Tần Thu sẽ xử lí thế nào thì Tần Thu trừng mắt, nói: “Ăn cơm đi! Không nhìn nó một lúc, nó cũng không chạy mất đâu mà sợ!”
Nghe câu nói phũ phàng ấy, Phương Hồng Khanh liền im bặt, bắt đầu ăn cơm. Tiểu Thực lúc này có được vị trí đắc địa nhất, liền noài người lên bàn, theo dõi từng động tác của Tần Thu.
Chỉ thấy Tần Thu đổ tỏi từ trong túi nilon ra, chọn ra hai củ vỏ màu tím, bóc vỏ, bỏ vào bát rồi lấy thìa dầm nát.
Một mùi kì quái xộ lên, Tiểu Thực bịt ngay mũi lại, nhưng Tần Thu có vẻ không có cảm giác gì, tiếp tục lấy một mảnh vải xô lọc bỏ bã tỏi, chỉ để lại nước tỏi trong bát. Sau đó, y lại lấy ra một quả trứng gà, nhẹ nhàng chọc thủng một lỗ nhỏ rồi dốc xuống, để lòng trắng trứng từ từ chảy vào trong bát, hòa lẫn với nước tỏi vừa lọc. Tiếp đó, y lấy thìa khuấy đều rồi đặt cái bát lên cửa sổ phơi nắng.
Xong xuôi đâu đấy, Tần Thu đi thẳng vào nhà vệ sinh để rửa tay. tiểu Thực vẫn nhìn đăm đăm vào cái bát đựng thứ dung dịch kì lạ kia rồi ngẩn ngơ hỏi: “Hồng Khanh, cái đó để làm gì vậy?”
Phương Hồng Khanh nuốt vội miếng cơm trong miệng rồi cười nói: “Cậu đúng là đồ ngốc, cái đó dùng để gắn sứ đấy!”
“Cái này á?” Tiểu Thực khó mà tin được, lại hỏi tiếp. “Chỉ dùng cái này thì có gắn chắc được không?”
Phương Hồng Khanh và nốt hai miếng cơm rồi đứng dậy vứt hộp cơm vào thùng rác, vừa lau tay vừa đi về phía cái bàn, giải thích: “Dù sao ở đây chúng ta cũng không có đủ đồ nghề để gắn nó lại. Tuy đây là một phương pháp đã cũ kĩ và lỗi thời nhưng lại rất chắc chắn, vừa không làm ảnh hưởng đến nước men vừa không làm mất tính thẩm mỹ. Ngược lại, nếu cậu dùng keo 502 để gắn thì hỏng việc ngay.”
Lần này, Tiểu Thực quả thật đã được mở rộng tầm mắt. Cậu quỳ trến cái ghế bên cạnh bàn, chống cằm nhìn Phương Hồng Khanh làm việc. Chỉ thấy Phương Hồng Khanh cẩn thận nhặt một mành sứ rất nhỏ lên, ướm vào chỗ vỡ trên cái gối sứ. Lúc này, Tần Thu đã rửa tay xong, đem bát nước tỏi ép đặt ở bên cạnh tay của Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh vô cùng cẩn thận, nhúng ngón tay vào bát nước tỏi rồi quết lên các cạnh của mảnh sứ vỡ, sau đó từ từ gắn nó vào chiếc gối sứ.
Đây là công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ. Dưới bàn tay của Phương Hồng Khanh, từng mảnh sứ vỡ lần lượt được dán lại. Chiếc gôi sứ bị vỡ cuối cùng đã được khôi phục lại nguyên trạng, trở nên vô cùng đẹp đẽ.
Một đứa bé bụ bẫm, trắng trẻo đang nằm nghiêng trên ghế, hai tay chắp lại, kê dưới đầu để làm gối, hai chân co lại, xếp chồng lên nhau, tư thế rất thoải mái. Nó mặc quần dài, áo dài, bên ngoài mặc một chiếc áo khoác không tay, chân đi đôi giày vải nhỏ, trên quần áo có thêu hình hoa mẫu đơn. Tay của đứa bé nắm một quả cầu nhỏ, trên quả cầu còn kết nơ hình bướm. Khuôn mặt bầu bĩnh của nó đang nở nụ cười, trông rất dễ thương. Điều đáng tiếc là, cho dù Phương Hồng Khanh đã cố gắng hết sức nhưng chiếc gối sứ vẫn không thể hoàn toàn lành lặn, trên tay chân đứa bé đều nhìn thấy rõ những vết nứt rạn.
Đến bây giờ, Tiểu Thực mới tin chiếc gối sứ này quả thực là quốc bảo. Cậu không kiều chế được, “A” lên một tiếng. Nhìn dáng vẻ trầm trồ của cậu, Phương Hồng Khanh vừa lấy khăn bông lau chiếc gối sứ vừa đắc ý nói: “Anh bạn nhỏ này là một món đồ quí giá. Thời Tống-Kim đặc biệt yêu thích kiểu gối sứ nhỏ này. Nó còn có hình hổ, hình gậy Như Ý, hình đám mây, vân vân… Thế nhưng lạo gối hình đứa bé này là phức tạp nhất, ngoài Định Dao chỉ còn có các xưởng gốm sứ ở thị trấn Cảnh Đức mới có thể chế tác được.”
Tiếp đó, hắn chỉ vào khuôn mặt mỉm cười của đứa bé, rồi lại chỉ vào hoa văn hình mẫu đơn trên áo của nó. “Cậu thấy thứ này không? Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho kĩ thuật khéo léo và thuần thục. Ba chiếc gối sứ trẻ con còn tồn tại đến ngày nay ở Đài Bắc và Bắc Kinh đều có cùng kiểu dáng và hoa văn trang trí như thế này. Căn cứ vào đó, tôi phỏng đoán hẳn là Định Dao phải có một khuôn mẫu chung…”
Phương Hồng Khanh còn chưa nói hết câu, Tiểu Thực đã hiểu ra. “Hồng Khanh, ý anh là chiếc gối sứ trẻ con này cùng một loại với chiếc ở bảo tàng Cố Cung, năm xưa được Định Dao chế tác từ cùng một khuôn phải không?”
“Đúng vậy!” Phương Hồng Khanh gật đầu, hơi nhíu mày. “Nhưng lại ở chỗ làm thế nào mà nó lại xuất hiện ở núi Linh Nham, Tô Châu này nhỉ?”
Tiểu Thực nghiêng đầu nghĩ ngợi. “Chẳng phải anh nói đây là chiếc gối thời Tống-Kim hay sao? Nếu như vậy, núi Linh Nham là nơi an táng của Hàn Thế Trng và Lương Hồng Ngọc, có khi nào đây là đồ bồi táng của họ?”
Phương Hồng Khanh cười nói: “Dựa vào thời gian mà suy đoán, khả năng ấy không phải là không có. Có điều…”
“Có điều,” Tần Thu hắng giọng một tiếng rồi tiếp lời. “Núi Linh Nham là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng, mộ của Hà Thế Trung được coi như địa điểm được bảo vệ hàng đầu, cậu thật sự cho rằng có kẻ trộm mộ ngốc đến vậy sao?”
“Đúng vậy!” Tiểu Thực gật đầu nói, nhưng ngay sau đó, cậu lại chú ý đến cách nói của Tần Thu. “Ông chủ, lúc trước tôi đã định hỏi, tổ tiên của anh có phải là dân trộm mộ không? Liệu anh có kì chiêu dị thuật gì không? Tôi muốn học!”
Nhìn đôi mắt sáng ngời của Tiểu Thực, Tần Thu vỗ vỗ vào mặt cậu, nói: “Cậu lo học hành tử tế đi, chậc chậc, muốn học trộm mộ làm gì chứ!”
Ba người đang nói chuyện, đột nhiên bên ngoài có tiếng chuông báo. Tần Thu lập tức chạy ra phía cửa. Cửa vừa mở, mùi khói xộc vào, khói đen nhanh chóng tràn vào mù mịt gian phòng. Tần Thu liền đóng cửa lại, đúng lúc ấy, ở dưới lầu có người hô to: “Cháy rồi!”
Cháy ư? Tiểu Thực mơ hồ nghĩ. Không phải lúc nãy ở lầu dưới chẳng có việc gì sao? Lẽ nào cậu đang bị ảo giác?
Trong lúc cậu đang phân vân không biết đây là thật hay ảo, Phương Hồng Khanh đã cầm lấy một chiếc khăn bông, quấn cái gối sứ lại, ôm vào lòng. Tần Thu nhìn qua khe cửa bên dưới, thấy ánh lửa bập bùng, bèn chạy đến bên giường, quơ lấy đám chăn và ga trải giường, đem đến bên cửa sổ, buộc chúng lại với nhau để tạo thành một sợi dây.
Thấy Tiểu Thực vẫn ngẩn người ở đó, y bực bội quát: “Còn ngây ra đó làm gì? Mau xuống trước đi!”
Tiểu Thực sực tỉnh, vội chạy đến bên cửa sổ. Lúc này, khói đen đã tràn kín căn phòng. Tần Thu lẩm bẩm chửi thề một tiếng, buộc chặt một đầu của sợi dây tự chế vào khung cửa sổ rồi chạy thẳng vào nhà vệ sinh, dấp nước lên người. Khi toàn thân đã ướt sũng, y ném chiếc ba lô cho Tiểu Thực vẫn đang đứng đợi ở cửa sổ. “Hai người xuống dưới trước đi!”
Phương Hồng Khanh bình tĩnh liếc nhìn y một cái, lẳng lặng quấn đầu còn lại của sợi dây tự chế quanh eo Tiểu Thực. Bất chấp sự kháng cự của Tiểu Thực, hắn ấn cậu nhảy ra cửa sổ đầu tiên. May mắn thay, ba người họ trọ ở tầng thứ tư, Tiểu Thực bò xuống một đoạn thì thấy Phương Hồng Khanh cũng đang trèo ra ngoài cửa sổ, còn Tần Thu vẫn đứng canh không để ngọn lửa bén vào sợi dây.
Phía sau khung cửa sổ, ngọn lửa cháy rừng rực, từng cột khói bốc lên ngùn ngụt. Tiểu Thực chưa thấyTần Thu nhảy ra ngoài, trong lòng nóng như lửa đốt. Khó khăn lắm mới xuống được đến mặt đất, cậu vội vàng nhìn lên, Phương Hồng Khanh cũng đang xuống đến nơi. Còn Tần Thu, sau khi thấy hai người đã an toàn mới nhanh chóng lao ra khỏi cửa sổ.
Bỗng nhiên, ngọn lửa bùng lên dữ dội, ô cửa kính vỡ ra thành từng mảnh. Sợi dây tự chế buộc trên khung cửa sổ bỗng đứt toạc. Thấy Tần Thu sắp ngã xuống, Tiểu Thực hét lên một tiếng. Trong tích tắc, Tần Thu rút ra một con dao nhỏ, găm chặt vào tường. Sau đó, y tì một chân vào tường, mượn lực nhảy xuống cục nóng của máy lạnh ở tầng ba, rồi lại nhảy xuống cục nóng của máy lạnh ở tầng hai, cứ thế xuống tới mặt đất, động tác nhanh nhẹn lạ thường.
Thấy Tần Thu đã xuống đến mặt đất an toàn, Tiểu Thực mới thở phào nhẹ nhõm. Cậu nhìn sang Phương Hồng Khanh. Sắc mặt hắn trắng bệch, mồ hôi lấm tấm trên trán, mãi đến khi Tần Thu bước đến gần, gương mặt hắn mới dãn ra như vừa trút được gánh nặng.
Từ phía xa, họ nghe thấy tiếng xe cứu hỏa đang phóng nhanh tới. Cả ba người họ đều không hề ngờ tới sự việc này. Tiểu Thực nghĩ bụng, sao nói cháy là cháy ngay được, thật đáng sợ! Bỗng cậu nghe thấy từ cửa sổ tầng bốn mà ba người vừa nhảy xuống có tiếng khóc trẻ con.
Lửa vẫn cháy bừng bừng, trên cửa sổ có một đứa trẻ đang ngồi khóc đến khàn cả giọng, luôn miệng kêu: “Cha ơi! Cứu con với, cha ơi!”
Tiểu Thực lập tức nhớ ra, đó đâu phải một đứa trẻ, chỉ là cái gối bằng sứ thôi. Khoan đã! Không phải lúc nãy Phương Hồng Khanh đã ôm đứa trẻ đó xuống rồi hay sao? Làm thế nào nó vẫn ở trên cửa sổ được?
Tiểu Thực quay người lại, Phương Hồng Khanh cũng đang vô cùng sửng sốt. Hắn rút chiếc gối sứ ra, ôm trong lòng, nhưng đứa bé trên bậu cửa sổ vẫn đang không ngừng gào khóc.
Tiếng khóc non nớt khàn khàn ấy khiến Tiểu Thực vô cùng sốt ruột. “Hồng Khanh, chuyện này là sao? Làm thế nào để đưa nó xuống bây giờ?”
Vừa nói Tiểu Thực vừa sờ vào chiếc gối sứ, cảm giác nóng đến bỏng rát khiến cậu lập tức rụt tay lại. Không ngờ chiếc gối sứ này lại bị lửa hun nóng đến thế! Phương Hồng Khanh vẫn kiên quyết chịu đựng cảm giác nóng rực ấy, vỗ vỗ vào chiếc gối sứ, khé nói: “Không sao rồi, ổn rồi!”
Giọng hắn trầm ấm, nhẹ nhàng, dường như chỉ một câu “không sao rồi” đã có thể xoa dịu mọi nỗi đau. Tiểu Thực cũng dần lấy lại bình tĩnh. Cậu nhìn sang Phương Hồng Khanh. Những sợi tóc bạc của hắn đang ánh lên những tia lửa đỏ rực, khóe môi khẽ nhếch lên. Không hiểu sao, trong lòng cậu bỗng dâng tràn sự ấm áp.
Tiểu Thực cảm thấy vô cùng lạ lùng. Ở Phương Hồng Khanh dường như có một sức mạnh thần kì nào đó có thể đem đến cho người khác cảm giác ấm áp và an tâm. Bất luận là với mọi người hay với những cổ vật ngàn năm kia, Phương Hồng Khanh đều quan tâm hết mực. Tiểu Thực nhớ đến lần đầu gặp Phương Hồng Khanh, hắn đã bế cái xác nữ suýt lấy mạng bọn họ, đặt vào trong quan tài, nhẹ nhàng chải tóc cho ả rồi nói: “Yên tâm đi, nàng vẫn rất xinh đẹp.” Vào khoảnh khắc nắp quan tài đóng lại, cậu lờ mờ thấy cái xác nữ đó khẽ mỉm cười.
Trong lúc Tiểu Thực còn đang quanh quẩn với những suy nghĩ về chuyện lạ lùng kia và câu nói “Không sao rồi” của Phương Hồng Khanh, tiếng gào khóc của đứa bé phía trên cửa sổ tầng bốn lặng dần, bóng dáng của nó cũng mờ đi, sau cùng biến mất trong đám khói. Cùng lúc đó, những cột lửa không hiểu từ đâu bùng lên dữ dội ban nãy cũng lụi dần đi. Khi đội cứu hỏa tới nơi, lửa đã tắt, chỉ còn sót lại những đám khói đen cuồn cuộn len ra khỏi ô cửa sổ.
Gương mặt Tần Thu đen nhẻm. Y lấy chiếc gối sứ từ tay Phương Hồng Khanh, đưa cho Tiểu Thực. Tiểu Thực cẩn thận chìa tay ra đón, phát hiện ra chiếc gối sứ không còn nóng rát nữa. Tần Thu cầm lấy bàn tay Phương Hồng Khanh, mở cúc tay áo ra. Chỉ thấy hai cẳng tay hắn đã phồng rộp lên, đầy những bọng nước. Khuôn mặt lạnh lùng của Tần Thu tối sầm lại. Y lẩm bẩm chửi thề một tiếng rồi cởi áo khoác ướt trên người, nhẹ nhàng lau cho Phương Hồng Khanh.
Nhìn vết thương trên tay Phương Hồng Khanh và sắc mặt không được tốt của Tần Thu, Tiểu Thực chỉ biết cúi đầu nhìn chiếc gối sứ trong lòng, véo mạnh mũi đứa bé. “Đồ gây họa!”
Sở cứu hỏa nói: “Nguyên nhân gây ra vụ cháy vẫn đang được điều tra”, nhưng có nhân viên khách sạn phản ảnh rằng vụ hỏa hoạn bùng phát là do một vị khách trên tầng năm hút thuốc. Tuy vậy, mặc kệ khắp nơi bàn tán thế nào, sắc mặt của Tần Thu cũng chẳng thể u ám hơn được nữa. Tiểu Thực có thể cảm nhận được bầu không khí này y hệt áp thấp nhiệt đới. Thấy Tần Thu trưng ra bộ mặt còn lạnh hơn cả lớp băng đóng dày ba thước, Tiểu Thực nhanh chóng cất cái gối trẻ em vào trong ngực, không dám rời xa, sợ Tần Thu nổi giận đập vỡ nó.
Từ lúc biết cái gối sứ này biết gây họa, Tần Thu không để ba người tách ra nữa, yêu cầu khách sạn kê thêm giường phụ. Đến tối, Tiểu Thực chỉ có thể nằm chình ình trên chiếc giường kê thêm ấy, nhìn Tần Thu bôi thuốc cho Phương Hồng Khanh. Khi từng lớp băng gạc được gỡ bỏ một cách cẩn thận, để lộ một mảng đỏ ửng, mọng nước, khuôn mặt của Tần Thu càng sa sầm. Tiểu Thực vội giấu cái gối nhỏ ra sau lưng, Phương Hồng Khanh cũng “Ây da, ây da”, cười rộ lên. “Tần Thu, nghe tôi nói này, người lớn đừng tính toán với trẻ con.”
“Trẻ con cái gì chứ? Rõ ràng là yêu quái cả ngàn năm tuổi.” Tần Thu chẳng hề nể nang, thẳng thắn khẳng định. Đây là sự thật rõ rành rành, ngay cả Phương Hồng Khanh cũng không cách nào phản bác, chỉ có thể ho khẽ một tiếng, cố ý chuyển đề tài.
Tần Thu bôi thuốc trị bỏng lên cánh tay Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh ngoài miệng vẫn tủm tỉm cười, nói lời đùa giỡn, nhưng hàng mi không kìm được khẽ cụp xuống. Tiểu Thực nhìn mà đau lòng, không thể không tức giận tên nhóc yêu tinh gây họa kia. Cậu lấy cái gối sứ ra, nhìn đôi chân mày cong cong của đứa trẻ. “Không được gây chuyện nữa nghe chưa? Nếu còn hư, anh sẽ để ông chủ vứt em đi luôn đó!”
Lời đe dọa này, bất luận là cách dùng từ hay ngữ khí, đều không có tính uy hiếp gì cả. Chiếc gối sứ hình đứa trẻ vẫn tủm tỉm cười. Đột nhiên, Tiểu Thực cảm thấy lòng bàn tay mình hơi nóng lên. Theo bản năng, cậu giật tay lại, cái gối sứ rơi xuống giường.
Lửa bắt đầu bốc lên, vây bủa khắp phòng. Khói đặc tràn ngập. Trong làn khói mù mịt, có thể loáng thoáng nhìn thấy một đứa trẻ có hai búi tóc đang đứng trong ánh lửa, kêu khóc không ngừng:
“Cha ơi! Cứu con… Đau quá, cha ơi…”
Ngọn lửa liếm đến góc áo của cậu bé, nhanh chóng bám lên chiếc áo yếm nho nhỏ. Vạt áo đã sắp bốc cháy, khói lửa xám xịt phủ đầy mặt cậu bé. Cậu bé khóc đến khàn cả giọng. Đôi tay, đôi chân nhỏ bé, trắng nõn sắp sửa trở thành món điểm tâm của ngọn lửa.
Tiểu Thực liều mạng xông vào ngọn lửa, muốn cứu đứa bé ra, nhưng cậu có chạy thế nào cũng không thể đến gần cậu bé. Đột nhiên, trong ánh lửa lại hiện ra vài bóng người.
Một gã vạm vỡ nắm lấy búi tóc của cậu bé, xách cậu lên. Cậu bé đau đớn khóc to, quơ quơ đôi tay mũm mĩm, nhưng không cách nào địch lại sức lực của kẻ to lớn kia. Từ trong ánh lửa, gã to con có bộ mặt dữ tợn hỏi: “Tên họ Đỗ trốn ở chỗ nào hả? Mày có chịu nói không?”
Người đàn ông có làn da đen sạm siết chặt nắm tay, không hề lên tiếng.
Gã hung ác kề sát rạt lưỡi dao sắc bén lên cổ cậu bé. “Nói!”
Người đàn ông vẫn không nói gì. Gã đô con “phì” một tiếng, giơ tay chém xuống. Một cánh tay của cậu bé bị chặt đứt. Cậu bé đau đớn kêu khóc thảm thiết: “Cha! Cha ơi! Đau quá, cha ơi!”
Người đàn ông mà đứa bé gọi là “cha” vẫn cắn chặt răng, không hé nửa lời. Gã hung thần ác sát lại hằn học vung dao lên, quát lớn: “Còn không nói?”
Người đàn ông mặt mày đen đúa run rẩy toàn thân. Nghe đứa con bé bỏng gào khóc không ngừng, ông run giọng nói: “Con ngoan… Con đi trước một bước nhé!”
Lời còn chưa dứt, người đàn ông chợt điên cuồng hét lớn một tiếng, lao thẳng vào gã hung ác kia. Gã hung ác trừng mắt lên, vung tay ném thẳng cậu bé vào giữa lò lửa. Tiếng khóc thê lương vang vọng giữa không gian chật hẹp khiến người ta sợ hãi. Gã hung ác chém mạnh một dao vào chân trái của người đàn ông lấm lem, khiến ông va mạnh vào lò lửa, ngã xuống đất. Gã hung ác tiếp tục hùng hổ xông đến. Đột nhiên, cái giá đựng đồ gốm phía trên đổ ập xuống, trúng vào đầu gã hung ác kia. Chỉ nghe một tiếng “Á” vang lên, đầu hắn đầm đìa máu, thân hình nặng nề ngã xuống đất.
Người đàn ông có gương mặt đen nhẻm bị thương ở chân, khổ sở bò lết từng chút đến chỗ lò lửa hừng hực cháy. Khi ông cố nhịn đau, đưa đứa con bé bỏng ra khỏi lò lửa, cậu bé đã hoàn toàn biến dạng.
Thảm kịch này khiến Tiểu Thực ngây người sợ hãi. Hơi lửa nóng rực làm cậu khó thở. Cậu định liều mạng bước đến nhưng lại không thể động đậy, chỉ đành trơ mắt nhìn người đàn ông đen đúa ôm thi thể cháy đen của đứa con trai bé bỏng, gào khóc thảm thiết như xé nát ruột gan.
Trong lò, máu và lửa cùng lúc tràn ra, dần dần hòa thành một màu đỏ thẫm. Khi màn sương máu trước mắt dần tan biến, chiếc gối sứ trẻ em ở trên giường từ từ hiện rõ. Cậu bé vẫn cười tủm tỉm, khuôn mặt tròn trĩnh, hàng mi cong cong như vành trăng non, đáng yêu vô cùng. Nhưng nhìn những vết rạn vỡ trên chân tay cậu bé, Tiểu Thực lại thấy trong lòng nặng trĩu, cảm giác đau đớn không thể diễn tả bằng lời.
Khi Tiểu Thực kể lại những gì mình được chứng kiến trong ảo giác cho Phương Hồng Khanh và Tần Thu nghe, cả hai người đều im lặng một lúc lâu. Tiểu Thực cẩn thận vuốt ve lưng gối, tựa như vỗ về cậu bé. “Có phải vì bị chết thảm trong ngọn lửa nên oán hận mới tích tụ, mãi không tiêu tan? Vì vậy mới phóng hỏa?”
Phương Hồng Khanh suy nghĩ một lát, nghiêng đầu nói: “Có thể. Lúc trước, ở núi Linh Nham, vì bị chùa miếu và sức mạnh của lăng mộ trấn áp nên nó không bày ra trò gì được. Nhưng từ khi chúng ta mang nó xuống núi đến giờ, thoát khỏi xiềng xích áp chế, tên nhóc này bắt đầu gây họa.”
Tiểu Thực vừa buồn bực vừa đau lòng. “Vậy phải làm sao bây giờ?”
Phương Hồng Khanh còn chưa nói gì, Tần Thu lại chửi thề một tiếng, cầm đống băng gạc vứt vào thùng rác. Phương Hồng Khanh cười nói: “Tôi nói này, Tần Thu, cứ mở miệng là chửi thề, còn gì là hình tượng nữa!”
“Cậu để ý tôi nói gì ư?” Ánh mắt sắc bén của Tần Thu liếc sang. “Lời tôi nói sẽ có tác dụng sao? Tôi nói cậu bớt ra ngoài gây chuyện, cậu sẽ nghe sao? Tôi nói cậu bỏ cái trò này đi, cậu sẽ nghe sao? Tôi nói cậu đừng nghĩ đến việc chạy đến Khúc Dương nữa, cậu sẽ nghe sao?”
Phương Hồng Khanh cười ngượng ngùng, không nói nữa. Tiểu Thực chẳng hiểu mô tê gì. “Ôi! Hồng Khanh, anh đi Khúc Dương làm gì thế?”
Tần Thu chẳng thèm để ý bọn họ nữa, hậm hực bước ra khỏi phòng. Đợi cơn áp thấp nhiệt đới này đi rồi, Phương Hồng Khanh mới giải thích với Tiểu Thực: “Khúc Dương là quê hương của gốm sứ Định Dao. Ảo giác mà cậu nhìn thấy chính là lò luyện gốm. Nghe cậu miêu tả, có lẽ người đàn ông mặt mày đen đúa ấy là một thợ gốm, do quanh năm phải đốt lửa để nung gốm nên mặt mũi dần dần bị ám khói, trở nên đen nhẻm. Muốn cởi chuông phải tìm người buộc chuông, muốn chấm dứt oán khí của đứa bé này, e là nhất định phải đến chỗ lò gốm ấy đẻ xem thử.”
Tiểu Thực chợt hiểu ra, nhưng nghĩ đến vẻ mặt giận dữ vừa rồi của Tần Thu, cậu liền nhỏ giọng hỏi: “Ông chủ sẽ đồng ý cho chúng ta đi sao?”
Phương Hồng Khanh không trả lời, chỉ nở nụ cười bí hiểm. Trong lòng Tiểu Thực còn đang ngổn ngang thấp thỏm thì khoảng hơn một tiếng sau, Tần Thu trở về, mang theo ba tấm vé tàu hỏa đi Thạch Gia Trang.
Khúc Dương là thị trấn nhỏ, từ Tô Châu không có cách nào để đi thẳng đến đó. Đầu tiên, ba người phải chịu lắc lư suốt mười bảy tiếng đồng hồ trên tàu hỏa mới tới được Thạch Gia Trang, sau đó lại chuyển sang một chuyến tàu khác để tới thành phố Bảo Định, cuối cùng phải bắt tiếp một chuyến xe bus mới tới được huyện Khúc Dương ở phía tây nam. Sau một hành trình dài không ngừng nghỉ, lúc họ đến được thị trấn Khúc Dương thì đã là năm giờ chiều ngày hôm sau. May mắn thay, trên đường đi khong có vụ hỏa hoạn nào, chiếc gối sứ trẻ em rất ngoan ngoãn nằm yên trong ba lô của Tiểu Thực, không bày trò gì, ba người cùng nhờ thế mà thở phào nhẹ nhõm.
Lúc họ ra khỏi bến xe, bóng tối nặng nề đã buông xuống. Đang giữa mùa đông nên trời tối sớm, Tần Thu cau có dời chuyến đi đến xưởng gốm sang ngày hôm sau. Tiểu Thực và Phương Hồng Khanh không có ý kiến gì, ba người chuẩn bị tìm một cái khách sạn ở gần bến xe để nghỉ đêm. Nhưng vừa đi được vài bước, Phương Hồng Khanh đột nhiên ngây người.
Thấy hắn nhìn chằm chằm vào chiếc taxi đậu dưới ngọn đèn đường, Tiểu Thực sinh nghi, nhìn theo hướng ấy. Chỉ thấy ba gã đàn ông to cao vây quanh một lão già đeo kính, đang chuẩn bị chui vào xe. Cậu vừa định hỏi có chuyện gì thì cánh tay dài của Tần Thu bỗng vươn ra, đầy mạnh cậu và Phương Hồng Khanh vào một góc đường khuất.
Vẻ mặt nghiêm trọng của Tần Thu khiến Tiểu Thực bất giác lo sợ. Ba người nấp dưới bóng tối của vách tường, im lặng không nhúc nhích. Đến khi chiếc taxi kia rời khỏi bến xe, chạy trên đường quốc lộ một đoạn xa, Tần Thu mới buông tay ra. Không biết vì sao, trái tim Tiểu Thực đập thình thịch. Cậu mở to mắt, hỏi hai người kia: “Có chuyện gì vậy?”
Nụ cười thường trực của Phương Hồng Khanh đã tắt, vẻ mặt hắn đầy nghiêm nghị. “Là ông chủ Triệu và Kim đại ca.”
Tiểu Thực” A” lên một tiếng. Hai gã này chẳng phải chính là kẻ thù trước kia của Phương Hồng Khanh sao? Lần trước, lúc Phương Hồng Khanh đến Hàm Dương để tìm ngôi mộ của người con gái đời Tần, hắn đã bị Lão Nhậm lừa đi gặp ông chủ Triệu, kết quả là lúc tìm được ngôi mộ, Kim đại ca với Lão Nhậm đã định giết hắn để chiếm đoạt đồ bồi táng của người chết với cây tiêu sáu lỗ. Nhưng chẳng phải bọn chúng ở Thiểm Tây sao?
Tiểu Thực còn chưa kịp thốt ra câu hỏi ấy, đã thấy Tần Thu nhíu mày. “Lão họ Triệu đã ra khỏi hang, chứng tỏ có vụ làm ăn lớn. Chúng ta cần cẩn thận một chút, nơi này nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, đừng để đụng độ với chúng!”
Gặp phải đám trộm mộ thật sự, nghĩ đến việc bọn chúng là lũ tội phạm giết người không chớp mắt, trong lòng Tiểu Thực bỗng lạnh run. Sau đó, ba người nghỉ đêm ở một khách sạn. Tiểu Thực ngủ không được ngon, cứ liên tục mơ thấy họ bị mấy gã đàn ông cầm dao rượt đuổi, giật mình tỉnh giấc mấy lần. Nhưng chỉ cần quay đầu lại, nhìn thấy Phương Hồng Khanh và Tần Thu, cậu lại cảm thấy an tâm, giống như chỉ cần có bọn họ ở bên cạnh nhau thì không còn sợ bất cứ điều gì nữa.
Mới tờ mờ sáng, Tần Thu đã lay Tiểu Thực dậy. Tiểu Thực còn buồn ngủ, dụi dụi mắt, ăn qua loa cái bánh mì rồi theo hai người lên đường. Ba người ngồi xe tới thôn Giản Từ, chỗ đó xưa kia chính là xưởng luyện gốm Định Dao có quy mô lớn nhất, tập trung nhiều lò gốm nhất. Nghe Phương Hồng Khanh giới thiệu, đất đai nơi này còn lẫn rất nhiều mảnh vụn của gốm sứ, lò nung cùng xỉ than, hơn nữa, căn cứ vào kết cấu địa chất, đất đá ở đây có nhiều tầng lớp khác nhau, có thể truy nguyên đến các thời kì: Đường, Trung Đường, Ngũ Đại, Bắc Tống.
Tiểu Thực nghe xong liền cảm thấy mơ hồ. “Không phải anh nói thời Bắc Tống mới có loại gốm Định Dao à? Vì sao trước kia đã có rồi?”
Phương Hồng Khanh cười, gõ nhẹ vào đầu cậu. “Ở thời Bắc Tống, gốm sứ Định Dao bắt đầu được tiến cung, được xác định là gốm sứ quan diêu, tức gốm sứ dành cho vua quan, nhờ vậy mà lưu danh ngàn năm. Nhưng trước thời nhà Tống, gốm sứ Định Dao không phải là không tồn tại, chỉ là nó được dành cho dân thường mà thôi.
Lúc này, Tiểu Thực mới bừng tỉnh. Ngay khoảnh khắc ấy, trong đầu cậu dường như có thứ gì đó lóe lên, nhưng cậu không xác định được là gì. Cậu mang theo nỗi nghi hoặc, cùng Phương Hồng Khanh và Tần Thu đi tới đi lui quanh di tích làng gốm Định Dao mấy vòng, nhưng chiếc gối sư trẻ em không có bất kì phản ứng gì, những ảo giác về biển lửa không còn xuất hiện thêm lần nào.
Trong một khoảng thời gian ngắn, manh mối lại bị đứt đoạn. Tiểu Thực thật sự muốn lôi cái gối sứ trẻ em ra lắc lắc để nó cho cậu chút gợi ý. Nhưng cậu còn chưa kịp làm thế, một cái gối sứ trẻ em khác đột nhiên hiện ra trước mắt cậu.
“Đây chính là đồ cổ từ đời Tống, rất đáng giá đó!” Một người dân địa phương nhe hàm răng vàng khè ra, tiến lại chào hàng.
Tiểu Thực thầm nghĩ trong túi của tôi có đồ quí hiếm thật sự, sao thèm để ý đến thứ đồ rởm của ông? Bỗng nhiên, mọi thứ trong đầu Tiểu Thực trở nên sáng tỏ. Cậu giữ chặt cánh tay Phương Hồng Khanh. “Hồng Khanh! Tôi biết rồi!”
Phương Hồng Khanh và Tần Thu đều nghi hoặc nhìn cậu. Tiểu Thực ngừng lại một chút để suy nghĩ, sắp xếp ngôn từ cho rõ ràng rồi mới bắt đầu giải thích: “Tôi cảm thấy rất kì lạ. Trong ảo giác, rõ ràng đó là một lò gốm cũ nát, không giống lò gốm quan diêu chút nào. Hồng Khanh, lúc nãy anh vừa nói trước thời Bắc Tống, loại gốm này dành cho dân thường sử dụng đúng không? Trước kia, anh cũng nói có khuôn mẫu để đúc ra loại gối sứ trẻ em này, cho nên trong viện bảo tàng mới có ba chiếc giống nhau như đúc. Anh nghĩ xem, có khi nào chiếc gối sứ trong tay chúng ta là bản gốc hay không? Người cha vì mất đi đứa con ruột thịt nên đã nung chiếc gối này theo hình dáng cậu con trai bé bỏng của mình, cho nên nó mới có linh khí và oán khí.”
Phương Hồng Khanh giật mình, lập tức gật đầu. “Đúng! Suy luận này quả thật là logic. Nói cách khác, chiếc gối sứ này có thể đã được làm ra từ trước thời Bắc Tống, trở thành hình mẫu của địa phương, sau đó, đến thời Bắc Tống, loại gối sứ này trở nên thịnh hành, được đưa vào hoàng cung.”
Nghĩ đến đây, Phương Hồng Khanh liền chuyển hướng điều tra, vội chạy đến thư viện để tìm cuốn Khúc Dương huyện chí. Trong sách không viết rõ gối sứ trẻ em là do ai sáng chế, nhưng có nói rằng mgay từ đầu đời Đường đã bắt đầu có loại gối sứ này rồi.
“Đời Đường?” Phương Hồng Khanh nhíu mày, rồi đột nhiên đập bàn, nói: “Tiểu Thực, người đàn ông trong ảo giác của cậu có làn da đen sạm đúng không?”
Tiểu Thực gật đầu. Phương Hồng Khanh cấp tốc lật vài trang sách, chỉ vào một gương mặt, nói: “Cậu nhìn xem, ở đây có ghi chép câu chuyện về Khúc Dương Quỷ. Theo truyền thuyết, vị Khúc Dương Quỷ này có bộ mặt đen sạm, nhưng là người đàn ông khôi ngô tuấn tú. Truyền thuyết về ông ấy bắt đầu từ đời Đường. Khi đó, Khúc Dương ba năm liên tiếp gặp thiên tai, hạn hán, mất mùa, nạn sâu bệnh, bão lụt hoành hành, may có Khúc Dương Quỷ xuất hiện, cứu giúp người dân vào lúc dầu sôi lửa bỏng. Sau đó, Ngô Đạo Tử(1) đi ngang qua đây, đã vẽ một bức tranh tường thật lớn trong miếu Bắc Nhạc, ca ngợi sự tích của Khúc Dương Quỷ.”
Ngô Đạo Tử (685-758): họa sĩ lớn của Trung Quốc thời nhà Đường.
Tiểu Thực nhìn vào hình vẽ rồi lại ngước lên. “Nhưng đây chỉ là truyền thuyết thôi mà. Người kia chẳng qua chỉ là thợ gốm bình thường, sao lại được người dân xem như thần linh để tôn thờ cúng bái?”
“Cậu nhầm rồi!” Phương Hồng Khanh lắc đầu, nói. “Trong thần thoại, truyền thuyết của Trung Quốc, có rất nhiều người được phong làm thần. Ví dụ như Quan Vũ, vốn là một vị võ tướng, vì ông ấy chiến bại chết thảm nên người dân lo sợ ông ấy sẽ trở thành ác quỷ. Sau đó, thế sự thay đổi, người ta lại tôn Quan Nhị Gia[26*] lên làm một vị thần để cúng bái. Trong Liêu trai cũng có nói, Vương Lục Lang vốn là một người phàm, vì chết đuối giữa sông nên trở thành ma da, nhưng anh ta không đành lòng dìm chết người khác để họ làm ma thay thế mình. Tấm lòng lương thiện của anh ta đã làm trời đất cảm động, anh ta liền được phong làm thành hoàng của vùng đất ấy. Tôi cảm thấy người mà cậu nhìn thấy trong ảo giác có liên quan đến vị Khúc Dương Quỷ này.”
Tức Quan Vũ.
Tiểu Thực nửa tin nửa ngờ, gật gật đầu. Căn cứ theo suy đoán của Phương Hồng Khanh, ba người lại chạy tới miếu Bắc Nhạc của Khúc Dương. Miếu Bắc Nhạc này là nơi thờ vị thần Núi Hằng Sơn-Bắc Nhạc, từ xa nhìn lại, nóc miếu được lợp bằng ngói lưu li, tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tràn đầy khí thế. Ba người vừa định bước vào trong miếu thì gặp một đoàn du khách cũng đang tiến vào. Cô hướng dẫn viên vừa dẫn đường vừa giới thiệu với mọi người:
“Nổi tiếng nhất trong miếu Bắc Nhạc là bức tranh tường Thiên cung đồ tại điện Đức Ninh. Tương truyền, đây là kiệt tác của họa thánh đời Đường Ngô Đạo Tử, miêu tả truyền thuyết Khúc Dương Quỷ cứu vớt chúng sinh trong thiên hạ. Khi đó huyện Khúc Dương ba năm liền gặp hạn hán…
Nghe lời giới thiệu của cô hướng dẫn viên, Tiểu Thực liền bước về phía chính điện của miếu Bắc Nhạc. Nhưng mới bước được một bước, cậu bỗng thấy dưới chân là mặt đất nứt nẻ. Cậu giật mình, nhìn kĩ lại, làm gì có miếu Bắc Nhạc nào! Trước mắt chỉ là một mảnh đất hoang rộng lớn khô cằn.
Dưới ánh mặt trời chói chang, có hai người đàn ông đang đứng. Tiểu Thực nhận ra người thợ gốm có da dẻ đen sẫm. Ông ta đang bế đứa bé, đứng bên cạnh một vị quan.
“Thụy Chi, đệ thực sự muốn mở kho lương để phát cho dân ư? Tự ý mở kho lương chính là tội chết, sẽ bị xử trảm đấy!”
“Nếu không thì phải làm thế nào?” Vị quan văn kia ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào ánh mặt trời chói chang. “Ba tháng chẳng có lấy một giọt mưa. Phía bắc của huyện, người chết đói khắp nơi. Không mở kho lương phát cho dân thì còn cách nào khác đây?”
“Nhưng mà…” Người thợ gốm còn muốn khuyên nữa nhưng cuối cùng lại bặm chặt môi. Lâu sau, ông mới vỗ mạnh vào ngực mình. “Thụy Chi, nếu trong lòng đệ đã quyết, ngu huynh cũng không khuyên nữa. Sau khi phân phát lương thực, đệ lập tức trốn đi thật xa, mai danh ẩn tích, để tránh họa sát thân.”
Vị quan văn thở dài một tiếng, chậm rãi gật đầu.
Đứa bé không hiểu lời nói của người lớn, cứ cười khúc khích, chơi đùa trong vòng tay của cha, vừa đu cổ gọi “cha” vừa dùng đôi bàn tay bé nhỏ nghịch tóc cha, hoàn toàn không biết vì sao người lớn lại chau mày, nhăn mặt.
Tiểu Thực đột nhiên hiểu rõ. Đến giờ phút này, cậu mới hiểu vì sao người thợ gốm kia đành lòng trơ mắt nhìn đứa con bé bỏng của mình bị chém, nhất quyết không nói ra tung tích của bạn bè. Phương Hồng Khanh nói không sai, chính người thợ gốm ấy đã cùng vị quan văn cứu tính mạng của toàn bộ người dân huyện Khúc Dương, nhưng lại phải gánh chịu kết cục cột nhục phân li.
Bên tai Tiểu Thực lại vang lên tiếng khóc đau đớn như xé nát ruột gan và giọng nói non nớt “Cha ơi! Cứu con!”. Tâm trạng của người thợ gốm ấy như thế nào khi chứng kiến đứa con thương yêu của mình bị chém đứt lìa tay rồi bị quăng vào lò gốm hừng hực lửa? Tâm trạng ông ấy như thế nào khi ông đứa con bé bỏng bị cháy đen, rồi dựa vào hình ảnh của cậu bé để nung thành một chiếc gối sứ tinh xảo, đáng yêu đến thế?
Nghĩ đến đây, Tiểu Thực cảm thấy nỗi chua xót dâng lên tự đáy lòng. Cậu nhắm mắt lại, chợt thấy người đàn ông ấy đang khom mình, tỉ mỉ vẽ nên đôi mắt trẻ thơ dễ thương. Nước mắt thấm đẫm gương mặt ông.
Bên tai lại vang lên tiếng huyên náo của du khách. Cô hướng dẫn viên đang nói đến sự tích “Quỷ Khúc Dương mặt đen quân mình, nhảy xuống sông cứu khách đi thuyền”. Những chuyện xưa tích cũ được dân gian truyền miệng trăm ngàn năm qua, thật thật giả giả, khiến trái tim Tiểu Thực đau đớn một hồi. Cậu mở mắt, nhìn sang Phương Hồng Khanh và Tần Thu, thấy Phương Hồng Khanh vươn tay vỗ nhẹ bờ vai cậu, khẽ gật gật đầu, ý nói hắn đã hiểu rồi.
“Cốt nhục tâm tình và tình nghĩa bạn bè, thật không có cách nào vẹn cả đôi đường.” Phương Hồng Khanh bỗng nhẹ giọng nói. “Ông ấy tuân thủ lời thề, tuy là có tiếc nuối nhưng không hề hối hận.”
Tiểu Thực nặng nề gật đầu, “Ừ” một tiếng. Cậu bỗng hiểu ra tại sao Tần Thu cau mày mắng Phương Hồng Khanh là đồ thần kinh nhưng vẫn đi mua vé tàu hỏa.
Phương Hồng Khanh suy nghĩ một lát rồi nói: “Để đứa bé ở lại đây đi, dù sao nơi này mới là quê hương của nó.”
Hai người muốn nhân lúc mọi người không chú ý sẽ đặt chiếc gối sứ trẻ em ở chính điện, nơi có bức tranh tường Khúc Dương Quỷ. Vậy nên họ bèn lại gần pho tượng Phật trong chính điện. Tần Thu thì đứng xa hơn một chút, canh gác cho họ.
Tiểu Thực đi vòng ra sau lưng tượng Phật, đinh đặt chiếc gối nhỏ xuống dưới bàn thờ Phật, đột nhiên ở chỗ hòm công đức để du khách quyên góp tiền mua nhang đền có một cửa động mở ra.
Một khẩu súng thò lên, gí ngay vào bụng của Tiểu Thực. Dưới cửa động lộ ra một đôi mắt đen u ám. “Đi xuống.”