Nguyên tác: The English Patient
Số lần đọc/download: 0 / 16
Cập nhật: 2023-06-17 16:09:57 +0700
Chiếc Máy Bay Chôn Vùi
Ông nhìn trừng trừng, mỗi mắt một tia nhìn, xuống cái giường dài và Hana ở cuối giường. Sau khi nàng lau mình cho ông, nàng bẻ đầu một ống thuốc tiêm rồi quay về phía ông với thuốc morphine. Một hình nộm. Một cái giường. Ông đi trên thuyền morphine. Nó lao đi trong người ông, làm sụp đổ thời gian và địa lý như những bản đồ rút nhỏ thế giới lại trên một mảnh giấy hai chiều.
Những buổi tối Cairo dằng dặc. Bầu trời đêm như biển cả, những con chim ưng bị nhốt trong những gian hàng cho đến khi chúng được thả ra vào lúc hoàng hôn, đường bay vòng cung về phía màu sắc cuối cùng của sa mạc. Cuộc biểu diễn nhịp nhàng như một nắm hạt giống tung đi.
Trong thành phố ấy vào năm 1936 người ta có thể mua bất cứ thứ gì - từ một con chó hoặc một con chim người ta gọi về bằng tiếng huýt gió, cho đến những sợi dây ghê gớm luồn vào ngón tay út của một người phụ nữ để buộc liền người ấy vào bạn trong khu chợ đông người.
Trong khu Đông Bắc của Cairo là khoảng sân rộng của những người học đạo, và xa hơn nữa là khu chợ Khan el Khalili. Từ trên những con đường hẹp, chúng tôi nhìn xuống những con mèo trên mái tôn gợn sóng, chúng cũng đang nhìn xuống ba mét phía dưới đến mặt đường và sạp hàng. Trên tất cả mọi thứ này là căn phòng của chúng tôi. Những cửa sổ nhìn ra mấy ngọn tháp đền thờ Hồi giáo, những chiếc ghe nhỏ, lũ mèo, tiếng ồn khủng khiếp. Nàng nói với tôi về những khu vườn ấu thơ của nàng. Khi nàng không ngủ được, nàng vẽ khu vườn của mẹ nàng cho tôi nghe, từng chữ một, từng bồn hoa một, lớp băng tháng Chạp trên ao cá, tiếng giàn hoa hồng kẽo kẹt. Nàng sẽ cầm cổ tay tôi ở chỗ những mạch máu tụ lại và đưa nó đến chỗ trũng ở cổ nàng.
Tháng Ba năm 1937, ở Uweinat. Madox bực bội vì không khí loãng. Năm trăm mét trên mặt biển và anh đã cảm thấy khó chịu ngay cả với độ cao tối thiểu này. Rốt cuộc thì anh là một người sa mạc, đã rời ngôi làng Marston Magna của gia đình anh ở Somerset, thay đổi tất cả tập tục và thói quen để anh có thể ở gần mặt biển cũng như chỗ khô ráo thường xuyên.
“Madox, chỗ trũng ngay bên dưới cần cổ của một người phụ nữ tên là gì? Ở đằng trước. Đây này. Nó là gì, nó có tên chính thức không? Chỗ trũng khoảng bằng ngón tay cái?”
Madox ngắm tôi một lúc trong ánh nắng gay gắt buổi trưa.
“Tỉnh táo lại đi”, anh lầm bầm.
Caravaggio nói với Hana, “Để chú kể cho cháu nghe một câu chuyện. Có một người Hungary tên là Almásy, ông ta làm việc cho người Đức trong cuộc chiến. Ông ta lái máy bay cho Afrika Korps[75] trong một thời gian ngắn, nhưng ông ta có giá trị hơn thế. Trong thập niên 1930 ông ta đã là một trong những nhà thám hiểm sa mạc lỗi lạc. Ông ta biết mọi chỗ có nước và đã giúp vẽ bản đồ của Biển Cát. Ông ta biết sa mạc rành rẽ. Ông ta thạo thổ ngữ. Cháu nghe có thấy quen quen không? Giữa hai cuộc chiến ông ta luôn đi thám hiểm bên ngoài Cairo. Một chuyến để tìm Zerzura - ốc đảo đã mất. Khi cuộc chiến bùng nổ ông ta theo người Đức. Năm 1941 ông ta trở thành người dẫn đường cho điệp viên, đưa họ băng qua sa mạc vào Cairo. Điều chú muốn nói với cháu là, chú nghĩ bệnh nhân người Anh không phải là người Anh”.
“Dĩ nhiên ông ấy là người Anh, còn những bồn hoa ở Gloucestershire thì sao?”
“Chính thế. Đấy là một lai lịch hoàn hảo. Hai đêm trước, lúc chúng ta đang cố đặt tên cho con chó. Cháu nhớ không?”
“Có.”
“Ông ấy đề nghị những tên gì?” “Tối hôm đó ông ấy hơi lạ.”
“Ông ấy rất lạ, vì chú cho ông ấy thêm một liều morphine. Cháu có nhớ mấy cái tên không? Ông ấy đưa ra khoảng tám cái tên. Năm cái tên rõ ràng là trò đùa. Còn ba cái tên. Cicero. Zerzura. Delilah.”
“Thì sao?”
“‘Cicero’ là biệt danh của một điệp viên. Người Anh tìm ra hắn. Một gián điệp nhị trùng rồi tam trùng. Hắn thoát được. ‘Zerzura’ thì rắc rối hơn.”
“Cháu biết về Zerzura. Ông ấy có nói về nó. Ông ấy cũng nói đến những khu vườn.”
“Nhưng bây giờ hầu như chỉ còn sa mạc. Khu vườn Anh mờ nhạt rồi. Ông ấy sắp chết. Chú nghĩ rằng cháu có Almásy, người cộng tác với điệp viên, trên lầu.”
Họ ngồi nhìn nhau trên mấy cái giỏ mây cũ trong phòng vải[76]. Caravaggio nhún vai. “Có thể lắm chứ.”
“Cháu nghĩ ông ấy là người Anh”, nàng nói, hút lõm hai má vào như nàng hay làm khi nàng nghĩ ngợi hoặc cân nhắc điều gì về mình.
“Chú biết cháu yêu mến ông ấy, nhưng ông ấy không phải là người Anh. Trong thời gian đầu của cuộc chiến chú làm việc ở Cairo - Trục Tripoli. Điệp viên Rebecca của Rommel…”
“Chú bảo sao, ‘điệp viên Rebecca’?”
“Năm 1942 bọn Đức gửi một điệp viên tên là Eppler vào Cairo trước trận chiến El Alamein. Hắn dùng cuốn truyện Rebecca của Daphne du Maurier làm sách mật mã để gửi tin cho Rommel về những di chuyển của quân đội. Nghe đây, cuốn sách trở thành sách gối đầu giường của Sở Tình báo Anh. Ngay cả chú cũng đọc.”
“Chú đọc sách?”
“Cám ơn cháu nhé. Người nhận lệnh trực tiếp từ Rommel để dẫn Eppler qua sa mạc vào Cairo - từ Tripoli đến tận Cairo - là Bá tước Ladislaus de Almásy. Đây là khoảng sa mạc mọi người đinh ninh là không ai có thể vượt qua.
Giữa hai cuộc chiến, Almasy có bạn là người Anh. Những nhà thám hiểm lỗi lạc. Nhưng khi cuộc chiến bắt đầu ông ta đi với người Đức. Rommel nhờ ông ta đưa Eppler băng qua sa mạc vào Cairo vì nếu dùng máy bay hoặc nhảy dù thì lộ liễu quá. Ông ta băng qua sa mạc với hắn và đưa hắn đến lưu vực sông Nile.”
“Chú biết nhiều về chuyện này nhỉ.”
“Chú đóng quân ở Cairo. Lúc ấy bọn chú theo dõi họ. Từ Gialo ông ta dẫn một đoàn tám người vào sa mạc. Họ phải luôn đào xe tải ra khỏi đồi cát. Ông ta hướng họ về phía Uweinat và cao nguyên đá hoa cương của nó để họ có thể lấy nước, trú trong những hang động. Đấy là điểm nửa đường. Ở đấy, trong thập niên 1930 ông ta đã khám phá ra những hang động có hình vẽ trên đá. Nhưng cao nguyên Uweinat dày đặc quân Đồng Minh nên ông ta không thể dùng những cái giếng ở đấy. Ông ta đi vào sa mạc trở lại. Họ cướp những kho chứa xăng của quân Anh để đổ đầy bình xăng trong xe họ. Trong ốc đảo Kharga họ đổi sang mặc quân phục Anh và treo biển số Anh lên xe họ. Khi họ bị nhìn thấy từ không trung họ ẩn trong những wadi có khi lâu đến ba ngày, hoàn toàn bất động. Bị nướng gần chết trong cát.
Họ đi ba tuần mới đến Cairo. Almásy bắt tay Eppler rồi bỏ đi. Đây là chỗ bọn chú mất dấu ông ta. Ông ta quay lại sa mạc một mình. Bọn chú nghĩ ông ta băng qua sa mạc một lần nữa về Tripoli. Nhưng đấy là lần cuối cùng người ta nhìn thấy ông ta. Dần dà người Anh bắt được Eppler và dùng mật mã Rebecca để tuồn tin giả cho Rommel về El Alamein.”
“Cháu vẫn không tin, chú David.”
“Người giúp bắt Eppler ở Cairo tên là Sansom.” “Delilah.”
“Chính thế.”
“Có thể ông ấy là Sansom.”
“Thoạt tiên chú nghĩ thế. Hắn rất giống Almásy. Cũng là một người yêu sa mạc. Lúc nhỏ hắn ở Levant và biết người Bedouin. Nhưng vấn đề là Almásy biết lái máy bay. Chúng ta đang nói đến một người rớt máy bay. Đây là một người, bị bỏng đến không nhận dạng được, bằng cách nào đấy lọt vào vòng tay của người Anh ở Pisa. Còn nữa, ông ta nói chuyện giống người Anh. Almásy học ở Anh. Ở Cairo ông ta được gọi là điệp viên người Anh.”
Nàng ngồi trên giỏ mây nhìn Caravaggio. Nàng nói, “Cháu nghĩ mình nên để ông ấy yên. Ông ấy ở phe nào thì cũng đâu quan trọng gì, phải không?”
Caravaggio nói, “Chú muốn nói chuyện nhiều hơn với ông ấy. Với nhiều morphine trong người ông ấy hơn. Nói hết ra. Chú và ông ấy. Cháu hiểu không? Xem chuyện này đi đến đâu. Delilah. Zerzura. Cháu phải cho ông ấy một liều thuốc khác”.
“Không được, David. Chú quẫn trí quá rồi. Ông ấy là ai, chuyện đó không quan trọng. Cuộc chiến đã qua rồi.”
“Thế thì chú tự làm vậy. Chú sẽ chế hỗn hợp Brompton. Morphine và rượu. Họ sáng chế ra nó trong bệnh viện Brompton ở London cho những bệnh nhân ung thư của họ. Đừng lo, nó không giết ông ấy đâu. Nó thấm nhanh vào người. Chú có thể chế nó bằng những gì mình có sẵn. Cho ông ấy uống. Rồi cho ông morphine bình thường.”
Nàng nhìn anh ngồi trên giỏ mây, mắt trong sáng, đang mỉm cười. Trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Caravaggio đã trở thành một trong nhiều tên trộm thuốc morphine. Chỉ vài giờ sau khi anh đến, anh đã đánh hơi ra kho thuốc của nàng. Giờ đây những ống morphine nhỏ là nguồn thuốc của anh. Như ống kem đánh răng cho búp bê, nàng đã nghĩ thế khi nàng nhìn thấy chúng, thấy chúng rất ngộ nghĩnh. Caravaggio mang theo hai, ba ống trong túi áo suốt ngày để luồn dung dịch vào da thịt anh. Một lần nàng tình cờ thấy anh đang nôn mửa vì dùng quá liều morphine, người cúi gập và run rẩy trong một góc tối của tòa villa, ngước nhìn lên và gần như không nhận ra nàng. Nàng đã thử nói chuyện với anh nhưng anh chỉ nhìn trừng lại. Anh đã tìm ra hộp trữ thuốc, bật toang nó ra với sức mạnh chỉ có trời biết ở đâu ra. Một lần khi anh công binh bị đứt tay vì một cánh cổng sắt, Caravaggio dùng răng bẻ gẫy đầu thủy tinh, hút và nhổ morphine vào lòng bàn tay màu nâu trước khi Kip biết đấy là cái gì. Kip đẩy anh ra, trừng mắt giận dữ.
“Để ông ấy yên. Ông ấy là bệnh nhân của cháu.”
“Chú sẽ không làm hại ông ấy. Morphine và rượu sẽ làm giảm đau.”
(3 PHÂN KHỐI HỖN HỢP BROMPTON. 3 GIỜ CHIỀU.)
Caravaggio luồn cuốn sách ra khỏi hai bàn tay của người đàn ông.
“Khi ông rớt máy bay trong sa mạc - ông đang bay từ đâu đến?”
“Tôi đang rời khỏi Gilf Kebir. Tôi đến đấy đón một người. Cuối tháng Tám. Một ngàn chín trăm bốn mươi hai.”
“Giữa cuộc chiến? Lúc ấy mọi người đã đi cả rồi.” “Đúng thế. Chỉ còn quân đội.”
“Gilf Kebir.”
“Vâng.”
“Nó ở đâu thế?”
“Đưa cho tôi cuốn sách của Kipling… đây.”
Trên trang đầu của cuốn Kim có một tấm bản đồ với đường chấm chấm là con đường cậu bé và Thánh Nhân đã đi. Bản đồ chỉ có một phần Ấn Độ - vùng Afghanistan có những đường gạch chéo qua lại chằng chịt, và Kashmir trong lòng những ngọn núi.
Ông di bàn tay đen đúa của mình theo dòng sông Numi cho đến khi nó chảy vào biển ở vĩ độ 23°30’. Ông tiếp tục di ngón tay mình mười lăm phân về hướng tây, ra ngoài tờ giấy, lên ngực mình; ông chạm vào xương sườn mình.
“Đây. Gilf Kebir, ngay phía trên Hạ Chí Tuyến. Trên đường biên giới giữa Ai Cập và Libya.”
Chuyện gì đã xảy ra vào năm 1942?
Tôi hoàn thành cuộc hành trình đến Cairo và đang quay lại. Tôi len lách giữa quân địch, nhớ lại những tấm bản đồ cũ, tìm những nơi trữ xăng và nước từ trước chiến tranh, lái xe đến Uweinat. Bây giờ mọi chuyện dễ dàng hơn vì tôi chỉ có một mình. Cách Gilf Kebir nhiều dặm, xe tải nổ và tôi lật úp, theo phản xạ lăn tròn trong cát, không muốn tàn lửa đụng vào mình. Trong sa mạc lúc nào người ta cũng sợ lửa.
Có lẽ xe tải nổ vì bị phá hoại. Trong số người Bedouin có điệp viên, những đoàn lữ hành của họ vẫn như những thành phố trôi dạt, mang gia vị, phòng ốc, những cố vấn chính quyền đến bất cứ nơi nào họ đến. Trong những ngày ấy của cuộc chiến, giữa những người Bedouin lúc nào cũng có người Anh cũng như người Đức.
Rời xe tải, tôi bắt đầu đi bộ về Uweinat, tôi biết có một chiếc máy bay chôn ở đấy.
Đợi chút đã. Ý ông muốn nói gì, một chiếc máy bay chôn dưới cát?
Ngày trước Madox có một chiếc máy bay cũ, anh đã gọt tỉa chỉ còn những bộ phận chính - phần “phụ trội” duy nhất là vòm kính che kín buồng lái, rất cần thiết cho những chuyến bay trong sa mạc. Trong thời gian chúng tôi ở sa mạc, anh ấy đã dạy tôi lái máy bay, hai chúng tôi bước vòng quanh bộ máy đã được ràng kỹ xuống cát, lý luận về chuyện nó lượn hoặc xoay mình trong gió như thế nào.
Khi máy bay của Clifton - Rupert - bay vào giữa nhóm chúng tôi, chiếc máy bay già nua của Madox bị bỏ lại nơi nó đậu, phủ bằng một tấm vải dầu, buộc vào cọc ở một trong những vòm đá vùng Đông Bắc Uweinat. Trong vài năm, cát dần dà phủ lên nó. Không ai trong chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ nhìn thấy nó lần nữa. Nó là một nạn nhân nữa của sa mạc. Vài tháng sau, chúng tôi đi ngang qua hẻm núi phía đông bắc và không nhìn thấy hình dạng của nó nữa. Lúc ấy máy bay của Clifton, mới hơn nó mười năm, đã bay vào câu chuyện của chúng tôi.
Thế là ông đi bộ về máy bay?
Phải. Bốn ngày đi bộ. Tôi đã để người đàn ông đó ở Cairo và quay về sa mạc. Khắp nơi là chiến tranh. Đột nhiên có những “đội”. Đội Bermann, đội Bagnold, đội Slatin Pasha - những người đã nhiều lúc cứu mạng nhau - bây giờ chia phe phái.
Tôi đi bộ đến Uweinat. Tôi đến đấy vào khoảng trưa và leo vào những hang động của cao nguyên. Trên cái giếng tên Ain Dua.
“Caravaggio nghĩ chú ấy biết ông là ai”, Hana nói. Người đàn ông trên giường không nói gì.
“Chú ấy nói ông không phải là người Anh. Chú ấy đã làm việc cho cơ quan tình báo ở Cairo và Ý một thời gian. Cho đến khi chú ấy bị bắt. Gia đình tôi quen biết Caravaggio trước chiến tranh. Chú ấy là một tên trộm. Chú ấy tin vào ‘chuyển động của đồ vật’. Có những tên trộm là nhà sưu tập, như những nhà thám hiểm ông khinh rẻ, như đàn ông sưu tập đàn bà và đàn bà sưu tập đàn ông. Nhưng Caravaggio không phải như thế. Chú ấy quá hiếu kỳ và rộng rãi nên không thể trở thành một tên trộm thành công. Hết nửa những thứ chú ấy trộm được không bao giờ về đến nhà. Chú ấy nghĩ ông không phải là người Anh.”
Nàng ngắm vẻ bất động của ông trong khi nàng nói; hình như ông không chú tâm nghe những lời của nàng. Chỉ nghe suy nghĩ xa vời của ông thôi. Như dáng vẻ của Duke Ellington và cách ông suy nghĩ trong lúc ông chơi bài Cô Đơn.[77]
Nàng ngưng nói.
Ông đến cái giếng cạn tên là Ain Dua. Ông cởi hết quần áo và ngâm chúng vào giếng, nhúng đầu ông rồi thân hình gầy gò của ông vào làn nước xanh. Tay chân ông mệt nhoài vì bốn đêm đi bộ. Ông trải quần áo ra trên những tảng đá, rồi leo lên cao hơn vào giữa mấy tảng đá, leo ra ngoài sa mạc, đang là một chiến trường mênh mông trong năm 1942 này, rồi trần truồng đi vào bóng tối của động đá.
Ông ở giữa những hình vẽ quen thuộc ông đã tìm thấy nhiều năm trước đây. Hươu cao cổ. Gia súc. Người đàn ông giơ cao hai tay, đội mũ cài lông vũ. Nhiều hình dáng rõ ràng ở tư thế đang bơi. Bermann đã đoán đúng về sự hiện hữu của một cái hồ xưa kia. Ông bước sâu hơn vào trong sự lạnh lẽo, vào động Người Bơi Lội, nơi ông đã để nàng lại. Nàng vẫn ở đấy. Nàng đã lê mình vào trong một góc, quấn chặt mình trong lớp vải dù. Ông đã hứa sẽ trở lại đón nàng.
Chính ông cũng muốn chết trong hang động, với sự riêng tư của nó, những người bơi lội vẽ trên đá chung quanh họ. Bermann bảo ông rằng trong những khu vườn Á châu người ta có thể nhìn đá và hình dung ra nước, người ta có thể nhìn mặt ao tĩnh lặng và tin rằng nó có độ rắn của đá. Nhưng nàng là người phụ nữ lớn lên trong những khu vườn, giữa hơi ẩm, với những chữ như giàn cây và con nhím. Niềm đam mê nàng dành cho sa mạc là tạm thời. Nàng biết yêu vẻ khắc nghiệt của nó vì ông, muốn hiểu được sự an nhiên của ông trong nỗi cô đơn của nó. Nàng vẫn hạnh phúc hơn trong mưa, trong phòng tắm mờ hơi nước, trong cái ẩm ướt ngái ngủ, từ cửa sổ leo vào lại phòng ông trong đêm mưa ấy ở Cairo rồi mặc quần áo trong khi người vẫn còn ướt để giữ lại hơi ẩm. Cũng như nàng yêu những truyền thống gia đình và nghi lễ lịch sự và những bài thơ cũ đã thuộc lòng. Nàng hẳn sẽ ghét cái chết vô danh. Với nàng, có một con đường rành rẽ dẫn về tổ tiên nàng, trong khi ông đã xóa đi con đường về cội nguồn của mình. Ông kinh ngạc rằng nàng đã yêu ông bất chấp những tính cách vô danh ấy nơi ông.
Nàng nằm ngửa, theo dáng một xác chết thời Trung cổ.
Tôi trần truồng đến bên nàng, như tôi thường làm trong căn phòng Nam Cairo của chúng tôi, muốn cởi bỏ y phục nàng, vẫn còn muốn yêu nàng.
Điều tôi làm có gì là ghê gớm? Không phải chúng ta tha thứ tất cả cho người tình sao? Chúng ta tha thứ lòng ích kỷ, dục vọng, xảo trá. Cho đến khi nào chúng ta vẫn còn là động lực của nó. Người ta có thể làm tình với một người đàn bà bị gẫy tay, hoặc đang sốt. Nàng từng hút máu từ vết cắt trên bàn tay tôi cũng như tôi đã nếm và nuốt máu kinh nguyệt của nàng. Châu Âu có vài chữ không bao giờ dịch được chuẩn xác sang một ngôn ngữ khác. Felhomaly[78]. Hoàng hôn của những nấm mồ. Với ngụ ý về sự thân mật giữa người chết và kẻ sống.
Từ ngăn kệ giấc ngủ, tôi nâng nàng vào trong tay tôi. Quần áo như tơ nhện. Tôi đã xáo trộn tất cả.
Tôi mang nàng ra ngoài, vào ánh nắng. Tôi mặc quần áo, đã khô giòn vì hơi nóng của đá.
Tôi đan hai bàn tay lại thành yên cương cho nàng ngồi lên. Vừa đến mặt cát, tôi xoay người nàng lại để mặt nàng hướng qua vai tôi về đằng sau. Tôi nhận ra nàng nhẹ bỗng. Tôi đã quen ôm nàng trong tay như thế này, nàng đã xoay tròn chung quanh tôi, trong căn phòng của tôi, như một phản chiếu hình người của cái quạt - hai cánh tay nàng giơ ra, những ngón tay như con sao biển.
Chúng tôi di chuyển như thế về hẻm núi phía đông bắc, chỗ chôn máy bay. Tôi không cần bản đồ. Chỉ mang bình xăng tôi đã đem theo từ chiếc xe tải lật úp. Vì ba năm trước chúng tôi bất lực vì không có nó.
“Chuyện gì đã xảy ra ba năm trước?”
“Nàng bị thương. Năm 1939. Chồng nàng lao máy bay xuống đất. Anh ấy toan tính một vụ tự sát-giết người dính dáng đến cả ba chúng tôi. Lúc ấy, thậm chí chúng tôi không còn là tình nhân. Tôi đoán rằng tin tức về chuyện ngoại tình đã bằng cách nào đấy dần dà đến tai anh ấy.”
“Cô ấy bị thương nặng nên ông không mang cô ấy theo được.”
“Phải. Cơ hội duy nhất để cứu nàng là một mình tôi gắng đi tìm trợ giúp.”
Trong động, sau bao tháng trời xa cách và giận hờn, họ đã đến với nhau, một lần nữa nói với nhau như những người tình, đẩy lăn đi khối đá họ đã đặt ở giữa họ vì những lề luật xã hội cả hai đều không tin tưởng.
Trong vườn thực vật, nàng đã va đầu mình vào cột cổng với quyết tâm và phẫn nộ. Quá kiêu hãnh nên không thể là một người tình, một bí mật. Thế giới của nàng không có những ngăn chia. Ông đã quay lại phía nàng, ngón tay giơ lên, Anh chưa nhớ em.
Rồi anh sẽ nhớ.
Trong những tháng họ xa nhau, ông trở nên cay đắng và tự túc. Ông tránh gặp nàng. Ông không chịu nổi sự bình tĩnh của nàng khi nàng gặp ông. Ông gọi điện thoại đến nhà nàng để nói chuyện với chồng nàng, và nghe tiếng cười của nàng trong điện thoại. Nàng có một vẻ duyên dáng phô bày quyến rũ tất cả mọi người. Đây là một điểm ông đã yêu ở nàng. Giờ đây ông nghi ngờ tất cả.
Ông ngờ rằng nàng đã thay thế ông bằng một người tình mới. Ông diễn dịch mỗi cử chỉ của nàng với những người khác như là một dấu hiệu hứa hẹn. Có lần, trong một hành lang, nàng nắm và giật vạt áo khoác của Roundell, cười với anh ta trong khi anh ta thì thầm một điều gì, và ông đã theo dõi anh chàng phụ tá chính phủ vô hại ấy trong hai ngày để xem giữa họ có chuyện gì hơn nữa hay không. Ông không tin những lời âu yếm cuối cùng nàng đã nói với ông nữa. Hoặc là nàng ở bên ông, hoặc là nàng đối nghịch ông. Nàng đối nghịch ông. Thậm chí ông không chịu nổi nụ cười ngập ngừng của nàng với ông. Nếu nàng đưa cho ông một ly rượu, ông sẽ không uống. Nếu trong một buổi tiệc nàng chỉ vào một cái chậu, bên trong bồng bềnh một đóa hoa súng sông Nile, ông sẽ không nhìn nó. Chỉ là một đóa hoa mắc toi khác. Nàng có một nhóm bạn thân mới không bao gồm ông và chồng nàng. Không ai trở về với chồng. Ít nhất ông biết thế về tình yêu và bản tính con người.
Ông mua giấy vấn thuốc lá màu nâu nhạt, dán nó vào những đoạn trong cuốn Lịch sử kể lại mấy cuộc chiến ông không chú ý đến. Ông viết xuống tất cả những tranh luận chống đối ông của nàng. Dán vào trong cuốn sách - chỉ dành cho ông giọng nói của người quan sát, người lắng nghe, ngôi thứ ba “hắn”.
Trong những ngày cuối cùng trước chiến tranh, ông đến Gilf Kebir lần cuối để dọn sạch trại chính. Chồng nàng hẹn sẽ đón ông. Người chồng cả hai đã cùng yêu mến cho đến khi họ yêu nhau.
Clifton lái máy bay đến Uweinat để đón ông vào ngày hẹn, bay là sát trên mặt ốc đảo đã mất đến nỗi những bụi cây keo rụng lá trên đường máy bay qua, chiếc Moth lượn vào những khe trũng - trong khi ông đứng trên vách núi cao ra dấu bằng một tấm vải dầu màu xanh. Rồi chiếc máy bay vòng xuống và lao thẳng về phía ông, rồi đâm sầm xuống mặt đất cách ông năm mươi mét. Một vệt khói màu xanh uốn mình bay lên từ bụng máy bay. Không có lửa.
Một người chồng phát điên. Giết tất cả bọn họ. Giết chính mình và vợ mình - và giết ông bằng sự kiện là ông bây giờ không có cách nào để rời khỏi sa mạc.
Chỉ có điều, nàng không chết. Ông kéo thân hình nàng ra, mang nó rời khỏi vòng siết gẫy gập của chiếc máy bay, vòng tay của chồng nàng.
Anh ghét em như thế nào? Nàng thì thầm trong động Người Bơi Lội, nói trong đau đớn vì những vết thương của mình. Một cổ tay gẫy. Mấy xương sườn giập nát. Anh đối với em rất tệ. Đấy là lúc chồng em nghi ngờ anh. Em vẫn ghét anh ở điểm ấy - biến mất vào sa mạc hoặc quán rượu.
Em đã bỏ anh trong công viên Groppi.
Tại vì anh không muốn em là thứ gì khác.
Tại vì em nói chồng em sẽ phát điên. Anh ấy phát điên thật.
Anh ấy mới phát điên gần đây thôi. Em phát điên trước, anh đã giết chết tất cả trong em. Hôn em đi, nhé. Đừng chống chế nữa. Hãy hôn em và gọi tên em.
Thân thể họ đã gặp nhau trong hương thơm, trong mồ hôi, cuống quýt vượt qua lớp màn mỏng ấy bằng lưỡi hoặc răng, như thể họ có thể nắm chặt cá tính ở đấy và tách nó ra khỏi thân xác của nhau trong khi yêu.
Giờ đây không có phấn khô trên tay nàng, không có nước hoa hồng trên đùi nàng.
Anh nghĩ anh là người đả phá, nhưng không phải. Anh chỉ di dịch, hoặc thay thế điều anh không có được. Nếu anh thất bại trong chuyện này, anh lui về chuyện kia. Không điều gì thay đổi được anh. Anh đã có bao nhiêu người đàn bà? Em rời anh vì em biết em không bao giờ có thể thay đổi được anh. Đôi khi anh đứng trong căn phòng, rất bất động, rất thinh lặng, như thể sự phản bội ghê gớm nhất đối với chính anh là để lộ cá tính của anh thêm chút nữa.
Trong động Người Bơi Lội, chúng tôi nói chuyện. Chúng tôi chỉ cách sự an toàn của Kufra hai vĩ độ.
Ông tạm dừng và giơ tay ra. Caravaggio đặt một viên morphine vào lòng bàn tay đen đúa, và nó biến mất vào trong cái miệng tối của người đàn ông.
Tôi băng qua lòng hồ cạn đến ốc đảo Kufra, chỉ mang áo choàng rộng tránh nóng và đỡ lạnh ban đêm, để cuốn sách của Herodotus lại với nàng. Ba năm sau, năm 1942, tôi cùng nàng bước về phía chiếc máy bay chôn trong cát, mang thân thể nàng như mang bộ áo giáp hiệp sĩ.
Trong sa mạc, những dụng cụ sinh tồn nằm dưới mặt đất - hang động người tiền sử, nước ngủ trong thân cây chôn vùi, vũ khí, một chiếc máy bay. Ở kinh độ 25, vĩ độ 23, tôi đào xuống tấm vải dầu, và chiếc máy bay cũ của Madox từ từ hiện ra. Lúc ấy là ban đêm, tôi đổ mồ hôi mặc dù trời lạnh. Tôi mang ngọn đèn dầu mỏ đến bên nàng, ngồi một lúc bên cạnh chiếc bóng cúi đầu của nàng. Hai người tình và sa mạc - ánh sao hoặc ánh trăng, tôi không nhớ. Khắp nơi khác là chiến tranh.
Chiếc máy bay hiện ra từ trong cát. Tôi yếu vì mấy ngày không ăn. Tấm vải dầu nặng quá, tôi không đào nó ra được mà phải cắt nó đi.
Buổi sáng, sau hai giờ ngủ, tôi mang nàng vào buồng lái. Tôi nổ máy và chiếc máy bay lăn bánh sống lại. Chúng tôi chuyển động và bay lên trời, đã chậm mất vài năm.
Giọng nói ngưng. Người đàn ông bị bỏng nhìn thẳng trước mặt trong sự chú tâm do morphine mang đến của mình.
Giờ đây, chiếc máy bay ở trong mắt ông. Tiếng máy chậm chạp nỗ lực mang nó lên trên mặt đất, động cơ quay không đều như thể mất một bộ phận, tấm khăn liệm của nàng mở tung ra trong không gian ồn ào của buồng lái, tiếng ồn đáng sợ sau những ngày ông đi bộ trong thinh lặng. Ông nhìn xuống và thấy dầu đổ lên đầu gối mình. Một cành cây bung ra khỏi áo sơ mi của nàng. Cây keo và xương. Ông ở cao trên mặt đất bao nhiêu? Ông bay thấp dưới bầu trời bao nhiêu?
Bụng máy bay phớt qua ngọn một cây cọ, và ông bay lên, lớp dầu lan trên ghế, thân hình nàng trượt vào trong dầu. Một chỗ chạm điện tóe lửa, những cành cây nhỏ ở đầu gối nàng bắt cháy. Ông kéo nàng vào lại chỗ ngồi bên cạnh ông. Ông đẩy tay lên lớp kính che buồng lái, nó không xê dịch. Ông bắt đầu đấm vào lớp kính, làm nó rạn ra, cuối cùng đập vỡ nó, trong khi dầu và lửa sóng sánh uốn lượn khắp nơi. Ông bay thấp dưới bầu trời bao nhiêu? Nàng gục xuống - những cành keo nhỏ, những chiếc lá, những nhánh cây có hình cánh tay duỗi ra chung quanh ông. Chân tay bắt đầu biến mất trong sức hút của không khí. Mùi morphine trên lưỡi ông. Hình ảnh Caravaggio phản chiếu trong hồ mắt ông đen thẫm. Giờ đây ông lên xuống như cái gàu múc nước giếng. Không hiểu vì sao mặt ông đẫm máu. Ông đang lái một chiếc máy bay rã mục, lớp vải bạt trên cánh rách toang vì tốc độ máy bay. Chúng là xác chết đã rữa. Cây cọ ở đằng sau bao xa? Bao nhiêu lâu rồi? Ông nhấc chân mình ra khỏi dầu, nhưng chúng nặng quá. Ông không cách nào nhấc chúng lên được nữa. Bỗng dưng ông cảm thấy già. Chán phải sống không có nàng. Ông không thể nằm dựa trong tay nàng và tin rằng nàng sẽ canh chừng suốt ngày đêm trong lúc ông ngủ. Ông chẳng có ai. Ông mệt nhoài không phải vì sa mạc mà vì cô đơn. Madox đã đi rồi. Người đàn bà đã biến thành lá và cành con, lớp kính vỡ trên đầu ông như hàm răng hướng lên trời.
Ông lách mình vào trong dây nịt của cái dù thẫm dầu và nhảy lộn người xuống, thoát khỏi lớp kính, gió tạt thân hình ông về hướng ngược lại. Rồi hai chân ông thoát khỏi mọi thứ và ông ở trong không trung, sáng rực, không biết tại sao ông sáng rực cho đến khi ông nhận ra ông đang bốc cháy.
Hana có thể nghe thấy những giọng nói trong phòng bệnh nhân người Anh, và nàng đứng trong hành lang, cố nghe xem họ đang nói gì.
Thế nào? Tuyệt vời!
Bây giờ đến lượt tôi. À! Tuyệt, tuyệt.
Đây là sáng chế vĩ đại nhất.
Một khám phá đáng kể, anh bạn trẻ ạ.
Khi nàng vào phòng, nàng thấy Kip và bệnh nhân người Anh đang chuyền nhau một hộp sữa đặc. Bệnh nhân người Anh mút lon sữa, rồi giơ hộp sữa ra xa mặt ông để nhai dung dịch đặc quánh. Ông rạng rỡ nhìn Kip, anh dường như bực bội vì không được cầm hộp sữa. Anh công binh liếc nhìn Hana, lẩn quẩn bên giường, búng tay vài lần, cuối cùng xoay xở lấy lại được lon sữa từ khuôn mặt sẫm màu.
“Cậu bé và tôi, chúng tôi khám phá ra một lạc thú chung. Với tôi là trong những cuộc hành trình ở Ai Cập. Với cậu ấy là ở Ấn.”
“Ông đã bao giờ ăn bánh mì kẹp với sữa đặc chưa?”, anh công binh hỏi.
Hana hết nhìn người bệnh lại nhìn anh công binh.
Kip nhìn vào lon sữa. “Tôi đi lấy lon nữa”, anh nói, rồi ra khỏi phòng.
Hana nhìn người đàn ông trên giường.
“Kip và tôi cùng là những đứa con hoang quốc tế - sinh ra ở một nơi và chọn sống ở một nơi khác. Cả đời tranh đấu để trở về hoặc rời khỏi quê hương. Mặc dù Kip chưa nhận ra điều ấy. Vì vậy chúng tôi mới hợp nhau đến thế.”
Trong bếp, Kip dùng lưỡi lê của anh đâm thủng hai lỗ trên lon sữa đặc mới, nhận ra rằng lưỡi lê của anh càng ngày càng chỉ được dùng cho mỗi mục đích này, rồi chạy lên lầu để trở lại phòng bệnh nhân người Anh.
“Chắc hẳn ông lớn lên ở nơi khác”, anh công binh nói. “Người Anh không mút như thế.”
“Tôi sống trong sa mạc vài năm. Tôi học được tất cả những điều tôi biết ở đấy. Tất cả mọi chuyện quan trọng xảy ra với tôi đều xảy ra trong sa mạc.”
Ông mỉm cười với Hana.
“Một người cho tôi morphine. Một người cho tôi sữa đặc. Chúng ta có thể đã khám phá ra một chế độ ăn uống cân bằng!” Ông quay lại phía Kip.
“Cậu làm lính công binh bao lâu rồi?”
“Năm năm. Phần lớn ở London. Rồi ở Ý. Với những đội bom-chưa-nổ.”
“Ai là thầy của cậu?”
“Một người Anh ở Woolwich. Người ta cho là ông ấy lập dị.”
“Đấy là mẫu thầy giáo tuyệt nhất. Chắc phải là Huân tước Suffolk. Anh có gặp Miss Morden[79] không?”
“Có.”
Hai người không hề tìm cách làm Hana thấy dễ chịu trong cuộc đối thoại của họ. Nhưng nàng muốn biết về thầy của anh, và anh miêu tả ông như thế nào.
“Ông ấy như thế nào, Kip?”
“Ông ấy làm việc ở Viện Nghiên cứu Khoa học. Ông ấy là trưởng một đội thử nghiệm. Miss Morden là thư ký của ông, lúc nào cũng ở bên ông, và tài xế của ông, Mr. Fred Harts[80]. Miss Morden sẽ ghi chép lời ông nói trong lúc ông làm việc với bom, còn Mr. Harts phụ lo phần dụng cụ. Ông ấy là một người lỗi lạc. Bộ ba được gọi là Chúa Ba Ngôi[81]. Tất cả ba người bị nổ tung vào năm 1941. Ở Erith.”
Nàng nhìn anh công binh dựa vào tường, một chân nhấc lên, vì thế đế giày của anh áp vào một bụi cây vẽ. Không có vẻ u buồn, không có gì để diễn dịch.
Vài người đàn ông đã gỡ nút thắt cuối cùng của cuộc sống trong vòng tay nàng. Ở thị trấn Anghiari, nàng đã nâng những người còn sống lên chỉ để khám phá ra rằng họ đã bị trùng ăn ruỗng. Ở Ortona, nàng đã đặt điếu thuốc lá lên môi của cậu nhỏ không còn tay. Không có điều gì ngăn được nàng. Nàng đã tiếp tục bổn phận của mình trong lúc nàng âm thầm kéo con người riêng tư của nàng lùi lại. Quá nhiều y tá đã biến thành những cô hầu gái tâm tư xáo trộn của chiến tranh, trong bộ đồng phục màu vàng và đỏ với những cái nút bằng xương.
Nàng ngắm Kip dựa đầu vào tường và biết cái nhìn thản nhiên trên mặt anh. Nàng có thể đọc cái nhìn ấy.