Bất hạnh là liều thuốc thử phẩm chất của con người.

Seneca

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đỗ Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 186 / 18
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
V - Người Thế Chỗ
gười đó hoàn toàn không phải là Wilbur?” Elliot lặp lại.
Anh biết rõ điều mà cô gái muốn diễn đạt. Nhân vật lạ lùng trong chiếc mũ chóp cao kiểu cổ đang bắt đầu chuyển động và khuấy đảo trí tưởng tượng của anh.
“Anh thấy đấy, tôi vẫn chưa kể xong,” Marjorie nói với anh, bằng giọng lặng lẽ nhưng đầy đau khổ. “Tôi vẫn chưa kể cho anh về chuyện đã xảy ra với bác Marcus.
“Chuyện đó xảy ra ngay sau khi chúng tôi tìm thấy Wilbur đang nằm trên cỏ. Tôi không biết các triệu chứng mất bao lâu mới thể hiện ra ngoài. Nhưng khi họ đang nâng Wilbur lên, tôi có nhìn quanh, và tôi thấy có chuyện gì đó không ổn đang xảy ra cho bác Marcus.
“Thành thật mà nói, tôi đã cảm thấy rùng mình. Tôi biết điều này dường như chỉ là trực giác và ý tưởng của riêng tôi, nhưng tôi không cưỡng lại được. Ngay giây phút đó tôi đã biết nó là gì rồi. Bác ấy đang nghiêng người dựa vào một cái cây, nửa người gập lại vì đau đớn, và đang cố gắng lấy lại hơi thở. Ánh đèn rọi ra từ căn nhà đang chiếu qua đám lá sau lưng bác ấy. Tôi không thể nhìn rõ lắm, nhưng ánh đèn có hắt lên một bên mặt của bác ấy, và làn da trông xù xì và có màu than chì. Tôi nói, ‘Bác Marcus, có chuyện gì vậy? Có gì không ổn sao?’ Và có thể tôi đã thét lên chứ không phải nói. Bác ấy chỉ lắc đầu dữ dội, và làm một cử chỉ như thể đang cố đẩy tôi ra xa. Sau đó bác bắt đầu giậm một chân trên mặt đất. Anh có thể nghe cả tiếng rên rỉ và than van trong hơi thở của bác ấy. Tôi lao về phía bác, và giáo sư Ingram cũng thế. Nhưng bác ấy gạt tay của giáo sư Ingram ra, và… ”
Cô gái không thể nói tiếp. Cô vỗ hai bàn tay mình lên mặt, che khuất đôi mắt, và vỗ mạnh lần nữa.
Thiếu tá Crow bước lên từ chỗ cây đàn piano.
“Vững vàng lên,” ông cộc cằn nói.
Sĩ quan Bostwick không nói lời nào. Ông chỉ khoanh tay lại và nhìn vào cô gái với vẻ tò mò.
“Rồi bác ấy bắt đầu chạy,” Marjorie nói với vẻ khủng hoảng. “Đó là điều mà tôi sẽ luôn luôn nhớ đến: bác ấy bắt đầu chạy. Lảo đảo qua lại, tiến lên rồi thụt lùi, mỗi hướng bác ấy chỉ đi được vài bước bởi vì không thể chịu được cơn đau. George và giáo sư đã cố túm lấy và giữ bác ấy lại, nhưng bác thoát đi và chạy qua cửa sổ vào phòng làm việc của mình. Bác ấy sụp xuống ngay bên cạnh chiếc bàn. Chúng tôi nâng bác ngồi vào ghế, nhưng bác ấy chẳng nói được lời nào nữa. Tôi đi gọi điện thoại cho bác Joe… Tôi biết phải tìm ông ấy ở đâu: bà Emsworth đang chuẩn bị sinh con. Bác Joe về đến trong khi tôi đang gọi điện, nhưng đã quá trễ. Lúc đó anh có thể ngửi thấy mùi hạnh nhân đắng tỏa khắp phòng. Tôi vẫn nghĩ còn hi vọng cứu bác ấy. Nhưng George nói, ‘Đứng lên thôi, bác ấy đi rồi.’ Tôi biết ý của anh ấy là gì. Và đúng là như vậy thật.”
“Thật không may,” thiếu tá Crow gầm gừ. Câu nói này không hợp lí lắm, nhưng nó rất chân thành.
Sĩ quan Bostwick vẫn không nói gì cả.
“Cô Wills,” Elliot nói, “tôi không muốn gây cho cô quá nhiều áp lực lúc này…”
“Tôi ổn mà. Tôi thực sự rất ổn.”
“Nhưng cô nghĩ bác mình bị đầu độc bởi viên nhộng xanh đó đúng không?”
“Dĩ nhiên. Bác ấy không thể nói được bất cứ điều gì, bởi vì chất độc đã tác động lên hệ thần kinh hô hấp của bác, nhưng bác đã cố gắng chỉ vào cổ họng mình.”
“Lúc đó ông ấy không nuốt thứ gì khác nữa chứ?”
“Không.”
“Cô có thể miêu tả viên thuốc con nhộng này cho tôi được không?”
“Thì, như tôi đã nói, nó trông như những viên nhộng dầu thầu dầu mà chúng ta từng sử dụng khi còn nhỏ. Chúng có kích cỡ khoảng một trái nho, và được làm từ gelatin dày. Bạn nghĩ chúng chẳng thể trôi xuống cổ họng được, nhưng chúng có thể, một cách dễ dàng. Nhiều người dân quanh đây vẫn sử dụng những viên nhộng đó.” Cô gái kìm bản thân lại, rất nhanh liếc nhìn anh, và khuôn mặt hơi đỏ lên một chút.
Elliot lờ hành động này đi.
“Vậy đây là quan điểm của cô: Cô nghĩ rằng ngay trước màn trình diễn có ai đó đã tấn công anh Emmet?”
“Đúng vậy.”
“Nghĩa là có ai đó đã ngụy trang bản thân bằng những trang phục kì lạ mà thậm chí ngay cả ông Marcus Chesney cũng không nhận ra. Sau đó người này đóng vai của anh Emmet trong suốt buổi trình diễn. Nhưng thay vì một viên nhộng vô hại, loại mà ông Chesney định nuốt vào như một phần của buổi trình diễn, người này đã thay thế bằng một viên nhộng độc?”
“Ồ, tôi không biết! Nhưng đúng, tôi nghĩ thế.”
“Cảm ơn, cô Wills. Lúc này tôi sẽ không làm phiền cô nữa.” Elliot đứng lên. “Cô có biết giáo sư Ingram và anh Harding đang ở đâu không?”
“Trên lầu với Wilbur. Họ đang ở trên đó.”
“Cô giúp tôi hỏi xem liệu họ có thể xuống đây được không nhé? Ồ, và thêm một điều này nữa!”
Cô gái đã đứng lên, mặc dù có vẻ bồn chồn, và dường như không vội rời đi cho lắm. Cô nhìn anh một cách dò hỏi.
“Sớm thôi, tôi sẽ yêu cầu cô làm một bản tường trình rất chi tiết về tất cả mọi thứ cô đã nhìn thấy trong suốt buổi trình diễn ” Elliot tiếp tục nói. “Nhưng có vài điều chúng ta có thể giải quyết ngay bây giờ. Cô đã mô tả một phần trang phục của người kia, áo mưa, và những thứ tương tự. Nhưng còn quần và giày của anh ta thì sao?”
Biểu hiện của cô gái trở nên tập trung hơn. “Quần và giày…?”
“Đúng vậy. Cô đã nói lúc nãy,” Elliot nói, cảm thấy sự ngượng ngùng đang gào thét trong hai tai, “rằng cô luôn luôn chú ý đến những đôi giày. Vậy còn giày và quần của người này trông thế nào?”
“Cái đèn đó,” Marjorie trả lời, sau khi tạm dừng lại một chút, “được đặt trên bàn làm việc để chiếu ánh sáng thẳng, vậy nên những thứ nằm gần sàn nhà thì khá tối. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể nói với anh được. Vâng, tôi khá chắc chắn về điều này.” Ánh mắt lóe lên vì giật mình của cô trở nên kiên định hơn. “Anh ta mặc một chiếc quần tây bình thường, màu đen, với một sọc màu tối hơn kéo dài từ lưng quần xuống phía dưới. Và đi một đôi giày dự tiệc bằng da thật đã qua xử lí.”
“Có phải tất cả đàn ông có mặt tối nay đều mặc vét không, cô Wills?”
“Đúng vậy. Tất cả, ngoại trừ bác Joe. Bác ấy cũng được yêu cầu mặc vét, nhưng bác ấy nói nếu một bác sĩ mặc đồ dự tiệc đi thăm bệnh thì sẽ đem lại hiệu quả tâm lí không tốt. Bác ấy nói rằng nó khiến bệnh nhân nghĩ bác sĩ đó không tập trung vào công việc. Nhưng anh không nghĩ rằng…”
Elliot mỉm cười, mặc dù anh cảm thấy nụ cười của mình đang biến thành một chiếc mặt nạ giả dối.
“Có bao nhiêu người quanh đây thường mặc trang trọng như vậy khi ăn tối?”
“Theo tôi biết thì không có ai cả,” Marjorie nói. Rõ ràng cô đang càng ngày càng kích động. “Thường thì chúng tôi cũng không ăn mặc như vậy. Nhưng tối nay bác Marcus yêu cầu chúng tôi làm điều đó, vì vài lí do.”
“Lần đầu tiên ông ấy yêu cầu như thế à?”
“Chà đại khái là lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi có nhiều khách đến thăm. Nhưng giáo sư Ingram khó mà tính là khách được, và George cũng thế.”
“Cảm ơn, cô Wills. Ông thiếu tá Crow và sĩ quan Bostwick có câu hỏi nào không?”
Cả hai người lắc đầu, mặc dù Bostwick trông có vẻ hung hiểm. Marjorie vẫn nhìn Elliot với vẻ tra xét thêm một lúc nữa, sau đó cô bước ra khỏi phòng và đóng cửa lại một cách nhẹ nhàng đáng kinh ngạc, nhưng anh nghĩ mình đã nhìn thấy cô run bắn lên. Cả căn phòng sáng sủa lại chìm vào im lặng.
“Hừm,” thiếu tá Crow nói.
“Cậu biết đấy,” ông nói thêm, trong khi chăm chú nhìn Elliot bằng đôi mắt sắc lẹm, “tôi không thích lời khai của cô gái đó.”
“Tôi cũng không,” Bostwick nói, và thận trọng buông đôi tay đang khoanh lại của mình xuống.
“Nhìn bề ngoài thì vụ án này khá rõ ràng,” thiếu tá Crow lầm bầm nói với vẻ khinh thường. “Ai đó đã nghe lỏm được và nhìn thấy Chesney và Wilbur Emmet đang chuẩn bị cho màn trình diễn, và biết được về chương trình sẽ diễn ra. Hắn ta hạ gục Emmet, thế vai của cậu ta, và thay viên thuốc vô hại bằng viên thuốc có độc. Chất gelatin mất một tới hai phút để tan hoàn toàn. Vậy nên Chesney sẽ không phát hiện được vấn đề khi nuốt viên nhộng. Ông ấy đã không hề la lớn ngay lập tức rằng mình bị đầu độc, hoặc cố gắng dừng vụ giết người lại. Kẻ sát nhân có thể chậm rãi biến mất, để lại các đồ ngụy trang ở bên ngoài. Khi gelatin tan ra, chất độc sẽ gây tử vong trong vòng vài phút. Mọi chuyện rất rõ ràng. Đúng vậy. Bề ngoài là như thế. Nhưng…”
“A!” Bostwick làu bàu thốt ra, khi cảnh sát trưởng vừa nói xong từ cuối cùng. “Tại sao hắn lại đánh ngất cậu Emmet? Hả, thưa ngài?”
Elliot đột nhiên ý thức được rằng con người lực lưỡng trong góc phòng kia sắc sảo hơn anh mong đợi rất nhiều. Dĩ nhiên Bostwick là một cảnh sát kỳ cựu, nhưng anh không ngờ được rằng ông ấy lại sắc sảo như thế. Người sĩ quan lắc người tới lui, đặt lưng cách tường một khoảng, và giờ thì ông nhìn Elliot với một biểu cảm rõ ràng và đầy nghi ngờ như thể vừa bật một chiếc đèn pha lên.
“Chính xác, thanh tra,” thiếu tá Crow đồng tình. “Như Bostwick nói, tại sao lại phải tấn công anh Emmet? Tại sao không để Emmet tự đưa cho Chesney viên nhộng độc đã đánh tráo theo kế hoạch ban đầu của màn trình diễn? Nếu kẻ giết người đã biết họ định làm gì rồi, tất cả những gì hắn cần làm chỉ là đánh tráo những viên nhộng. Tại sao phải mạo hiểm tấn công Emmet, mặc quần áo ngụy trang vào và đối mặt với nguy cơ bị phát hiện, rồi bước vào đây trước mắt tất cả mọi người – tại sao lại đặt bản thân mình vào những rủi ro kinh khủng đó trong khi tất cả những gì hắn ta cần làm chỉ là thay thế viên nhộng, và để người khác làm hết phần việc dơ bẩn còn lại?”
“Tôi nghĩ,” Elliot thận trọng lên tiếng, “đó chính là điểm mấu chốt của vụ án.”
“Điểm mấu chốt của vụ án?”
“Đúng vậy, thưa ngài. Trong kế hoạch trình diễn, ông Chesney không hề có ý định nuốt bất kì viên thuốc con nhộng nào cả.
“Hừm,” thiếu tá Crow nói sau một khoảng ngừng ngắn.
“Ông ấy chỉ định giả vờ nuốt nó. Các ngài biết đấy, toàn bộ màn trình diễn này gài một chuỗi các loại bẫy quan sát. Các ngài có thể đã biết về những cái bẫy tương tự trong khóa tâm lí ở trường đại học.”
“Không phải tôi,” thiếu tá Crow nói.
“Tôi cũng không,” sĩ quan Bostwick lẩm bẩm.
Tất cả sự ngang ngược trong người Elliot đột ngột trào lên dữ dội, không chỉ vì chuyện hai người họ không biết về thủ thuật tâm lí đó, mà còn bởi không khí lởn vởn mùi thù địch vừa xuất hiện trong căn phòng. Anh tự hỏi không biết nếu nói ra thì có nghe như thể mình là một kẻ huênh hoang không. Sau đó anh quyết định, với đầu tai đau nhói, rằng anh chẳng cần quan tâm đến chuyện đó làm gì.
“Trong giờ học tâm lí, giảng viên lấy một cái chai chứa một ít chất lỏng, thò lưỡi vào, làm ra vẻ mặt nhăn nhó, và nhận xét về vị đắng của chất lỏng chứa trong đó. Sau đó ông ta chuyển cái chai cho bạn. Thứ chất lỏng chứa trong chai là nước lọc có màu. Nhưng, nếu bạn không cẩn thận, bạn sẽ thề rằng thứ nước đó có vị đắng vì điều đó đã hằn sâu trong tâm trí bạn. Trường hợp thứ hai là nước đó thực sự đắng, và người giảng viên chỉ giả bộ nếm thử nó – và bảo bạn như thể ông ta đã thực sự nếm nó. Nếu bạn không chú ý thật kĩ những hành động của người giảng viên, bạn sẽ thật sự nốc thứ nước đó vào.
“Rất có thể, đó chính là điều đã xảy ra ở đây. Ông Chesney đã cảnh báo họ coi chừng những cái bẫy. Hai người nhớ chứ, cô Wills nói rằng ông ấy trông rất ngạc nhiên và bực dọc khi viên nhộng bị nhét vào miệng mình. Có khả năng hướng dẫn ông ta đưa ra cho Emmet chỉ là giả bộ đưa viên thuốc, và ông ấy sẽ giả vờ nuốt xuống. Nhưng tên sát nhân đã thực sự đẩy nó xuống họng ông, chỉ thế thôi. Để tránh phá hủy buổi diễn, ông Chesney đã không thực hiện bất kì hành động phản kháng nào.” Elliot lắc đầu. “Và tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu trong danh sách những câu hỏi ông ấy đã chuẩn bị sẵn, chúng ta không tìm được vài câu hỏi như: ‘Tôi tốn bao nhiêu thời gian để nuốt viên nhộng?’ hoặc câu gì đó tương tự.”
Thiếu tá Crow có vẻ bị ấn tượng.
“Trời ạ, thế là đủ hợp lí rồi!” ông thừa nhận, với một chút nhẹ nhõm. Rồi thì sự giận dữ và hoang mang cuốn phăng mọi biểu cảm khác. “Nhưng nghe này, thanh tra, dù mọi chuyện có xảy ra như vậy… Trời đất, vậy thì chúng ta đang phải đối phó với một kẻ điên hay sao?”
“Có vẻ đúng là vậy, thưa ngài.”
“Vậy thì hãy đối mặt thôi,” thiếu tá Crow nói. “Một kẻ điên, hoặc bất cứ cái tên nào mà chúng ta muốn gọi, từ chính căn nhà này.”
“A,” Bostwick lẩm bẩm. “Lại nữa!”
Cảnh sát trưởng hòa nhã nói. “Trước hết, làm sao người ngoài có thể biết mọi người trong căn nhà này đang định sắp xếp một cuộc quan sát thử nghiệm ở đây, ngay tối nay? Ngay cả chính thành viên trong đây cũng không hề biết về nó cho tới bữa tối, và chắc gì một người ngoài lại có thể thoải mái quanh quẩn bên những cái cửa sổ đó mà nghe lỏm những điều Chesney và Emmet đang sắp xếp. Hơn nữa, người ngoài này lại mặc quần tây và giày đi tiệc, lảng vảng quanh đây trong một đêm đặc biệt khi tất cả bọn họ đều mặc đồ trang trọng. Tôi thừa nhận những ý tưởng trên không phải là kết luận cuối cùng, chúng chỉ là suy đoán thôi. Nhưng, mọi người thấy được điểm bất hợp lí rồi chứ?”
“Đúng vậy,” Elliot đáp lại một cách dứt khoát.
“Nếu hung thủ là ai đó trong căn nhà này, vậy có thể là ai được? Joe Chesney không nằm trong số nghi phạm. Nếu ông ấy rời khỏi hiện trường và chỉ trở về lúc nửa đêm, chắc chắn ông ấy bị loại khỏi vụ này. Wilbur Emmet thì gần như bị giết bởi kẻ sát nhân. Không còn ai khác ngoại trừ hai người giúp việc và một đầu bếp, những người hầu như không có khả năng. Sự lựa chọn duy nhất khác của chúng ta – đúng vậy, tôi biết điều này nghe khá kì cục – nhưng chỉ có duy nhất một khả năng khác nữa. Kẻ sát nhân có thể là một trong ba người có nhiệm vụ quan sát màn trình diễn trong căn phòng này. Đồng nghĩa với việc người này phải lẻn đi trong bóng tối, tấn công Emmet đáng thương, mặc quần áo ngụy trang vào, ép Chesney uống viên thuốc có độc, và lẻn trở lại trước khi đèn sáng.”
“Không, thưa ngài, nghe không khả thi,” Elliot khô khan tán thành.
“Nhưng chúng ta còn gì khác nữa chứ?”
Elliot không đáp lời.
Anh biết rằng bây giờ họ không được đưa ra bất kì giả thiết nào cả. Cho đến khi người ta tiến hành xét nghiệm tử thi, họ thậm chí còn không thể khẳng định được phương thức tử vong của Marcus Chesney, ngoại trừ khả năng ông ấy bị đầu độc bởi một trong các loại xyanua trong nhóm axit xyanhydric. Nhưng giả thiết cuối cùng của ngài cảnh sát trưởng đã kịp ghim vào đầu anh.
Anh nhìn quanh Phòng Nhạc. Nó rộng khoảng mười lăm feet vuông, được ốp ván màu xám với lớp mạ vàng nổi bật. Những chiếc cửa sổ kiểu Pháp đóng kín cùng những tấm màn nhung nặng nề màu xám tối. Về nội thất, căn phòng chỉ có một cây đàn piano biểu diễn, một chiếc máy quay đĩa có radio, một chiếc tủ Boule đứng cạnh cánh cửa dẫn ra sảnh lớn, bốn chiếc ghế bành bọc nệm bằng gấm, và hai chiếc ghế kê chân. Do đó phần trung tâm căn phòng khá thoáng. Và một người – nếu cẩn thận tránh cây piano biểu diễn cạnh cửa sổ ra – thì hoàn toàn có thể băng qua căn phòng trong bóng tối mà không va phải bất kì thứ gì. Tấm thảm trải sàn, như họ đã nhìn thấy trước đó, quá dày nên có thể dễ dàng ngăn tiếng bước chân người.
“Đúng vậy,” cảnh sát trưởng nói. “Cứ thử coi nào.”
Công tắc điện ở ngay đằng sau chiếc tủ Boule đứng cạnh cửa dẫn ra sảnh. Elliot nhấn nút, và bóng tối ập xuống nhanh như chớp. Những chiếc đèn sáng đến nỗi hình ảnh lờ mờ của mấy ngọn nến điện gắn trên chùm đèn vẫn lồng vào nhau và co lại trước mắt Elliot trong bóng tối. Mặc dù màn cửa đang để mở, anh vẫn không thể phân biệt được bất cứ thứ gì bởi vì bầu trời bên ngoài rất u ám. Có một âm thanh lạch cạch nhẹ nhàng do các chốt kéo màn va vào nhau khi ai đó đang đóng những tấm màn lại.
“Tôi đang vẫy tay,” giọng của cảnh sát trưởng vang lên trong bóng tối. “Hai người có thấy tôi không?”
“Hoàn toàn không,” Elliot nói. “Ở nguyên chỗ đó nhé, tôi sẽ đi mở cánh cửa đôi.”
Anh dò dẫm tìm đường trong bóng tối, tránh một chiếc ghế, và tìm thấy những cánh cửa. Chúng rất dễ mở và hầu như chẳng hề gây ra tiếng động nào. Sau khi di chuyển lên trước thêm khoảng tám hay chín feet, anh đã tìm thấy cái bàn và ngọn đèn bằng đồng. Anh bật công tắc, và ánh sáng trắng chói chang chết chóc hắt vụt lên trên bức tường đối diện. Sau đó Elliot lùi trở lại Phòng Nhạc để nghiên cứu.
“Hừm,” thiếu tá Crow nói.
Thứ duy nhất có vẻ sống động trong cái “phòng làm việc” đó là chiếc đồng hồ. Họ thấy nó hoạt động một cách tàn nhẫn và bận bịu, trên bệ lò sưởi bằng gỗ bóng tối màu đằng sau người đàn ông đã chết. Nó là một chiếc đồng hồ lớn bằng đồng giả vàng, mặt đồng hồ đường kính khoảng sáu inch, và có một quả lắc nhỏ bằng đồng đung đưa yếu ớt. Bên dưới nó, người đàn ông đã chết đang yên lặng ngồi. Thời gian trên chiếc đồng hồ chỉ một giờ kém năm.
Chiếc bàn làm bằng gỗ gụ, với một miếng thấm mực màu nâu. Và cái đèn bằng đồng đứng ngay phía trước, hơi chếch sang bên phải (từ góc nhìn của họ). Họ cũng đã thấy chiếc hộp sô cô la với lớp trang trí đầy hoa màu xanh dương. Bằng cách kiễng chân lên, Elliot có thể thấy cây bút chì đang nằm trên miếng thấm mực, nhưng không có dấu vết nào của cây bút mà Marjorie Wills đã tả cả.
Trên bức tường phía tay trái, họ có thể lờ mờ nhận ra hình dáng của một trong những khung cửa sổ kiểu Pháp. Phía bên tay phải họ, một chiếc bàn nắp cuộn đang đứng dựa vào tường, các ngăn bàn được đóng kín mít, với một cái đèn có chụp đèn màu xanh lá, và một tủ hồ sơ rất dài bằng thép sơn giả gỗ đặt phía trên. Đó là tất cả mọi thứ trong căn phòng, trừ một cái ghế và một chồng tạp chí hay là catalog đang tràn ra trên sàn nhà. Họ thấy nó được đặt ngay trước sân khấu, bên cạnh những cánh cửa. Khi quan sát vị trí của những chiếc ghế trong Phòng Nhạc, những nhân chứng hẳn phải ngồi cách Marcus Chesney khoảng mười lăm feet.
“Tôi không thấy được gì nhiều ở phía đó,” thiếu tá Crow quan sát một cách nghi ngờ. “Cậu có thấy gì không?”
Đôi mắt của Elliot bắt gặp mảnh giấy gấp mà anh đã thấy lúc nãy, mắc kẹt sau chiếc khăn tay trong túi áo vét của người đàn ông đã chết.
“Tôi có thấy, thưa ngài,” anh chỉ ra. “Theo như lời khai của cô Wills, đó hẳn là danh sách những câu hỏi mà ông Chesney đã chuẩn bị.”
“Đúng vậy, nhưng tờ giấy đó thì có vấn đề gì sao?” cảnh sát trưởng gần như hét lên. “Giả sử như ông ta đã chuẩn bị một danh sách những câu hỏi. Việc đó tạo nên được sự khác biệt gì cho chúng ta?”
“Chỉ có một điều, thưa ngài,” Elliot nói, cảm thấy cả mình cũng muốn hét lên. “Ngài không thấy rằng toàn bộ màn trình diễn này được thiết kế như một chuỗi bẫy quan sát cho các nhân chứng hay sao? Có thể một nửa những điều họ đã thấy đều có chứa mẹo lừa nào đó. Và kẻ sát nhân đã tận dụng điều này. Những cái bẫy quan sát đã giúp hắn ta, đã bảo vệ hắn ta, và có lẽ vẫn đang là vỏ bọc của hắn. Nếu chúng ta có thể tìm ra chính xác những thứ họ đã chứng kiến, hoặc họ nghĩ mình đã chứng kiến, chúng ta có thể có manh mối về kẻ giết người. Ngay cả một gã mất trí cũng sẽ không phạm tội một cách bừa bãi, bất ngờ, cởi mở như thế này nếu không có điều gì đó trong kế hoạch của ông Chesney có khả năng bảo vệ hắn, điều gì đó khiến cảnh sát mắc phải một sai lầm chết người, điều gì đó cung cấp cho hắn một bằng chứng ngoại phạm, điều mà có Chúa mới biết! Không phải quá rõ ràng sao?”
Thiếu tá Crow nhìn thẳng vào anh.
“Cậu sẽ tha thứ cho tôi thôi, thanh tra,” ông bất ngờ lên tiếng với vẻ lịch sự, “nếu tôi vẫn nghĩ rằng trong suốt buổi tối nay cách cư xử của cậu có gì đó rất kì lạ. Tôi cũng tò mò sao cậu lại biết được họ của vị hôn phu của cô Wills. Tôi chưa hề đề cập đến nó.”
(Ôi, chết tiệt!)
“Xin lỗi ngài.”
“Không sao,” người kia đáp lại, với sự trang trọng tương tự. “Ít nhất chuyện đó cũng không phải vấn đề quan trọng. Ngoài ra, về chuyện danh sách các câu hỏi, tôi khá đồng ý với cậu. Hãy xem coi chúng ta có tìm được gì từ nó không. Cậu nói đúng: nếu có bất kì câu hỏi bẫy nào, hoặc bất kì câu hỏi nào về những cái bẫy, chúng sẽ phải ở ngay đây.”
Ông rút mảnh giấy ra khỏi túi áo người đàn ông đã chết, mở nó ra, và trải trên miếng thấm mực. Đây là những gì họ đọc được, những chữ viết tay nằm gọn gàng trong tờ giấy.
Hãy trả lời chính xác những câu hỏi sau:
Có cái hộp nào trên bàn không? Nếu có, hãy miêu tả nó.
Tôi đã cầm từ bàn lên những đồ vật nào? Theo thứ tự ra sao?
Lúc đó là mấy giờ?
Chiều cao của người vào phòng bằng chiếc cửa sổ kiểu Pháp là bao nhiêu?
Miêu tả trang phục của người này.
Anh ta mang theo thứ gì trong tay phải? Miêu tả vật thể này.
Miêu tả hành động của anh ta. Anh ta có di chuyển bất cứ vật nào đang nằm trên bàn không?
Anh ta đã đưa tôi nuốt thứ gi? Tôi mất bao lâu để nuốt thứ đó?
Anh ta đã ở trong phòng bao lâu?
Ai hay những ai đã lên tiếng? Họ đã nói gì?
Lưu ý – Phải trả lời đúng nghĩa đen cho mỗi câu hỏi ở trên, nếu không câu trả lời sẽ không được tính.
“Trông nó có vẻ đủ rõ ràng đây,” thiếu tá Crow lẩm bẩm, “nhưng có những cái bẫy trong này. Nhìn phần lưu ý đi. Và chắc chắn cậu đã đúng về việc giả vờ nuốt viên nhộng, thanh tra. Câu số tám. Tuy nhiên…”
Ông gấp tờ giấy lại và đưa nó cho Elliot, anh cẩn thận đặt nó vào cuốn sổ ghi chép của mình. Sau đó thiếu tá Crow bước lùi về phía cánh cửa đôi, mắt ông ghim chặt vào chiếc đồng hồ.
“Tuy nhiên, như tôi đang nói…”
Một luồng sáng tràn ngang vào Phòng Nhạc khi cánh cửa dẫn đến sảnh bật mở. Bóng của một người đàn ông đang đóng khung ở đó, và họ thấy có tia sáng lóe lên trên chiếc đầu hói của ông.
“Chào!” Một giọng nói sắc nét và có tông hơi cao lên tiếng. “Ai trong đó vậy? Mọi người đang làm gì thế?”
“Cảnh sát,” thiếu tá Crow nói. “Không sao đâu. Vào đi, Ingram. Anh bật đèn giúp tôi nhé.”
Sau một lúc loay hoay bên cạnh cửa vì xác định sai hướng, vị khách mới đến dò dẫm sau cái tủ Boule và bật công tắc. Và Elliot nhận ra rằng ấn tượng ngắn ngủi đầu tiên của mình về giáo sư Ingram, trong kí ức kẹt ở khoảng sân tại Pompeii, sẽ phải được sửa sang lại đôi chút.
Khuôn mặt tròn, sáng sủa, dễ mến của giáo sư Ingram, cùng với vẻ ngoài bệ vệ và những cử động sung sức tạo ấn tượng cho mọi người rằng ông là một người lùn và to béo. Đôi mắt xanh có vẻ thành thật luôn rạng rỡ, cái mũi nhỏ nhắn dễ nhìn, và hai chùm tóc đen rối rắm trên tai ở hai bên cái đầu hói càng củng cố ấn tượng này hơn nữa. Ông có xu hướng hạ thấp đầu mình xuống và nhìn lên với vẻ trêu chọc rất hợp với cách ông đối mặt với cuộc sống. Nhưng hiện tại, tất cả những ấn tượng này đều dịu đi – dịu đi, và thêm chút sợ hãi. Khuôn mặt ông không đều màu, phía trước áo sơ mi có một nếp nhăn sâu và lồi ra khỏi áo ghi lê như bột mì nở bung trong lò nướng. Và ông cọ các ngón tay của bàn tay phải lại cùng nhau như thể đang cố gắng phủi bột phấn khỏi chúng. Thật ra, Elliot thấy được, rằng ông có chiều cao trung bình, và ông cũng không béo lắm.
“Đang tái dựng lại hiện trường, hả?” Ông gợi chuyện. “Chào thiếu tá. Chào sĩ quan.”
Thái độ của ông có một sự nhã nhặn vô hình khiến tât cả mọi người nở nụ cười, giống như cái vụt nhẹ của một chiếc roi trên đàn ngựa vậy. Ấn tượng đầu tiên của Elliot là sự thông minh và nét sắc sảo toát ra từ khuôn mặt chân thành đó.
“Và đây, tôi đoán,” ông ngần ngại nói thêm, “là anh chàng từ Scotland Yard mà Joe Chesney đã kể với tôi. Chào buổi tối, thanh tra.”
“Được rồi,” thiếu tá Crow nói. Ông tiếp tục câu chuyện một cách hơi đột ngột. “Nghe này, anh biết đấy. Chúng tôi đều dựa vào anh cả.”
“Dựa vào tôi?”
“Thì, anh là một giáo sư tâm lí học. Anh sẽ không bị những thủ thuật đánh lừa. Anh đã nói như vậy mà. Anh có khả năng kể cho chúng tôi về việc thực sự đã xảy ra trong buổi biểu diễn chết tiệt đó. Có thể chứ?”
Giáo sư Ingram liếc nhanh qua những cánh cửa đôi. Biểu hiện của ông đã thay đổi.
“Tôi nghĩ vậy,” ông dứt khoát trả lời.
“Chà, vậy mới đúng!” thiếu tá Crow nói bằng điệu bộ tranh luận hào hứng hơn hẳn. “Cô Wills đã kể cho chúng tôi rằng có vài cái bẫy đã được cố ý gài vào buổi diễn.”
“Ừ. Anh gặp con bé rồi à?”
“Đúng vậy. Và, từ những gì chúng tôi thu được, thì toàn bộ buổi diễn này hẳn là được thiết kế thành một chuỗi các cạm bẫy…”
“Còn hơn thế nữa,” giáo sư Ingram nhìn thẳng vào thiếu tá nói. “Tôi tình cờ biết được rằng, màn trình diễn này còn được thiết kế để cho mọi người thấy cách đầu độc những viên sô cô la trong cửa hàng của bà Terry mà không có ai thấy được tên giết người làm chuyện đó.”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh