Nguyên tác: Amazing Grace
Số lần đọc/download: 1214 / 21
Cập nhật: 2017-07-24 16:15:16 +0700
Chương 5
S
áng hôm sau, Melanie trở lại bệnh viện lúc chín giờ. Đáng ra nàng đến sớm hơn, nhưng nàng đã dừng lại ở trụ sở có loa phóng thanh công cộng để nghe tin tức. Hàng trăm người đứng ở đấy để nghe thông tin trong thành phố. Số người chết đã lên hơn một ngàn người và ít ra cũng hơn một tuần nữa thành phố mới có điện trở lại. Họ lập danh sách những vùng bị thiệt hại nặng nhất, và nói rằng phải mất ít ra mười ngày nữa trạm điện thoại di động mới hoạt động được. Hàng cứu trợ khẩn cấp đang được chở từ khắp nơi đến. Ngày hôm qua tổng thống đã đến thăm thành phố bị tàn phá, rồi bay về lại Washington. Ông hứa thành phố sẽ được sự giúp đỡ của liên bang. Và khuyên người dân thành phố San Francisco hãy can đảm và thương yêu giúp đỡ nhau. Họ nói với những người hiện ở trong khu tạm trú Presidio rằng, Tổ chức Bảo vệ vật nuôi sẽ lập một khu tạm trú đặc biệt để qui tụ những con thú nuôi trong nhà đến đấy, để chủ nhân của chúng đó đến tìm nhận lại. Loa phóng thanh còn nói rằng tin tức sẽ được dịch sang hai thứ tiếng Quan Thoại và Tây Ban Nha, xướng ngôn viên cám ơn mọi người đã cố tuân thủ các qui luật của trại tị nạn. Hiện có hơn tám ngàn người hiện đang sống trong trại tạm trú Presidio, và trại sẽ tổ chức thêm hai phòng ăn tập thể nữa. Họ hứa sẽ thông báo cho mọi người biết những diễn tiến đã xảy ra, và chúc mọi người có một ngày vui vẻ thoải mái.
Khi Melanie gặp Maggie ở bệnh viện, bà nữ tu nhỏ nhắn than phiền rằng tổng thống đã đi thăm trại Presidio bằng máy bay trực thăng nhưng không đến thăm bệnh viện. Ông thị trưởng hôm qua có đến một lát, và ông thống đốc bang chiều nay sẽ đi một vòng thăm Presidio. Nhiều cơ quan báo chí cũng đến. Thành phố đã trở thành tâm điểm cho mọi người sau hai ngày bị cơn địa chấn tàn phá gần như hoàn toàn. Vì thành phố bị hư hại nặng, nên chính quyền địa phương rất ấn tượng khi thấy người dân San Francisco đã giúp nhau tận tình, họ tổ chức các hội đoàn rất tốt khắp nơi trong trại, mọi người tử tế với nhau, thương yêu nhau, như trong vùng có chiến tranh vậy.
Thấy Melanie xuất hiện, xơ Maggie có nhận xét:
- Cô dậy sớm và tươi tỉnh quá. - Trông nàng trẻ trung, xinh đẹp, sạch sẽ, mặc dù nàng mặc áo quần của ngày hôm qua. Nàng đã dậy xếp hàng lúc bảy giờ để vào tắm vòi sen. Nàng được gội dầu và tắm nước nóng. Sau đó nàng ăn cháo yến mạch và bánh mì nướng trong phòng ăn tập thể.
May thay, nhờ có máy phát điện nên thực phẩm được tươi. Nhân viên y tế sợ thực phẩm bị nhiễm khuẩn, và nếu nó không được làm lạnh, người ăn sẽ dễ mắc chứng kiết lỵ. Nhưng vấn đề khó khăn nhất cho họ là những người bị thương, chứ không phải là những người bị nhiễm bệnh.
- Đêm qua cô ngủ được không? - Maggie hỏi. Chứng mất ngủ là nguyên nhân gây tổn thương về tâm thần. Nhiều người mắc chứng này đều đã không ngủ được hai ngày nay. Nhiều bác sĩ tâm thần đã tình nguyện đến đây. Họ được dành riêng một phòng. Maggie đưa nhiều bệnh nhân đến gặp họ, nhất là những người già và em bé, họ vì quá lo sợ mà đã bị chấn động mạnh.
Bà giao cho Melanie công việc tiếp nhận các bệnh nhân này, ghi những triệu chứng và thu thập dữ liệu về họ. Tất cả các công việc quản trị về hành chính đều do những người thiện nguyện thực hiện, họ không nhận lương, không do một cơ quan quảng cáo nào đưa đến. Melanie rất sung sướng khi làm ở đây. Cơn địa chấn tuy rất khủng khiếp, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời nàng cảm thấy mình đã làm một việc quan trọng thay vì quanh quẩn nơi sàn diễn, trong các phòng ghi âm, và hát xướng. Ở đây ít ra nàng đã làm cho nhiều người được hạnh phúc. Malanie rất sung sướng trước công việc của nàng.
Nhiều nữ tu và linh mục khác cũng làm việc ở đây. Họ thuộc nhiều dòng tu khác nhau ở các nhà thờ địa phương. Có những ông mục sư đi quanh nói chuyện với mọi người và lập những văn phòng để người ta có thể đến để tham vấn. Nhiều vị linh mục trong giáo xứ đến thăm những người bệnh và bị thương. Rất ít người trong số này để lộ mình là tu sĩ. Họ đến gặp và nói cho mọi người biết họ là ai. Một số phục vụ thực phẩm trong phòng ăn. Maggie quen biết nhiều linh mục và nữ tu. Hình như bà biết hầu hết mọi người. Cuối buổi sáng hôm đó, khi họ nghỉ giải lao, Melanie nói thế với Maggie và bà cười.
- Tôi đi nhiều nơi để làm việc thiện nên quen biết họ.
- Bà có thích làm tu sĩ không? - Melanie muốn biết về xơ Maggie. Nàng nghĩ chưa bao giờ nàng gặp một người đặc biệt như thế này. Trong gần hai mươi năm sống trên cõi đời, chưa bao giờ nàng gặp ai tốt bụng, khôn khéo, có lòng thương người sâu sắc như thế này. Bà sống theo niềm tin của mình, thực hiện nó bằng hành động cụ thể chứ không nói suông. Bà dịu dàng, chân thật khiến cho mọi người xúc động. Một người làm việc trong bệnh viện đã nói rằng Maggie có tấm lòng vàng. Melanie cười khi nghe lời miêu tả về bà. Nàng thích những từ đó, nó sẽ nhắc nàng nhớ tới Maggie.
- Tôi thích làm nữ tu, - Maggie đáp, - Tôi thích đi tu, không bao giờ ân hận về hành động này. Việc tu hành rất phù hợp với tôi, - bà đáp với vẻ sung sướng. - Tôi muốn thành hôn với Chúa, làm vợ Đấng Cứu Thế, - bà nói thêm, và câu này thực sự gây ấn tượng cho nàng. Melanie nhận thấy tay bà đeo chiếc nhẫn cưới màu vàng nhạt. Maggie cho biết bà được tặng chiếc nhẫn khi tuyên thệ lần cuối cùng cách đây mười năm. Bà đã chờ đợi rất lâu mới có chiếc nhẫn, và nó là hình ảnh cuộc sống lao động của bà. Bà rất thích làm việc và tự hào về công việc đang làm.
- Cuộc sống tu hành chắc là rất khó, - Melanie nói, vẻ kính trọng.
- Làm gì có ích ở đời cũng khó hết, - Maggie khôn khéo đáp, - công việc của cô cũng không phải dễ.
- Phải, đúng thế, - Melanie đáp - với tôi, việc hát khá dễ dàng, và tôi thích, vì thế tôi mới làm. Nhưng những chuyến lưu diễn thường rất khó khăn, vì mình phải đi nhiều, phải làm việc cật lực hằng ngày. Chúng tôi thường đi bằng xe buýt lớn cả ngày, rồi trình diễn ban đêm, vừa đến là phải diễn tập ngay. Bây giờ đi máy bay được dễ dàng hơn nhiều.
- Mẹ cô thường đi với cô phải không? - Maggie hỏi thế vì bà đã thấy mẹ nàng và nhiều người khác đến San Francisco với nàng. Maggie nghĩ rằng có nhiều người đi cùng nàng là vì công việc cần họ đi theo, nhưng việc mẹ nàng đi theo là bất thường, vì với tuổi của nàng không cần thiết phải có mẹ bên cạnh nữa. Nàng đã gần hai mươi tuổi rồi.
- Phải, mẹ tôi đã điều khiển tôi, - Melanie thở dài. - khi bà còn trẻ, bà muốn làm ca sĩ. Và bà rất thích thú khi công việc của tôi thành công. Thỉnh thoảng bà hơi quá kích động.
- Melanie cười. - Bà thường thúc đẩy tôi làm việc cật lực.
- Việc này không tệ, miễn là đừng thúc đẩy quá nhiều. Cô nghĩ sao?
- Tôi nghĩ đôi lúc bà như thế, - Melanie thành thật đáp. - Tôi muốn làm theo quyết định của mình. Mẹ tôi thường cho là bà biết nhiều hơn tôi.
- Có thật bà ấy biết nhiều không?
- Tôi không biết. Tôi nghĩ bà quyết định những gì có lợi cho bà, và tôi thấy nó có vẻ không hợp cho tôi. Khi tôi đoạt giải Grammy, bà sung sướng đến chết được. - Melanie cười. Maggie nhìn nàng với ánh mắt long lanh.
- Hẳn kết quả cuối cùng của cô sau thời gian làm việc cật lực là giây phút sung sướng tuyệt vời nhất. Đó là một vinh dự không tưởng tượng nổi. - Bà hiểu nàng còn ít, nhưng tự hào về nàng.
- Tôi đã cho mẹ tôi cái vinh dự đó. - Melanie đáp nhỏ. - Tôi cảm thấy như chính bà đoạt giải ấy. Nếu không có bà, chắc tôi không làm được. - Nhưng qua giọng nói của Melanie, Maggie tự hỏi không biết nàng thực sự muốn thành ngôi sao hay là chỉ để làm vừa lòng mẹ.
- Để thành công trên con đường sự nghiệp và làm hài lòng kẻ khác, ta phải mất nhiều sức lực và lòng can đảm.
- Câu nói của bà làm cho Melanie có vẻ trầm ngâm.
- Bà đi tu, gia đình có bằng lòng không? - Melanie hỏi vẻ thắc mắc.
- Họ rất sung sướng. Trong gia đình tôi, đây là việc làm tuyệt vời. Họ muốn con cái đi tu hơn là lấy vợ lấy chồng. Bây giờ thì ý tưởng này có vẻ hơi điên, nhưng cách đây hai mươi năm, trong những gia đình theo Công giáo, bố mẹ thường tự hào về việc này. Một anh trai của tôi là linh mục.
- Thật ư? - Melanie hỏi. Xơ Maggie cười.
- Sau mười năm, anh ấy hoàn tục, lấy vợ. Tôi nghĩ mẹ tôi rất đau đớn về chuyện này. Khi ấy bố tôi chết rồi, nếu không chắc ông sẽ giết anh ấy. Bởi vì khi đã phát nguyện đi tu, mình không được bỏ dòng tu. Thú thật, khi ấy tôi cũng bất mãn lắm. Nhưng anh ấy rất tuyệt, tôi tin anh ấy không ân hận việc này. Anh ấy và vợ hiện đã có với nhau sáu người con, họ rất hạnh phúc. Cho nên tôi đoán thiên hướng của anh ấy là cuộc sống trần tục, chứ không phải tu sĩ.
- Bà có muốn có con không? - Melanie hỏi, vẻ bâng khuâng. Nàng thấy cuộc đời của Maggie buồn tẻ, xa gia đình, không chồng con, làm việc trên đường phố với những người xa lạ, sống nghèo khổ suốt đời. Nhưng đối với Maggie, cuộc sống như thế là tốt đẹp. Người ta có thể thấy điều này hiện ra trong mắt bà. Bà có vẻ hạnh phúc, thoả mãn, bằng lòng với cuộc sống hiện tại.
- Tất cả những người tôi gặp đều là con tôi. Những người tôi biết trên đường và gặp họ năm này qua năm khác, những người tôi giúp thoát kiếp sống ngoài đường. Rồi những người đặc biệt như cô, Melanie, những người bỗng xuất hiện trong cuộc sống của tôi, làm trái tim tôi xúc động. Tôi rất sung sướng được gặp cô. - Khi họ thôi nói chuyện để làm việc trở lại, bà đã ôm ghì nàng thật mạnh, và nàng ôm ghì bà với bao vẻ thân thương.
- Tôi cũng rất sung sướng được gặp bà. Khi lớn lên, tôi muốn được như bà, - nàng cười.
- Muốn làm nữ tu à? Ồ, tôi tin mẹ cô không thích đâu! Trong tu viện không có ngôi sao! Cuộc sống trong đó rất bình dị, và ta phải bỏ hết mọi vui thú trên đời.
- Không, tôi muốn nói là giúp đỡ mọi người như bà làm vậy. Tôi ước gì làm được công việc như thế.
- Nếu cô muốn, cô sẽ làm được thôi. Cô khỏi cần vào tu viện mới thực hiện được việc ấy. Cô chỉ cần xắn tay áo và bắt tay vào việc. Quanh ta có rất nhiều người cần sự giúp đỡ, ngay cả những người may mắn. Tiền bạc và sự thành công không phải luôn luôn làm cho ta hạnh phúc. - Đấy là tuyên ngôn đối với Malanie, nàng nghĩ rất đúng, và đây là điều rất quan trọng cho mẹ nàng.
- Tôi không có thì giờ để làm công việc thiện nguyện,
- Melanie than. - Mẹ tôi không muốn tôi gặp gỡ những người mắc bệnh truyền nhiễm. Bà nói nếu tôi mắc bệnh, tôi sẽ không đi hát, không lưu diễn được.
- Một ngày nào đó cô sẽ có thì giờ để làm cả hai công việc. Có lẽ là khi cô đã lớn tuổi. - Và khi mẹ nàng nới lỏng công việc của nàng. Maggie nghĩ rằng có lẽ mẹ nàng đã sống thay cho nàng. Bà muốn thực hiện giấc mộng của mình qua con gái. May cho Melanie là nàng đã thành ngôi sao. Người nữ tu với cặp mắt xanh sâu thẳm quả là có giác quan thứ sáu, bà hiểu rõ tâm trạng của mọi người. Bà nghĩ Melanie bị mẹ nàng giữ làm con tin, và trong thâm tâm của nàng, trong tiềm thức của nàng, nàng muốn giải thoát khỏi mẹ.
Sau đó họ bận công việc chữa trị cho các bệnh nhân của Maggie. Số người bị thương xếp hàng bất tận suốt ngày, hầu hết là những bệnh nhẹ, chỉ cần y tá chữa trị chứ không cần bác sĩ. Melanie là người phụ tá tuyệt vời, xơ Maggie rất hài lòng về nàng.
Xế chiều, họ ngồi nghỉ và ăn trưa với nhau ngoài ánh nắng mặt trời. Họ ăn xăng uých nhân thịt gà tây và thấy rất ngon. Trại có một đầu bếp giỏi tình nguyện nấu nướng, thức ăn được gởi đến từ các thành phố khác, thậm chí từ các bang khác bằng trực thăng. Các thiết bị y khoa, áo quần, giường ngủ cho hàng ngàn người sống trong trại cũng được đưa tới bằng máy bay. Cảnh tượng giống như người ta đang sống trong vùng chiến tranh, máy bay trực thăng bay liên tục trên trời, cả ngày lẫn đêm. Nhiều người già nói rằng máy bay làm họ mất ngủ, còn người trẻ không quan tâm đến chuyện đó, vì họ đã quen. Tiếng ồn này là biểu tượng cho cuộc sống khó khăn mà họ đang trải qua.
Họ vừa ăn xong thì Melanie thấy Everett đi qua. Giống như nhiều người khác, ông vẫn còn mặc chiếc quần đen và áo sơmi trắng như hôm xảy ra trận động đất. Ông đi ngang qua nhưng không thấy họ, chiếc máy ảnh đeo trước ngực, bao đựng máy ảnh treo trên vai. Melanie gọi, ông quay lại, thấy họ, vẻ mặt ông rất ngạc nhiên. Ông vội bước đến, ngồi xuống khúc gỗ họ đang ngồi.
- Hai người làm gì ở đây? Chuyện gì thế này?
- Tôi đang làm việc cho bệnh viện của trại, - xơ Maggie đáp.
- Còn tôi làm phụ tá cho bà ấy. Khi họ đưa chúng tôi từ nhà thờ đến đây, tôi tình nguyện làm việc cho trại. Tôi đang tập làm y tá, - Melanie tươi cười với vẻ tự hào.
- Cô ấy làm việc rất giỏi, - Maggie nói tiếp. - Ông làm gì ở đây? Chụp ảnh à? - Maggie hỏi. Bà không gặp Everett từ buổi sáng sau trận địa chấn, khi ông đi một vòng xem thành phố như thế nào. Bà nghĩ, nếu trong thời gian này mà ông đến tìm bà, ông sẽ không gặp bà vì bà không có ở nhà.
- Có lẽ bây giờ tôi phải vào trại ở. Tôi ở trong khu tạm trú dưới phố, nhưng khu ấy vừa bị đóng cửa. Tòa nhà bên cạnh bị nghiêng trầm trọng, cho nên họ phải đưa chúng tôi đi chỗ khác, họ đề nghị chúng tôi đến đây. Tôi nghĩ hiện giờ chưa thể đi khỏi đây được, không có cách gì để đi, cho nên chúng tôi phải ở lại. Có nhiều hoàn cảnh rất thê thảm, - ông ta nói với cả hai người, miệng mỉm cười, - và tôi đã chụp nhiều bức ảnh rất tuyệt. Nói xong, ông ta lấy máy ảnh chụp hai người đang tươi cười dưới ánh mặt trời. Cả hai đều sung sướng, vui vẻ, dù hoàn cảnh của họ rất khó khăn. Họ đều làm được nhiều việc hữu ích, và thích thú vì điều đó. Nhìn vào mắt hai người, ai cũng thấy nó ánh lên niềm vui. - Tôi nghĩ không ai tin rằng bức ảnh này là Melanie Free, ngôi sao ca nhạc, đang ngồi trên khúc gỗ, mặc quần lính, đi dép kẹp, làm y tá trong bệnh viện của trại tị nạn động đất. Đây sẽ là bức ảnh lịch sử. - Đêm đầu tiên, Everett đã chụp Maggie nhiều tấm rất tuyệt. Ông mong đợi được xem chúng khi về lại L. A. Ông tin tòa soạn sẽ rất sung sướng khi có những tấm hình ông chụp trận động đất. Bức nào họ không dùng, ông sẽ đem bán cho chỗ khác. Ông hy vọng sẽ đoạt giải. Ông nghĩ rằng các tấm hình ông chụp rất có giá trị, vì ý nghĩa lịch sử của chúng. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị đã xảy ra trong một trăm năm nay, và có thể một trăm năm sau cũng không có. Dù cơn địa chấn rất mạnh, nhưng thành phố đã chống chọi lại nó một cách kiên cường.
- Bây giờ hai người sẽ làm gì? - Ông hỏi. - Tiếp tục công việc hay nghỉ ngơi.
- Quay lại công việc, - Maggie đáp. - Còn ông thì sao?
- Tôi phải đi đăng ký giường ngủ. Có lẽ sau đó tôi sẽ đến thăm hai người. Nếu bệnh nhân không phản đối, tôi sẽ chụp ảnh.
- Cái này ông phải hỏi bệnh nhân, - Maggie đáp. Bà luôn luôn tôn trọng bệnh nhân, dù họ là ai. Bỗng Melanie nhớ đến cái áo vest của Everett.
- Xin lỗi ông về cái áo, vì nó quá dơ, và tôi nghĩ sẽ không gặp lại ông nên đã vứt nó đi rồi.
Everett cười khi thấy bộ mặt tiu nghỉu của nàng.
- Đừng lo, đó là cái áo thuê. Tôi sẽ nói với họ nó tuột khỏi lưng tôi trong trận động đất. Họ sẽ thông cảm không đòi bồi thường đâu. Tôi tin là nếu tôi trả cho họ, họ cũng không thèm lấy. Thật đấy, Melanie, đừng lo, không sao đâu. - Nghe Everett nói vậy, nàng bỗng nhớ đồng xu, bèn thọc tay vào túi quần, lấy ra đưa cho ông. Đấy là cái thẻ cai nghiện một năm, ông có vẻ sung sướng khi thấy nó.
- Tôi muốn có lại cái này. Đấy là đồng xu đem đến may mắn cho tôi! - Ông vuốt tay lên nó như thể đó là vật huyền bí của ông vậy. Hai ngày qua ông không đi họp hội cai rượu, bây giờ ông cảm thấy nó như vật đã cứu ông khỏi chết cách đây hơn một năm. Ông hôn nó rồi bỏ vào túi quần, chiếc quần lẻ loi còn lại của bộ đồ đại lễ mà ông đã thuê. Chiếc quần bây giờ cũng rách tả tơi, không thể trả được. Khi về nhà chắc ông phải ném nó đi. - Cám ơn cô đã giữ cái thẻ này giúp tôi. - Ông đã mệt mỏi qua hai ngày dài đằng đẵng cố gắng chịu đựng. Đó quả thật là điều huyền nhiệm cho ông.
Maggie và Melanie trở lại bệnh viện của trại làm việc, còn Everett đi đăng ký chiếc giường để ngủ. Trong trại Presidio có rất nhiều nhà, nên người ta không lo sẽ hết phòng ở. Đây là căn cứ quân sự cũ đã đóng cửa từ lâu, nhưng nhà cửa vẫn còn tốt.
- Lát nữa tôi sẽ đến tìm hai người, - Everett nói.
Xế chiều hôm đó, trong lúc tình hình đã lắng dịu, Sarah Sloane xuất hiện tại bệnh viện với hai con và chị giữ trẻ. Em bé bị sốt, ho và đau một bên tai. Sarah đem theo cô con gái luôn, vì bà nói bà không muốn để nó ở nhà. Sau trận địa chấn vào tối thứ sáu, bà không muốn xa con dù chỉ một phút. Nếu cơn địa chấn khác xảy đến, bà muốn có mặt bên các con. Bà để Seth ở nhà một mình, ông vẫn ở trong tình trạng đau khổ như từ tối thứ sáu. Ông biết tình hình rất xấu vì không hy vọng gì các ngân hàng sẽ mở cửa. Sự nghiệp của ông đã tiêu tan, cuộc sống sung túc của gia đình ông trong mấy năm qua cũng thế. Sự nghiệp của Sarah cũng vậy. Hiện thời bà chỉ lo cho hai em bé. Bây giờ là lúc không thể để cho chúng bị bệnh. Bà đã đưa bé đến phòng cấp cứu ở bệnh viện gần nhà, nhưng ở đây họ chỉ nhận các bệnh nhân nặng để chữa trị. Họ chuyển bà đến bệnh viện của trại Presidio, cho nên bà phải đi trong xe của Parmani. Melanie thấy bà ở bàn tiếp nhận bệnh nhân, nàng nói cho Maggie biết bà là ai. Hai người liền đến với Sarah, Maggie nựng em bé và chỉ chưa đầy một phút, em bé cười. Sarah nói cho Maggie tình trạng của con mình. Trông mặt bé hơi đỏ một chút.
- Để tôi đi mời bác sĩ, - Maggie nói rồi biến mất. Mấy phút sau, bà quay lại gọi Sarah đi theo bà. Sarah đang nói chuyện với Melanie về buỗi lễ từ thiện, buổi trình diễn tuyệt vời của nàng và trận động đất kinh hoàng.
Melanie, Sarah, bé gái và chị giữ trẻ đi theo Maggie đến chỗ người bác sĩ đang đợi họ. Như Sarah lo sợ em bé bị nhiễm trùng lỗ tai. Cậu bị sốt, người hơi nóng một chút, và bác sĩ nói rằng nó bắt đầu bị viêm họng. Ông ta cho bé thuốc kháng sinh. Bà nói Oliver đã dùng thuốc này rồi. Bác sĩ cho Molly cây kem que và thoa tóc bé. Bác sĩ rất tốt với hai em, mặc dù ông đã làm việc từ sau trận địa chấn xảy ra, không ngủ nghê gì được. Mọi người đều chấp nhận làm việc nhiều giờ, nhất là Maggie, và Melanie cũng vậy.
Họ vừa ra khỏi phòng khám, thì Sarah thấy Everett đi vào bệnh viện. Ông có vẻ như muốn tìm ai đó. Melanie và Maggie liền vẫy tay chào ông ta. Ông ta bước đến, chân mang đôi giày chăn bò da, thứ đắt giá nhất trên người ông. Họ đã vượt qua được trận động đất khủng khiếp mà không hề hấn gì.
- Làm gì mà đông thế này? Tụ họp để dự lễ từ thiện à? - Ông nói đùa với Sarah. - Buổi tiệc bà tổ chức quá tuyệt. Trận động đất hơi đáng sợ, nhưng ban đầu rất vui, tôi nghĩ bà đã làm một việc kỳ diệu. - Ông cười nói, và Sarah cám ơn ông vì lời khen. Maggie nhìn Sarah bế con trên tay, bà thấy Sarah có vẻ lo lắng, buồn bã. Mới đầu bà đã thấy Sarah buồn, bà nghĩ vì Oliver đau tai và sốt, nhưng bây giờ bà vẫn thấy Sarah như vậy, bà nghĩ chắc có chuyện gì đã làm cho bà ta có vẻ khổ sở. Giác quan thứ sáu của Maggie rất chính xác và tài tình.
Maggie đề nghị chị giữ trẻ bế em bé và giữ Molly bên cạnh, rồi yêu cầu Sarah đi nói chuyện với bà một lát. Họ để Malanie nói chuyện với Everett, trong khi Parmani giữ hai em bé gần đấy. Bà đưa Sarah đi xa họ một đoạn để họ khỏi nghe câu chuyện hai người nói với nhau.
- Bà có khỏe không? - Maggie hỏi. - Trông bà buồn bã lắm. Có chuyện gì cần tôi giúp đỡ không? - Mắt Sarah rướm lệ.
- Không... tôi... khỏe... Thật đấy... ờ... thực ra... tôi có chuyện rắc rối, nhưng bà không giúp được đâu. - Sarah định nói cho Maggie biết, nhưng bà nghĩ không nên. Nếu nói, tình hình sẽ rất nguy hiểm cho Seth. Bà cầu nguyện sao mọi người không biết chuyện Seth đã làm, dù bà nghĩ lời cầu nguyện đó thật vô lý. Ông đã dùng sáu mươi triệu đô la sai mục đích, và không thể nào tội này không bị phát hiện, không bị trừng phạt. Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, bà cảm thấy rất đau đớn trong lòng. - Chuyện của chồng tôi... bây giờ tôi không thể nói ra được. - Sarah lau nước mắt, nhìn bà nữ tu với vẻ biết ơn.- Cám ơn bà đã hỏi thăm.
- Tốt, bây giờ chắc bà biết tôi ở đâu. - Maggie lấy giấy bút, ghi số điện thoại di động của mình. - Khi nào đường dây điện thoại hoạt động trở lại, bà gọi tôi theo số này. Còn bây giờ, tôi ở đây. Thỉnh thoảng người ta cần tâm sự chuyện lòng với người mà mình cảm thấy tin tưởng. Tôi không muốn tò mò, nên nếu bà cảm thấy cần tôi giúp đỡ gì, xin cứ gọi cho tôi.
- Cám ơn bà,- Sarah đáp. Bà nhớ Maggie là người nữ tu đến dự lễ từ thiện. Giống như Melanie và Everett, Sarah nghĩ rằng bà không giống các nữ tu chút nào hết, nhất là khi bà mặc quần jeans, đi giày đế mềm và mặc áo sơmi màu hồng. Trông bà xinh đẹp và trẻ trung. - Tôi sẽ gọi bà, - Sarah hứa. Lát sau, họ quay về với những người khác. Khi trở lại, Sarah lau nước mắt, Everett nhận thấy hơi khác lạ, nhưng ông không nói gì. Ông lại khen bà về buổi lễ và số tiền mà họ thu được. Ông nói buổi lễ rất thành công, nhất là có sự giúp đỡ của Melanie. Ông có tài nói chuyện khiến cho mọi người vui vẻ vì ông thoải mái, dễ thương.
- Ước gì tôi được là tình nguyện viên ở đây, - Sarah nói, bà rất ấn tượng về hiệu quả của công việc họ đang làm.
- Bà cần ở nhà với các cháu, - Maggie đáp. - Gia đình bà cần bà.
- Tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ rời xa chúng, - Sarah nói, bà rùng mình. - Tối thứ sáu, tôi quá sợ hãi cho đến khi về nhà và thấy chúng bình yên. - Vết u trên đầu Parmani đã lặn. Bây giờ chị ở lại với họ, vì không về nhà được. Toàn bộ khu vực chị ở đều sụp đổ, cảnh sát đã phong toả quanh đấy. Họ không cho chị vào chung cư, vì một phần mái nhà đã sập.
Tất cả mọi công việc kinh doanh và dịch vụ đều ngưng trệ. Khu vực tài chánh vẫn còn bị phong toả. Khắp thành phố không có điện, cửa hàng không mở, trạm bán xăng đóng cửa và điện thoại không hoạt động, cho nên mọi người không thể nào làm việc.
Mấy phút sau, Sarah ra về với chị giữ trẻ và các con. Họ vào trong xe của Parmani, và sau khi đã nói lời cám ơn với Maggie, họ lái đi. Bà đã đưa cho Maggie số điện thoại và địa chỉ nhà bà, bà không khỏi phân vân tự hỏi không biết họ còn ở đấy bao lâu. Bà hy vọng họ còn ở đấy một thời gian nữa, và có lẽ Seth sẽ lâm vào tình thế rất tồi tệ. Khi Sarah ra về, bà cũng chào tạm biệt Everett và Melanie. Bà không ngờ gặp lại hai người này. Cả hai đều ở L.A và không thể gặp lại họ dễ dàng. Sarah rất thích Melanie, buổi trình diễn của nàng không chê vào đâu được, đúng như Everett nói. Mọi người trong phòng đều đồng ý như thế, tiếc là bài hát cuối đã bị trận địa chấn phá hỏng.
Sau khi Sarah đã ra về, Maggie nhờ Melanie đi lấy các vật dụng y khoa cần thiết. Maggie biết nhà kho ở chỗ khá xa, cho nên còn lâu Melanie mới trở về. Bà thực sự cần các dụng cụ y khoa chứ không phải lấy cớ để Melanie vắng mặt lâu. Các bác sĩ đã làm việc với bà đều nói rằng bà có mũi khâu rất gọn, đẹp và thẳng. Việc này là nhờ bà đã khâu vá lâu năm trong tu viện. Hồi còn trẻ, sau mỗi bữa ăn tối, khi các nữ tu tụ tập nhau trò chuyện, thì bà ngồi riêng để khâu vá. Sau này, ở một mình trong chung cư, bà hiếm khi làm việc này. Nhưng bà vẫn có mũi khâu rất đẹp và thẳng.
- Bà ấy có vẻ rất dễ thương, - Everett nói về Sarah. - Tôi thấy tổ chức được buổi lễ từ thiện là điều hết sức kỳ diệu. - Ông đề cao Sarah, mặc dù bà đã ra về. Và dù Sarah bảo thủ hơn những người mà Everett đã gặp, nhưng ông vẫn thích bà. Bà có cái gì đó rất thành thật, chân chất và hấp dẫn.
- Trên bước đường đời, lắm lúc có nhiều chuyện xảy ra hết sức lý thú, phải không? - Everett nói. - Tôi gặp Sarah ở ngoài khách sạn Ritz và đi theo bà suốt buổi tối, cả trên đường phố. Rồi tôi gặp lại bà ấy ở đây, trong một trại tạm trú. Cũng vào tối hôm đó, tôi gặp Melanie và đưa cho cô bé cái áo vest. Rồi tôi, bà ấy và cô bé lại gặp nhau ở đây. Sarah là chủ buổi lễ từ thiện, người đã qui tụ chúng ta lại với nhau. Trong một thành phố lớn như thế này, chỉ hai người gặp lại thôi cũng là khó, thế mà chúng ta gặp nhau hết, chỉ trong vòng hai ngày. Gặp lại người quen thật là điều rất thú vị. Tôi rất thích. - Ông cười nhìn Maggie.
- Tôi cũng thích. - Maggie đáp.
Họ nói chuyện một hồi lâu cho đến khi Melanie trở về. Nàng mang theo các vật dụng y khoa mà Maggie cần, trông nàng có vẻ hồ hởi sung sướng. Nàng tìm đủ cách để giúp đỡ bà, và cảm thấy rất vui khi người nhân viên trực phòng vật dụng có đủ các thứ theo danh sách Maggie đã ghi. Anh ta đưa cho nàng các loại thuốc mà Maggie yêu cầu, anh ta có nhiều miếng băng đúng cỡ bà muốn.
- Đôi lúc tôi nghĩ bà là y tá chứ không phải là tu sĩ. Bà chăm sóc rất tốt cho nhiều người bị thương. - Everett nói. Maggie gật đầu nhưng không hoàn toàn đồng ý.
- Tôi chăm sóc cho nhiều người bị thương cả về thể xác lẫn tinh thần - Maggie đáp. - Ông cho rằng tôi giống y tá hơn, vì ông thấy tôi có vẻ thế. Nhưng sự thực, tôi là một nữ tu. Đừng để đôi giày màu hồng làm cho ông lầm lẫn. Tôi mang giày cho vui. Nhưng công việc tôi làm là của kẻ tu hành, chính việc này mới quan trọng trong đời tôi. Tôi nghĩ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Nếu đi đâu cũng tuyên bố tôi là nữ tu, chắc mọi người sẽ thấy khó chịu.
- Tại sao như thế? - Everett hỏi.
- Tại vì nhiều người sợ các nữ tu, - Maggie đáp.- Vì thế mà một số trong chúng tôi không mặc trang phục tu sĩ. Nó làm mọi người tránh chúng tôi.
- Tôi thấy các nữ tu rất đẹp. Khi tôi còn nhỏ, tôi có ấn tượng rất mạnh về họ. Bây giờ người ta thấy ít có nữ tu trẻ đẹp như thế. Có lẽ đây là một dấu hiện tốt.
- Có thể ông nói đúng. Bây giờ ít có ai đi tu khi còn trẻ. Năm ngoái trong dòng tu của tôi, nếu có người xin vào thì họ đều ở lứa tuổi trên bốn mươi; có một bà đến những năm mươi, là góa phụ. Thời thế đã đổi thay, nhưng bây giờ ít ra người đi tu đều biết bổn phận của mình. Ở thời của tôi, có nhiều người mắc sai lầm khi đi tu, họ vào tu viện, rồi không chịu nổi. Đời sống trong đó không phải dễ dàng. Dù ngoài đời mình là ai, nhưng vào tu viện ta phải thích nghi với cuộc sống. Như bây giờ, tôi về chung cư là chỉ để ngủ. - Chỗ ở của bà là một căn phòng nhỏ tồi tàn. Khi Everett đến đấy, ông chỉ đứng ngoài nhìn vào thôi.
Một đoàn các bệnh nhân mới đi vào, chỉ bị thương nhẹ, nên Melanie và Maggie phải quay lại làm việc.
Everett hẹn sẽ gặp họ tại phòng ăn tập thể vào tối đó, nếu được. Đêm qua họ không ăn tối và đêm nay họ cũng không đến ăn được vì có trường hợp khẩn cấp vào viện. Maggie cần Melanie giúp để khâu vết thương cho một người đàn bà. Tối đó khi về lại khu cư trú, nàng vẫn nghĩ đến trường hợp khẩn cấp này. Đám người đi theo nàng đang ngồi ở hành lang tạm trú, họ buồn rầu vì không có việc gì để làm. Melanie đã đề nghị Ashley và Jake làm tình nguyện viên, vì họ còn ở lại đây ít ra thêm một tuần nữa, theo tin tức buổi sáng của thành phố cho biết như thế. Đài không lưu của phi trường đã bị sập, không có cách gì giúp họ rời khỏi nơi đây. Phi trường đã đóng cửa, và đường phố cũng vậy.
- Tại sao con làm việc mãi trong bệnh viện như thế?
- Janet than phiền. - Thế nào con cũng sẽ lây bệnh của họ đấy. - Melanie lắc đầu và nhìn vào mắt mẹ, nói.
- Mẹ, con muốn làm y tá. - Nàng vừa trêu mẹ vừa muốn chọc tức bà. Nhưng quả thực nàng rất sung sướng được giúp việc ở bệnh viện của khu cư trú. Nàng thích làm việc với Maggie, và học hỏi rất nhiều điều mới lạ từ bà.
- Con điên ư? - Mẹ nàng hỏi, giọng phẫn nộ. - Muốn làm y tá sau khi mẹ đã làm cho con thành siêu sao à? Tại sao con dám ăn nói với mẹ như thế? Con nghĩ mẹ đã ra sức làm con trở thành ngôi sao để rồi con ném hết các thứ ấy xuống sông? - Mẹ nàng có vẻ vừa tức giận vừa đau đớn, vì bà tưởng Melanie sẽ nghĩ khác đi khi đang ở trên đỉnh cao danh vọng.
- Con không ném mọi nỗ lực của mẹ và con xuống sông, - Melanie đáp với vẻ cương quyết.
- Rồi con sẽ làm thế. Đừng nói với mẹ bằng cái giọng ấy nữa.
Melanie im lặng. Nàng nói chuyện với mọi người trong nhóm, đùa giỡn với Ashley và Jake một lát rồi nằm xuống giường để ngủ, trên người vẫn mặc chiếc áo thun và quần lính. Nàng quá mệt. Khi ngủ say, nàng nằm mơ thấy mình bỏ trốn rồi gia nhập quân đội. Nhưng khi vào đó, người trung sĩ huấn luyện xài xể nàng cả ngày lẫn đêm chính là mẹ nàng. Sáng hôm sau, nàng phân vân tự hỏi không biết cơn ác mộng phải chăng chính là cuộc đời thực của nàng.