The wise man reads both books and life itself.

Lin Yutang

 
 
 
 
 
Tác giả: Charlaine Harris
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Living Dead In Dallas
Dịch giả: Thiện Hoàng
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:54:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ó rất nhiều người không hề thích thú khi biết rằng họ đang sống chung một hành tinh cùng với ma cà rồng. Dù rằng trên thực tế họ luôn sống như vậy đấy thôi - chỉ có điều là họ không có ý niệm gì về việc đó - một khi đã tin rằng ma cà rồng có thật, những người này nhất quyết rằng ma cà rồng phải bị tiêu diệt. Họ không từ bất cứ phương thức ám hại ma cà rồng nào, chẳng khác gì thái độ những ma cà rồng hắc ám đối đãi với con người.
Ma cà rồng hắc ám là những kẻ bất tử luôn nhìn về quá vãng; chúng không muốn con người biết đến mình cũng ngang với việc con người không muốn biết đến chúng. Những kẻ hắc ám này từ chối uống máu nhân tạo, nguồn dinh dưỡng chủ yếu của ma cà rồng ngày nay. Ma cà rồng hắc ám tin rằng tương lai duy nhất dành cho ma cà rồng là phải quay trở về với sự bí mật và vô hình. Ngày nay, ma cà rồng hắc ám có thể giết người một cách dã man để tiêu khiển, bởi chúng thực sự hoan nghênh sự trở lại của việc bức hại ngay chính đồng loại của mình. Những kẻ hắc ám này coi đó như một cách để thuyết phục các ma cà rồng đang cố chung sống với con người rằng sự bí mật chính là tương lai tốt đẹp nhất dành cho cả giống loài; và, thêm vào đó nữa, việc bức hại cũng lại là một phương thức để kiểm soát dân số.
Giờ đây tôi được biết từ Bill rằng có những ma cà rồng trở nên đau khổ vì ăn năn tột độ, hoặc có thể là vì chán nản đến cùng cực, sau một cuộc đời dài dằng dặc. Những kẻ từ bỏ này dự định sẽ “gặp mặt trời”, cách nói của ma cà rồng về việc tự tử bằng cách vẫn ở ngoài trời sau khi mặt trời ló dạng.
Một lần nữa, lựa chọn bạn trai của tôi đã dẫn tôi xuống những lối đi mà nếu trong trường hợp khác thì tôi đã chẳng bao giờ dấn thân vào. Lẽ ra tôi đâu có cần biết mấy chuyện này, thậm chí cũng chẳng mơ đến việc hẹn hò với một người đã chết ngắc, nếu tôi không sinh ra với khiếm khuyết biết thông tâm ngoại cảm. Tôi là kiểu người bị ruồng bỏ đối với những chàng trai bình thường. Bạn có thể tưởng tượng được sẽ bất khả thi đến dường nào khi hẹn hò với một người mà mình có thể đọc được hết thảy mọi suy nghĩ trong đầu. Khi gặp Bill, tôi bắt đầu khoảng thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời mình. Nhưng cũng chắc chắn rằng trong vài tháng quen anh tôi gặp nhiều rắc rối hơn tổng số rắc rối tôi đã gặp trong cả hai mươi lăm năm trước đây. “Vậy anh nghĩ Farrell đã chết rồi à?” tôi hỏi, ép bản thân mình phải tập trung vào cơn khủng hoảng hiện tại. Tôi ghét phải hỏi như thế, nhưng tôi cần phải biết.
“Có lẽ,” Stan đáp sau một khoảng lặng dài.
“Có thể họ đang giữ anh ta ở đâu đó thôi,” Bill nói. “Anh biết cách họ mời cánh nhà báo đến những buổi… lễ nghi đó mà.”
Stan nhìn chăm chăm vào khoảng không trước mắt một lúc lâu. Rồi hắn đứng dậy. “Cùng một người đàn ông đã xuất hiện ở quán bar và ở sân bay,” hắn nói, gần như tự nhủ. Stan, tay lãnh đạo lập dị của những ma cà rồng ở Dallas, giờ đang đi đi lại lại quanh căn phòng. Điều đó làm tôi phát điên, dù rằng nói ra như thế thì vô duyên quá. Đây là nhà của Stan, và “em trai” hắn đang bị mất tích. Nhưng tôi không phải kiểu người thích im lặng nghiền ngẫm lê thê. Tôi mệt rồi, và tôi muốn đi ngủ.
“Vậy,” tôi nói, cố hết sức để giọng mình nghe có vẻ lanh lẹ, “sao họ biết tôi sẽ ở đấy chứ?”
Nếu có gì tệ hơn việc một ma cà rồng nhìn chăm chăm vào bạn, thì đó chính là việc bị hai ma cà rồng cùng nhìn bạn trừng trừng.
“Biết được trước là cô sẽ đến… có kẻ phản bội,” Stan nói. Không khí trong phòng bắt đầu rung động, nhiễu loạn do nỗi căng thẳng mà hắn ta đang tạo ra.
Nhưng tôi có một ý tưởng ít bi kịch hơn. Tôi nhặt một tập giấy ghi chép ở trên bàn lên viết, “CÓ LẼ ÔNG BỊ CÀI MÁY NGHE TRỘM.” Cả hai đều trừng mắt nhìn tôi cứ như thể tôi mời họ một phần ăn Big Mac vậy. Ma cà rồng, từng có thể đều có nhiều khả năng không tưởng, đôi khi lại quên bẵng đi một thực tế rằng con người cũng đã tạo ra những sức mạnh cho riêng mình. Hai người đàn ông nhìn nhau cân nhắc, nhưng chẳng ai đưa ra một gợi ý cụ thể nào cả.
Ôi, mặc xác họ đi. Tôi chỉ mới thấy chuyện này trong phim thôi, nhưng tôi đoán rằng nếu có ai gài bọ trong căn phòng này, chắc hẳn chúng phải thật khẩn trương bởi chúng sợ chết khiếp. Nên con bọ sẽ ở gần đây thôi và không được che giấu cẩn thận lắm. Tôi cởi phăng áo khoác màu xám và đá bay đôi giày đi. Vì là con người và không có chút tư cách gì để mất trong mắt Stan, tôi thụp người dưới gầm bàn và bắt đầu bò dọc bàn, vừa bò vừa đẩy đám ghế xoay đi chỗ khác. Tôi đã ước mình mặc quần dài không biết bao nhiêu lần.
Khi còn cách chỗ chân Stan khoảng hai mươi phân thì tôi để ý thấy một vật là lạ. Có một khối lồi sẫm màu dán chặt vào mặt dưới cái bàn gỗ màu vàng. Tôi căng mắt ra nhìn vì không có đèn pin. Đó không phải bã kẹo cao su.
Sau khi đã tìm ra cái thiết bị điện tử nho nhỏ đó rồi, tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi bò ra, không biết sao lại bám nhiều bụi bẩn hơn, và nhận thấy mình ở ngay chỗ chân của Stan. Hắn chìa tay ra và tôi ngần ngừ nắm lấy. Stan kéo nhẹ nhàng, hoặc có vẻ là nhẹ nhàng, nhưng đột nhiên, tôi đã đứng được thẳng dậy đối mặt với hắn. Hắn không cao lắm, và tôi bất giác phải nhìn thật sâu vào đôi mắt hắn. Tôi giơ một ngón tay ra trước mặt để chắc chắn rằng hắn chú ý đến tôi. Tôi chỉ xuống gầm bàn.
Thoắt cái Bill đã rời khỏi phòng. Khuôn mặt Stan trở nên trắng bệch hơn nữa, và đôi mắt hắn tóe lửa. Tôi đưa mắt ra xung quanh thay vì nhìn trực tiếp vào đôi mắt đó. Tôi không muốn mình là hình ảnh trong mắt hắn khi hắn đang tiêu hóa cái sự thật rằng có ai đó đã cài được một con bọ nghe trộm trong khán phòng bí mật này. Hắn quả thật đã bị phản bội, chỉ có điều là không phải theo cái cách mà hắn mong đợi.
Tôi sục sạo trong đầu óc cố tìm ra việc gì làm cho đỡ thừa thãi. Tôi tươi cười với Stan. Rồi với tay ra sau vuốt thẳng đuôi tóc theo quán tính, tôi nhận ra tóc mình vẫn cuộn lại ngay ngắn sau đầu, mặc dù ít gọn gàng hơn chút. Việc nghịch mái tóc giúp tôi có lý do chính đáng để nhìn xuống.
Tôi thở phào nhẹ nhõm hẳn khi Bill trở lại cùng với Isabel và tay rửa bát, đang cầm theo một bát nước. “Tôi xin lỗi, Stan,” Bill nói. “Tôi e rằng Farrell đã chết rồi, nếu anh chiếu theo những gì chúng tôi đã khám phá được trong tối nay. Sookie và tôi sẽ quay trở lại Louisiana vào ngày mai, trừ khi anh cần chúng tôi thêm.” Isabel chỉ tay về phía bàn, và người đàn ông kia đặt cái bát xuống.
“Ừ thì thôi anh cũng nên về đi,” Stan đáp lại bằng giọng lạnh như băng. “Gửi hóa đơn cho tôi. Ông chủ của anh, Eric ấy, khá cương quyết trong chuyện tiền nong. Tôi sẽ phải gặp ông ta khi nào đó thôi.” Giọng hắn cho thấy cuộc gặp đó sẽ chẳng vui vẻ gì cho Eric.
Isabel đột ngột nói, “Đồ người ngu ngốc! Mày làm đổ đồ uống của tao rồi đấy!” Bill vươn qua tôi để tháo con bọ dưới gầm bàn ra thả vào nước, và Isabel đi còn nhẹ nhàng hơn cả lúc trước nữa để tránh cho nước khỏi sánh ra ngoài, rời khỏi căn phòng. Người đàn ông đi cùng cô ta vẫn ở lại.
Con bọ được loại bỏ đi đơn giản thế thôi. Và rất có thể những ai đang nghe sẽ bị mẩu đối thoại nãy giờ đánh lừa. Tất cả chúng tôi đều thoải mái hẳn ra khi con bọ đã được gỡ đi. Thậm chí cả Stan trông cũng ít dễ sợ hơn chút đỉnh.
“Isabel nói rằng ông có lý do để nghĩ chắc là Farrell đã bị Hội bắt cóc,” người đàn ông nói. “Có lẽ ngày mai cô nương đây và tôi sẽ cùng đến Trung tâm Hội, cố tìm ra xem có kiểu lễ lạt nào sắp được tổ chức không.”
Bill và Stan trầm ngâm cân nhắc.
“Ý tưởng hay đấy,” Stan nói. “Một cặp đôi sẽ ít bị chú ý hơn.”
“Sookie, sao em?” Bill hỏi.
“Tất nhiên là chẳng ai trong số bọn anh có thể đi rồi,” tôi nói. “Em nghĩ có lẽ ít nhất chúng em có thể nắm được cách bố trí của nơi đó. Nếu anh nghĩ nhiều khả năng Farrell bị giam giữ ở đó.” Nếu có thể tìm hiểu thêm về những gì diễn ra ở Trung tâm Hội, biết đâu tôi sẽ ngăn được những ma cà rồng khỏi tấn công. Họ chắc chắn chẳng đời nào đến Sở Cảnh sát để điền vào đơn báo cáo tìm người thân mất tích để kêu gọi cảnh sát đến lục soát Trung tâm Hội rồi. Dù những ma cà rồng ở Dallas có muốn giữ đúng khuôn khổ pháp luật của con người đến đâu đi nữa để bọn họ có thể thành công gặt hái những lợi ích trong việc chung sống với con người, tôi biết rằng nếu có một ma cà rồng ở Dallas bị cầm tù ở Trung tâm, con người sẽ chết như ngả rạ. Biết đâu tôi có thể ngăn không cho chuyện đó xảy ra, và tìm thấy cả Farrell mất tích nữa.
“Nếu tay ma cà rồng xăm mình đó là một kẻ từ bỏ, và dự định gặp mặt trời, mang theo Farrell cùng hắn, và nếu chuyện này được Hội sắp xếp, thì tên cha xứ giả mạo đã từng cố tình bắt cóc em ở sân bay phải làm việc cho chúng. Giờ chúng đã biết mặt em rồi,” Bill chỉ ra. “Chắc em phải đội tóc giả thôi.” Anh mỉm cười mãn nguyện. Bộ tóc giả là ý tưởng của anh mà.
Đội tóc giả khi trời nóng thế này sao. Ôi, quỷ tha ma bắt. Tôi cố không tỏ vẻ hờn dỗi. Dù sao thì, thà đầu ngứa một chút còn hơn bị phát hiện là kẻ có quan hệ với ma cà rồng trong khi tôi đang đến thăm Trung tâm của Hội Bằng Hữu Mặt Trời. “Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu có thêm một con người nữa đi với em,” tôi thú nhận, cảm thấy áy náy khi để liên lụy đến người khác.
“Đây là người đàn ông hiện thời của Isabel,” Stan nói. Hắn im lặng thêm một phút, và tôi đoán hắn đang “nhá đèn” với cô ả, hoặc đang liên lạc theo cách quỷ nào đấy với đám lâu la.
Mà quả vậy thật, Isabel lướt vào phòng. Tiện thật nhỉ, khi có thể triệu tập người ta như thế. Bạn sẽ chẳng cần đến máy bộ đàm hay điện thoại gì cả. Tôi thắc mắc không biết mấy ma cà rồng khác ở cách đấy bao xa mà vẫn có thể nhận được tín hiệu của hắn. Tôi cũng mừng rằng Bill không thể ra hiệu với tôi mà không cần nói, bởi như thế thì tôi sẽ cảm thấy mình như nữ tì của anh. Liệu Stan có thể triệu tập con người như cách hắn làm với các ma cà rồng khác không nhỉ? Có lẽ tôi chẳng muốn biết lắm.
Người đàn ông phản ứng lại với sự xuất hiện của Isabel theo đúng cách một chú chó săn chim nhận ra con chim cút. Hay có lẽ giống như một người đàn ông đói cồn cào được phục vụ món bít tết thượng hạng, rồi sau đó phải chờ được ban ơn. Bạn gần như có thể nhìn thấy nước dãi thèm thuồng của anh ta. Tôi hy vọng mình đừng trông giống vậy khi ở gần Bill.
“Isabel, người đàn ông của cô đã tình nguyện đi cùng Sookie đến Trung tâm Hội Bằng Hữu Mặt Trời. Anh ta liệu có thể thuyết phục người khác tin rằng mình muốn cải đạo không?”
“Được, tôi nghĩ là được,” Isabel nói, nhìn chăm chăm vào đôi mắt người đàn ông.
“Trước khi cô đi - tối nay có vị khách nào không?”
“Có, một người, từ California.”
“Anh ta đâu?”
“Ở trong nhà.”
“Anh ta có vào phòng này không?” Lẽ tự nhiên, Stan muốn rằng kẻ cài con bọ là một ma cà rồng hay con người nào đó mà hắn không quen biết.
“Có.”
“Mang hắn lại đây.”
Mãi năm phút sau, Isabel trở lại giải theo một tay ma cà rồng tóc vàng cao lớn. Chắc hẳn gã phải cao đến hơn mét chín, hay thậm chí hơn nữa. Hắn có thân hình cường tráng, râu tóc cạo sạch sẽ, và một bờm tóc màu lúa mì. Tôi ngay lập tức nhìn xuống chân mình, đồng thời cảm nhận thấy Bill cũng đang đứng bất động.
Isabel giới thiệu, “Đây là Leif.”
“Leif,” Stan nói nhẹ nhàng, “chào mừng tới tổ của tôi. Tối nay ở đây chúng tôi có vấn đề.”
Tôi nhìn chăm chăm xuống những ngón chân mình, chỉ mong sao được ở riêng với Bill trong hai phút để tìm ra xem cái quái gì đang diễn ra thế này, bởi vì gã ma cà rồng này chẳng phải là “Leif” nào cả, và hắn cũng không từ California đến.
Đó là Eric.
Bàn tay Bill lọt vào tầm mắt của tôi rồi nắm chặt lấy tay tôi. Anh cẩn thận siết nhẹ tay tôi, và tôi cũng khẽ nắm tay anh. Bill vòng tay qua người tôi, và tôi dựa vào anh. Chao ôi, tôi cần thư giãn một chút.
“Tôi có thể giúp gì ngài đây?” Eric - à không, lúc này là Leif chứ - hỏi lại một cách lịch sự.
“Có vẻ như ai đó đã vào căn phòng này để thực hiện hành vi do thám.”
Đó có vẻ là cách khá hay để đề cập đến vấn đề này. Stan đang muốn giữ bí mật chuyện bị cài bọ nghe trộm, và xét trên thực tế ở đây chắc chắn có một kẻ phản bội, đó chắc hẳn là ý tưởng tuyệt vời.
“Tôi là khách đến tổ của anh và tôi chẳng có vấn đề gì với anh hay những ma cà rồng dưới trướng anh cả.”
Sự chối bỏ bình tĩnh và chân thành của Leif khá ấn tượng, mặc dù tôi biết rằng sự hiện diện của hắn ta ở đây chỉ là một sự mạo danh cho những mục đích kiểu ma cà rồng bí ẩn nào đó.
“Xin lỗi,” tôi nói, cố ra vẻ thật run rẩy mong manh như con người.
Stan xem chừng cáu tiết bởi sự làm phiền đó, nhưng kệ xác hắn ta.
“Cái, à, vật đó, phải được đặt vào trong căn phòng này trước ngày hôm nay,” tôi nói, cố giữ giọng mình nghe như biết chắc Stan đã nghĩ đến thực tế này rồi. “Để thu thập chi tiết việc bọn tôi đến Dallas.”
Stan nhìn chăm chăm vào tôi chẳng chút biểu hiện gì.
Đã phóng lao rồi, tôi đành phải theo lao thôi. “Và xin thứ lỗi, nhưng tôi thực sự mệt lắm rồi. Bill có thể đưa tôi về khách sạn được rồi chứ?”
“Chúng tôi sẽ cử Isabel đưa cô về khách sạn một mình,” Stan thô bạo nói.
“Không được đâu, thưa ngài.”
Đằng sau cặp kính giả tạo, chân mày nhợt nhạt của Stan nhướn lên. “Không ư?” Giọng hắn vang lên cứ như thể chưa bao giờ nghe từ đó vậy.
“Theo điều khoản hợp đồng, tôi sẽ không đi đâu mà không có một ma cà rồng thuộc khu vực của chúng tôi. Bill là ma cà rồng đó. Đêm hôm tôi sẽ không đi đâu mà không có anh ấy.”
Stan nhìn chằm chằm vào tôi thêm một hồi lâu. Tôi mừng là mình đã tìm thấy con bọ nghe trộm và chứng minh bản thân có ích, nếu không tôi sẽ chẳng thể tồn tại lâu trong lãnh địa của Stan. “Đi đi,” hắn nói, vậy là Bill và tôi chẳng phí thêm chút thời gian nào nữa. Chúng tôi chẳng thể giúp gì Eric nếu như Stan nghi ngờ hắn ta, và rất có nguy cơ chúng tôi sẽ làm lộ danh tính của hắn nữa. Tôi có lẽ là người dễ dàng làm lộ chuyện đó hơn bởi vài câu nói hay điệu bộ nào đó, mà Stan thì theo dõi tôi suốt. Ma cà rồng đã nghiên cứu về loài người hàng thế kỷ nay rồi, theo cái cách mà loài thú săn mồi nghiên cứu cặn kẽ về con mồi của chúng.
Isabel đi ra cùng chúng tôi, và chúng tôi quay trở lại chiếc Lexus của ả để về khách sạn Silent Shore. Những con phố của Dallas, dù không vắng xe nhưng ít nhất cũng yên ắng hơn rất nhiều so với khi chúng tôi trên đường đến tổ ma cà rồng vài giờ trước đây. Tôi ước lượng rằng còn non hai tiếng nữa thì bình minh lên.
“Cảm ơn,” tôi nói lịch sự khi chiếc xe dừng lại dưới hàng hiên vào khách sạn.
“Bạn người của tôi sẽ đón cô vào khoảng ba giờ chiều,” Isabel bảo tôi.
Cố gắng kiềm chế không thốt ra, “Vâng, thưa sếp!” và rập gót chân vào nhau, tôi chỉ bảo cô ta rằng được thế thì tốt quá. “Mà tên anh ta là gì nhỉ?” tôi hỏi.
“Anh ta tên là Hugo Ayres,” ả đáp.
“Được rồi.” Tôi đã biết anh ta là một gã nhanh nhẹn có đầu óc. Tôi bước vào sảnh đợi Bill. Chỉ vài giây sau anh đã ở ngay sau lưng tôi, và chúng tôi bước vào thang máy trong im lặng.
“Em có chìa khóa đấy không?” anh hỏi tôi trước cửa phòng.
Tôi đã lơ mơ ngủ. “Của anh đâu?” tôi hỏi, không chút ân cần.
“Anh chỉ muốn nhìn thấy em lấy chìa khóa của em ra,” anh đáp.
Đột nhiên tôi vui vẻ hơn hẳn. “Có lẽ anh sẽ thích tìm thấy nó ấy chứ,” tôi gợi ý.
Một gã ma cà rồng với bờm tóc dài đến tận thắt lưng tản bộ dọc hành lang, quàng tay qua một cô ả phúng phình với mái tóc đỏ loăn xoăn. Khi họ vào căn phòng xa tít cuối hành lang, Bill bắt đầu lục tìm chìa khóa.
Anh tìm thấy nó khá nhanh.
Khi chúng tôi vào trong phòng, Bill bế tôi lên và hôn tôi thật lâu. Chúng tôi cần nói chuyện, bởi lẽ đã có quá nhiều chuyện xảy ra trong buổi tối dài dằng dặc này, nhưng tôi chẳng có tâm trạng để nói, mà anh cũng vậy.
Điều hay ho của váy áo là, tôi phát hiện ra, chúng chỉ cần vén lên, và nếu bạn chỉ mặc quần lót dây bên dưới, nó sẽ biến mất trong chớp mắt. Chiếc áo khoác màu xám nằm trên sàn, áo sơ mi trắng cũng được cởi bỏ, cánh tay tôi khóa cứng quanh cổ Bill trước khi bạn kịp nói, “Mặc xác ma cà rồng.”
Bill đang dựa vào tường phòng khách cố cởi quần ra còn tôi vẫn quấn quanh người anh thì đúng lúc đó một tiếng gõ cửa vang lên.
“Chết tiệt,” anh thì thầm vào tai tôi. “Cút đi,” anh nói, to tiếng hơn một chút. Tôi uốn éo quấn lấy anh còn hơi thở của anh nghẹt lại trong họng. Anh tháo chiếc kẹp tóc và dải Hairagami ra khỏi tóc tôi để mái tóc xõa xuống lưng.
“Tôi cần nói chuyện với hai người,” một giọng nói quen thuộc vang lên, hơi nghèn nghẹn bởi cánh cửa dày cộp.
“Không,” tôi rên rỉ. “Nói rằng đó không phải là Eric đi.” Sinh vật duy nhất mà chúng tôi phải tiếp.
“Eric đây,” giọng nói lên tiếng.
Tôi không kẹp chân mình quanh hông Bill nữa, và anh nhẹ nhàng đặt tôi xuống sàn. Cảu nhảu càu nhàu, tôi giậm chân bình bịch đi vào phòng ngủ để khoác lên mình chiếc áo choàng tắm. Còn lâu mới mặc lại đống đồ kia nhé.
Tôi trở ra đúng lúc Eric khen Bill rằng tối đó anh đã làm rất tốt.
“Và, tất nhiên, cô cũng thật tuyệt vời, Sookie à,” Eric nói, mắt liếc nhìn vẻ am hiểu vào chiếc áo choàng tắm hồng ngắn ngủn. Tôi ngước lên nhìn hắn - ngước lên cao hơn cao hơn nữa - và ước gì hắn bị dìm xuống đáy Hồng Hà, cùng với nụ cười đỏm dáng, mái tóc vàng óng kia nữa, tất tần tật.
“Ôi,” tôi hằn học, “cảm ơn anh nhiều lắm vì đã tới tận đây mà khen chúng tôi như vậy. Bọn tôi chẳng thể nào ngủ được nếu không được anh khích lệ đâu nhỉ.”
Eric cố ra vẻ thật ôn tồn. “Ôi trời ơi,” hắn nói. “Tôi có làm gián đoạn gì không đấy? Có phải mấy cái này - à há, cái này này - là của cô hả, Sookie?” Hắn giơ lên một sợi dây đen từng là một bên quai hông chiếc quần lót dây của tôi.
Bill bảo, “Nói thẳng ra là, phải. Còn chuyện gì khác anh muốn bàn bạc với tụi này nữa không, Eric?” Băng giá chắc cũng phải bất ngờ làm sao mà Bill có thể nói với giọng lạnh lùng đến vậy.
“Tối nay chúng ta không có thời gian,” Eric ra chiều tiếc nuối, “vì bình minh sắp lên rồi, và có mấy thứ tôi phải xem qua trước khi đi ngủ. Nhưng tối mai chúng ta phải gặp nhau đấy. Khi hai người tìm hiểu được Stan muốn hai người làm gì thì để lại tin nhắn trên bàn, và chúng ta sẽ thu xếp gặp nhau.”
Bill gật đầu. “Vậy thì tạm biệt,” anh nói.
“Anh không muốn làm một ly trước khi đi ngủ à?” Thằng cha này muốn được mời một chai máu hay sao ấy nhỉ? Đôi mắt Eric di chuyển từ chiếc tủ lạnh, sau đó về phía tôi. Tôi thấy tiếc vì mình đang mặc một chiếc áo choàng mỏng manh làm bằng sợi nylon thay vì thứ gì đó dày cui có dây viền. “Nóng hổi từ trong huyết quản ấy?” Bill vẫn lầm lì im lặng.
Ánh nhìn của hắn cố nấn ná trên người tôi cho tới phút cuối cùng, Eric bước ra ngoài và Bill khóa cửa lại ngay sau lưng hắn. “Anh nghĩ hắn ta đang nghe lỏm ở bên ngoài à?” tôi hỏi Bill, khi anh tháo tung nút thắt áo choàng của tôi ra.
“Anh chẳng quan tâm,” Bill nói, và anh cúi đầu xuống một thứ khác.
Khi tôi tỉnh dậy, khoảng một giờ chiều, khách sạn im ắng lạ thường. Tất nhiên, hầu hết mọi khách trọ đều đang ngủ. Và phục vụ phòng sẽ không dọn phòng vào ban ngày. Tối qua tôi cũng đã để ý đến vấn đề an ninh - ma cà rồng gác cửa. Ban ngày thì sẽ khác, bởi bảo vệ ban ngày là thứ đang được khách trọ ở đây chi trả mạnh tay. Tôi gọi phục vụ phòng lần đầu tiên trong cuộc đời mình và yêu cầu bữa sáng. Tôi đói ngấu, bởi từ tối qua đến giờ tôi chưa ăn gì. Tôi tắm rửa một chút rồi vừa khoác tấm áo choàng tắm lên người thì phục vụ phòng gõ cửa, và sau khi chắc chắn anh ta đúng là phục vụ phòng, tôi để anh ta vào.
Sau vụ cố tình bắt cóc tôi ở sân bay trước đây, tôi không coi thường mọi chuyện nữa. Tôi giữ lọ xịt ớt ngay bên cạnh khi người đàn ông trẻ phục vụ phòng bày thức ăn và bình cà phê ra. Nếu anh ta bước một bước đến gần cửa phòng nơi Bill đang ngủ trong quan tài, tôi sẽ xịt ngay vào mặt anh ta. Nhưng anh chàng này, Arturo, đã được huấn luyện kỹ càng, đôi mắt của anh ta không bao giờ lơ mơ về phía phòng ngủ. Và anh ta cũng chẳng nhìn trực tiếp vào tôi nữa. Mặc dù vậy, anh chàng có nghĩ về tôi, và tôi ước gì mình đã mặc thêm áo lót trước khi để anh ta vào.
Khi anh ta đã đi rồi - và như Bill đã hướng dẫn, tôi thêm khoản tiền boa vào tấm phiếu phòng mà mình ký - tôi ăn hết mọi thứ anh chàng phục vụ phòng mang tới: xúc xích và bánh kếp cùng với một bát dưa viên. Ôi chúa ơi, ngon quá đi mất. Xi rô ăn kèm đúng là xi rô cây thích chính hiệu, và hoa quả thì vừa chín tới. Món xúc xích ngon hết sảy. Tôi mừng là không có Bill ở đây nhìn ngắm và khiến tôi không thoải mái. Anh ấy không thích nhìn tôi ăn lắm, và anh ấy ghét tôi ăn tỏi.
Tôi đánh răng, chải tóc, rồi trang điểm qua loa. Đã đến lúc phải chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Trung tâm Hội rồi. Tôi chia tóc thành từng phần nhỏ rồi kẹp hết lại, sau đó lấy mái tóc giả ra khỏi hộp. Mái tóc ngắn màu nâu sẫm và thực sự chẳng có gì nổi bật cả. Tôi đã nghĩ Bill bị điên khi gợi ý tôi đeo tóc giả, và tôi vẫn đang băn khoăn tại sao anh ấy lại nghĩ là tôi cần nó, nhưng tôi mừng là đã có nó ở đây. Tôi có một cặp kính như của Stan, cũng để ngụy trang như hắn, vậy là tôi đeo vào. Phần dưới chiếc kính làm mọi thứ được phóng to hơn một chút, nên tôi có thể đường hoàng gọi đấy là kính đọc sách.
Những tay quá khích mặc gì đến nơi tập trung những kẻ quá khích khác nhỉ? Theo kinh nghiệm ít ỏi của tôi, những kẻ quá khích thường rất bảo thủ về quần áo, hoặc vì họ quá bận tâm đến chuyện khác mà không để ý đến trang phục, hoặc họ nghĩ ăn vận hợp thời trang là xấu xa. Nếu là ở nhà thì tôi sẽ chạy ra Wal-mart mua ngay một bộ phù hợp túi tiền, nhưng tôi lại đang ở đây trong cái khách sạn Silent Shore đắt đỏ không có cửa sổ. Tuy nhiên, Bill đã bảo tôi gọi tiếp tân nếu cần bất cứ thứ gì. Nên tôi đã làm thế.
“Tiếp tân đây ạ,” giọng một người vang lên như đang cố bắt chước giọng nói nhẹ nhàng lạnh lùng của một ma cà rồng đứng tuổi. “Tôi có thể giúp gì quý khách ạ?” Tôi muốn bảo anh ta bỏ cái giọng ấy đi. Ai mà muốn một phiên bản bắt chước khi mà những thứ thực thụ đang ở ngay đây chứ?
“Tôi là Sookie Stackhouse ở phòng ba mười bốn. Tôi cần một chiếc váy dài vải jean, cỡ số tám, và một áo sơ mi hoa màu tùng lam hoặc áo dệt kim, cùng cỡ.”
“Vâng, thưa cô,” anh ta nói sau một khoảng im lặng hơi lâu. “Khi nào thì tôi có thể mang lên cho cô ạ?”
“Nhanh nhanh vào.” Ha, thế này vui thật đấy. “Thật ra thì, càng sớm càng tốt nhé.” Tôi khoái trò này rồi đây. Tôi yêu cảm giác được người khác trả tiền hộ mọi thứ quá.
Tôi xem mục tin tức trong khi chờ đợi. Đó là một chương trình thời sự điển hình ở bất cứ thành phố nào trên nước Mỹ: tin tức về vấn đề giao thông, tranh chấp lãnh thổ, các vụ giết người.
“Người ta đã xác định được danh tính người phụ nữ bị tử vong tối qua và xác bị nhét trong thùng rác khách sạn”, người đưa tin nói, giọng anh ta toát lên sự tang thương. Anh ta trễ hai bên khóe miệng xuống để bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng. “Xác của cô Bethany Rogers hai mươi mốt tuổi đã được tìm thấy phía sau khách sạn Silent Shore, nơi nổi tiếng là khách sạn đầu tiên ở Dallas chuyên nhận những vị khách bất tử. Cô Rogers đã bị sát hại bởi một vết thương do đạn bắn ngay đầu. Cảnh sát đã miêu tả vụ sát hại này là ‘kiểu hành quyết’. Thanh tra Tawny Kelner đã nói với phóng viên của chúng tôi rằng cảnh sát đang lần theo rất nhiều đầu mối.” Màn hình ti vi chuyển từ hình ảnh một gương mặt hung dữ giả tạo sang một gương mặt dữ dằn thực sự. Nữ thanh tra khoảng tầm bốn mươi tuổi, tôi nghĩ thế, một phụ nữ rất lùn với bím tóc buông dài sau lưng. Ống kính camera xoay lại để lia vào khung hình hình ảnh phóng viên, một gã đàn ông nhỏ thó da sẫm màu mặc bộ com lê may cắt chỉn chu. “Thưa thanh tra Kelner, có đúng là cô Bethany Rogers làm việc ở một quán bar của ma cà rồng không?”
Vẻ mặt cau có của viên thanh tra càng trở nên nhăn nhó hơn. “Phải, đúng vậy,” bà ta nói. “Tuy vậy, cô ta được thuê vào làm hầu bàn, chứ không phải làm chiêu đãi viên.” Chiêu đãi viên ư? Chiêu đãi viên thì làm gì ở quán Bat’s Wing chứ? “Cô ta mới chỉ làm ở đó vài tháng thôi.”
“Có phải địa điểm xác cô gái bị bỏ lại chỉ ra rằng chuyện này ít nhiều có dính dáng đến ma cà rồng không?” Tay phóng viên kiên trì hơn tôi tưởng.
“Ngược lại thì đúng hơn, tôi tin là địa điểm đó được chọn để gửi một thông điệp cho ma cà rồng,” Kelner đốp lại, và sau đó bà ta trông có vẻ tiếc vì đã nói vậy. “Bây giờ, cảm phiền anh…”
“Tất nhiên rồi, thưa bà thanh tra,” tay phóng viên thoáng vẻ sửng sốt. “Vậy đó, Tom à,” anh ta quay lại đối mặt với ống kính, cứ như thể nhìn xuyên qua ống kính để thấy được người đọc tin ở trong phòng thu vậy, “đây là một vụ khiêu khích.”
Hả?
Người dẫn chương trình cũng nhận ra tay phóng viên nói năng chẳng có nghĩa lý gì cả nên nhanh chóng chuyển sang chủ đề khác.
Bethany tội nghiệp đã chết, và chẳng có ai để tôi bàn bạc chuyện đấy cả. Tôi cố kìm nước mắt; tôi không hề cảm thấy mình có quyền rơi nước mắt cho cô gái đó. Tôi không thể không tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bethany Rogers tối qua sau khi được dẫn ra khỏi căn phòng trong tổ ma cà rồng. Nếu không có vết răng thì chắc chắn là ma cà rồng đã không giết cô. Phải là một ma cà rồng loại hiếm mới có thể hút máu mà không cần cắn.
Sụt sịt kìm tiếng khóc và lo sợ đến khổ sở, tôi ngồi trên ghế dài bới tung ví để tìm cây bút chì. Cuối cùng, tôi tìm được chiếc bút. Tôi dùng nó để gãi đầu dưới lớp tóc giả. Kể cả trong bóng tối mát lạnh hơi điều hòa của căn phòng khách sạn, đầu tôi vẫn ngứa. Khoảng ba mươi phút sau, một tiếng gõ cửa vang lên. Một lần nữa, tôi nhìn qua mắt cửa. Lại là Arturo, với những món quần áo xếp ngay ngắn trên tay.
“Chúng tôi sẽ trả lại những thứ quý khách không ưng ý,” anh ta nói, đưa tôi bọc quần áo. Anh ta cố hết sức để không nhìn chăm chăm vào mái tóc của tôi.
“Cảm ơn anh,” tôi nói, rồi boa cho anh ta. Tôi làm quen chuyện này thật nhanh.
Không còn bao lâu nữa là tôi phải gặp gã Ayres, cục cưng của Isabel, cởi bỏ chiếc áo choàng ngay tại chỗ đang đứng, tôi nhìn những thứ mà Arturo mang đến. Chiếc áo màu hồng đào nhạt với những bông hoa trắng mờ, cái này chắc được rồi, còn váy… hừmm. Anh ta không tìm được vải jean, hẳn thế, nên mang đến cho tôi hai chiếc váy bằng vải ka ki. Cũng được thôi, nhỉ, và tôi mặc thử một chiếc vào. Nó trông hơi bó so với hiệu ứng mà tôi cần tạo, và tôi mừng là anh ta mang thêm một kiểu váy khác. Nó thật phù hợp với hình ảnh tôi cần. Tôi tròng vào chân đôi xăng đan bệt, đeo đôi bông tai nhỏ xíu vào lỗ tai, và vậy là tôi đã sẵn sàng khởi hành rồi. Tôi thậm chí còn có một cái xắc tay bằng cói te tua tương đồng với bộ quần áo. Không may thay, đó cũng là cái ví tôi thường dùng. Nhưng nó phù hợp hết cỡ. Tôi vứt hết giấy tờ tùy thân ra, ước rằng mình đã nghĩ đến chuyện này sớm hơn thay vì nước đến chân mới nhảy. Tôi tự hỏi không biết còn biện pháp an toàn thiết yếu nào mà mình lỡ quên nữa không.
Tôi bước ra hành lang vắng lặng. Hành lang trông hệt như tối hôm trước. Không có gương và cũng chẳng có cửa sổ, mang lại cảm giác bị bao kín toàn diện. Màu đỏ sẫm của thảm trải phòng cùng với màu xanh cô ban, đỏ và kem của giấy dán tường cũng chẳng giúp được gì nhiều. Cửa thang máy bật mở ngay tức thì khi tôi bấm nút gọi, và tôi một mình xuống tầng dưới. Thậm chí cũng chẳng có tiếng nhạc trong thang máy nữa. Khách sạn Silent Shore quả đúng như tên gọi của mình.
Tôi xuống đến tiền sảnh thì thấy hai bên thang máy đều có lính gác vũ trang. Họ đang nhìn về phía cửa chính của khách sạn. Những cánh cửa này rõ ràng đều bị khóa lại. Có một màn hình ti vi gắn cạnh cửa, chiếu cảnh vỉa hè bên ngoài những cánh cửa kia. Một màn hình ti vi khác chiếu góc nhìn rộng hơn.
Tôi nghĩ một cuộc tấn công đẫm máu chắc hẳn sắp xảy ra và tôi đông cứng lại, tim đập liên hồi, nhưng sau vài giây trấn tĩnh tôi nhận ra rằng chắc hẳn họ có mặt ở đây suốt. Đó là lý do vì sao ma cà rồng lại ở đây, hay ở những khách sạn đặc biệt tương tự khác. Chẳng ai có thể vượt qua những tay lính gác này để đến được thang máy. Chẳng ai có thể lọt vào những căn phòng trong khách sạn nơi đám ma cà rồng vô hại đang nằm ngủ. Đó cũng là lý do vì sao giá phòng ở đây lại đắt cắt cổ đến thế. Hai lính gác đang làm nhiệm vụ đều cao to, và đều mặc bộ chế phục màu đen của khách sạn. (Hơ, hừm. Mọi người đều nghĩ rằng ma cà rồng bị ám ảnh bởi màu đen thì phải.) Bắp tay của những tên lính gác trông thật khổng lồ đối với tôi, nhưng này, tôi không quen với súng ống lắm mà. Mấy tay lính gác liếc qua phía tôi rồi quay trở lại với hướng nhìn thẳng tẻ ngắt.
Kể cả nhân viên tiếp tân cũng được trang bị vũ khí. Vài khẩu súng trường được treo trên giá phía sau quầy. Tôi tự hỏi không biết họ còn làm những gì nữa để bảo vệ khách của mình. Liệu họ có thực sự sẽ bắn vào những con người, những kẻ xâm nhập ấy? Pháp luật sẽ xử lý việc này ra sao?
Một người đàn ông đeo kính ngồi ở một trong những chiếc ghế lót đệm kê thành hàng trên sàn nhà cẩm thạch của tiền sảnh. Anh ta khoảng ba mươi tuổi, cao và khẳng khiu, với mái tóc hung hung vàng. Anh ta mặc com lê, loại com lê bằng vải ka ki nhẹ dành cho mùa hè, đeo cà vạt kiểu cũ và đi giày lười bóng lộn. Tay rửa bát hôm qua, hẳn rồi.
“Hugo Ayres phải không?” tôi hỏi.
Anh ta đứng phắt dậy để bắt tay tôi. “Cô chắc hẳn là Sookie rồi? Nhưng tóc cô… tối qua, màu vàng hoe mà?”
“Phải. Tôi đang đội tóc giả.”
“Trông rất tự nhiên.”
“Thế thì tốt. Anh sẵn sàng chưa?”
“Xe của tôi đang để ở ngoài.” Anh ta chạm nhẹ vào lưng để dẫn tôi đi đúng hướng, cứ như thể không làm thế thì tôi không nhìn thấy cửa ra vậy. Tôi đánh giá cao sự nhã nhặn đó, nếu như nó không xuất phát từ ý đồ gì. Tôi đang cố tìm bắt tâm trí của Hugo Ayres. Anh ta không phải là người phát sóng.
“Anh đã hẹn hò với Isabel được bao lâu rồi?” tôi hỏi khi chúng tôi cài dây an toàn trên chiếc Caprice của anh ta.
“À, ừ, tôi nghĩ là khoảng mười một tháng,” Hugo Ayres đáp. Anh ta có bàn tay to, mu bàn tay lốm đốm tàn nhang. Tôi ngạc nhiên sao anh ta không sống ở vùng ngoại ô cùng một người vợ tóc nhuộm highlight và hai đứa con tóc vàng giống bố.
“Anh ly dị rồi phải không?” tôi bật hỏi. Tôi thấy hối tiếc ngay khi nhìn thấy sự đau khổ thoáng qua khuôn mặt anh ta.
“Phải,” anh ta đáp. “Cũng mới gần đây thôi.”
“Tệ quá nhỉ.” Tôi định bắt đầu hỏi về lũ trẻ, nhưng rồi quyết định rằng đó chẳng phải chuyện của mình. Tôi thừa sức đọc rõ tâm trí để biết rằng anh ta có một bé gái, nhưng tôi không tìm được tên tuổi của cô bé.
“Có thật là cô đọc được tâm trí người khác không?” anh ta hỏi.
“Phải, đúng vậy.”
“Chả trách sao cô thu hút họ đến vậy.”
À, đau đấy, Hugo à. “Có lẽ đó là phần lớn lý do,” tôi nói, giữ giọng bình bình. “Ban ngày anh làm nghề gì?”
“Tôi là luật sư,” Hugo đáp.
“Chả trách anh thu hút họ đến vậy,” tôi đáp, bằng giọng bình thường hết sức.
Sau một hồi im lặng lâu lâu, Hugo nói, “Tôi nghĩ chắc tôi đáng bị vậy.”
“Bỏ qua chuyện này đi. Chúng ta nghĩ ra một câu chuyện ngụy trang đi nào.”
“Mình làm anh em được chứ?”
“Không phải là không được. Tôi đã từng thấy những cặp anh em trông khác nhau hơn cả chúng ta cơ. Nhưng tôi nghĩ mối quan hệ bạn trai-bạn gái sẽ hợp lý hóa những gì chúng ta không biết về nhau hơn, nếu ta bị chia cắt và thẩm tra. Tôi không nghĩ là chuyện này sẽ xảy ra, và tôi cũng sẽ ngạc nhiên lắm nếu sự thể thành ra như vậy, nhưng nếu là anh em trong nhà thì chúng ta phải biết tất cả về nhau.”
“Cô nói đúng. Tại sao ta không nói ta gặp nhau ở một nhà thờ nào đó nhỉ? Cô mới chuyển đến Dallas, và tôi gặp cô ở một buổi lễ thờ sáng Chủ nhật ở Hội Giám lý Glen Craigie. Đó là nhà thờ của tôi thật.”
“Được rồi. Thế nói tôi làm quản lý một… nhà hàng thì sao nhỉ?” Từ chuyện đang làm việc ở Merlotte, tôi nghĩ tôi sẽ diễn đạt vai này nếu không bị tra hỏi quá kỹ càng.
Trông anh ta thoáng ngạc nhiên. “Nghe khác biệt mà lại thật hợp lý đây. Tôi chẳng phải một diễn viên giỏi lắm, nên nếu cứ là chính mình, tôi sẽ ổn.”
“Anh quen Isabel như thế nào?” Tất nhiên là tôi tò mò rồi.
“Tôi đại diện cho Stan trước tòa. Hàng xóm của anh ta kiện vì việc ma cà rồng mở quán trong khu dân cư của họ. Họ đã thua kiện.” Hugo có những cảm xúc lẫn lộn về việc có tình cảm với một nữ ma cà rồng, và không hoàn toàn chắc chắn rằng mình nên thắng vụ đó không nữa. Thực tế, Hugo còn đang cực kỳ lẫn lộn giữa yêu và ghét với Isabel.
Ôi, hay thật, chuyện này làm công việc hôm nay trở nên đáng sợ hơn rất nhiều. “Chuyện này có được lên báo không? Việc anh làm luật sư cho Stan Davis ấy?”
Anh ta trông tủi nhục. “Có, có lên báo. Chết thật, ai đó ở Trung tâm có thể nhận ra tên tôi. Hay nhận ra mặt tôi, từ hình ảnh tôi được đăng trên báo.”
“Nhưng có khi thế lại tốt hơn đấy. Anh có thể nói với họ rằng mình đã nhận ra sai lầm trong đường đi nước bước của mình, sau khi hiểu hơn về ma cà rồng.”
Hugo cân nhắc chuyện này thật lung, bàn tay tàn nhang to lớn nhúc nhích không yên trên vô lăng. “Được rồi,” cuối cùng anh ta đáp. “Như tôi đã nói rồi đấy, tôi chẳng biết diễn đâu, nhưng tôi nghĩ tôi có thể diễn cho ra vai đó.”
Tôi thì diễn suốt, nên cũng chẳng lo lắng lắm về phần của mình. Việc nhận đặt hàng từ một gã trong khi cô giả vờ như không biết hắn đang chiêm nghiệm xem lông tóc bạn có vàng từ trên xuống dưới hay không là một trò luyện tập diễn xuất tuyệt vời. Ta không thể trách người ta - đa số nhé - vì những gì họ nghĩ trong đầu được. Ta phải học được cách vượt lên trên những chuyện như thế.
Tôi định gợi ý tay luật sư nắm tay tôi nếu hôm nay mọi chuyện có lúc nào đó trở nên căng thẳng, để gửi cho tôi những suy nghĩ giúp tôi có thể ứng biến. Nhưng cảm xúc yêu ghét lẫn lộn ở anh ta, sự mâu thuẫn nồng nặc tỏa ra từ anh ta như mùi nước hoa rẻ tiền, làm tôi khựng lại. Anh ta có thể là nô lệ tình dục cho Isabel, anh ta thậm chí có thể phải lòng cô ả và với mối nguy hiểm mà cô ả là hiện thân, nhưng tôi không nghĩ anh ta toàn tâm toàn ý hướng về cô ả.
Trong một khoảnh khắc khó chịu tự kiểm tra lại bản thân, tôi tự hỏi không biết chuyện của Bill và tôi có tương tự. Nhưng giờ chẳng phải nơi, chẳng phải lúc cân nhắc chuyện này. Tôi đang thu thập đủ thông tin từ tâm trí của Hugo để thắc mắc liệu anh ta có hoàn toàn đáng tin cậy cho cái nhiệm vụ nho nhỏ này của chúng tôi không. Và từ đó đến chỗ nghi ngờ về sự an toàn của mình khi đi cùng anh ta cũng chẳng cách nhau là mấy. Tôi cũng thắc mắc Hugo Ayres biết về tôi rõ đến mức nào. Anh ta đã không có ở trong phòng khi tôi đang làm việc của mình tối hôm trước. Isabel trong mắt tôi cũng chẳng phải người nhiều chuyện. Nên rất có thể anh ta chẳng biết gì nhiều về tôi.
Con đường bốn làn xe, chạy xuyên qua một vùng ngoại ô rộng lớn, dọc hai bên đường là những cửa tiệm thức ăn nhanh thường thấy và những chuỗi cửa hàng đủ loại. Nhưng dần dần, khu mua sắm nhường chỗ cho khu dân cư, và bê tông được thay bằng màu xanh của cây cỏ. Giao thông có vẻ vẫn đông đúc như thế. Tôi chẳng thể sống ở một nơi rộng lớn thế này, hằng ngày phải đối phó với nó như thế được.
Hugo chạy chậm lại và bật đèn xi nhan khi chúng tôi đến giao lộ lớn. Chúng tôi sắp rẽ vào bãi đỗ xe của một nhà thờ rộng lớn; ít nhất, trước đây nó cũng là một nhà thờ. Điện thờ rất rộng, nếu so với chuẩn của Bon Temps. Ở khu tôi sống, chỉ những buổi lễ rửa tội mới có đông người đến dự như vậy, mà đấy là nếu tất cả mọi thành phần trong giáo đoàn tụ họp hết lại với nhau. Hai bên căn điện thờ hai tầng là hai chái nhà bên gồm một tầng dài. Cả tòa nhà được xây bằng gạch sơn trắng, và mọi cửa sổ đều lắp kính mờ. Một bãi cỏ xanh nhân tạo bao quanh cả khu nhà, và nơi đây còn có một bãi đỗ xe khổng lồ nữa.
Biển báo trên bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận đó mang dòng chữ TRUNG TÂM HỘI BẰNG HỮU MẶT TRỜI - Chỉ có Chúa Jesus mới hồi sinh từ cái chết.
Tôi khịt khịt mũi mở cửa bước ra khỏi xe của Hugo. “Cái biển ngay kia sai bét,” tôi chỉ cho anh bạn đồng hành của mình thấy. “Lazarus cũng hồi sinh từ cái chết nữa mà. Mấy thằng ngu này cả Kinh Thánh cũng không viện dẫn cho đúng nữa.”
“Cô nên loại bỏ thái độ đó ra khỏi đầu đi,” Hugo cảnh báo tôi khi bước ra khỏi xe và nhấn nút khóa cửa. “Nó sẽ làm cô sơ suất đấy. Những người này rất nguy hiểm. Họ đã nhận trách nhiệm, công khai đấy nhé, giao nạp hai ma cà rồng cho tụi Hút Máu Ma, bao biện rằng ít ra nhân loại có thể hưởng lợi từ những cái chết của ma cà rồng bằng cách này hay cách khác.”
“Họ còn giao du với tụi Hút Máu Ma nữa ư?” tôi thấy phát ốm. Những kẻ Hút Máu Ma theo đuổi một nghề nghiệp cực kỳ độc địa. Chúng bẫy ma cà rồng, dùng những sợi xích bạc khứa quanh người ma cà rồng, rồi vắt kiệt hết máu ma cà rồng để bán ngoài chợ đen. “Những người trong này đã giao ma cà rồng cho bọn Hút Máu Ma thật ư?”
“Đó là điều mà một trong những thành viên của họ phát biểu trong cuộc phỏng vấn báo chí. Tất nhiên, người đứng đầu của họ xuất hiện trên chương trình thời sự ngay ngày hôm sau, kịch liệt phủ nhận báo cáo này, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là đòn tung hỏa mù thôi. Có cách nào giết ma cà rồng là Hội này làm cho kỳ được, họ nghĩ rằng ma cà rồng là quỷ sứ và nỗi kinh tởm, và họ có khả năng làm mọi thứ. Nếu cô là bạn thân với ma cà rồng, họ có thể tạo ra những áp lực khủng khiếp mà cô chẳng thể chịu nổi. Nhớ kỹ vậy nhé, mỗi lần cô định mở miệng nói gì ở đây.”
“Cả anh nữa, Quý Ngài Cảnh Báo Điềm xấu ạ.”
Chúng tôi bước chậm rãi về phía tòa nhà, vừa đi vừa nhìn quanh. Có khoảng mười chiếc xe khác ở bãi đỗ xe, bao gồm từ những chiếc xe cũ mèm lồi lõm đến những chiếc cáu cạnh đắt tiền. Chiếc xe tôi thích nhất ở đây là một chiếc Lexus màu trắng ngọc trai, đẹp đến nỗi hoàn toàn có thể thuộc về một ma cà rồng.
“Ai đó đang phất từ công việc kinh doanh thù hận này đây,” Hugo nhận định.
“Ai là lãnh đạo nơi này?”
“Một gã tên Steve Newlin.”
“Dám cá đây là xế của lão.”
“Vậy thì điều đó sẽ giải thích cho miếng dán nơi tấm chắn bùn kia.”
Tôi gật đầu. Miếng đề can mang dòng chữ HÃY BỎ CHỮ BẤT RA KHỎI CỤM TỪ BẤT TỬ. Treo lủng lẳng trên chiếc gương chiếu hậu bên trong xe là vật mô hình - à, có lẽ đó là mô hình - của một cái cọc.
Đây là một nơi nhộn nhịp, trong một chiều thứ Bảy. Bọn trẻ đang chơi trên bộ xích đu và những mô hình leo trèo trong mảnh sân rào cạnh tòa nhà. Đám trẻ được một thiếu niên có vẻ chán nản trông chừng, thỉnh thoảng cậu ta ngừng cạy móng tay ngó lên xem xét tình hình. Hôm nay không nóng như hôm qua - đợt nóng kinh khủng cuối cùng của mùa hè đã dần qua, cảm ơn Chúa vì điều đó - và cánh cửa đi vào tòa nhà được mở toang để tận dụng một ngày đẹp trời với nhiệt độ ôn hòa.
Hugo nắm lấy tay tôi, làm tôi nhảy dựng lên không kịp nhận ra anh ta đang cố tạo vỏ bọc tình nhân. Bản thân anh ta chả quan tâm gì đến tôi, thật ổn cho tôi. Sau một giây điều chỉnh lại chúng tôi đã tạo được một hình ảnh khá tự nhiên. Sự đụng chạm làm tâm trí Hugo cởi mở thêm tí chút với tôi, và tôi có thể cảm nhận anh ta lo âu nhưng quả quyết. Anh ta cảm thấy chán ghét khi chạm vào tôi, cảm giác này quá sốc khiến tôi không thấy dễ chịu gì cho lắm; không bị tôi thu hút thì còn chịu được, chứ chán ghét phát ốm thì lại làm tôi không thoải mái. Có cái gì đó ẩn sau cảm xúc này, một thứ thái độ cốt yếu nào đó… nhưng có nhiều người trước mặt chúng tôi, và tôi phải tập trung lại vào công việc. Tôi cảm nhận được khóe miệng mình dãn ra thành nụ cười đáp lại họ.
Bill đã rất cẩn thận khi không để lại dấu răng nào trên cổ tôi hồi tối qua, nên tôi chẳng phải lo giấu giếm, và trong bộ đồ mới cùng với một ngày đáng yêu như thế này, quả có dễ dàng tỏ ra vô tư hơn khi gật đầu chào một cặp đôi trung niên khi họ đang trên đường ra khỏi nhà thờ.
Chúng tôi bước vào tòa nhà mờ tối, vào nơi hẳn là phía chái nhà dạy giáo lý của nhà thờ. Có những tấm bảng mới đặt ngoài mỗi căn phòng suốt dọc hành lang, những tấm bảng đề PHÒNG TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN, QUẢNG CÁO, và đáng ngại nhất, QUAN HỆ TRUYỀN THÔNG.
Một người phụ nữ tầm ngoài bốn mươi tuổi bước ra khỏi căn phòng ở cuối dãy hành lang, và quay về phía chúng tôi. Chị ta trông có vẻ dễ chịu, thậm chí là đáng mến nữa, với làn da đẹp cùng mái tóc nâu ngắn. Màu son hồng ngát tông xuyệt tông với màu sơn móng tay hồng ngát, bờ môi dưới hơi trề ra, mang lại cho chị ta một nét cuốn hút ngoài mong đợi; đôi môi như khiêu khích đối chọi với thân hình tròn ủm buồn cười. Một chiếc váy jean và áo len dệt kim xỏ gọn trong váy là hình ảnh phản chiếu của trang phục tôi đang mặc, tôi thầm khen ngợi mình.
“Tôi có thể giúp gì hai người không?” chị ta hỏi, trông có vẻ hy vọng.
“Chúng tôi muốn biết thêm về Hội,” Hugo nói, và anh ta cũng có vẻ tử tế thật thà như người bạn mới của chúng tôi vậy. Tôi thấy chị ta mang bảng tên đề S. Newlin.
“Chào mừng các bạn đã đến,” chị ta nói. “Tôi là vợ của giám đốc, ông Steve Newlin ấy? Tôi là Sarah.” Chị ta bắt tay Hugo, nhưng không bắt tay tôi. Một vài phụ nữ không thích bắt tay phụ nữ khác, nên tôi cũng chẳng lấy thế làm quan ngại.
Chúng tôi trao đổi những lời hỏi thăm xã giao thông thường, và rồi chị ta vẫy bàn tay với bộ móng cắt sửa cẩn thận về phía cánh cửa đôi cuối hành lang. “Nếu anh chị đi với tôi, tôi sẽ chỉ cho anh chị thấy nơi tụi tôi xử lý mọi việc.” Chị ta cười hơi lớn, cứ như thể cái ý tưởng đạt được mục tiêu là kỳ cục lắm vậy.
Tất cả các cánh cửa ở hành lang đều được mở, và trong mỗi căn phòng đều có bằng chứng của những hoạt động hoàn toàn công khai. Nếu tổ chức của nhà Newlin có bắt giữ tù nhân hay tiến hành hoạt động cải đạo, thì tổ chức này đang hoàn thành mục tiêu của mình ở một phần khác trong tòa nhà. Tôi căng mắt nhìn tất cả mọi thứ, quyết tâm thu thập thật nhiều thông tin. Nhưng cho đến lúc này nội thất của Hội Bằng Hữu Mặt Trời sạch như ly như lau y hệt vẻ ngoài của nó, và những người ở đây thì khó có vẻ như là độc ác hay ranh ma gì cả.
Sarah thong thả dẫn đường bọn tôi. Chị ta ôm một tập hồ sơ vào ngực và quay lại tán chuyện với chúng tôi trong lúc rảo bước với tốc độ xem chừng thư thả, nhưng kỳ thực lại hơi quá nhanh khó mà theo nổi. Hugo và tôi, giờ đã buông tay nhau ra, phải rảo bước mới có thể bắt kịp.
Tòa nhà này to hơn tôi tưởng rất nhiều. Chúng tôi mới chỉ vào từ đầu từ xa nhất của một bên cánh tòa nhà. Bây giờ chúng tôi băng qua điện thờ rộng lớn của nhà thờ trước đây, được bố trí làm địa điểm hội họp như bất kỳ hội trường lớn nào khác, và rồi chúng tôi đi qua được cánh nhà bên kia. Bên cánh này được chia thành ít phòng nhưng mỗi phòng lại rộng rãi hơn; và căn phòng gần với điện thờ nhất rõ ràng là văn phòng của vị mục sư trước đây. Giờ đây nó mang một tấm bảng gắn lên cửa đề G. STEVEN NEWLIN, GIÁM ĐỐC.
Đây là cánh cửa duy nhất đóng chặt mà tôi thấy trong tòa nhà này.
Sarah gõ cửa, đợi một lúc, rồi bước vào. Người đàn ông cao gầy ngồi sau bàn giấy đứng dậy rạng rỡ nhìn chúng tôi với thái độ mong đợi hài lòng. Đầu ông ta trông có vẻ không đủ to để cân xứng với cơ thể. Đôi mắt ông ta màu xanh huyền hoặc, mũi khoằm, và mái tóc thì nâu sẫm gần hệt như tóc vợ, lưa thưa điểm bạc. Tôi không biết mình mong chờ gì ở một kẻ cuồng tín, nhưng người đàn ông này thì không phải như vậy. Ông ta có vẻ khá thích thú với cuộc sống của mình.
Ông ta đang nói chuyện với một người đàn bà cao ráo, tóc xám kim loại. Cô ta mặc quần dài áo cánh, nhưng trông như thể nếu được mặc com lê công sở thì hẳn sẽ được thoải mái hơn. Cô ta trang điểm kỹ lưỡng, và trông không được vừa lòng lắm - có lẽ vì sự quấy rầy của chúng tôi.
“Tôi có thể giúp gì anh chị đây?” Steve Newlin hỏi, ra dấu mời tôi và Hugo ngồi xuống. Chúng tôi bèn kéo hai chiếc ghế có tay vịn bọc da xanh lá cây đến đối diện bàn làm việc của ông ta, còn Sarah, không cần hỏi han gì, ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ hơn dựa vào một bên tường. “Xin lỗi anh, Steve à,” chị ta nói với chồng mình. “À, tôi mang cho hai người chút cà phê nhé? Hay soda?”
Hugo và tôi nhìn nhau rồi lắc đầu.
“Anh à, đây là - ồ, mà tôi vẫn chưa hỏi tên của hai người nhỉ?” Chị ta nhìn chúng tôi với ánh mắt buồn bã mà duyên dáng.
“Tôi là Hugo Ayres, còn đây là bạn gái tôi, Marigold.” Marigold ư? Anh ta bị điên à? Tôi cố giữ nụ cười dán chặt vào môi mình. Rồi tôi nhìn thấy một lọ hoa cúc vạn thọ[4] ở trên bàn cạnh Sarah, ít nhất thì tôi cũng hiểu sự lựa chọn của anh ta. Chúng tôi chắc chắn đã mắc phải sai lầm lớn rồi; đáng ra hai chúng tôi nên bàn chuyện này trên đường lái xe đến đây. Bởi nếu Hội là phía chịu trách nhiệm chuyên gài đặt con bọ, thì Hội đã biết cái tên Sookie Stackhouse, ơn Chúa là Hugo đã nghĩ ra điều đó.
“Chúng ta có biết ngài Hugo Ayres đây không, Sarah nhỉ?” Gương mặt của Steve Newlin hiện lên vẻ cười cợt hết mực - chân mày hơi nhíu lại, một bên mày nhướn lên thắc mắc, đầu hơi nghiêng về một bên.
“Ayres à?” người phụ nữ tóc xám hỏi. “Nhân tiện đây, tôi là Polly Bythe, chuyên viên tổ chức nghi lễ của Hội.”
“Ôi Polly, tôi xin lỗi, tôi hơi bị sao nhãng một chút.” Sarah ngoẹo đầu hẳn ra sau. Trán cũng hơi nhăn lại. Và rồi vầng trán ấy dãn ra và chị ta mỉm cười với chồng mình. “Chẳng phải là Ayres viên luật sư làm đại diện cho đám ma cà rồng ở Đại học Park đấy sao?”
“Đúng anh ta đấy,” Steve nói, ngả người vào lưng ghế và bắt tréo chân. Ông ta vẫy tay chào ai đó đi qua hành lang rồi đan những ngón tay dài mảnh quanh đầu gối. “Hừ, rất thú vị là anh lại đến thăm chúng tôi, Hugo à. Liệu chúng tôi có thể hy vọng rằng anh đã thấy mặt trái của vấn đề ma cà rồng chăng?” Sự hài lòng phủ lấy mặt của Newlin như mùi ôi bốc ra từ con chồn hôi.
“Ông nói thế cũng đúng thôi…” Hugo bắt đầu nói, nhưng giọng Steve vẫn sa sả:
“Cái mặt hút máu hút me, cái mặt tăm tối trong sự tồn tại của ma cà rồng ấy? Anh có nhận ra rằng chúng muốn giết hết chúng ta, rồi cai trị chúng ta bằng đường lối xấu xa và những lời hứa rỗng tuếch đó không?”
Tôi biết hai mắt mình đang mở tròn to hết cỡ. Sarah đang gật đầu trầm ngâm, trông vẫn hết sức ngọt ngào dịu dàng hệt như một chiếc bánh pudding hương va ni. Polly trông như thể đang thực sự trải qua một cơn cực khoái ác nghiệt nào đó. Steve nói - khi vẫn đang mỉm cười - “Anh biết đấy, cuộc đời bất tử trên thế gian này có thể nghe hay thật đấy, nhưng anh sẽ đánh mất linh hồn và rồi dần dà thì, khi chúng tôi bắt kịp các anh - có thể không phải tôi, tất nhiên rồi, có thể là con trai, hoặc mãi đến đời cháu gái tôi - chúng tôi sẽ đóng các anh vào cọc rồi thiêu đốt các anh và khi đó các anh sẽ xuống địa ngục thực sự. Và chuyện đó sẽ chẳng hay ho gì hơn việc đã bị tiêu diệt cả. Chúa trời có sẵn một góc đặc biệt dành cho ma cà rồng, những kẻ đã sử dụng loài người như giấy vệ sinh và rồi giật nước là xong…”
À, khiếp nhỉ. Mọi thứ nhanh chóng trở nên tệ hại. Và những gì tôi thu nhận được về Steve chỉ là sự hài lòng hả hê không dứt, cùng với sự thông minh hiển hiện. Chẳng có gì cụ thể hay chứa chấp thông tin cả.
“Thứ lỗi nhé, Steve,” một giọng trầm trầm vang lên. Tôi xoay người trên ghế thì nhìn thấy một gã đầu đinh tóc đen với những bắp thịt của vận động viên thể hình. Hắn mỉm cười với mọi người trong phòng cùng một vẻ thiện chí như những người trong phòng đang thể hiện. Trước thì vẻ thân thiện ấy làm tôi ấn tượng. Nhưng bây giờ, tôi nghĩ là hơi quỷ quái. “Vị khách của chúng ta muốn gặp ngài.”
“Thật sao? Tôi ra ngay đây.”
“Tôi mong ngài có thể ra ngay bây giờ. Tôi chắc là những vị khách đây cũng không phiền chờ một chút phải không?” Đầu Đinh Tóc Đen duyên dáng liếc nhanh về phía chúng tôi. Hugo đang nghĩ xa xôi gì đó, một thoáng suy nghĩ khá lạ kỳ với tôi.
“Gabe à, ta sẽ ra khi nào xong việc với mấy vị đây,” Steve chắc giọng đáp.
“À, Steve này…” Gabe không sẵn sàng từ bỏ dễ dàng như thế, nhưng hắn bắt gặp ánh mắt của Steve và khi Steve ngồi thẳng dậy thả chân xuống, thì Gabe đã hiểu được thông điệp. Hắn ném cho Steve một cái nhìn không phục, nhưng rồi cũng bỏ đi.
Sự trao đổi ánh mắt đến là hay. Tôi băn khoăn liệu Farrell có ở đằng sau cánh cửa bị khóa nào đó không, và tôi hình dung ra được hình ảnh chính mình trở lại tổ ma cà rồng ở Dallas, báo với Stan chính xác nơi em trai cùng tổ của hắn ta bị giam giữ. Và rồi…
Ối. Và rồi Stan sẽ đến tấn công Hội Bằng Hữu Mặt Trời và giết tất cả những thành viên của Hội, giải phóng Farrell, và rồi…
Ôi trời ơi.
“Chúng tôi chỉ muốn biết liệu Hội có hoạt động gì sắp tới mà chúng tôi có thể tham gia không, một sự kiện giúp chúng tôi có ý niệm về quy mô của các chương trình nơi đây.” Giọng Hugo nghe hơi hơi dò hỏi, có vậy thôi. “Vì cô Blythe đang ở đây, có lẽ cô ấy có thể trả lời giúp.”
Tôi để ý thấy Polly Blythe khẽ liếc về phía Steve trước khi trả lời, và tôi cũng để ý thấy gương mặt ông ta vẫn kín bưng. Polly Blythe rất hài lòng khi được yêu cầu cung cấp thông tin, và cô ta cũng cực kỳ mừng về việc Hugo và tôi đang ở đấy cùng với Hội.
“Chúng tôi cũng sắp có vài hoạt động,” người phụ nữ tóc xám nói. “Tối nay, chúng tôi sẽ tổ chức một bữa tiệc qua đêm đặc biệt, và tiếp theo đó, chúng tôi tổ chức một nghi lễ rạng đông Chủ nhật.”
“Nghe có vẻ thú vị đấy,” tôi đáp. “Mà đúng thế sao, vào bình minh à?”
“Ồ, phải, chính xác thế. Chúng tôi đã gọi điện cho bên dự báo thời tiết và chuẩn bị tất cả rồi,” Sarah cười đáp.
Steve nói, “Anh chị sẽ không bao giờ quên được những nghi lễ lúc bình minh của chúng tôi đâu. Nó khơi nguồn cảm hứng còn hơn cả tưởng tượng nữa.”
“Loại nghi lễ gì - à, chuyện gì sẽ xảy ra?” Hugo hỏi.
“Anh chị sẽ chứng kiến bằng chứng về sức mạnh của Chúa ngay trước mắt mình,” Steve mỉm cười nói.
Điều này nghe thật sự, thật sự đáng ngại. “Ôi, Hugo,” tôi nói. “Nghe có hấp dẫn không nào?”
“Hấp dẫn thật. Vậy mấy giờ thì tiệc ngủ mới bắt đầu?”
“Vào lúc sáu rưỡi. Chúng tôi muốn tất cả thành viên của mình đến đây trước khi chúng thức dậy.”
Trong một thoáng tôi hình dung ra một khay đầy bánh mì cuộn ở một nơi nào đó ấm áp. Nhưng rồi tôi nhận ra ý Steve là ông ta muốn mọi thành viên đến đây trước khi ma cà rồng tỉnh giấc vào ban đêm.
“Nhưng còn khi giáo đoàn của ông về nhà thì sao?” tôi không nhịn hỏi được.
“Ôi, chắc hẳn là hồi thiếu nữ cô chưa bao giờ dự buổi tiệc ngủ nào nhỉ!” Sarah nói. “Vui lắm. Mọi người đến mang theo túi ngủ, ăn cùng nhau rồi chơi trò chơi, đọc Kinh Thánh và nghe thuyết pháp, rồi tất cả ngủ đêm lại trong nhà thờ.” Tôi nhận ra Hội là nhà thờ trong mắt Sarah, và tôi cũng khá chắc chắn rằng điều này phản ánh quan điểm của tất cả bộ phận quản lý còn lại. Nếu nơi này trông giống nhà thờ, và hoạt động như nhà thờ, thì nó là một nhà thờ, bất kể chức danh đóng thuế của nó là gì đi nữa.
Tôi đã đến vài tiệc ngủ khi còn là nữ sinh, và tôi hiếm khi chịu đựng trọn vẹn một buổi. Một đống nhóc tì ở cùng nhau trong nhà suốt đêm, được giám sát sít sao, được cho coi phim liên tu bất tận và ăn đồ ăn vặt, chơi trò chơi và uống soda thỏa thích. Tôi đã phải đau khổ chịu đựng một loạt bom dội trong tâm trí gồm những ý tưởng và cơn nổi hứng bất chợt của tuổi mới lớn được kích thích bởi hoóc môn phát triển, những tiếng la hét inh tai và cơn giận dỗi trẻ con.
Lần này sẽ khác, tôi tự nhủ. Những người dự tiệc ngủ phải là người lớn, những người trưởng thành có mục đích. Hiếm có khả năng là sẽ có hàng triệu gói khoai tây chiên và chắc hẳn chỗ ngủ nghê phải được sắp xếp đàng hoàng. Nếu Hugo và tôi đến, có thể chúng tôi sẽ có cơ hội tìm kiếm xung quanh tòa nhà và giải cứu Farrell, bởi vì tôi chắc chắn rằng anh ta là một trong số những người sẽ phải gặp ánh sáng mặt trời vào rạng đông ngày Chủ nhật, dù anh ta muốn lựa chọn như thế nào đi chăng nữa.
Polly nói, “Các bạn sẽ đều được chào đón. Chúng tôi có rất nhiều đồ ăn và chiếu trải.”
Hugo và tôi nhìn nhau không chắc lắm.
“Tại sao bây giờ các bạn không đi một vòng tham quan ngôi nhà đã nhỉ, và các bạn có thể nhìn thấy hết mọi thứ được bày ra ở đây? Lúc đó rồi hai bạn hẳn có thể quyết định được,” Sarah gợi ý. Tôi nắm lấy tay Hugo, đón nhận luôn một luồng mâu thuẫn yêu ghét quất ngay vào mặt. Sự nhụt chí ngập tràn trong tôi khi cảm nhận những dòng cảm xúc giằng xé của Hugo. Anh ta nghĩ, Hãy biến khỏi đây thôi.
Tôi vứt bỏ những dự định trước đây của mình. Nếu Hugo rối loạn như vậy, chúng tôi không cần thiết phải ở đây nữa. Hỏi han gì có thể để sau cũng được. “Tụi mình nên về nhà em để soạn túi ngủ và gối đã,” tôi nói rạng rỡ. “Phải không, anh yêu?”
“Và anh còn phải cho mèo ăn nữa,” Hugo nói. “Nhưng tụi mình sẽ quay lại… vào sáu rưỡi, em thấy sao?”
“Trời đất, Steve à, chúng ta còn dư vài chiếc giường gập ở trong kho phải không nào? Từ cái lần có một đôi đến đây ở vài hôm ấy?”
“Chúng tôi rất mong hai người ở lại đây cho đến khi mọi người tới,” Steve hối thúc bọn tôi, nụ cười của ông ta rạng rỡ hơn bao giờ hết. Tôi biết chúng tôi đang bị đe dọa, và tôi biết chúng tôi cần phải thoát ra, nhưng tất cả những gì mà tôi đang nhận được từ tâm trí của nhà Newlin là một bức tường quyết tâm đúng nghĩa. Polly Blythe có vẻ thực sự gần như là - hả hê. Tôi ghét phải ép uổng thăm dò, khi giờ đây tôi ý thức được rằng họ đang nghi ngờ chúng tôi. Nếu chúng tôi có thể thoát ra khỏi đây ngay lúc này, tôi hứa với lòng mình rằng sẽ không bao giờ quay lại. Tôi sẽ từ bỏ mọi việc điều tra giúp những ma cà rồng này, tôi sẽ chỉ lại làm cô phục vụ bàn và ngủ với Bill thôi.
“Chúng tôi thực sự cần phải đi,” tôi nói bằng giọng lịch sự nhưng quả quyết. “Chúng tôi rất ấn tượng với tất cả mọi người ở đây, và muốn đến dự buổi tiệc ngủ tối nay, nhưng từ bây giờ đến lúc đó vẫn còn đủ thời gian để chúng tôi làm mấy việc lặt vặt. Mọi người biết phải làm việc suốt cả tuần là như thế nào rồi đấy. Những việc vặt vãnh cứ dồn ứ cả lại.”
“Này, mấy việc ấy thì vẫn còn nguyên đó khi buổi tiệc ngủ kết thúc vào ngày mai mà!” Steve nói. “Anh chị cần phải ở lại đây, cả hai người.”
Chẳng cách nào có thể thoát khỏi đây mà không làm lộ mọi thứ. Và tôi chắc chắn sẽ không phải là người đầu tiên làm chuyện đó, không thể khi mà vẫn còn chút ít hy vọng thoát ra. Có rất nhiều người xung quanh đây. Chúng tôi rẽ trái khi ra khỏi văn phòng của Steve Newlin, với Steve rảo bước phía sau, Polly bên tay phải, Sarah phía trước, tất cả đi dọc hành lang. Mỗi khi đi qua một cánh cửa, ai đó trong căn phòng lại cất tiếng gọi, “Steve à, tôi xin một phút được không?” hay “Steve, Ed nói rằng chúng ta cần thay đổi cách diễn đạt trong chuyện này!” Nhưng ngoại trừ cái nháy mắt hay nụ cười run nhẹ, tôi không thể thấy chút phản ứng nào từ Steve Newlin trước những yêu cầu liên tục ấy.
Tôi tự hỏi không biết phong trào này sẽ duy trì được bao lâu nếu Steve không còn. Rồi tôi tự thấy xấu hổ vì nghĩ tới chuyện này, bởi ý tôi là, nếu Steve bị giết. Tôi bắt đầu nghĩ rằng hoặc Sarah hoặc Polly sẽ kế vị ông ta, nếu họ được phép, bởi cả hai dường như đều được đúc bằng thép cả.
Tất cả các văn phòng đều hoàn toàn rộng cửa và vô hại, nếu bạn cho là tổ chức này được thành lập trên một nền tảng vô hại. Mọi người ở đây đều là những công dân Mỹ bình thường, tóc tai thì hơi ngắn-hơn-bình-thường một chút, và thậm chí có vài người không phải là người da trắng.
Và có một sinh vật không phải là người.
Chúng tôi đi qua một phụ nữ gốc Mễ nhỏ bé, gầy gò ở đại sảnh, và khi ánh nhìn của cô ta lướt nhẹ qua mắt chúng tôi, tôi bắt được một nét tâm trí đặc trưng tôi mới chỉ bắt gặp một lần trước đây. Lúc đó, tín hiệu ấy đến từ Sam Merlotte. Người phụ nữ này, cũng giống như Sam, là một người biến hình, và đôi mắt to của cô ta mở to khi cảm nhận thấy hơi hướm “khác biệt” đến từ phía tôi. Tôi cố chạm mắt cô ta, và trong một thoáng hai chúng tôi nhìn nhau, tôi cố gửi thông điệp đến cô ta, còn cô ta cố gắng không tiếp nhận thông điệp đó.
“Tôi đã nói với hai người rằng nhà thờ đầu tiên trên khu này được xây dựng hồi đầu thập niên sáu mươi chưa nhỉ?” Sarah đang nói thì người phụ nữ bé nhỏ đó tiếp tục đi thật nhanh về cuối hành lang. Cô ta liếc lại qua vai mình, và tôi lại bắt gặp ánh mắt của cô ta. Ánh mắt của cô ta đầy vẻ sợ hãi. Ánh mắt của tôi thì kêu lên, “Cứu với.”
“Chưa,” tôi nói, giật mình với sự thay đổi chủ đề đột ngột đó.
“Chỉ một chút nữa thôi,” Sarah dỗ dành. “Chúng ta sẽ có thể ngắm nhìn toàn bộ nhà thờ này.” Chúng tôi đến được cánh cửa cuối cùng ở cuối hành lang. Cánh cửa tương tự ở cánh tòa nhà bên kia dẫn ra bên ngoài. Nhìn từ ngoài nhà thờ thì những chái nhà này trông bằng y như nhau. Rõ ràng những quan sát của tôi là sai lầm, nhưng dù sao thì…
“Chỗ này đúng là rộng thật,” Hugo tán đồng. Bất cứ cảm giác yêu ghét lẫn lộn nào trước đây đã hành hạ anh ta giờ xem ra đã vơi đi. Thực ra, anh ta không có vẻ gì là lo lắng nữa. Chỉ những người không có chút khả năng ngoại cảm nào mới có thể không lo lắng trong tình huống này.
Người đó phải là Hugo. Không có chút khả năng thông hiểu tâm linh nào cả. Anh ta chỉ trông thích thú khi Polly mở cánh cửa cuối cùng, cánh cửa ngay tận cuối hành lang. Chắc hẳn hắn phải dẫn ra bên ngoài.
Thay vì thế, nó dẫn xuống.
Ma Cà Rồng Ở Dallas Ma Cà Rồng Ở Dallas - Charlaine Harris Ma Cà Rồng Ở Dallas