Số lần đọc/download: 0 / 395
Cập nhật: 2021-01-12 19:45:42 +0700
Phần 3
S
Ự THỐNG NHẤT CỦA LOÀI NGƯỜI
9
MŨI TÊN LỊCH SỬ
Sau Cách mạng Nông nghiệp, xã hội loài người phát triển rộng lớn hơn và phức tạp hơn, trong khi những cấu trúc tưởng tượng để duy trì trật tự xã hội cũng trở nên tinh vi hơn. Các huyền thoại và những chuyện hư cấu đã làm cho con người, gần như từ thời điểm được sinh ra, quen với việc nghĩ theo những cách nhất định, cư xử dựa trên những tiêu chuẩn nhất định, mong muốn một số thứ nhất định, và tuân theo những quy tắc nhất định. Vì vậy, họ đã tạo ra những bản năng nhân tạo, làm cho hàng triệu người xa lạ có thể hợp tác hiệu quả. Mạng lưới những bản năng nhân tạo này được gọi là “văn hoá”.
Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, các học giả đã dạy rằng mỗi nền văn hoá đều hoàn chỉnh và hài hòa, sở hữu một bản chất cốt lõi không thể thay đổi, xác định rõ đặc điểm của nó mọi lúc. Mỗi nhóm người đều có thế giới quan, hệ thống sắp đặt về xã hội, luật pháp và chính trị của riêng mình, được vận hành một cách trơn tru như các hành tinh xoay quanh Mặt trời. Theo quan điểm này, những nền văn hoá nếu để mặc chúng hoạt động sẽ không thay đổi. Chúng tiếp tục vận hành với cùng một tốc độ và cùng một hướng. Chỉ khi có sự tác động từ bên ngoài mới làm cho chúng thay đổi. Chính vì vậy, các nhà nhân loại học, sử gia và chính trị gia đã xem “Nền văn hoá Samoa” hoặc “Nền văn hoá Tasmania” như là những niềm tin, tiêu chuẩn và giá trị đã hình thành nên các đặc điểm của người Samoa và người Tasmania từ thời xa xưa.
Ngày nay, hầu hết các nhà nghiên cứu văn hoá đều kết luận rằng ngược lại mới đúng. Mỗi nền văn hoá đều có những niềm tin, tiêu chuẩn và giá trị đặc thù, nhưng chúng thay đổi liên tục. Nền văn hoá có thể biến đổi mình để đối phó lại với những thay đổi trong môi trường của nó hoặc qua sự tương tác với các nền văn hoá láng giềng. Nhưng các nền văn hoá cũng trải qua sự thay đổi do những động lực bên trong chúng. Thậm chí một nền văn hoá bị cô lập hoàn toàn, tồn tại trong một môi trường ổn định về mặt sinh thái cũng không thể tránh khỏi sự thay đổi. Không giống như các định luật vật lý vốn tránh được các mâu thuẫn, mỗi trật tự nhân tạo đều hàm chứa những mâu thuẫn nội bộ. Các nền văn hoá đã liên tục cố gắng để hòa giải những mâu thuẫn này, và quá trình đó đã cung cấp nhiên liệu cho sự thay đổi.
Ví dụ, ở châu Âu trung cổ, giới quý tộc tin vào cả Ki-tô giáo lẫn tinh thần hiệp sĩ. Một nam quý tộc điển hình sẽ đến nhà thờ vào buổi sáng, lắng nghe linh mục diễn thuyết về cuộc sống của các vị thánh. “Sự phù phiếm của những sự phù phiếm”, linh mục nói, “tất cả đều là phù phiếm. Sự giàu có, thèm khát và danh vọng là những cám dỗ nguy hiểm. Con phải vượt lên trên chúng, và đi theo bước chân của Thiên Chúa. Hãy nhu mì giống như Thiên Chúa, tránh xa bạo lực và sự tiêu xài phung phí, và nếu bị tấn công – hãy giơ bên má còn lại ra”. Trở về nhà với một tâm trạng nhu mì và trầm ngâm, người đàn ông quý tộc sẽ thay bộ quần áo bằng lụa đẹp nhất và tới một bữa tiệc lớn trong lâu đài lãnh chúa của mình. Ở đó rượu chảy như nước, những người hát rong ca ngợi Lancelot và Guinevere, còn các vị khách thì trao đổi những lời đùa cợt bẩn thỉu và những câu chuyện về các cuộc chiến đẫm máu. Các vị nam tước tuyên bố, “Chết đi còn hơn là sống trong sự hổ thẹn. Nếu một kẻ nào đó nghi ngờ về danh dự của bạn, chỉ có máu mới xóa sạch được sự lăng mạ này. Trong cuộc sống có gì vui hơn ngoài việc nhìn thấy kẻ thù chạy trốn bạn, và những đứa con gái xinh đẹp của chúng run sợ dưới chân bạn?”
Sự mâu thuẫn này không bao giờ được giải quyết trọn vẹn. Nhưng khi giới quý tộc châu Âu, giới tăng lữ và thường dân vật lộn với nó, văn hoá của họ sẽ thay đổi. Một nỗ lực để giải quyết nó đã sinh ra Thập tự chinh. Trong những cuộc Thập tự chinh, các hiệp sĩ có thể chứng minh sức mạnh quân sự và lòng mộ đạo của mình bằng một cú đánh. Sự mâu thuẫn tương tự đã tạo ra những đội quân như các hiệp sĩ dòng Templar và các hiệp sĩ dòng Hospitaller, những người đã cố gắng làm cho các tư tưởng Ki-tô và tinh thần hiệp sĩ ăn khớp với nhau chặt hơn. Nó cũng chịu trách nhiệm cho phần lớn nền văn học và nghệ thuật thời trung cổ, như những câu chuyện về Vua Arthur và Chén Thánh. Camelot là gì nếu không phải là sự nỗ lực để chứng minh rằng một hiệp sĩ giỏi có thể và nên trở thành một Ki-tô hữu ngoan đạo, và rằng những Ki-tô hữu tốt sẽ trở thành những hiệp sĩ xuất sắc nhất?
Ví dụ khác là về trật tự chính trị hiện đại. Kể từ Cách mạng Pháp, con người trên toàn thế giới đã dần nhìn nhận bình đẳng và tự do cá nhân như những giá trị cơ bản. Song, hai giá trị này lại mâu thuẫn nhau. Bình đẳng chỉ có thể được đảm bảo bằng việc giảm bớt tự do của những cá nhân xuất sắc hơn. Đảm bảo rằng mỗi cá nhân sẽ được tự do làm điều mình mong muốn chắc chắn sẽ hạn chế bình đẳng. Toàn bộ lịch sử chính trị của thế giới từ năm 1789 có thể được coi như hàng loạt nỗ lực để giải quyết mâu thuẫn này.
Bất cứ ai từng đọc tiểu thuyết của Charles Dickens đều biết rằng, những chế độ cai trị tự do ở châu Âu thế kỷ 19 dành sự ưu tiên cho tự do cá nhân, kể cả khi nó đồng nghĩa với việc ném các gia đình nghèo không thể trả nợ vào tù và cho trẻ mồ côi rất ít sự lựa chọn trừ việc gia nhập trường dạy móc túi. Bất cứ ai từng đọc tiểu thuyết của Alexander Solzhenitsyn đều hiểu rằng lý tưởng bình đẳng cực đoan đã tạo ra những sự chuyên chế tàn bạo cố gắng kiểm soát mọi mặt của cuộc sống thường ngày.
Các hoạt động chính trị ở Mỹ hiện nay cũng đang xoay quanh mâu thuẫn này. Đảng Dân chủ mong muốn một xã hội bình đẳng hơn, dù có phải tăng thuế để tài trợ cho các chương trình giúp đỡ người nghèo, già yếu và ốm đau. Nhưng điều này đã xâm phạm đến tự do của các cá nhân trong việc sử dụng tiền của mình như họ muốn. Tại sao chính phủ ép tôi mua bảo hiểm sức khỏe trong khi tôi thích dùng tiền của mình để cho con cái đi học đại học? Còn Đảng Cộng hòa thì muốn tối đa hoá tự do cá nhân, dù nó có nghĩa rằng khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo sẽ ngày càng lớn hơn, và nhiều người Mỹ sẽ không đủ khả năng chi trả tiền chăm sóc sức khỏe.
Giống như văn hoá trung cổ không hòa trộn được tinh thần hiệp sĩ với Ki-tô giáo, thế giới hiện đại đã thất bại trong việc làm cho tự do hài hòa với bình đẳng. Nhưng đây không phải là khuyết điểm. Những mâu thuẫn như vậy là một phần không thể tách rời trong mỗi nền văn hoá của con người. Trên thực tế, chúng là những động cơ của văn hoá, là nguyên nhân cho óc sáng tạo và tính năng động của loài người chúng ta. Giống như khi hai nốt nhạc nghịch nhau được chơi cùng sẽ đẩy một giai điệu ngân lên, các mâu thuẫn trong những suy nghĩ, ý tưởng và giá trị đã buộc chúng ta phải suy nghĩ, tái đánh giá và phê bình. Tính nhất quán trước sau như một là sân chơi của những trí tuệ trì trệ.
Nếu những căng thẳng, xung đột và thế lưỡng nan không thể giải quyết được là gia vị của mỗi nền văn hoá, thì một con người thuộc bất kỳ nền văn hoá riêng biệt nào đều có những niềm tin trái ngược nhau và bị giằng xé bởi các giá trị không tương hợp. Đây là đặc điểm cơ bản của bất kỳ nền văn hoá nào, thậm chí nó có hẳn một cái tên: sự bất hòa nhận thức. Bất hòa nhận thức thường được xem là thất bại trong tâm lý con người. Trên thực tế, nó là một tài sản quý báu. Nếu con người không thể giữ vững được những niềm tin và giá trị trái ngược nhau, họ có lẽ sẽ không thể hình thành và duy trì bất cứ một nền văn hoá nào.
Giả dụ, nếu một người Ki-tô giáo thật sự muốn hiểu người Hồi giáo, những người thường xuyên lui tới thánh đường Hồi giáo cuối phố, thì anh ta không nên đi tìm một hệ giá trị nguyên sơ mà người Hồi giáo hằng yêu quý. Thay vào đó, anh ta nên tìm hiểu các thế lưỡng nan của văn hoá Hồi giáo, mà tại đó các nguyên tắc thì mâu thuẫn còn các tiêu chuẩn lại xô lệch. Chính ở nơi mà người Hồi giáo đi loạng choạng giữa hai sự sai khiến, anh ta sẽ hiểu họ tốt nhất.
Vệ tinh do thám
Văn hoá của con người biến đổi không ngừng. Liệu sự biến đổi này có hoàn toàn ngẫu nhiên không, hoặc liệu nó có một khuôn mẫu tổng quát nào không? Nói cách khác, liệu rằng lịch sử có một chiều hướng hay không?
Câu trả lời là có. Sau hàng thiên niên kỷ, những nền văn hoá nhỏ bé và đơn giản dần dần hợp nhất thành một nền văn minh lớn hơn và phức tạp hơn, vì vậy thế giới ngày càng có ít hơn những nền văn hoá khổng lồ, mỗi cái trong số đó lại to lớn hơn và phức tạp hơn. Tất nhiên, đây chỉ là một sự khái quát hoá thô sơ, chỉ đúng ở cấp độ vĩ mô. Ở cấp độ vi mô, có vẻ như mỗi nhóm văn hoá lại hợp thành một nền văn hoá khổng lồ, và có những nền văn hoá khổng lồ lại vỡ ra thành nhiều mảnh. Đế chế Mông Cổ đã mở rộng sự thống trị trên một dải đất khổng lồ ở châu Á và thậm chí một phần châu Âu, rồi lại bị vỡ ra thành những mảnh nhỏ. Ki-tô giáo đã cải đạo hàng trăm triệu người, và cùng lúc nó lại bị vỡ ra thành vô số các giáo phái nhỏ. Ngôn ngữ Latin đã lan rộng khắp Tây Âu và Trung Âu, sau đó bị phân chia thành các hình thái ngôn ngữ địa phương mà bản thân chúng cuối cùng lại trở thành những ngôn ngữ quốc gia. Nhưng những sự tan vỡ này chỉ là một bước lùi tạm thời trong xu hướng thống nhất không thể thay đổi được.
Nhận thức được chiều hướng của lịch sử thực sự là một vấn đề có tính ưu thế. Khi chúng ta có cái nhìn bao quát toàn cảnh lịch sử, theo dõi sự phát triển trong khoảng thời gian hàng thập kỷ hoặc hàng thế kỷ, thật khó để nói rằng lịch sử đang đi theo hướng hợp nhất hay đa dạng hoá. Tuy nhiên, để hiểu được các diễn trình dài hạn, việc nhìn bao quát toàn cảnh lại quá thiểu cận. Sẽ tốt hơn nếu chúng ta dùng góc nhìn của một vệ tinh do thám vũ trụ, có thể quét qua hàng thiên niên kỷ chứ không chỉ là hàng thế kỷ. Từ điểm nhìn có lợi thế như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng lịch sử đang di chuyển không ngừng theo hướng thống nhất. Sự phân chia của Ki-tô giáo và sự sụp đổ của Đế chế Mông Cổ chỉ là những cái gờ giảm tốc trên con đường cao tốc của lịch sử.
Cách tốt nhất để đánh giá đúng xu hướng chung của lịch sử là đếm số lượng thế giới người riêng rẽ cùng tồn tại ở bất cứ thời điểm nào trên hành tinh. Ngày nay, chúng ta thường nghĩ tới cả Trái đất như một đơn vị đơn lẻ, nhưng trong hầu hết lịch sử, Trái đất thực tế là một thiên hà của những thế giới người sống cô lập.
Hãy thử xem xét Tasmania, một hòn đảo cỡ trung bình ở phía nam châu Úc. Nó bị tách ra từ lục địa châu Úc khoảng năm 10000 TCN, do vào cuối thời kỳ băng hà mực nước biển dâng cao. Khoảng vài ngàn người săn bắt hái lượm đã bị bỏ lại trên đảo, không có bất kỳ liến lạc nào với những người khác cho tới khi người châu Âu đặt chân đến vào thế kỷ 19. Trong vòng 12.000 năm, không ai biết người Tasmania đang ở đó, và họ cũng không biết là có những người khác trong thế giới này. Họ có những cuộc chiến tranh, xung đột chính trị, dao động xã hội và phát triển văn hoá của riêng mình. Song, cho đến tận khi được các hoàng đế Trung Hoa hoặc những người cai trị Lưỡng Hà quan tâm đến, thì Tasmania mới có thể được coi là đang ở trên một trong những mặt trăng của Sao Mộc. Người Tasmania sống trong thế giới của riêng họ.
Châu Mỹ và châu Âu cũng vậy, bị tách biệt khỏi thế giới trong hầu hết lịch sử của họ. Vào năm 378, Hoàng đế La mã Valence bại trận và bị giết bởi những người thuộc bộ tộc Goth trong trận Adrianople. Trong cùng năm đó, Vua Chak Tok Ich’aak của Tikal cũng bại trận và bị giết bởi quân đội của Teotihuacan. (Tikal là một thành bang quan trọng của nền văn minh Maya, trong khi Teotihuacan là thành phố lớn nhất ở châu Mỹ, với gần 250.000 dân – có độ lớn ngang thành phố cùng thời với nó là Rome). Hoàn toàn không có một mối liên kết nào giữa thất bại của Rome và sự nổi lên của Teotihuacan. Rome có thể coi là nằm trên Sao Hỏa và Teotihuacan trên Sao Kim.
Có bao nhiêu thế giới người khác nhau cùng tồn tại trên Trái đất? Khoảng năm 10000 TCN, hành tinh chúng ta chứa hàng ngàn thế giới đó. Khoảng năm 2000 TCN, con số này đã thu nhỏ lại còn khoảng vài trăm và nhiều nhất là vài ngàn. Vào năm 1450, con số này suy giảm nhiều hơn nữa. Vào thời điểm đó, chỉ trước kỷ nguyên khám phá của người châu Âu, Trái đất vẫn còn có một số lượng đáng kể những thế giới tí hon như Tasmania. Nhưng gần 90% loài người sống trong một thế giới khổng lồ đơn lẻ: thế giới Á-Phi. Hầu hết châu Á, châu Âu và châu Phi (bao gồm cả những bộ phận quan trọng là Hạ Sahara thuộc châu Phi) đều liên kết bởi các ràng buộc đáng kể về kinh tế, chính trị và văn hoá.
Hầu hết một phần mười còn lại của dân số loài người trên thế giới được chia ra làm bốn thế giới có quy mô và độ phức tạp đáng kể:
1. Thế giới Mesoamerica, bao gồm hầu hết vùng Trung Mỹ và một phần Bắc Mỹ.
2. Thế giới Andes, bao gồm hầu hết vùng phía tây của Nam Mỹ.
3. Thế giới Australia, bao gồm phần lục địa châu Úc.
4. Thế giới Đại dương, bao gồm hầu hết các đảo phía tây-nam Thái Bình Dương, từ Hawaii đến New Zealand.
Trong vòng hơn 300 năm tiếp theo, người khổng lồ Á-Phi đã nuốt chửng toàn bộ các thế giới khác. Nó đã nuốt chửng thế giới Mesoamerica vào năm 1521, khi người châu Âu xâm lược Đế chế Aztec. Nó đã dành miếng cắn đầu tiên của mình cho thế giới Đại dương cùng lúc, trong hành trình vòng quanh thế giới bằng đường biển của Ferdinand Magellan và ngay sau khi hoàn thành sự xâm lược của nó. Thế giới Andes bị sụp đổ vào năm 1532, khi những kẻ xâm lược Tây Ban Nha nghiền nát Đế chế Inca. Người châu Âu đầu tiên đặt chân lên lục địa châu Úc năm 1606, và thế giới nguyên thủy đó đã đi đến chỗ kết thúc khi người Anh sốt sắng thuộc địa hoá nó năm 1788. 15 năm sau khi những người Anh thành lập khu định cư đầu tiên của mình ở Tasmania, đã mang thế giới tự trị cuối cùng của con người vào phạm vi ảnh hưởng Á-Phi.
Người khổng lồ Á-Phi phải mất vài thế kỷ để tiêu hoá hết những gì mà nó đã nuốt gọn, nhưng quá trình này là không thể đảo ngược. Ngày nay, hầu hết loài người chia sẻ cùng một hệ thống địa chính trị (toàn thể hành tinh được chia thành những quốc gia được công nhận quốc tế), cùng một hệ thống kinh tế (ảnh hưởng của thị trường tư bản đã hình thành ở cả những góc xa xôi nhất của thế giới), cùng một hệ thống pháp luật (nhân quyền và luật pháp quốc tế có hiệu lực khắp nơi, ít nhất là theo lý thuyết), và cùng một hệ thống khoa học (các chuyên gia ở Iran, Israel, Úc và Argentina đều có cùng quan điểm về cấu trúc nguyên tử hoặc việc điều trị bệnh lao).
Nền văn hoá toàn cầu đơn lẻ này không đồng nhất. Giống như một cơ thể hữu cơ đơn lẻ chứa rất nhiều loại cơ quan và tế bào khác nhau, nền văn hoá toàn cầu đơn lẻ của chúng ta gồm có rất nhiều loại người với các lối sống khác nhau, từ những người buôn chứng khoán ở New York cho đến những người chăn cừu ở Afghanistan. Tuy thế, tất cả họ đều có mối liên kết gần gũi và gây ảnh hưởng đến nhau theo nhiều cách. Họ vẫn tranh luận và đánh nhau, nhưng họ tranh luận với cùng những khái niệm, và đánh nhau với cùng loại vũ khí. Một “sự va chạm giữa các nền văn minh” thực sự giống như đoạn hội thoại của người điếc mà ai cũng biết. Không ai có thể hiểu người kia đang nói gì. Ngày nay, khi Iran và Mỹ so gươm với nhau, họ đều nói ngôn ngữ của những quốc gia-dân tộc, của nền kinh tế tư bản, của các quyền quốc tế và vật lý lượng tử.
Bản đồ 3. Trái đất năm 1450. Những khu vực được đặt tên ở thế giới Á-Phi là những nơi mà lữ khách Hồi giáo thế kỷ 14 Ibn Battuta đã đến thăm. Là người gốc Tangier, ở Morocco, Ibn Battuta đã đến thăm Timbuktu, Zanzibar, phía nam của Nga, Trung Á, Ấn Độ, Trung Hoa và Indonesia. Những chuyến đi của ông đã làm sáng tỏ sự thống nhất của lục địa Á-Phi vào thời cận đại.
Chúng ta vẫn thường nói nhiều đến những nền văn hoá “đích thực”, nhưng nếu “đích thực” mà chúng ta hàm ý về cái gì đó phát triển một cách hoàn toàn độc lập, và bao gồm những truyền thống địa phương cổ đại không bị tác động bởi yếu tố bên ngoài, thì theo đó không có những nền văn hoá đích thực còn lại trên Trái đất này. Trong vài thế kỷ gần đây, hầu hết các nền văn hoá đều thay đổi đến mức không thể nhận ra bởi dòng chảy cuồn cuộn của các ảnh hưởng toàn cầu.
Một trong những ví dụ thú vị nhất của sự toàn cầu hoá này là ẩm thực “dân tộc”. Trong một nhà hàng Ý, chúng ta muốn món mì Spaghetti với sốt cà chua; ở một nhà hàng Ba Lan và Ireland thì có nhiều khoai tây; ở một nhà hàng Argentina chúng ta có thể lựa chọn nhiều loại thịt bò; ở một nhà hàng Ấn Độ, ớt cay nóng được kết hợp với mọi thứ; và điểm nổi bật của bất cứ quán cà phê Thụy Sĩ nào là sô-cô-la nóng và đặc nằm dưới một lớp kem được đánh lên thành hình ngọn núi. Nhưng không có đồ ăn nào kể trên là đặc sản của những đất nước đó. Cà chua, ớt cay và ca cao, tất cả đều có nguồn gốc từ Mexico; chúng tới châu Âu và châu Á chỉ sau khi người Tây Ban Nha xâm lược Mexico. Julius Caesar và Dante Alighieri không bao giờ dùng nĩa cuốn những sợi mì spaghetti đẫm sốt cà chua (thậm chí những chiếc nĩa cũng chưa được phát minh ra), William Tell chưa bao giờ được nếm sô-cô-la, và Đức Phật chưa bao giờ dùng ớt làm gia vị cho thức ăn của mình. Khoai tây tới Ba Lan và Ireland mới cách đây 400 năm. Và miếng bít-tết duy nhất mà bạn có thể có được ở Argentina vào năm 1492 là thịt của một con lạc đà không bướu.
Những bộ phim Hollywood đã duy trì hình ảnh người thổ dân da đỏ ở Đại Bình nguyên là những người chăn ngựa can đảm, dũng cảm tấn công những chiếc xe ngựa của thực dân châu Âu để bảo vệ truyền thống của tổ tiên họ. Tuy nhiên, những người chăn ngựa Mỹ bản xứ này không phải là những người bảo vệ cho nền văn hoá cổ xưa và đích thực. Thay vào đó, họ là sản phẩm của cuộc cách mạng chính trị và quân sự trọng đại đã quét qua vùng đồng bằng lớn ở phía tây của Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 và 18, kết quả của việc những con ngựa châu Âu tới lục địa này. Cho đến năm 1492, không có con ngựa nào ở Mỹ. Nền văn hoá Sioux và Apache thế kỷ 19 có nhiều đặc điểm hấp dẫn, nhưng nó là một nền văn hoá hiện đại – kết quả của những sức mạnh toàn cầu – nhiều hơn là văn hoá “đích thực”.
Viễn cảnh toàn cầu
Từ một viễn cảnh thực tế, giai đoạn quan trọng nhất của quá trình thống nhất toàn cầu xuất hiện trong một vài thế kỷ gần đây, khi những đế chế phát triển và thương mại gia tăng. Những mối liên kết ngày càng được thắt chặt giữa những người thuộc Á-Phi, châu Mỹ, châu Úc và châu Đại Dương. Vì vậy, ớt cay Mexico có thể được dùng trong đồ ăn Ấn Độ, và gia súc Tây Ban Nha bắt đầu gặm cỏ ở Argentina. Song, từ quan điểm ý thức hệ, một sự phát triển quan trọng hơn xuất hiện trong thiên niên kỷ 1 TCN, khi ý tưởng về một trật tự chung bén rễ. Trong hàng ngàn năm trước đây, lịch sử cũng đã chuyển động rất chậm theo hướng thống nhất toàn cầu, nhưng ý tưởng về một trật tự phổ quát chi phối toàn thế giới vẫn rất xa lạ đối với hầu hết mọi người.
Hình 24. Những tù trưởng Sioux (năm 1905). Cho đến năm 1492, người Sioux cũng như mọi bộ lạc ở Đại Bình Nguyên đều không có ngựa.
Homo sapiens tiến hoá để nghĩ rằng con người được phân chia thành chúng ta và chúng nó. “Chúng ta” là nhóm trực tiếp ở quanh bạn dù bạn là ai, còn “chúng nó” là những người còn lại. Trong thực tế, chưa bao giờ có loài động vật xã hội nào bị dẫn dắt bởi những lợi ích của toàn thể loài mà nó thuộc về. Không có con tinh tinh nào quan tâm đến lợi ích của loài tinh tinh, không có con ốc sên nào giương cao một cái xúc tu cho cộng đồng ốc sên toàn cầu, không có con sư tử alpha nào nỗ lực để trở thành vua của mọi sư tử, và ở lối vào của tổ ong, không thể tìm thấy khẩu hiệu “Những ong thợ của thế giới – đoàn kết lại!”
Nhưng bắt đầu với Cách mạng Nhận thức, Homo sapiens đã trở nên ngày càng khác thường ở khía cạnh này. Con người bắt đầu hợp tác thường xuyên với những người hoàn toàn xa lạ, những người mà họ tưởng tượng như là “anh em” hoặc “bạn bè”. Song, tình anh em này không mang tính phổ quát. Ở nơi nào đó trong thung lũng bên cạnh, hoặc vượt qua rặng núi, người ta vẫn có thể cảm nhận thấy “chúng nó”. Khi Pharaoh đầu tiên Menes thống nhất Ai Cập khoảng năm 3000 TCN, người Ai Cập hiểu rõ rằng Ai Cập có một đường biên giới, và bên ngoài đường biên giới này lần quất “những kẻ man rợ”. Những kẻ man rợ này xa lạ, đầy đe dọa, và chỉ đáng bận tâm vì chúng có đất đai hoặc tài nguyên thiên nhiên mà người Ai Cập thèm khát. Tất cả những trật tự tưởng tượng do con người tạo ra đều có khuynh hướng phớt lờ một phần trọng yếu của nhân loại.
Thiên niên kỷ 1 TCN chứng kiến sự xuất hiện của ba trật tự phổ quát tiềm ẩn mà những người hâm mộ chúng có thể lần đầu tiên tưởng tượng ra toàn thể thế giới và toàn thể loài người như một đơn vị độc lập được điều hành bởi một bộ luật duy nhất. Mỗi người chính là “chúng ta”, ít nhất là về mặt tiềm năng. Không còn “chúng nó” nữa. Trật tự phổ quát đầu tiên xuất hiện là kinh tế: trật tự tiền tệ. Trật tự thứ hai là chính trị: trật tự đế chế. Trật tự thứ ba là tôn giáo: trật tự của những tôn giáo phổ quát như Phật giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo.
Các nhà buôn, kẻ đi xâm chiếm và nhà tiên tri là những người đầu tiên có thể xoay xở để vượt qua được sự phân chia tiến hoá nhị phân, “chúng ta và chúng nó”, đoán trước được khả năng thống nhất của nhân loại. Đối với nhà buôn, toàn thế giới là một thị trường đơn lẻ và mọi người đều là những khách hàng tiềm năng. Họ cố gắng tạo ra một trật tự kinh tế có thể áp dụng được cho mọi người và mọi nơi. Đối với kẻ đi xâm chiếm, toàn thế giới là một đế chế duy nhất, và mọi người đều là những kẻ bị trị tiềm năng; đối với nhà tiên tri, toàn thế giới nắm giữ một sự thật duy nhất, mọi người đều là những tín đồ tiềm năng. Họ cũng cố gắng tạo ra một trật tự có thể áp dụng cho mọi người ở mọi nơi.
Trong ba thiên niên kỷ gần đây, con người càng ngày càng có nhiều nỗ lực đầy tham vọng để hiện thực hoá tầm nhìn toàn cầu. Ba chương tiếp theo sẽ thảo luận về việc làm thế nào tiền bạc, các đế chế và các tôn giáo phổ quát lại có thể lan rộng, và cách chúng đặt nền móng cho một thế giới thống nhất ngày nay. Chúng ta bắt đầu câu chuyện về kẻ xâm chiếm vĩ đại nhất trong lịch sử, một kẻ chinh phục có sức chịu đựng và khả năng thích nghi tột bậc, vì vậy đã biến con người trở thành những môn đồ hăng hái. Kẻ chinh phục này chính là tiền bạc. Những con người không tin vào cùng một Đấng tối cao, không tuân lệnh cùng một vua, nhưng lại sẵn sàng sử dụng cùng một loại tiền. Osama Bin Laden, cho dù có lòng căm thù đối với văn hoá Mỹ, tôn giáo Mỹ và chính trị Mỹ, nhưng lại rất thích những đồng đô-la Mỹ. Vậy làm cách nào mà tiền lại có thể thành công ở những nơi mà các vị thần và vua đã thất bại?
10
MÙI TIỀN
Năm 1519, Hernán Cortés và các tướng lĩnh của ông đã xâm lược Mexico, nơi mà đến lúc đó vẫn còn là một thế giới loài người cô lập. Người Aztec – cái tên mà những người sống ở đó tự đặt cho mình – nhanh chóng nhận ra rằng những tộc người xa lạ kia có sự quan tâm khác thường đối với một thứ kim loại màu vàng. Trên thực tế, họ dường như không bao giờ ngừng nói về chúng. Người bản xứ không xa lạ gì với vàng – trông khá đẹp lại rất dễ chế tác, vì vậy họ dùng vàng để làm đồ trang sức, đúc tượng, và đối khi sử dụng bụi vàng làm phương tiện để trao đổi. Nhưng khi một người Aztec muốn mua thứ gì đó, anh ta thường sẽ trả bằng những hạt ca cao hoặc những súc vải. Vì thế, nỗi ám ảnh của người Tây Ban Nha đối với vàng là điều gì đó có vẻ rất khó cắt nghĩa đối với họ. Có gì quan trọng đến thế ở một thứ kim loại không thể ăn được, không thể uống được hoặc không dùng để dệt được, và lại cũng quá mềm để dùng làm dụng cụ lao động hay vũ khí? Khi một người bản xứ hỏi Cortés tại sao người Tây Ban Nha lại dam mê vàng đến vậy, vị tướng trả lời, “Vì tôi và những người đồng hành của mình đang bị giày vò bởi một căn bệnh ở tim, mà chỉ vàng mới chữa được”.
Trong thế giới Á-Phi, nguồn cội của những người Tây Ban Nha, nỗi ám ảnh với vàng lan truyền như bệnh dịch. Thậm chí những kẻ thù truyền kiếp nhất cũng thèm khát thứ kim loại màu vàng vô dụng kia. Ba thế kỷ trước khi xâm lược Mexico, tổ tiên của Cortés và quân đội của ông đã tiến hành một cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu chống lại các vương quốc Hồi giáo ở Iberia và Bắc Phi. Những tín đồ tàn sát lẫn nhau, con số giết chóc lên đến vài ngàn, ruộng đồng và vườn cây ăn quả bị tàn phá, các thành phố thịnh vượng bị biến thành những đống tàn tro tàn âm ỉ cháy – tất cả chỉ vì phe này vinh hiển Đấng tối cao của mình hơn phe kia và ngược lại.
Khi những người theo đạo dần dần nắm thế thượng phong, họ đánh dấu chiến thắng của mình không chỉ bằng việc phá hủy các nhà thờ này và xây dựng các nhà thờ kia, mà còn phát hành những đồng tiền bằng bạc và vàng mới có khắc dấu thánh giá và tạ ơn Thiên Chúa vì đã giúp đỡ họ trong cuộc chiến chống những kẻ ngoại đạo. Tuy thế, bên cạnh sự lưu hành đồng tiền mới, phe chiến thắng cũng đúc một dạng tiền kim loại khác, được gọi là millare, mang theo một thông điệp khác. Những đồng xu hình vuông này được làm ra bởi những kẻ chinh phạt và được trang trí nổi dòng chữ Ả-rập bay bướm: “Không có Đấng tối cao nào ngoài Allah, và Muhammad là sứ giả của Người”. Thậm chí những giám mục Công giáo ở thành Melgueil và Adge cũng cho lưu hành những bản sao rập khuôn những đồng xu Hồi giáo phổ biến, và những tín đồ Ki-tô sợ hãi Thiên Chúa thì vui vẻ sử dụng chúng.
Động thái khoan dung này cũng thịnh hành ở phe đối lập. Những nhà buôn Hồi giáo cũng giao thương bằng việc sử dụng những đồng tiền kim loại của Ki-tô giáo như đồng Aorin của Florence, đồng ducat của Venice và đồng gigliato của Naples. Ngay cả những thủ lĩnh Hồi giáo, vốn kêu gọi các cuộc thánh chiến để chống lại những kẻ ngoại đạo Ki-tô, cũng rất vui mừng nhận những đồng tiền thuế bằng những đồng tiền kim loại hiện thân cho Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng trinh của ngài.
Nó trị giá bao nhiêu?
Bầy người săn bắt hái lượm không có tiền. Mỗi đoàn tự săn bắt, hái lượm và chế tác mọi thứ cần thiết, từ thịt thà cho tới thuốc thang, từ giày dép cho đến phép ma thuật. Thành viên những bầy đàn khác nhau có thể chuyên trách những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều chia sẻ hàng hoá và dịch vụ của mình thông qua một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả ơn. Một miếng thịt được tặng miễn phí có thể hàm chứa giả định về sự có đi có lại sau này – giúp lại về mặt y tế chẳng hạn. Bầy người này độc lập hoàn toàn về mặt kinh tế; chỉ có một số của hiếm không thể tìm thấy ở bản địa – vỏ sò, chất nhuộm màu, đá vỏ chai và những thứ tương tự – mới phải lấy từ những người xa lạ. Việc này thường được thực hiện bằng cách trao đổi hàng hoá đơn giản: “Chúng tôi sẽ đưa anh những chiếc vỏ sò xinh đẹp này, đổi lại anh sẽ đưa cho chúng tôi loại đá lửa chất lượng cao kia”.
Thực trạng này thay đổi rất ít vào thời điểm nổ ra Cách mạng Nông nghiệp. Hầu hết con người vẫn tiếp tục sống trong những cộng đồng nhỏ bé thân mật. Rất giống với bầy người săn bắt hái lượm, mỗi ngôi làng là một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp, được duy trì bởi việc chịu ơn và trả ơn lẫn nhau, cộng với sự trao đổi hàng hoá ít ỏi với bên ngoài. Một người làng làm giày rất thành thục, người khác thì giỏi săn sóc sức khỏe, vì vậy dân làng biết được sẽ phải tìm đến đâu khi thiếu giày dép hay khi bị ốm đau. Nhưng quy mô xóm làng nhỏ bé, cộng thêm hệ thống kinh tế bị bó hẹp, vì vậy, không có bác sĩ hay thợ giày làm việc toàn thời gian.
Sự ra đời của các thành phố và vương quốc, cũng như việc cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém được cải thiện, đã mang đến những vận hội mới cho công cuộc chuyên môn hoá. Những thành phố mật độ dân cư dày đặc đã cung cấp việc làm toàn thời gian cho không chỉ những thợ đóng giày chuyên nghiệp và các thầy thuốc, mà cả thợ mộc, linh mục, binh lính và luật sư. Những làng nghề nổi danh về rượu, dầu ô-liu và đồ gốm hảo hạng, nhận ra rằng sẽ có lợi nếu tập trung toàn lực vào một sản phẩm và trao đổi nó với các cư dân khác để đổi lấy những thứ hàng hoá mình cần. Điều này rất hợp lý. Điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau, vậy cớ sao phải uống thứ rượu vang xoàng xĩnh mình nấu tại nhà, trong khi bạn hoàn toàn có thể uống được rất nhiều loại rượu ngọt ngào hơn từ những nơi mà khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp hơn nhiều với cây nho dùng để sản xuất rượu vang? Nếu như đất sét ở khu vực bạn ở có thể làm ra được các loại nồi niêu ấm chảo cứng cáp, xinh xắn hơn, thì cớ gì bạn lại không trao đổi hàng hoá? Hơn nữa, khi làm việc toàn thời gian, những người chuyên trách làm rượu vang và đồ gốm, chưa kể đến các bác sĩ và luật sư, có thể mài giũa tay nghề để phục vụ cho tất cả mọi người. Nhưng sự chuyên môn hoá cũng làm nảy sinh một vấn để – bạn sẽ quản lý sự trao đổi hàng hoá như thế nào giữa những chuyên gia này?
Một hệ thống kinh tế dựa trên sự chịu ơn và trả ơn sẽ không thể hoạt động khi một lượng lớn những người xa lạ tham gia cùng. Giúp đỡ không công cho người chị gái hay người hàng xóm là một chuyện, còn chăm sóc cho những người lạ, những người có thể không bao giờ đền đáp lại thiện ý đó, lại là một chuyện hoàn khác. Người ta có thể quay lại về với hệ thống trao đổi hàng-đổi-hàng. Nhưng hệ thống này chỉ có hiệu quả khi trao đổi một số giới hạn các sản phẩm. Nó không thể làm thành nền tảng cho một nền kinh tế phức tạp.
Để hình dung được những giới hạn của việc trao đổi hàng hoá, hãy tưởng tượng bạn đang sở hữu một vườn táo trên núi, với những trái táo ngọt ngào và tươi ngon nhất vùng. Bạn làm việc quần quật trong vườn táo của mình đến nỗi mòn cả giày. Bạn bèn tròng dây cho chiếc xe lừa kéo và tiến đến khu chợ của thị trấn ở hạ nguồn sống. Nghe hàng xóm bảo có một người thợ đóng giày ở tận cuối phía nam của khu chợ đã làm cho anh ta một đôi ủng vô cùng chắc chắn, anh ta đã đi được năm mùa mà chưa hỏng. Bạn tìm thấy cửa hàng đóng giày này và đề nghị đổi những quả táo lấy đôi giày mà bạn cần.
Người thợ giày lưỡng lự. Anh ta sẽ lấy bao nhiêu quả táo đây? Mỗi ngày, anh ta gặp gỡ với hàng tá khách hàng, một số vác đến những bao tải táo, số khác mang theo lúa mì, dê hoặc vải vóc – chất lượng rất khác nhau. Thậm chí có người chào hàng tài nghệ của họ trong việc thỉnh cầu lên đức vua hoặc chữa khỏi chứng đau lưng. Lần cuối cùng khi người thợ giày đổi giày lấy táo đã cách đây ba tháng, và khi đó có phải anh ta đã đổi ba bao táo? Hay là bốn nhỉ? Nhưng nhớ lại thì lúc đó giống táo đó là táo chua trồng ở dưới thung lũng, còn lần này là những quả táo trồng trên đồi có chất lượng thượng hạng. Vả lại, lần trước, những quả táo được dùng để đổi lấy một đôi giày nữ nhỏ nhắn, trong khi bạn lại đang muốn một đôi ủng nam. Ngoài ra, mấy tuần gần đây, bệnh dịch đã tàn sát nhiều bầy gia súc quanh thị trấn, và da trở nên khan hiếm. Thợ thuộc da đang đòi gấp đôi số đôi giày đóng hoàn chỉnh để đổi lấy cùng một lượng da thuộc. Có nên tính đến những yếu tố này không?
Trong nền kinh tế hàng-đổi-hàng, mỗi ngày thợ đóng giày và người trồng táo sẽ phải cập nhật giá cả tương đối của hàng tá mặt hàng. Nếu 100 mặt hàng khác nhau được trao đổi trên thị trường, thì người mua và người bán sẽ phải biết 4.950 tỉ giá trao đổi khác nhau. Và nếu 1.000 mặt hàng khác nhau được giao dịch, người mua và người bán phải vật lộn với 499.500 tỉ giá trao đổi khác nhau! Làm thế nào bạn tính được?
Tình hình thậm chí còn tệ hơn. Cho dù bạn xoay xở và tính ra bao nhiêu quả táo tương đương với một đôi giày, thì giao dịch đổi chác này không phải lúc nào cũng khả thi. Vì xét cho cùng, một cuộc giao thương đòi hỏi rằng mỗi bên đều muốn những gì mà bên kia đưa ra để trao đổi. Điều gì sẽ xảy ra nếu người thợ giày không thích táo, và nếu ở thời điểm đó, điều anh ta thực sự muốn là một vụ ly hôn? Đúng là người nông dân có thể kiếm được một luật sư thích táo và đưa ra một thỏa thuận ba bên. Nhưng nếu luật sư có quá nhiều táo rồi và cần cắt tóc thì sao?
Một số xã hội đã tìm cách giải quyết vấn để này bằng cách thiết lập một hệ thống trao đổi hàng hoá trung tâm – hệ thống này thu gom tất cả các sản phẩm của những chuyên gia trồng trọt và sản xuất rồi phân phối hàng hoá đến người có nhu cầu. Cuộc thử nghiệm nổi tiếng nhất và có quy mô lớn nhất được thực hiện tại Liên xô, và nó đã thất bại thảm hại. “Làm theo nâng lực, hưởng theo nhu cầu” trên thực tế đã biến thành “né việc nhiều nhất có thể và hưởng bao nhiêu tùy khả nâng vơ vét”. Những cuộc thử nghiệm quy mô vừa phải và thành công hơn đã được xúc tiến ở nhiều giai đoạn khác, ví dụ ở Đế chế Inca. Tuy nhiên, hầu hết các xã hội đã tìm ra một cách dễ dàng hơn để kết nối nhiều ngành nghề khác nhau – họ phát triển tiền tệ.
Vỏ sò và thuốc lá
Tiền đã được tạo ra nhiều lần ở nhiều nơi. Sự phát triển của nó không đòi hỏi những bước đột phá về công nghệ – mà hoàn toàn chỉ là cuộc cách mạng tinh thần. Nó liên quan đến việc tạo ra một thực tại liên-chủ quan chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng được chia sẻ của con người.
Tiền không chỉ là những đồng kim loại hay những tờ giấy bạc. Tiền là bất cứ thứ gì mà con người sẵn sàng sử dụng để đại diện một cách có hệ thống cho giá trị của những thứ khác nữa, phục vụ cho mục đích trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Tiền giúp con người so sánh một cách nhanh nhất và dễ dàng nhất giá trị của những hàng hoá khác nhau (ví dụ như những trái táo, đôi giày và vụ ly hôn), trao đổi một cách dễ dàng thứ này với thứ khác, và tích lũy của cải một cách thuận tiện nhất. Có rất nhiều dạng tiền khác nhau. Dạng quen thuộc nhất là tiền xu, là miếng kim loại đã được định chuẩn và được khắc trên đó. Tuy nhiên, tiền đã tồn tại từ rất lâu trước khi người ta phát minh ra đồng tiền đúc, và các nền văn hoá đã phát triển phồn thịnh bằng việc sử dụng những đơn vị tiền khác, như vỏ sò, gia súc, da động vật, muối, ngũ cốc, các loại hạt cườm, vải vóc và giấy ghi nợ. Vỏ sò đã được sử dụng làm tiền trong khoảng 4.000 năm trên khắp châu Phi, Nam Á, Đông Á và châu Đại Dương. Đến đầu thế kỷ 20, ở Uganda thuộc Anh, thuế vẫn được nộp dưới dạng tiền vỏ ốc.
Hình 25. Trong chữ viết cổ đại của người Trung Quốc, dấu hiệu vỏ sò chỉ tiền, trong những từ như “bán” hoặc “thưởng”.
Trong những nhà tù hiện đại và các trại tù binh chiến tranh, thuốc lá thường được sử dụng thay cho tiền. Thậm chí những tù nhân không hút thuốc cũng sẵn sàng nhận thuốc lá thay cho tiền và lấy thuốc lá làm căn cứ để tính toán tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ khác. Một người sống sót trong trại tập trung Auschwitz đã mô tả hệ thống tiền tệ bằng thuốc lá như sau: “Chúng tôi có tiền riêng của mình: đó là thuốc lá, và giá trị của nó là điều không ai phải thắc mắc. Giá trị của tất cả mọi thứ đều được quy đổi ra thuốc lá… Vào những thời điểm ‘bình thường’, nghĩa là khi các nạn nhân ‘ứng viên’ của các phòng hơi ngạt được chuyển đến với một nhịp độ đều đặn, một ổ bánh mì trị giá 12 điếu; một gói bơ thực vật 300 gram trị giá 30 điếu, một cái đồng hồ từ 80 đến 200 điếu; và một lít rượu giá 400 điếu!”
Thực tế là, ngay cả những đồng tiền kim loại và giấy bạc ngày nay cũng là một dạng hiếm của tiền. Năm 2006, tổng lượng tiền trên thế giới ước khoảng 473 nghìn tỉ đô-la, nhưng tổng lượng tiền kim loại và giấy bạc chỉ chưa đến 47 nghìn tỉ đô-la. Hơn 90% lượng tiền – hơn 400 nghìn tỉ đô-la trong các tài khoản của chúng ta – chỉ tồn tại trên các máy chủ máy vi tính. Theo đó, hầu hết những giao dịch kinh doanh đều được tiến hành bằng việc chuyển dữ liệu điện tử từ một file máy tính này sang một file máy tính khác, mà không cần bất kỷ sự trao đổi tiền mặt vật lý nào. Ví dụ, chỉ một tên tội phạm mới mua nhà bằng việc trao tay một vali đầy tiền giấy. Chừng nào mà con người sẵn lòng trao đổi giao dịch hàng hoá và dịch vụ bằng dữ liệu điện tử, chừng đó hình thức này sẽ tốt hơn rất nhiều so với những đồng tiền kim loại bóng loáng và những tờ giấy bạc mới cứng – nhẹ hơn, bớt cồng kềnh hơn và dễ theo dõi hơn.
Để cho những hệ thống thương mại phức tạp hoạt động được thì không thể thiếu một số loại tiền nào đó. Trong nền kinh tế tiền tệ, một người thợ đóng giày chỉ cần nhớ giá của những loại giày khác nhau, chứ không cần nhớ tỉ giá trao đổi giữa giày và táo hay giữa giày và dê. Tiền cũng giải thoát cho những người trồng táo khỏi phải lo tìm những thợ giày thích ăn táo, bởi vì tiền là thứ mà ai ai cũng muốn. Đây có thể là giá trị cơ bản nhất của tiền. Ai cũng thích tiền vì những người khác cũng đều thích tiền, điều đó có nghĩa là bạn có thể trao đổi tiền để lấy bất cứ thứ gì bạn cần hoặc muốn. Người thợ giày sẽ luôn sung sướng khi nhận tiền của bạn, bởi vì cho dù anh ta thực sự cần cái gì – quả táo, con dê hay cuộc ly hôn – anh ta đều có thể dùng tiền để mua được chúng.
Vì vậy, tiền là một phương tiện trao đổi phổ quát, giúp con người có thể quy đổi hầu như mọi thứ này sang mọi thứ khác. Những bắp thịt được chuyển thành trí tuệ, khi người lính giải ngũ lấy trợ cấp quân đội của mình đầu tư cho việc học đại học. Đất đai cũng sẽ biến thành lòng trung thành, khi một nam tước bán tài sản của mình để giúp đỡ những lão bộc của mình. Sức khỏe cũng sẽ biến thành công lý, khi một bác sĩ điều trị sử dụng tiền thù lao của mình để thuê một luật sư – hoặc mua chuộc một thẩm phán. Và thậm chí nó còn có thể biến tình dục thành sự cứu rỗi linh hồn, như những cô gái điếm ở thế kỷ 15 đã làm khi ngủ với đàn ông để lấy tiền rồi sau đó dùng tiền đó để mua lấy sự xá tội.
Các loại tiền lý tưởng không chỉ giúp con người trao đổi giữa các hiện vật, mà còn có thể để dành dụm như của cải nữa. Rất nhiều thứ quý báu không thể dự trữ được, chẳng hạn như thời gian và nhan sắc. Một số thứ thì có thể dự trữ trong một thời gian ngắn, như dâu tây chẳng hạn. Những thứ khác có thể dự trữ dài hơn, nhưng tốn nhiều không gian và đòi hỏi cơ sở vật chất và sự chăm sóc rất tốn kém. Ví dụ, ngũ cốc có thể dự trữ trong nhiều năm, nhưng để làm được điều đó, bạn cần phải xây những kho chứa khổng lồ và canh phòng chuột bọ, nấm mốc, nước, hỏa hoạn và cả trộm cắp nữa. Tiền, bất kể là dưới dạng giấy hay bit máy tính hay vỏ ốc, giải quyết được những vấn đề này. Tiền vỏ ốc không bị mục nát, cũng không ngon lành gì đối với loài chuột, lại có thể chống được lửa và đủ nhỏ gọn để khoá kín trong một tủ đựng an toàn.
Để sử dụng được tài sản của mình thì dự trữ nó là chưa đủ. Người ta thường cần vận chuyển nó từ nơi này sang nơi khác. Một số dạng của cải, chẳng hạn như bất động sản, không thể vận chuyển được. Những mặt hàng khác như lúa mì và gạo có thể vận chuyển được nhưng rất khó khăn. Hãy tưởng tượng một nông dân giàu có sống ở vùng đất không dùng tiền, muốn di cư đến một tỉnh xa xôi khác. Tài sản của ông ta chủ yếu là ngôi nhà và cánh đồng lúa. Người nông dân không thể mang ngôi nhà và cánh đồng lúa đi theo được. Ông ta có thể đổi chúng lấy hàng tấn lúa, nhưng sẽ rất phiền toái và đắt đỏ khi vận chuyển số lúa đó theo. Tiền sẽ giải quyết tất tật những vấn đề này. Người nông dân có thể bán tài sản của mình để đổi lấy một bao tải tiền vỏ ốc và dễ dàng mang nó theo đến bất kỳ nơi nào ông ta muốn.
Vì tiền có thể chuyển đổi, tích trữ và vận chuyển tài sản một cách dễ dàng với chi phí thấp, nó đã góp một phần quan trọng cho sự xuất hiện của những mạng lưới thương mại phức tạp và những thị trường năng động. Nếu như không có tiền, các mạng lưới thương mại và các thị trường hẳn sẽ chịu số phận bị bó hẹp về quy mô, sự phức tạp và tính năng động của chúng.
Tiền đã hoạt động như thế nào?
Giá trị của tiền vỏ ốc và đồng đô-la chỉ nằm trong trí tưởng tượng thông thường của chúng ta. Giá trị của chúng không nằm trong cấu trúc hoá học của những cái vỏ ốc và tờ giấy, hay màu sắc và hình dáng của chúng. Hay nói cách khác, tiền không phải là một thực tại vật chất – nó là một khái niệm tâm lý. Nó hoạt động bằng cách biến đổi từ vật chất thành tinh thần. Nhưng tại sao nó lại thành công? Tại sao bất kỳ ai cũng sẵn sàng đổi những cánh đồng lúa màu mỡ để lấy một nhúm tiền vỏ ốc vô dụng? Tại sao bạn sẵn lòng lật bánh hamburger, bán bảo hiểm sức khỏe hay trông coi ba đứa trẻ ngỗ ngược đáng ghét, khi mà tất cả sự cố gắng của bạn chỉ đổi lại được một vài tờ giấy màu sắc sặc sỡ?
Con người sẵn sàng làm những việc như vậy khi họ tin tưởng vào những điều tưởng tượng của trí tưởng tượng tập thể của họ. Lòng tin là một dạng vật chất thô, mà từ đó tất cả các loại tiền được đúc ra. Khi một nông dân giàu có bán tài sản của mình để đổi lấy một bao tải tiền vỏ ốc và mang chúng theo đến vùng đất khác, ông ta tin tưởng rằng, khi tới đích của mình, những người khác sẽ sẵn sàng bán cho ông ta thóc gạo, nhà cửa và những cánh đồng để đổi lấy những đồng tiền vỏ ốc. Như vậy, tiền là một hệ thống của sự tin cậy lẫn nhau, và không chỉ có vậy: tiền là một hệ thống phổ quát nhất và hiệu quả nhất của sự tin cậy lẫn nhau từng được phát minh ra.
Sự tin tưởng này đã được sinh ra bởi một mạng lưới vô cùng phức tạp và dài hạn của các mối quan hệ chính trị, xã hội và kinh tế. Tại sao tôi lại tin vào tiền vỏ ốc hoặc đồng tiền vàng hoặc đồng đô-la? Bởi vì những người hàng xóm của tôi cũng tin vào chúng. Những người hàng xóm của tôi tin vào chúng là do tôi cũng tin vào chúng. Chúng ta tin vào chúng bởi vì đức vua của chúng ta tin vào chúng và đòi thu chúng dưới dạng thuế, và bởi vì vị linh mục của chúng ta tin vào chúng và đòi thu chúng dưới dạng thuế thập phân.* Hãy cầm tờ đô-la lên và xem xét thật kĩ. Bạn sẽ thấy nó chỉ là mẩu giấy đầy màu sắc với chữ ký của Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ ở một mặt và khẩu hiệu “Chúng ta tin vào Chúa” ở mặt còn lại. Chúng ta chấp nhận việc dùng đô-la làm thanh toán, vì chúng ta tin vào Chúa và vào Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ. Vai trò chủ yếu của sự tin tưởng lý giải tại sao những hệ thống tài chính của chúng ta lại ràng buộc chặt chẽ đến vậy với các hệ thống chính trị, xã hội và ý thức hệ, tại sao những cuộc khủng hoảng tài chính lại thường bị châm ngòi bởi những diễn biến chính trị, và tại sao thị trường chứng khoán có thể lên hoặc xuống phụ thuộc vào việc những người giao dịch chứng khoán cảm thấy ra sao vào một buổi sớm mai nào đó.
Ban đầu, khi phiên bản đầu tiên của tiền được tạo ra, con người không có được loại niềm tin này, vì vậy cần phải xác định tất cả những thứ có giá trị thực chất bên trong là “tiền”. Một ví dụ rất hay là loại tiền đầu tiên trong lịch sử, tiền lúa mạch của người Sumer. Nó ra đời ở Sumer khoảng năm 3000 TCN, cùng thời gian, địa điểm và trong cùng một hoàn cảnh với sự xuất hiện của chữ viết. Giống như chữ viết phát triển để đáp ứng những nhu cầu tăng cường các hoạt động hành chính, tiền lúa mạch phát triển để đáp ứng những nhu cầu tăng cường các hoạt động kinh tế.
Tiền lúa mạch đơn giản chỉ là lúa mạch – lượng lúa mạch cố định được dùng làm thước đo phổ quát cho việc đánh giá và trao đổi tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ. Đơn vị đo lường phổ biến nhất là sila, tương đương với xấp xỉ 1 lít. Những cái bát định chuẩn, thể tích 1 sila, được sản xuất đại trà để bất cứ khi nào con người cần mua hoặc bán thứ gì đó, họ sẽ dễ dàng đong ra lượng lúa mạch cần thiết. Tiền lương cũng vậy, được ấn định và trả bằng những sila lúa mạch. Một lao động nam có thể kiếm được 60 sila mỗi tháng, một lao động nữ có thể kiếm được 30 sila. Một đốc công có thể kiếm được từ 1.200 đến 5.000 sila. Một đốc công ăn nhiều nhất cũng không thể tiêu thụ được hết 5.000 lít lúa mạch một tháng, nhưng ông ta có thể dùng những sila không ăn hết để mua tất cả các loại hàng hoá khác – dầu, dê, nô lệ và lương thực nào đó ngoài lúa mạch.
Cho dù lúa mạch có giá trị nội tại, song cũng không dễ thuyết phục mọi người dùng nó như tiên chứ không phải chỉ là một loại hàng hoá khác. Để có thể hiểu được tại sao, hãy nghĩ đến những gì sẽ xảy ra nếu bạn mang một bao tải đầy lúa mạch đến trung tâm mua sắm khu vực mình, và tìm cách mua một cái áo sơ mi hoặc một chiếc pizza. Những người bán hàng có thể sẽ gọi bảo vệ. Nhưng làm cho người ta tin vào lúa mạch như là một dạng tiền đầu tiên vẫn còn có phần dễ hơn, bởi vì lúa mạch có một giá trị sinh học cố hữu. Con người có thể ăn nó. Nhưng mặt khác, rất khó tích trữ và vận chuyển tiền lúa mạch. Bước đột phá thực sự trong lịch sử tiền tệ xuất hiện khi con người đặt niềm tin vào loại tiền không có giá trị cố hữu, nhưng dễ tích trữ và vận chuyển hơn. Loại tiền như vậy xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà cổ đại vào giữa thiên niên kỷ 3 TCN. Nó là đồng shekel bạc.
Một shekel bạc không giống như đồng tiền kim loại, mà đúng hơn là 8,33 gram bạc. Khi Bộ luật Hammurabi tuyên cáo một người ưu tú nếu giết một nữ nô thì phải trả cho người chủ của cô ta 20 shekel bạc, có nghĩa là ông ta phải trả 166 gram bạc, chứ không phải là 20 đồng tiền kim loại. Hầu hết các thuật ngữ tiền tệ trong Cựu Ước là nói về bạc chứ không phải nói về đồng tiền kim loại. Những người anh em của Joseph bán đứng ông cho những người Ishmael với giá 20 shekel bạc, hay 166 gram bạc (bằng giá của một nữ nô, vì ông cũng chỉ là một thanh niên mà thôi).
Không giống như sila lúa mạch, shekel bạc không có giá trị cố hữu. Bạn không thể ăn bạc, uống bạc hay mặc bạc lên người, vả lại nó cũng quá mềm nên không làm ra được những dụng cụ hữu ích – những lưỡi cày hay những thanh gươm bằng bạc sẽ nhăn nhúm giống như làm từ những lá nhôm vậy. Nếu được chế tác thành cái gì đó, thì vàng và bạc thường được dùng để tạo tác thành đồ trang sức, vương miện và các biểu tượng về địa vị xã hội khác – những mặt hàng xa xỉ mà các thành viên của một nền văn hoá nhất định đánh đồng với địa vị xã hội cao. Giá trị của nó thuần túy mang tính văn hoá.
Kim loại quý với một trọng lượng được ấn định cuối cùng cũng dẫn tới sự ra đời của tiền kim loại. Tiền kim loại đầu tiên trong lịch sử được Vua Alyattes của Lydia, phía tây xứ Anatolia, đúc năm 640 TCN. Những đồng kim loại này chứa hàm lượng vàng, bạc được ấn định, và được khắc nhận dạng. Dấu khắc này biểu thị hai điều. Thứ nhất, nó cho biết hàm lượng kim loại quý chứa trong đồng tiền. Thứ hai, nó xác định cơ quan chức trách nào phát hành ra đồng tiền cũng như đảm bảo giá trị của chúng. Hầu hết tất cả các đồng tiền kim loại được sử dụng ngày nay đều là hậu duệ của những đồng kim loại tại Lydia.
Đồng tiền kim loại có hai lợi ích quan trọng so với những thỏi kim loại không khắc. Thứ nhất, khi tiến hành giao dịch, người ta phải cân lên những thỏi kim loại này. Thứ hai, chỉ cân thôi cũng chưa đủ. Làm thế nào để người thợ giày biết được thỏi bạc tôi trả công cho ông ta để lấy đôi giày của mình đúng là được làm bằng bạc nguyên chất chứ không phải làm bằng chì mạ một lớp bạc mỏng bên ngoài? Tiền kim loại sẽ giải quyết những vấn đề này. Dấu khắc trên chúng sẽ chứng minh được giá trị chính xác của chúng, vì vậy người thợ giày không phải đặt cái cân lên quầy tính tiền của mình. Quan trọng hơn, dấu khắc trên đồng xu là dấu hiệu của một số quyền lực chính trị đảm bảo cho giá trị của nó.
Hình 26. Một trong nhưng đồng tiền kim loại cổ nhất trong lịch sử là của Lydia vào thế kỷ 7 TCN.
Xuyên suốt lịch sử, hình dạng và kích thước của những dấu khắc có sự khác biệt rất lớn, nhưng thông điệp thì vẫn luôn như vậy: “Ta, Đức Vua vĩ đại như thế… như thế… lấy danh nghĩa cam kết rằng đồng kim loại này chứa chính xác 5 gram vàng. Nếu ai đó dám làm giả đồng kim loại này, có nghĩa là kẻ đó đang mạo danh ta, đây là một sự sỉ nhục cho danh tiếng của ta. Ta sẽ trừng phạt tội đó bằng hình phạt khắc nghiệt nhất”. Đó là nguyên nhân tại sao việc làm giả tiền luôn được xem như một tội trạng nghiêm trọng hơn so với các hành động lường gạt khác. Làm tiền giả không chỉ là lừa dối, nó là sự xâm phạm quyền lực tối cao, một hành động lật đổ quyền lực, đặc quyền và danh dự của nhà vua. Luật gọi đó là tội phạm thượng (khi quân), và thường sẽ bị trừng phạt bằng tra tấn và tử hình. Chừng nào dân chúng còn tin vào quyền lực và sự chính trực của nhà vua, là họ còn tin vào đồng tiền kim loại của ngài. Những người hoàn toàn xa lạ có thể dễ dàng tin vào giá trị của một đồng denarius La Mã, bởi vì họ tin vào quyền lực và sự chính trực của Hoàng đế La Mã, người mà danh tính và chân dung được điêu khắc trên đó.
Ngược lại, uy quyền của Hoàng đế dựa trên những đồng denarius. Thử nghĩ xem sẽ khó khăn dường nào khi phải duy trì Đế chế La Mã nếu không có tiền kim loại – nếu Hoàng đế phải thu thuế và trả lương bằng lúa mì và lúa mạch. Ông ta sẽ không thể tiến hành thu thuế lúa mạch ở Syria, vận chuyển chỗ đó về ngân khố trung tâm tại Rome, rồi lại vận chuyển chúng đến Anh để trả lương cho những quân đoàn La Mã ở đó. Cũng sẽ rất khó duy trì Đế chế La Mã nếu cư dân Rome tin tưởng vào đồng tiền vàng, nhưng cư dân Gaul, Hy Lạp, Ai Cập và Syria lại bác bỏ niềm tin ấy, thay vào đó, họ tin tưởng vào những đồng tiền vỏ ốc, những chuỗi hạt ngà voi hay những súc vải.
Phúc âm của vàng
Uy tín của đồng tiền kim loại ở Rome mạnh mẽ đến mức thậm chí ở bên ngoài biên giới của Đế chế, người dân cũng rất vui khi được trả bằng những đồng denarius. Vào thế kỷ 1, những đồng tiền La Mã được chấp nhận làm phương tiện trao đổi tại các khu chợ ở Ấn Độ, mặc dù quân đoàn La Mã gần nhất cũng cách đó hàng ngàn cây số. Người Ấn Độ có sự tin tưởng mạnh mẽ vào đồng denarius và hình tượng của Hoàng đế La Mã tới mức khi giới cai trị ở bản địa cho đúc những đồng tiền kim loại riêng, họ bắt chước y hệt đồng denarius, thậm chí cả chân dung của Hoàng đế La Mã! “Denarius” trở thành danh từ chung để chỉ tiền kim loại. Những khalip Hồi giáo đã Ả-rập hoá cái tên này và phát hành đồng “dinar”. Cho đến nay, dinar vẫn là tiền tệ chính thức tại Jordan, Serbia, Macedonia, Tunisia và một vài quốc gia khác.
Khi kiểu tiền đúc mang phong cách Lydia đang lan từ Địa Trung Hải đến vùng biển Ấn Độ Dương, Trung Hoa cũng phát triển một hệ thống tiền tệ hơi khác một chút, dựa trên những đồng xu bằng đồng và những thỏi vàng, thỏi bạc không khắc. Tuy thế, hai hệ thống tiền tệ này cũng có nhiều điểm giống nhau (đặc biệt là sự phụ thuộc vào vàng và bạc) tới mức những quan hệ tiền tệ và thương mại đã được hình thành giữa khu vực Trung Hoa và khu vực Lydia. Nhà buôn và những kẻ chinh phạt người châu Âu và Hồi giáo dần truyền bá hệ thống Lydia và phúc âm của vàng đến những xó xỉnh xa xôi nhất trên Trái đất. Vào cuối kỷ nguyên hiện đại, toàn thế giới là một khu vực tiền tệ duy nhất, trước hết dựa vào vàng và bạc, sau đó dựa vào một vài tiền tệ được tin tưởng như đồng bảng Anh và đồng đô-la Mỹ.
Sự xuất hiện của một khu vực tiền tệ xuyên quốc gia và xuyên văn hoá duy nhất đã đặt nền móng cho sự thống nhất của lục địa Á-Phi, và cuối cùng là toàn cầu, thành một khối chính trị và kinh tế duy nhất. Con người vẫn nói những ngôn ngữ bất đồng với nhau, tuân theo những quy tắc khác nhau và thờ phụng những vị Chúa riêng của mình, nhưng tất cả đều tin tưởng vào vàng bạc và tiền bằng vàng và bạc. Nếu như không có niềm tin chung này, thì các mạng lưới giao thương toàn cầu sẽ gần như không thể hoạt động được. Vàng bạc mà những nhà chinh phục thế kỷ 16 tìm thấy ở châu Mỹ đã tạo điều kiện cho các nhà buôn châu Âu có thể mua lụa, đồ sành sứ và gia vị tại Đông Á, nhờ đó giúp chuyển động những bánh xe phát triển kinh tế tại cả châu Âu và Đông Á. Vàng bạc được khai thác ở Mexico và vùng Andes đã vuột khỏi tay của người châu Âu để tìm đến mái nhà chào đón nó, trong những chiếc ví của các nhà sản xuất tơ lụa và đồ sứ Trung Hoa. Điều gì sẽ xảy ra với nền kinh tế toàn cầu, nếu như người Trung Quốc không phải chịu “cản bệnh của trái tim” đã hành hạ Cortés và những người đồng hành của ông – và từ chối chấp nhận trả bằng vàng và bạc?
Và còn nữa, tại sao người Trung Hoa, Ấn Độ, Hồi giáo và Tây Ban Nha thuộc những nền văn hoá rất khác nhau, đã thất bại trong việc thỏa thuận về nhiều thứ – lại cùng chia sẻ niềm tin vào vàng? Tại sao không xảy ra chuyện người Tây Ban Nha tin vào vàng, trong khi người Hồi giáo tin vào lúa mạch, người Ấn Độ tin vào những đồng tiền vỏ ốc, và người Trung Hoa tin vào những súc lụa? Các nhà kinh tế học đã có sẵn câu trả lời. Một khi thương mại liên kết hai khu vực, những lực cung và cầu sẽ có xu hướng cân bằng giá cả của những loại hàng hoá có thể vận chuyển được. Để hiểu được tại sao, hãy xem xét một tình huống giả định. Giả sử rằng, khi giao thương thường xuyên được mở ra giữa Ấn Độ và Địa Trung Hải, người Ấn Độ không quan tâm đến vàng, và vì vậy vàng gần như không có giá trị. Nhưng ở Địa Trung Hải, vàng là một biểu tượng của địa vị xã hội cao được thèm muốn, vì vậy giá trị của nó rất lớn. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Những nhà buôn qua lại giữa Ấn Độ và vùng Địa Trung Hải sẽ nhận ra sự chênh lệch trong giá trị của vàng ở hai nơi này. Để thu lợi, họ sẽ mua vàng với giá rẻ mạt ở Ấn Độ và bán nó với giá cắt cổ ở Địa Trung Hải. Kết quả là, nhu cầu về vàng ở Ấn Độ sẽ tâng vùn vụt, cũng như giá trị của nó. Cùng lúc đó, Địa Trung Hải trải qua cơn lốc vàng tràn vào xứ này, kết quả là giá vàng sẽ bị giảm xuống. Trong một thời gian ngắn, giá vàng ở Ấn Độ và Địa Trung Hải sẽ khá tương đương nhau. Chỉ cần người Địa Trung Hải tin vào vàng cũng đủ để người Ấn Độ bắt đầu tin vào nó. Thậm chí nếu người Ấn Độ vẫn không sử dụng vàng trong thực tế, thì việc người Địa Trung Hải muốn vàng cũng đủ để người Ấn Độ coi trọng nó.
Tương tự, nếu một người khác tin tưởng vào tiền vỏ ốc hay đồng đô-la hay dữ liệu điện tử, thì cũng đủ để củng cố niềm tin của chúng ta đối với chúng, kể cả người đó có bị chúng ta căm ghét, coi thường hay nhạo báng. Những người không thể đồng thuận về tín ngưỡng, vẫn có thể đồng thuận về tiền, bởi trong khi tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải tin vào thứ gì đó, thì tiền lại đòi hỏi chúng ta phải tin rằng những người khác tin vào thứ gì đó.
Trong hàng ngàn năm, các triết gia, nhà tư tưởng và nhà tiên tri đã bôi nhọ đồng tiền và gọi nó là cội rễ của mọi điều xấu xa. Dù thế nào đi nữa, tiền vẫn là đỉnh cao của lòng khoan dung của loài người. Tiền có cái nhìn cởi mở hơn so với ngôn ngữ, luật pháp quốc gia, mật mã văn hoá, tín ngưỡng và các thói quen xã hội. Tiền là hệ thống niềm tin duy nhất được con người tạo ra, có thể là cầu nối cho hầu hết các khoảng cách về văn hoá, và nó không phân biệt đối xử dựa trên nền tảng tôn giáo, giới tính, chủng tộc, tuổi tác hay khuynh hướng tình dục. Nhờ có tiền, những người không biết nhau và không tin tưởng vào nhau vẫn có thể hợp tác hiệu quả.
Cái giá của tiền
Tiền được dựa trên hai nguyên tắc phổ biến sau:
a. Sự hoán đổi rộng rãi: với tiền trong vai trò một nhà giả kim, bạn có thể biến đất đai thành lòng trung thành, công lý thành sức khỏe, và bạo lực thành kiến thức.
b. Sự tin tưởng rộng rãi: với tiền trong vai trò một người trung gian, bất kỳ hai người nào cũng có thể hợp tác trong bất cứ dự án nào.
Những nguyên tắc này đã làm cho hàng triệu người xa lạ có thể hợp tác hiệu quả trong buôn bán và sản xuất công nghiệp. Nhưng những nguyên tắc có vẻ ôn hòa này cũng có những mặt khuất của chúng. Khi mọi thứ đều có thể hoán đổi được, và khi niềm tin dựa vào những đồng tiền kim loại và tiền vỏ ốc vô danh, nó sẽ bào mòn những truyền thống địa phương, những mối quan hệ thân tình và giá trị con người, thay vào đó là những định luật lạnh lùng của cung và cầu.
Các cộng đồng và gia tộc loài người đã luôn được dựa trên niềm tin vào những thứ “vô giá” như danh dự, lòng trung thành, đạo đức và tình yêu. Những thứ này nằm bên ngoài phạm vi của thị trường và chúng không nên bị mang ra mua bán lấy tiền. Ngay cả nếu thị trường có chào ta một mức giá tốt, thì có một số điều ta cũng không nên làm. Cha mẹ không được bán con cái làm nô lệ; một tín đồ mộ đạo không được mắc tội trọng; một hiệp sĩ trung thành không được phản bội lãnh chúa của mình; và đất đai do tổ tiên để lại không được bán cho người ngoài.
Tiền luôn cố gắng để vượt qua được những ranh giới này, giống như nước rỉ qua những vết nứt của một con đập ngăn nước. Cha mẹ buộc phải bán vài đứa con đi làm nô lệ để lấy tiền mua thức ăn cho những đứa con khác. Những tín đồ mộ đạo đã giết người, ăn cắp và gian dối – và sau đó dùng chiến lợi phẩm của mình để mua lấy sự tha thứ của nhà thờ. Những hiệp sĩ đầy tham vọng bán đấu giá lòng trung thành của họ cho ai trả giá cao nhất, và mua lòng trung thành của những người đi theo mình bằng tiền mặt. Những mảnh đất của tổ tiên để lại được bán cho những người xa lạ từ bên kia địa cầu để mua lấy một tấm vé hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Tiền thậm chí còn có mặt khuất hơn nữa. Mặc dù tiền xây dựng nên sự tin tưởng chung giữa những người xa lạ, nhưng sự tin tưởng này không được đặt vào con người, cộng đồng hay những giá trị thiêng liêng, mà vào chính bản thân tiền và những hệ thống vô cảm đứng sau nó. Chúng ta không tin tưởng vào người lạ cũng như tay hàng xóm sát vách, mà tin vào những đồng tiền họ đang nắm giữ. Nếu họ hết tiền, chúng ta cũng hết tin ở họ. Khi tiền làm sụp đổ những con đê bảo vệ của cộng đồng, tôn giáo và quốc gia, thế giới có nguy cơ trở thành một thị trường khổng lồ và vô cảm.
Vì vậy, lịch sử kinh tế của loài người là một vũ điệu tinh tế. Con người dựa vào tiền bạc để thúc đẩy việc hợp tác với những người xa lạ, nhưng họ lại e sợ nó sẽ phá hủy các giá trị nhân văn và các mối quan hệ thân tình. Với một tay, con người sẵn lòng phá hủy những con đập bảo vệ chung của cộng đồng, vốn đã kiểm chế quá lâu dòng luân chuyển của đồng tiền và sự buôn bán thương mại. Nhưng với tay còn lại, con người lại xây nên những cái đập ngăn mới để bảo vệ xã hội, tôn giáo và môi trường khỏi sự nô dịch hoá của các lực thị trường.
Ngày nay, chúng ta thường tin rằng thị trường luôn thắng thế, và những con đập được các vị vua, linh mục và cộng đồng dựng nên cũng không thể kìm giữ được những cơn thủy triều của đồng tiền. Điều này thật thơ ngây. Những chiến binh tàn bạo, những kẻ cuồng tín tôn giáo, và những cư dân có trách nhiệm đã thử xoay xở nhiều lần nhằm đánh bại các nhà buôn đầy toan tính, và thậm chí toan tính nhào nặn lại nền kinh tế. Vì vậy, sẽ là bất khả thi nếu hiểu sự thống nhất của loài người như một quá trình kinh tế thuần túy. Để có thể hiểu được làm cách nào hàng ngàn nền văn hoá bị cô lập đã hợp nhất được theo thời gian, hình thành nên ngôi làng toàn cầu ngày nay, chúng ta phải xem xét vai trò của vàng và bạc, nhưng chúng ta không thể phớt lờ vai trò không kém phần quan trọng của sắt thép.
11
NHỮNG TẦM NHÌN ĐẾ QUỐC
Người La Mã cổ đại đã quen với việc bại trận. Giống như những kẻ thống trị của các đế quốc vĩ đại nhất trong phần lớn lịch sử loài người, họ cũng có thể thua hết trận này đến trận khác, nhưng vẫn chiến thắng trong cuộc chiến. Một đế quốc không trụ vững nổi qua một cú đòn thì không phải là một đế quốc thực sự. Song, người La Mã thấy khó có thể tiêu hoá được tin tức đến từ phía Bắc Iberia vào giữa thế kỷ 2 TCN. Một thị trấn miền núi nhỏ bé, tẩm thường với tên gọi Numantia, nơi sinh sống của những người Celts bản xứ trên bán đảo, đã dám vứt bỏ ách áp bức La Mã. Ở thời điểm đó, Rome hẳn là chủ nhân của toàn bộ vùng lưu vực Địa Trung Hải, đã đánh bại Đế chế Macedonia và Seleucid, nô dịch các thành bang kiêu hãnh của Hy Lạp, và biến Carthage thành một đống tro tàn âm ỉ. Người Numantia không có gì bên mình ngoài tình yêu tự do mãnh liệt và địa hình khắc nghiệt của quê hương. Thế mà họ đã buộc hết quân đoàn La Mã này đến quân đoàn La Mã khác phải đầu hàng hay rút lui trong nhục nhã.
Cuối cùng, năm 134 TCN, sự kiên nhẫn của La Mã đã bị bẻ gãy. Thượng viện quyết định phái Scipio Aemilianus, vị tướng lỗi lạc nhất của Rome từng san bằng Carthage, đi đối phó với người Numantia. Ông được giao cho một đội quân khổng lồ gồm hơn 30.000 lính. Scipio, vốn kính trọng tinh thần chiến đấu và võ nghệ cao cường của người Numantia, đã quyết không phung phí sinh mạng binh sĩ của mình trong cuộc đấu không cần thiết. Thay vào đó, ông bao vây Numantia bằng một tuyến công sự, chặn đứng liên lạc của thị trấn với thế giới bên ngoài. Cái đói đã làm thay công việc của ông. Sau hơn một năm, thực phẩm dự trữ đã cạn kiệt. Khi người Numantia nhận ra rằng tất cả hy vọng đã mất, họ bèn thiêu trụi thị trấn; theo những ghi chép của người La Mã, hầu hết họ đã tự sát để không bị biến thành nô lệ cho Rome.
Numantia sau này trở thành một biểu tượng về ý chí độc lập và quả cảm của người Tây Ban Nha. Miguel de Cervantes, tác giả của tiểu thuyết Don Quixote, đã viết một bi kịch mang tên Trận vây hãm Numantia, kết thúc bằng sự tiêu hủy của thị trấn, nhưng với một viễn cảnh huy hoàng trong tương lai của Tây Ban Nha. Các nhà thơ sáng tác những bài tụng ca về những người đã chống trả quyết liệt, và các họa sĩ đã thực hiện những khắc họa huy hoàng về cuộc vây hãm này lên khung vải. Năm 1882, những tàn tích của nó đã được công bố là “đài tưởng niệm quốc gia” và trở thành một địa điểm hành hương dành cho những người Tây Ban Nha yêu nước. Trong những năm 1930 và 1960, các truyện tranh nổi tiếng nhất dành cho trẻ em ở Tây Ban Nha không nói về Siêu nhân hay Người nhện, mà kể về những cuộc phiêu lưu của El Jabato, một anh hùng Iberia huyền thoại thời cổ đại, đã chiến đấu chống lại những kẻ áp bức La Mã. Người Numantia cổ đại cho đến ngày nay vẫn là những hình mẫu của Tây Ban Nha về chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa yêu nước, đóng vai trò như tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên của đất nước này noi theo.
Tuy nhiên, các nhà ái quốc Tây Ban Nha ca tụng người Numantia bằng tiếng Tây Ban Nha — thuộc nhóm ngôn ngữ La Mã, vốn là hậu duệ nói tiếng Latin của Scipio. Những người Numantia nói tiếng Celtic, thứ tiếng đã bị biến mất hoàn toàn. Cervantes đã viết Trận vây hãm Numantia bằng chữ Latin, và vở kịch dựa trên mô hình nghệ thuật của Hy Lạp-La Mã. Numantia không có kịch nghệ, sân khấu. Các nhà ái quốc Tây Ban Nha, người ngưỡng mộ chủ nghĩa anh hùng Numantia cũng có xu hướng là những tín đồ trung thành của Giáo hội Công giáo La Mã – chú ý từ La Mã – một giáo hội mà người đứng đầu của nó ngồi ở Rome, và Chúa của họ thích được kêu cầu đến bằng tiếng Latin. Tương tự, pháp luật Tây Ban Nha hiện đại có nguồn gốc từ pháp luật La Mã; nền chính trị Tây Ban Nha được xây dựng trên nền tảng của chính trị La Mã; và ẩm thực cũng như kiến trúc của Tây Ban Nha lại còn nợ di sản của La Mã cổ đại nhiều hơn rất nhiều so với di sản của người Celt ở Iberia. Không còn lại gì thực chất của Numantia, ngoại trừ những tàn tích. Ngay cả câu chuyện của nó đến với chúng ta cũng là nhờ vào những tác phẩm của các sử gia La Mã. Nó đã được đo ni đóng giày cho phù hợp với thị hiếu của khán giả La Mã, vốn thích thú với những câu chuyện về đám người man rợ yêu tự do. Chiến thắng của Rome trước Numantia trọn vẹn đến nỗi kẻ chiến thắng đã thu nạp chính kí ức của kẻ bại trận.
Ngày nay chúng ta không thích kiểu chuyện này. Chúng ta muốn thấy kẻ yếu sẽ chiến thắng. Nhưng trong lịch sử thì không có công lý. Hầu hết các nền văn hoá trước đây sớm hay muộn đều biến thành con mồi cho những đội quân của một số đế quốc tàn nhẫn, và bị đế quốc ký thác vào lãng quên. Các đế quốc cũng vậy, cuối cùng cũng sụp đổ, nhưng thường để lại những di sản phong phú và lâu dài. Hầu như tất cả mọi người trong thế kỷ 21 đều là hậu duệ của một đế quốc này hay một đế quốc khác.
Thế nào là một đế quốc?
Đế quốc (hay đế chế) là một trật tự chính trị có hai đặc tính quan trọng. Thứ nhất, để có được danh hiệu đó, bạn phải cai trị một lượng đáng kể những dân tộc khác biệt, mỗi dân tộc sở hữu một bản sắc văn hoá riêng biệt, và có một lãnh thổ riêng biệt. Chính xác thì bao nhiêu dân tộc? Hai hay ba là không đủ. 20 hay 30 thì quá nhiều. Ngưỡng đế quốc nằm đâu đó ở giữa mấy con số này.
Thứ hai, các đế quốc được đặc trưng bởi đường biên giới linh hoạt và một tham vọng vô cùng tận. Chúng có thể nuốt chửng và tiêu hoá ngày càng nhiều những quốc gia và vùng lãnh thổ, mà không thay đổi cấu trúc hay bản sắc của chúng. Nước Anh ngày nay có những biên giới khá rõ ràng, không thể xâm phạm mà không làm thay đổi cấu trúc cơ bản và bản sắc nó. Một thế kỷ trước hầu như bất cứ nơi nào trên Trái đất cũng đã có thể trở thành một phần của Đế quốc Anh.
Sự đa dạng văn hoá và tính linh động lãnh thổ không chỉ là đặc điểm độc đáo, mà chúng còn đóng vai trò trung tâm trong lịch sử của các đế quốc. Chính nhờ vào hai đặc điểm này mà các đế quốc đã thành công trong việc thống nhất những nhóm sắc tộc và vùng sinh thái đa dạng dưới một cây dù chính trị duy nhất, từ đó gắn kết ngày càng nhiều các bộ phận chủng người và hành tinh Trái đất.
Cần phải nhấn mạnh rằng một đế quốc được xác định hoàn toàn dựa vào sự đa dạng văn hoá và những biên giới linh hoạt của nó, chứ không phải bởi nguồn gốc, mô hình chính quyền, phạm vi lãnh thổ, hay quy mô dân số của nó. Một đế quốc không nhất thiết phải nổi lên từ việc chinh phạt bằng quân sự. Đế chế Athens xuất hiện như một liên minh tự nguyện, và Đế chế Habsburg được sinh ra từ các khế ước hôn nhân hoàng gia, chắp vá với nhau bằng một chuỗi những liên minh hôn nhân khôn khéo. Một đế quốc cũng không nhất thiết phải được cai trị bởi một hoàng đế chuyên quyền. Đế quốc Anh, đế quốc lớn nhất trong lịch sử, được cai trị bằng chế độ dân chủ. Những đế quốc dân chủ (hay chí ít là cộng hòa) khác bao gồm Hà Lan, Pháp, Bỉ, và Mỹ, cũng như những đế quốc thời kỳ tiền hiện đại như Novgorod, La Mã, Carthage và Athens.
Diện tích cũng không thực sự quan trọng. Một đế quốc có thể rất nhỏ bé. Đế chế Athens khi hưng thịnh nhất có diện tích và dân số nhỏ hơn nhiều so với Hy Lạp ngày nay. Đế chế Aztec nhỏ hơn so với Mexico hiện đại. Nhưng cả Athens và Aztec đều là những đế quốc, trong khi Hy Lạp hiện đại và Mexico hiện đại thì không, vì Athens và Aztec dần chinh phục hàng tá và thậm chí hàng trăm những chính thể khác nhau, còn Hy Lạp và Mexico thì không. Athens cai quản hơn 100 thành bang trước đấy độc lập, trong khi Đế chế Aztec, nếu chúng ta có thể tin tưởng vào những hồ sơ thuế của nó, thì cai trị 371 bộ lạc và dân tộc khác nhau.
Làm thế nào để có thể nhồi nhét “nồi lẩu thập cẩm” các dân tộc như thế vào trong lãnh thổ của một quốc gia hiện đại khiêm nhường? Người ta làm được điều đó vì trước đây còn có nhiều dân tộc khác biệt hơn thế trên thế giới, mỗi dân tộc có dân số nhỏ hơn và chiếm ít đất đai hơn những dân tộc điển hình ngày nay. Vùng đất giữa Địa Trung Hải và sông Jordan, hiện phải vật vã mới thỏa mãn tham vọng của chỉ hai dân tộc này, vậy mà trong thời kỳ Kinh Thánh, nó đã dễ dàng dung nạp hàng tá các quốc gia, bộ lạc, vương quốc nhỏ và thành bang.
Các đế quốc là một trong những lý do chính gây ra sự suy giảm nhanh chóng mức độ đa dạng của loài người. Cỗ xe ủi đế quốc dấn dần xóa mờ những đặc thù độc đáo của rất nhiều dân tộc (như của người Numantia), trui rèn từ chúng những nhóm mới và lớn hơn nhiều.
Những đế quốc tàn ác?
Trong thời đại chúng ta, “đế quốc” đứng thứ hai chỉ sau “phát xít” trong bộ từ vựng chửi thề chính trị. Sự phê bình hiện nay đối với đế quốc thường diễn ra dưới hai hình thức:
1. Đế quốc đã thất bại. Về lâu dài, không thể cai trị hiệu quả một số lượng lớn những dân tộc bị chinh phục.
2. Ngay cả nếu có làm được như vậy, thì đó cũng là điều không nên làm, vì đế quốc là các cỗ máy tàn phá và bóc lột thật xấu xa. Mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết, và không bao giờ nên là đối tượng bị trị của một dân tộc khác.
Từ quan điểm lịch sử, nhận định đầu tiên thì rõ là vô nghĩa, còn nhận định thứ hai thì cực kỳ có vấn đề.
Sự thật là đế quốc đã và đang là hình thức tổ chức chính trị phổ biến nhất trên thế giới trong suốt 2.500 năm qua. Hầu hết loài người trong hai thiên niên kỷ rưỡi này đã sống trong các đế quốc. Đế quốc cũng là một hình thái chính quyền rất ổn định. Hầu hết các đế quốc đều có thể dễ dàng dập tắt những cuộc nổi loạn tới mức đáng ngại. Nói chung, nguyên nhân khiến đế quốc bị lật đổ thường là do bị xâm lược từ ngoại bang, hoặc do một sự chia rẽ trong tầng lớp cầm quyền. Ngược lại, các dân tộc bị chinh phạt thường không có thành tích nổi trội trong việc tự giải phóng khỏi những chúa tể của họ. Hầu hết vẫn bị khuất phục trong hàng trăm năm. Thông thường, họ sẽ bị đế quốc đi chinh phục thôn tính dần dần, cho đến khi bản sắc văn hoá của họ mai một dần.
Ví dụ, khi Đế chế Tây La Mã cuối cùng cũng phải khuất phục trước những kẻ xâm lược từ bộ tộc German năm 476, người Numantia, Arverni, Helvetia, Samnite, Lusitania, Umbria, Etrusca và hàng trăm dân tộc bị lãng quên khác đã bị người La Mã chinh phục trong những thế kỷ trước, không vươn ra nổi từ cái thân xác đã bị phanh thây của đế quốc, giống như Jonah thoát ra từ bụng con cá lớn.* Không một dân tộc nào trong số đó còn tồn tại. Lớp con cháu có dòng giống sinh học của dân tộc đó, những người đã tự nhận mình là thành viên của các quốc gia đó, những người đã nói thứ ngôn ngữ của họ, thờ phụng những vị thần của họ và kể những huyền thoại và truyền thuyết của họ, thì bây giờ tất cả đều suy nghĩ, nói năng và thờ phụng như những người La Mã.
Trong nhiều trường hợp, sự hủy diệt của một đế quốc hiếm khi đồng nghĩa với sự độc lập cho những dân tộc bị trị. Thay vào đó, một đế quốc mới bước vào khoảng trống được tạo ra khi đế quốc cũ bị sụp đổ hay rút lui. Không nơi nào cho thấy điều này rõ hơn ở Trung Đông. Chòm sao chính trị hiện nay ở khu vực đó – một sự cân bằng quyền lực giữa nhiều thực thể chính trị độc lập với những đường biên giới hầu như ổn định – hầu như chưa có tiền lệ tương đương nào ở bất kỳ thời điểm nào trong vài thiên niên kỷ gần đây. Lần cuối cùng Trung Đông trải qua tình trạng như vậy là trong thế kỷ 8 TCN – gần 3.000 năm trước! Từ sự nổi lên của Đế chế Tân-Assyria trong thế kỷ 8 TCN cho đến sự sụp đổ của những đế quốc Anh và Pháp trong khoảng giữa thế kỷ 20, vùng Trung Đông đã qua tay hết đế quốc này đến đế quốc khác, giống như một khúc gỗ chuyển tay trong cuộc chạy đua tiếp sức. Đến thời điểm Anh và Pháp cuối cùng đã vứt bỏ cây quyền trượng, các dân tộc Aramaean, Ammonite, Phoenicia, Philistine, Moabite và các dân tộc khác bị người Assyria chinh phạt đều đã biến mất từ rất lâu rồi.
Đúng vậy, người Do Thái, Armenia và Georgia ngày nay tuyên bố có phần đúng rằng họ là hậu duệ của những dân tộc Trung Đông cổ đại. Tuy nhiên, đây chỉ là các ngoại lệ để chứng minh quy luật chung, và thậm chí những tuyên bố này có phần nào phóng đại. Dù không nói cũng biết, những hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội của người Do Thái hiện đại, chẳng hạn thế, mắc nợ công lao của những đế quốc mà họ đã sống trong hai thiên niên kỷ vừa qua nhiều hơn so với những truyền thống của vương quốc Judaea cổ đại. Nếu Vua David có xuất hiện trong giáo đường Do Thái chính thống cực đoan ở Jerusalem ngày nay, thì ông sẽ hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy họ mặc quần áo Đông Âu, nói một phương ngữ German (Yiddish) và tranh luận bất tận về ý nghĩa của một bản văn Babylon (Talmud – Kinh Do Thái). Không có những giáo đường Do Thái, không có những bộ kinh Talmud, và cũng chẳng có những bộ kinh Torah ở xứ Judaea cổ đại.
Việc xây dựng và duy trì nên một đế quốc thường bắt buộc phải tàn sát nhẫn tâm một lượng lớn dân cư và đàn áp tàn bạo đối với toàn bộ những người còn sống sót. “Bộ dụng cụ đế quốc tiêu chuẩn” này bao gồm chiến tranh, sự nô dịch hoá, trục xuất và diệt chủng. Khi người La Mã chiếm Scotland năm 83, họ đã gặp sự kháng cự mãnh liệt từ những bộ lạc Caledonia bản địa, và phản ứng lại bằng cách tiêu diệt vùng đất này. Đáp lại đề nghị hòa bình của La Mã, thủ lĩnh Calgacus gọi người La Mã là “những kẻ côn đồ cuồng bạo của thế giới”, và nói rằng “đi cướp bóc, sát hại và ăn cắp mà họ lại khoác cái tên giả dối là đế quốc; họ tạo một sa mạc và gọi nó là hòa bình”.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng những đế quốc không để lại điều gì có giá trị. Tô đen tất cả các đế quốc và chối bỏ toàn bộ di sản của đế quốc chính là vứt bỏ hầu hết văn hoá loài người. Giới tinh hoa đế quốc dùng lợi nhuận từ những cuộc chinh phục để đầu tư không chỉ cho quân đội và pháo đài, mà cho cả triết học, nghệ thuật, công lý và cả việc thiện nguyện. Một phần quan trọng trong sự tồn tại của những thành tựu văn hoá nhân loại là nhờ vào sự bóc lột các bộ phận dân chúng bị chinh phục. Lợi nhuận và sự giàu có do chủ nghĩa đế quốc La Mã đem lại đã mang đến cho Cicero, Seneca, và St Augustine sự thảnh thơi, sung túc để suy nghĩ và viết lách. Taj Mahal không thể được xây dựng nếu không có của cải tích lũy được từ việc Mughal bóc lột thần dân Ấn Độ của mình; và lợi nhuận của Đế chế Habsburg đến từ sự cai trị của nó đối với những tỉnh thành nói các thứ tiếng Slav, Hungary và Rumani, đã biến thành tiền lương trả cho Haydn, và tiền đặt hàng Mozart soạn nhạc. Không có nhà văn Caledonia nào bảo tồn được những bài diễn thuyết của Calgacus để lưu truyền cho hậu thế. Chúng ta biết đến nó là nhờ sử gia Tacitus của La Mã. Trong thực tế, có thể chính Tacitus đã viết ra nó. Hầu hết những học giả ngày nay đồng ý rằng Tacitus không chỉ thêu dệt nên bài diễn thuyết này, mà còn bịa đặt ra nhân vật Calgacus, thủ lĩnh của những người Caledonia với vai trò một người phát ngôn cho những gì ông và tầng lớp thượng lưu khác của La Mã nghĩ về đất nước của chính họ.
Thậm chí nếu chúng ta nhìn ra bên ngoài văn hoá của tầng lớp ưu tú và nền mĩ thuật cao siêu để tập trung vào thế giới của những con người bình dân, chúng ta cũng tìm thấy các di sản đế quốc trong phần lớn những nền văn hoá hiện đại. Ngày nay, hầu hết chúng ta nói chuyện, suy nghĩ và ước mơ bằng những ngôn ngữ của đế quốc vốn được áp chế cho ông bà của chúng ta bằng lưỡi lê. Hầu hết người Đông Á nói và mơ bằng thứ ngôn ngữ của Đế quốc Hán. Bất kể nguồn gốc xuất thân của họ là ở đâu, gần như tất cả cư dân hai vùng lục địa châu Mỹ, từ bán đảo Barrow của Alaska đến eo biển Magellan của Chile, đều giao tiếp bằng một trong bốn ngôn ngữ đế quốc: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp hoặc Anh. Người Ai Cập ngày nay nói tiếng Ả-rập, mặc nhận họ là người Ả-rập, và một lòng một dạ ủng hộ Đế chế Ả-rập, vốn chinh phạt Ai Cập trong thế kỷ 7, và dùng quả đấm thép nhiều lần nghiền nát những cuộc nổi dậy không ngừng nổ ra chống lại sự cai trị của nó. Có khoảng 10 triệu người Zulu ở Nam Phi vẫn nhớ lại thời đại Zulu vinh quang trong thế kỷ 19, dẫu hầu hết trong số họ đều được sinh ra từ những bộ tộc từng chiến đấu chống lại chính Đế chế Zulu, và chỉ được sáp nhập vào nó sau những chiến dịch quân sự đẫm máu.
Tất cả cũng chỉ vì muốn tốt cho bạn
Đế quốc đầu tiên mà chúng ta có thông tin xác thực về nó là Đế chế Akkad của Sargon Đại đế (khoảng năm 2250 TCN). Sargon khởi đầu sự nghiệp của mình với vai trò là vua của Kish, một thành bang nhỏ bé ở vùng Lưỡng Hà. Trong vòng vài thập kỷ, ông đã thành công trong việc chinh phục không chỉ tất cả những thành bang khác trong vùng này, mà cả những khu vực lãnh thổ lớn bên ngoài khu vực trung tâm của Lưỡng Hà. Sargon khoe rằng ông đã chinh phục toàn thế giới. Trên thực tế, vùng cai quản của ông trải dài từ Vịnh Ba Tư đến biển Địa Trung Hải, và bao gồm hầu hết hai quốc gia Iraq và Syria ngày nay, cùng với một vài lát cắt của Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.
Đế chế Akkad không duy trì được lâu sau cái chết của người sáng lập ra nó, nhưng Sargon đã để lại tấm hoàng bào mà hiếm khi không có người tranh giành. Trong khoảng 1.700 năm tiếp sau, vua của Assyria, Babylon và Hittite đã lấy Sargon làm hình mẫu, khoe khoang rằng họ cũng đã chinh phục toàn bộ thế giới. Sau đó, khoảng năm 550 TCN, Cyrus Đại đế của Đế chế Ba Tư xuất hiện và với một sự khoe khoang còn hùng tráng hơn thế.
Bản đồ 4. Đế chế Akkad và Đế chế Ba Tư.
Vua Assyria cứ vẫn là Vua Assyria. Ngay cả khi họ tuyên bố đã thống trị toàn bộ thế giới, thì rõ ràng họ làm điều đó vì sự vinh hiển cho Assyria, và họ không hối tiếc về điều này. Mặt khác, Vua Cyrus tuyên bố không chỉ đơn thuần là thống lĩnh toàn thể thế giới, mà làm như vậy vì lợi ích của toàn thể nhân dân. “Chúng ta chinh phục các người vì lợi ích của chính các người”, người Ba Tư đã nói như vậy. Vua Cyrus muốn các dân tộc mà ông cai trị yêu mến ông và mặc nhận rằng họ may mắn được là chư hầu của Đế chế Ba Tư. Ví dụ nổi tiếng nhất về những nỗ lực đầy sáng kiến của Cyrus để giành được sự tán thành của một quốc gia sống dưới sự cai trị của ông, là cho phép người Do Thái đang lưu vong ở thành Babylon được hồi hương về Judaea và xây lại Ngôi đền của họ. Ông còn đề nghị hỗ trợ họ về tài chính. Cyrus đã không xem mình như một vị vua Ba Tư cai trị người Do Thái mà xem mình là vua của người Do Thái và do đó chịu trách nhiệm về đời sống an sinh của họ.
Giả định về việc cai trị toàn thế giới nhắm đến lợi ích cho toàn bộ thần dân trên đây là một giả định gây sửng sốt. Quá trình tiến hoá đã làm cho Homo sapiens, giống như các động vật xã hội thuộc lớp có vú khác, trở thành một sinh vật có tư tưởng bài ngoại. Theo bản năng, Sapiens chia loài người thành hai phần, “chúng ta” và “chúng nó”. Chúng ta là những người giống như bạn và tôi, cùng chia sẻ ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với nhau, nhưng không có trách nhiệm đối với chúng nó. Chúng ta luôn luôn khác biệt với chúng nó, và chẳng nợ chúng nó điều gì cả. Chúng ta không muốn nhìn thấy bất kĩ một ai trong số chúng nó có mặt trên lãnh thổ của chúng ta và cũng không mảy may quan tâm về những gì xảy ra trong lãnh thổ của chúng nó. Chúng nó thậm chí không phải là con người. Trong ngôn ngữ của người Dinka ở Sudan, “Dinka” chỉ đơn giản là “con người”. Những đối tượng nào không phải Dinka thì không phải là người. Kẻ thù không đội trời chung của dân tộc Dinka là dân tộc Nuer. Từ “Nuer” có nghĩa là gì trong ngôn ngữ Nuer? Nó có nghĩa là “con người nguyên bản”. Cách xa các sa mạc Sudan hàng ngàn cây số, trong những vùng đất băng giá của Alaska và phía đông bắc Siberia là nơi sinh sống của dân tộc Yupik. Từ “Yupik” có nghĩa là gì trong ngôn ngữ Yupik? Nó có nghĩa là “con người thực sự”.
Ngược lại với sự độc đoán về mặt sắc tộc này, hệ tư tưởng đế quốc từ thời Cyrus trở đi đã có xu hướng bao trùm và bao hàm tất cả. Dù vẫn thường nhấn mạnh đến những khác biệt về chủng tộc và văn hoá giữa tầng lớp cai trị và bị trị, nhưng nó cũng vẫn thừa nhận sự thống nhất cơ bản của toàn thế giới, sự tồn tại của một bộ nguyên tắc duy nhất chi phối mọi địa điểm và thời gian, cũng như trách nhiệm chung của tất cả loài người. Loài người được xem là một gia đình lớn: những đặc quyền của cha mẹ gắn liền với trách nhiệm phải lo cho phúc lợi của con cái mình.
Tầm nhìn đế quốc mới này đã truyền từ Cyrus và người Ba Tư sang cho Alexander Đại đế, và từ ông lại truyền tới các vua Hy Lạp thời cổ, hoàng đế La Mã, khalip Hồi giáo, vua Ấn Độ, và cuối cùng, đến các nguyên thủ Liên Xô và tổng thống Mỹ. Tầm nhìn đế quốc ôn hòa này đã biện minh cho sự tồn tại của những đế quốc, và vô hiệu hoá không chỉ những nỗ lực của các dân tộc bị trị nổi loạn, mà cả những nỗ lực của những dân tộc độc lập chống lại sự bành trướng của đế quốc.
Những tầm nhìn đế quốc tương tự đã phát triển một cách độc lập với mô hình của Đế chế Ba Tư ở những khu vực khác của thế giới, đặc biệt là ở Trung Mỹ, vùng núi Andes Nam Mỹ, và Trung Hoa. Theo lý thuyết chính trị truyền thống Trung Hoa, Trời (Tian) là nguồn cội của tất cả những quyền lực hợp pháp trên mặt đất. Trời chọn ra cá nhân hay gia đình xứng đáng nhất và ban cho họ “Thiên mệnh”. Cá nhân hay gia đình này, sau đó cai trị tất cả “Thiên hạ” (Tianxia) vì lợi ích của toàn bộ nhân dân của nó. Như vậy, một quyền lực hợp pháp – theo định nghĩa – là quyền lực phổ quát. Nếu một người cai trị thiếu Thiên mệnh, thì tức là người ấy thiếu tính hợp pháp để cai trị dù chỉ là một thành phố đơn lẻ. Nếu một người cai trị có được Thiên mệnh, thì người ấy có bổn phận phải truyền bá công lý và sự hòa hợp ra toàn thế giới. Thiên mệnh không thể được trao cho nhiều ứng viên thiên tử cùng một lúc, và kết quả là không thể hợp pháp hoá sự tồn tại của nhiều hơn một quốc gia độc lập.
Hoàng đế đầu tiên của Đế chế Trung Hoa thống nhất là Tần Thủy Hoàng đã kiêu hãnh tuyên bố: “khắp sáu hướng [của vũ trụ], tất cả mọi thứ đều thuộc về hoàng đế… bất cứ nơi đâu có dấu chân người thì không ai trong số đó không trở thành thần dân [của hoàng đế]… sự tử tế của người còn được ban xuống tận những con bò và con ngựa. Không một ai là không hưởng lợi. Mỗi người đều an toàn dưới mái nhà mình”. Trong tư tưởng chính trị và những kí ức lịch sử của Trung Hoa, các thời kỳ đế quốc do đó được xem là những thời đại hoàng kim của trật tự và công lý. Trái ngược với quan điểm của phương Tây hiện đại xem một thế giới công bằng là một thế giới gồm các quốc gia dân tộc riêng biệt, ở Trung Hoa các thời kỳ phân mảnh chính trị bị xem là thời đại đen tối của hỗn loạn và bất công. Nhận thức này đã có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử Trung Hoa. Mỗi lần một đế quốc sụp đổ, học thuyết chính trị chi phối cao nhất kêu gọi các cường quốc không tách thành các công quốc độc lập nhỏ bé, mà hãy cố gắng hợp nhất lại. Sớm hay muộn, những nỗ lực này cũng thành công.
Khi “chúng nó” trở thành “chúng ta”
Các đế quốc đã và đang đóng vai trò quyết định trong việc hợp nhất nhiều nền văn hoá nhỏ thành một vài nền văn hoá lớn. Tư tưởng, con người, hàng hoá và công nghệ dễ dàng lan truyền trong biên giới của một đế quốc hơn là trong một khu vực bị phân mảnh chính trị. Thường thì chính đế quốc đã truyền bá một cách có chủ ý tư tưởng, thể chế, phong tục và các quy chuẩn. Lý do thứ nhất là để làm cho cuộc sống của họ dễ dàng hơn. Rất khó cai trị một đế quốc mà trong đó mỗi khu vực nhỏ lại có bộ luật riêng, chữ viết riêng, ngôn ngữ riêng, và tiền tệ riêng. Chuẩn hoá là một món hời cho các hoàng đế.
Lý do thứ hai và cũng quan trọng không kém đằng sau việc tại sao các đế quốc lại tích cực truyền bá nền văn hoá chung là để đạt được tính hợp pháp. Ít nhất kể từ thời của Cyrus và Tần Thủy Hoàng, những đế quốc đã biện minh rằng hành động của mình – dù là xây dựng đường sá, hay xung đột đổ máu – là điều không thể không làm để truyền bá một nền văn hoá cao cấp hơn, có lợi cho những người bị chinh phục còn hơn cả những kẻ đi chinh phục.
Cái lợi này đôi khi rất rõ ràng, như: thực thi pháp luật, quy hoạch đô thị, tiêu chuẩn hoá các đơn vị trọng lượng và đo lường; nhưng đôi khi đáng ngờ, như: thuế vụ, quân dịch, sự tôn sùng hoàng đế. Nhưng hầu hết tầng lớp ưu tú của đế quốc lại thực lòng tin rằng họ đang làm việc vì lợi ích chung của tất cả thần dân đế quốc. Tầng lớp cầm quyền của Trung Hoa đã đối xử với những dân tộc láng giềng và thần dân ở nước ngoài của họ như những người man rợ đáng thương, những người mà Đế chế Trung Hoa có trách nhiệm mang đến cho họ những lợi ích của văn hoá. Thiên mệnh ban cho hoàng đế khả năng không chỉ để khai thác thế giới, mà còn để giáo dục con người. Người La Mã cũng vậy, đã biện minh cho sự đô hộ của mình, rằng họ đã đem lại cho những người man rợ hòa bình, công lý và sự cải tiến. Người German hoang dã, người Gaul vẽ mình đã sống trong dơ dáy và ngu muội, cho đến khi người La Mã đến, thuần hoá họ bằng pháp luật, tắm rửa họ trong những nhà tắm công cộng, và mở mang cho họ bằng triết học. Đế chế Maurya vào thế kỷ 3 TCN đã nhận sứ mệnh của mình là truyền bá lời dạy của Phật cho thế giới vô minh. Những khalip Hồi giáo tiếp nhận một nhiệm vụ thiêng liêng là truyền bá sự soi rạng của đấng Tiên tri một cách hòa bình nhất nếu có thể, và bằng gươm đao nếu cần thiết. Đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tuyên bố rằng, họ tìm kiếm ở Đông Ấn và châu Mỹ không phải sự giàu có mà là những người cải đạo sang niềm tin chân chính. Mặt trời không bao giờ lặn đối với sứ mạng của Anh trong việc truyền bá phúc âm song sinh của chủ nghĩa tự do và thương mại tự do. Người Liên Xô thấy có trách nhiệm phải tạo điều kiện thuận lợi cho bước đi không thể lay chuyển của lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chính quyền của giai cấp vô sản. Nhiều người Mỹ ngày nay vẫn tin rằng chính phủ của họ có bổn phận đạo đức cấp thiết là mang những lợi ích về dân chủ và quyền con người đến những nước thuộc Thế giới Thứ ba, ngay cả khi những lợi ích này được phân phối bằng tên lửa hành trình và máy bay tiêm kích phản lực siêu thanh F-16.
Tư tưởng vấn hoá được các đế quốc truyền bá hiếm khi là sản phẩm sáng tạo độc quyền của giai cấp ưu tú thống trị. Vì tầm nhìn đế quốc có xu hướng phổ quát và toàn diện, nên giới ưu tú của đế quốc rất dễ chấp nhận những tư tưởng, tiêu chuẩn và truyền thống từ bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng, hơn là bám víu vào một truyền thống thủ cựu duy nhất. Trong khi một số hoàng đế tìm cách thanh lọc nền văn hoá của họ và trở về với những gì họ xem là cội nguồn của mình, thì phần nhiều các đế quốc này đã sản sinh ra các nền văn minh lai ghép, hấp thụ rất nhiều từ những dân tộc bị trị của mình. Nền văn hoá vương triều của La Mã có phần Hy Lạp gần bằng phần La Mã. văn hoá vương triều Abbasid có một phần Ba Tư, một phần Hy Lạp và một phần Ả-rập. Văn hoá vương triều Mông Cổ là một sự bắt chước mù quáng văn hoá Trung Hoa. Tại đế quốc Mỹ, tổng thống Mỹ có dòng máu Kenya, vừa ăn pizza Ý vừa xem bộ phim yêu thích của mình, một thiên sử thi nước Anh về những cuộc nổi dậy của người Ả-rập chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng cái nồi văn hoá thập cẩm này không làm cho quá trình trình đồng hoá văn hoá trở nên dễ dàng hơn đối với những dân tộc bại trận. Văn minh đế quốc có thể đã hấp thụ vô số đóng góp từ rất nhiều dân tộc bị chinh phục, nhưng kết quả lai ghép đó vẫn xa lạ với đại đa số. Quá trình đồng hoá thường đau đớn và bi kịch. Không dễ gì để từ bỏ một truyền thống bản địa đã quen thuộc, được nâng niu, và cũng thật khó khăn, thật căng thẳng để hiểu và tiếp nhận một văn hoá mới. Tệ hơn nữa, ngay cả khi dân tộc bị trị đã thành công trong việc tiếp nhận nền văn hoá đế quốc, thì cũng có thể mất tới hàng thập kỷ, nếu không nói là hàng thế kỷ, họ mới được tầng lớp ưu tú của mẫu quốc chấp nhận là một phần của “chúng ta”. Các thế hệ sinh ra trong khoảng thời gian giữa cuộc chinh phục và sự chấp nhận này bị bỏ rơi trong hoang vu giá lạnh. Họ đã đánh mất văn hoá bản địa yêu quý của mình, song lại không được chia phần ngang bằng như vậy trong thế giới đế quốc. Ngược lại, nền văn hoá mà họ đã quy thuận vẫn tiếp tục xem họ như là lớp người man rợ.
Hãy tưởng tượng một người Iberia dòng dõi, sống ở thời điểm một thế kỷ sau khi Numantia sụp đổ. Ông nói phương ngữ Celtic với cha mẹ mình, nhưng lại tiếp nhận một thứ tiếng Latin hoàn hảo, chỉ pha tạp một chút bản xứ, bởi ông cần tiếng Latin để điều hành công việc buôn bán và giao thiệp với chính quyền. Ông chiều theo sở thích của vợ, mua cho bà trang sức chạm trổ cầu kỳ, nhưng vẫn hơi xấu hổ vì giống như những phụ nữ địa phương khác, vợ mình vẫn còn cái tàn dư của thị hiếu Celtic – ông muốn vợ mình phục sức theo lối thanh cao như các bà vợ thống đốc La Mã. Ông ăn vận áo tunic La Mã, và nhờ sự nghiệp buôn bán gia súc thành công mà một phần không nhỏ là trông vào tài nghệ xử lý những rối rắm trong luật thương mại phức tạp của La Mã, ông đã có thể xây dựng một biệt thự kiểu La Mã. Thế nhưng, dù ông có thể đọc thuộc lòng tập III cuốn Georgics của Virgil, người La Mã vẫn đối xử với ông như kẻ nửa man rợ. Ông thất vọng nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ có được một cái ghế trong chính phủ, hay một chỗ ngồi thật tốt trong nhà hát.
Cuối thế kỷ 19, nhiều người Ấn Độ có giáo dục được dạy cùng chương trình học như những chủ nhân người Anh của họ. Có một giai thoại nổi tiếng kể về một người Ấn Độ giàu tham vọng, thành thạo những phức tạp của ngôn ngữ Anh, đã học khiêu vũ phương Tây, rồi thậm chí sau này còn biết ăn bằng dao và dĩa. Được trang bị cách cư xử mới, ông đã đến Anh, học luật tại Đại học College London, trở thành luật sư có chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, người thanh niên luật học ăn vận com lê cà vạt này đã bị ném khỏi một chuyến tàu tại vùng thuộc địa Anh ở Nam Phi, vì kiên quyết đòi ngồi toa hạng nhất thay vì hạng ba dành cho người “da màu” như ông. Ông là Mohandas Karamchand Gandhi.
Trong một số trường hợp, các quá trình tiếp biến văn hoá và đồng hoá cuối cùng phá vỡ những rào cản giữa người mới đến và tầng lớp ưu tú cũ. Những người bị chinh phục không còn xem đế quốc như một hệ thống chiếm đóng xa lạ nữa, còn những người đi chinh phục cũng xem những người bị trị là bình đẳng với họ. Cả người cai trị lẫn người bị trị đều cùng xem “chúng nó” như là “chúng ta”. Cuối cùng, tất cả những thần dân của Rome, sau nhiều thế kỷ bị đế quốc cai trị, đều đã được công nhận tư cách công dân La Mã. Những người không phải cư dân La Mã nổi lên chiếm vị trí hàng đầu trong số các sĩ quan thuộc các quân đoàn La Mã, và được bổ nhiệm vào Thượng viện. Năm 48, Hoàng đế Claudius nhận vào Thượng viện một vài quý tộc xứ Gaul, những người mà trong một bài phát hiểu, ông đã nhận xét, “phong tục, văn hoá, và các cuộc hôn phối đã hòa nhập với chúng ta”. Những thượng nghị sĩ tự cao phản đối việc đưa những kẻ thù cũ vào trung tâm của hệ thống chính trị La Mã. Claudius nhắc nhở họ về một sự thật phiền toái. Hầu hết gia đình của chính các nghị sĩ thành Rome cũng là hậu duệ của những bộ tộc người Ý từng chống lại Rome, và sau này được công nhận quyền công dân La Mã. Quả thực, Hoàng đế cũng nhắc nhở họ rằng gia đình ông thuộc dòng dõi Sabine.
Vào thế kỷ 2, Rome nằm dưới sự cai quản của một loạt các hoàng đế gốc Iberia, trong mạch máu của họ chảy ít nhất một vài giọt máu Iberia bản địa. Các triều đại Trajan, Hadrian, Antoninius Pius và Marcus Aurelius thường được cho là tạo thành thời kỳ hoàng kim của đế chế. Sau đó, tất cả các con đập sắc tộc đã được hạ xuống. Hoàng đế Septimius Severus (193-211) là con cháu của một gia đình gốc Punic từ Libya. Algebalus (218-222) là người Syria. Hoàng đế Philip (244-249) được biết đến với danh xưng thân mật là “Philip Ả-rập”. Những công dân mới của đế chế tiếp nhận văn hoá vương triều La Mã một cách hăng say, đến nỗi trong nhiều thế kỷ và ngay cả hàng nghìn năm sau khi đế quốc tự sụp đổ, họ vẫn tiếp tục nói ngôn ngữ của đế chế, tin vào Thiên Chúa của Ki-tô giáo mà đế chế đã tiếp nhận từ một trong những tỉnh Cận Đông (Levant), và sống theo pháp luật của đế chế.
Quy trình tương tự cũng xảy ra ở Đế chế Ả-rập. Khi được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ 7, Đế chế này được xây dựng dựa trên một chia cắt sắc bén giữa những tầng lớp ưu tú Ả-rập-Hồi giáo cầm quyền và các dân tộc bị trị Ai Cập, Syria, Iran và những người Berber không phải Ả-rập cũng chẳng phải Hồi giáo. Nhiều người trong số thần dân của đế chế dần chấp nhận đức tin của Hồi giáo, ngôn ngữ Ả-rập, và một nền văn hoá lai tạp của đế chế. Tầng lớp ưu tú Ả-rập cũ nhìn những thành viên mới này với thái độ thù địch sâu sắc, vì sợ đánh mất vị thế độc nhất và bản sắc của họ. Những người mới cải đạo bất mãn lớn tiếng đòi phần chia công bằng trong Đế chế và trong thế giới Hồi giáo. Cuối cùng họ cũng có được điều họ muốn. Những người Ai Cập, Syria và vùng Lưỡng Hà ngày càng được nhìn nhận là “người Ả-rập”. Đổi lại, người Ả-rập dù là “chính tông” từ bán đảo Ả-rập hay Ả-rập mới được “đúc” ra từ Ai Cập và Syria ngày càng bị áp đảo bởi nhiều người Hồi giáo phi Ả-rập, đặc biệt là những người Iran, Thổ Nhĩ Kĩ và Berber. Sự thành công lớn của công trình Đế chế Ả-rập chính là văn hoá đế chế mà nó tạo ra, được nhiều người phi Ả-rập chấp nhận một cách cuồng nhiệt, tiếp tục duy trì nó, phát triển và truyền bá nó ngay cả sau khi đế chế nguyên thuỷ sụp đổ, và người Ả-rập với tư cách nhóm sắc tộc bị mất quyền thống trị của mình.
Ở Trung Hoa, thành công của công trình đế chế thậm chí còn trọn vẹn hơn. Trong hơn 2.000 năm, một mớ hỗn độn các nhóm sắc tộc và văn hoá, đầu tiên bị gọi là “man rợ” đã hợp nhất thành công thành nền văn hoá Đế chế Trung Hoa, và trở thành người Hoa gốc Hán (đặt như vậy do đế chế Hán cai trị Trung Hoa từ năm 206 TCN đến năm 220). Thành tựu cơ bản của Đế chế Trung Hoa là nó vẫn còn sống khỏe mạnh và hoạt động tích cực, thế nhưng thật khó để xem nó như một đế chế, ngoại trừ ở những vùng biên như Tây Tạng và Tân Cương. Hơn 90% dân số Trung Hoa đã tự xem mình và cả những người khác cũng xem họ là người Hán.
Chúng ta có thể hiểu được quá trình giải phóng thuộc địa của vài thập kỷ gần đây theo một cách tương tự. Trong thời hiện đại, người châu Âu chinh phục nhiều nơi trên thế giới dưới vỏ bọc truyền bá văn hoá siêu việt của phương Tây. Họ đã rất thành công khi hàng tỉ người dần dần chấp nhận những phần quan trọng của văn hoá đó. Người Ấn Độ, châu Phi, Ả-rập, Trung Hoa và Maori đã học tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha. Họ bắt đầu tin vào nhân quyền, vào những nguyên tắc về quyền tự quyết, và họ đã tiếp nhận những hệ tư tưởng phương Tây như là chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa bình đẳng giới và chủ nghĩa dân tộc.
Vòng tuần hoàn đế quốc
Giai đoạn
Rome
Hồi giáo
Những đế quốc châu Âu
Một nhóm nhỏ
Những người
Những người
Những người
hình thành ra
La Mã hình
Ả-rập hình
châu Âu hình
một đế quốc lớn
thành Đế chế
thành Đế chế
thành những đế
La Mã
Hồi giáo Ả-rập
chế châu Âu
Một nền văn hoá
Văn hoá Hy
Văn hoá Ả-rập
Văn hoá phương
đế quốc được rèn đúc
Lạp – La Mã
- Hồi giáo
Tây
Văn hoá đế quốc
Những dân tộc
Những dân
Những dân tộc
được những dân
bị trị chấp nhận
tộc bị trị chấp
bị trị chấp nhận
tộc bị trị chấp
tiếng Latin,
nhận tiếng
tiếng Anh và
nhận
luật pháp, tư
Ả-rập, Hồi
tiếng Pháp, chủ
tưởng chính trị La Mã…
giáo…
nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc, nhân quyền,…
Những dân
Những người
Những người
Những người
tộc bị trị đòi
Illyria, Gaul
Ai Cập, Iran,
Ấn Độ, Trung
hỏi địa vị bình
và Punic đòi
và Berber đòi
Hoa, và châu
đẳng nhân danh
địa vị bình
địa vị bình
Phi đòi địa vị
những giá trị đế
đẳng nhân
đẳng nhân
bình đẳng nhân
quốc chung
danh những
danh những
danh những giá
giá trị La Mã
giá trị Hồi giáo
trị chung của
chung
chung
phương Tây như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội và nhân quyền
Những người sáng lập ra đế quốc đánh mất địa vị thống trị của họ
Người La Mã không còn tồn tại như một nhóm sắc tộc độc nhất vô nhị nữa. Quyền kiểm soát đế quốc đã chuyển sang một nhóm ưu tú đa sắc tộc mới
Người Ả-rập đánh mất quyền kiểm soát thế giới Hồi giáo, ủng hộ giới ưu tú Hồi giáo đa sắc tộc
Người châu Âu đánh mất quyền kiểm soát toàn cầu, ủng hộ giới ưu tú đa sắc tộc, cam kết một cách rộng rãi với những giá trị, và cách thức suy nghĩ phương Tây
Văn hoá đế quốc
Những người
Những người
Những người
tiếp tục hưng
Illyria, Gaul
Ai Cập, Iran,
Ấn Độ, Trung
thịnh và phát
và Punic tiếp
và Berber tiếp
Quốc và châu
triển
tục phát triển
tục phát triển
Phi tiếp tục
văn hoá La Mã
vân hoá Hổi
phát triển văn
mà họ đã chấp
giáo mà họ đã
hoá phương Tây
nhận
chấp nhận
mà họ đã chấp
nhận
Trong suốt thế kỷ 20, những nhóm cư dân địa phương sau khi tiếp nhận các giá trị phương Tây đã tuyên bố đòi bình đẳng với những kẻ châu Âu đi chinh phục, nhân danh những giá trị này. Nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân đã được tiến hành dưới những biểu ngữ của quyền tự quyết, chủ nghĩa xã hội và nhân quyền, tất cả đều là những di sản phương Tây. Cũng như người Ai Cập, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp nhận và thích ứng với văn hoá đế quốc mà họ thừa hưởng từ người chinh phục gốc Ả-rập, vì vậy người Ấn Độ, châu Phi và Trung Hoa ngày nay cũng thế, đều đã chấp nhận rất nhiều văn hoá đế quốc của những ông chủ đế quốc phương Tây trước đây của mình, trong khi tìm cách biến đổi nó theo những nhu cầu và truyền thống của họ.
Những người tốt và kẻ xấu trong lịch sử
Người ta rất muốn chia lịch sử gọn gàng thành những người tốt và kẻ xấu, trong đó tất cả các đế quốc đều nằm trong số kẻ xấu. Hầu hết mọi đế quốc đã được hình thành bằng máu, và duy trì quyền lực của họ bằng áp bức và chiến tranh. Thế nhưng hầu hết những nền văn hoá ngày nay đều dựa trên những di sản của đế quốc. Nếu đế quốc theo định nghĩa là xấu, điều đó nói gì về chúng ta?
Có những trường phái tư tưởng và phong trào chính trị tìm cách xóa bỏ văn hoá con người của chủ nghĩa đế quốc, để lại đằng sau những gì họ tuyên bố là một nền văn minh đích thực, tinh khiết, không bị ô uế bởi tội lỗi. Những tư tưởng này, nếu đánh giá khoan dung nhất thì quá ngây thơ, còn nếu đánh giá nghiêm khắc nhất thì đóng vai trò như một kiểu làm đẹp giả tạo cho chủ nghĩa dân tộc thô thiển, đầy định kiến. Có lẽ bạn có thể cho rằng một vài trong vô số nền văn hoá nổi lên ở buổi bình minh của lịch sử được ghi chép là tinh khiết, không tội lỗi, và không bị pha trộn với những xã hội khác. Nhưng không có nền văn hoá nào từ buổi bình minh đó có thể minh chứng cho tuyên bố này, cũng không có nền vãn hoá nào như vậy còn tồn tại trên Trái đất. Tất cả những nền văn hoá của con người chí ít đều là một phần di sản của đế quốc và những nền văn minh đế quốc, và không cuộc giải phẫu học thuật hay chính trị nào có thể cắt bỏ đi những di sản đế quốc mà không giết chết bệnh nhân.
Hãy suy nghĩ, chẳng hạn, về những quan hệ yêu-ghét giữa Cộng hòa Ấn Độ độc lập ngày nay và Ấn Độ thời kỳ bị Anh cai trị. Cuộc chinh phục và chiếm đóng Ấn Độ của Anh đã làm thiệt mạng hàng triệu người Ấn Độ, và là nguyên nhân của sự khổ nhục và bóc lột liên miên hàng trăm triệu người khác. Thế nhưng, nhiều người Ấn Độ đã chấp nhận, với say mê của những người “đổi đạo”, về những lý tưởng phương Tây như quyền tự quyết và những quyền con người, và đã rất thất vọng khi người Anh từ chối thực hiện những giá trị mà chính họ đã tuyên bố, không cấp cho người bản xứ Ấn Độ quyền bình đẳng như người dân nước Anh hay nền độc lập.
Hình 27. Nhà ga xe lửa Chhatrapati Shivaji ở thành phố Mumbai. Nó ra đòi giống như nhà ga Victoria ở thành phố Bombay. Người Anh xây nó theo phong cách kiến trúc Tân-Gothic phổ biến ở Anh vào cuối thế kỷ 19.
Một chính phủ Hindu theo chủ nghĩa dân tộc đã đổi tên cả thành phố và nhà ga, nhưng không có ý định phá bỏ một tòa nhà tráng lệ như vậy, dẫu nó là do những kẻ áp bức nước ngoài xây dựng.
Tuy nhiên, nhà nước Ấn Độ hiện đại là một đứa con của Đế quốc Anh. Người Anh đã giết hại, gây thương tích, và ngược đãi những cư dân của tiểu lục địa này, nhưng họ cũng đã thống nhất một tác phẩm nghệ thuật gây hoang mang gồm các vương quốc, lãnh địa, bộ tộc mâu thuẫn nhau, tạo ra một ý thức dân tộc chung và một đất nước ít nhiều đã hoạt động như một đơn vị chính trị duy nhất. Họ đã đặt nền móng cho hệ thống tư pháp Ấn Độ, đã tạo ra cơ cấu hành chính, và đã xây dựng mạng lưới đường sắt vốn rất quan trọng cho sự hợp nhất kinh tế của nó. Nhà nước Ấn Độ độc lập đã tiếp nhận nền dân chủ phương Tây trong sự hiện thân của Anh, như hình thức chính quyền của mình. Tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ chung của tiểu lục địa này, một ngôn ngữ trung lập mà người bản ngữ nói tiếng Hindu, Tamil và Malayalam có thể dùng để giao tiếp. Người Ấn Độ đam mê chơi cricket và uống trà, cả trò chơi lẫn thứ đồ uống này đều là những di sản Anh. Nền canh tác trà thương mại không tồn tại ở Ấn Độ cho đến giữa thế kỷ 20, khi nó được Công ty Đông Ấn của Anh đưa vào Ấn Độ. Những quỷ ngài người Anh kênh kiệu đã truyền bá tập quán uống trà khắp tiểu lục địa.
Có bao nhiêu người Ấn Độ ngày nay muốn mở một cuộc bỏ phiếu để gạt bỏ nền dân chủ, tiếng Anh, mạng lưới đường sắt, hệ thống pháp luật, cricket và trà khỏi đất nước họ vì chúng là di sản của đế quốc? Và nếu họ đã làm thế, chẳng phải hành động kêu gọi một cuộc bỏ phiếu chính là minh chứng cho món nợ của họ với những ông chủ cũ của mình?
Hình 28. Taj Mahal. Một ví dụ cúa nền văn hoá Ấn Độ “đích thực”, hay sự sáng tạo ngoại lai của chủ nghĩa đế quốc Hồi giáo?
Ngay cả nếu chúng ta hoàn toàn từ chối di sản của một đế quốc tàn bạo với hy vọng xây dựng lại và che chở những nền văn hoá “đích thực” trước đó, trong tất cả các trường hợp có thể xảy ra, những gì chúng ta bảo vệ được sẽ không có gì ngoài di sản của một đế quốc cũ hơn và không kém tàn bạo hơn. Những người bất mãn với sự phá hủy nền văn hoá Ấn Độ trong thời kỳ cai trị Ấn Độ của Anh, vô tình thần thánh hoá những di sản của Đế chế Mughal, và sự chinh phục của những vị vua Hồi giáo ở Delhi. Và bất cứ ai cố gắng để cứu “văn hoá Ấn Độ đích thực” khỏi những ảnh hưởng nước ngoài của những đế quốc Hồi giáo này, đã thần thánh hoá những di sản của Đế chế Gupta, Đế chế Kushan và Đế chế Maurya. Một người Hindu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thể phá hủy tất cả những tòa nhà của kẻ chinh phục Anh để lại, chẳng hạn như nhà ga xe lửa chính của Mumbai, thế còn những công trình sót lại từ sự chiếm đóng Ấn Độ của những người Hồi giáo, chẳng hạn như Taj Mahal thì sao?
Không ai thực sự biết làm thế nào để trả lời câu hỏi hóc búa về di sản văn hoá này. Bất kể chúng ta đi theo con đường nào, bước đầu tiên là thừa nhận sự phức tạp của thế lưỡng nan này, và chấp nhận rằng cách phân chia quá khứ một cách đơn giản thành người tốt và kẻ xấu không dẫn đến đâu cả. Dĩ nhiên, trừ khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận rằng mình thường đi theo sự dẫn đường của những kẻ xấu.
Đế chế Toàn cầu mới
Từ khoảng năm 200 TCN, hầu hết loài người đều đã sống trong những đế quốc. Tương lai cũng có vẻ sẽ như vậy. Nhưng lần này, đế quốc sẽ mang tính toàn cầu thực sự. Viễn cảnh về sự thống trị của Đế chế Toàn cầu có thể sắp xảy ra.
Khi thế kỷ 21 mở ra, chủ nghĩa dân tộc nhanh chóng bị mất chỗ đứng. Ngày càng có nhiều người tin rằng tất cả loài người là nguồn gốc hợp pháp của quyền lực chính trị, chứ không phải là những thành viên của một quốc gia cụ thể nào, và rằng việc bảo vệ nhân quyền và bảo vệ lợi ích của toàn bộ loài người nên là ánh sáng dẫn đường của chính trị. Nếu vậy, gần 200 quốc gia độc lập chính là một trở ngại hơn là một sự giúp ích. Kể từ khi người Thụy Điển, Indonesia và Nigeria xứng đáng có những quyền con người như nhau, phải chăng sẽ đơn giản hơn nếu có một chính phủ toàn cầu duy nhất bảo vệ chúng?
Sự xuất hiện của các vấn đề mang tính toàn cầu, chẳng hạn như băng tan ở hai cực, triệt tiêu dần đi bất cứ thứ gì có tính hợp pháp thuộc về các quốc gia độc lập. Không một nhà nước có chủ quyền nào có thể một mình khắc phục được hiện tượng ấm lên toàn cầu. Thiên mệnh của Trung Hoa đã được Trời ban cho để giải quyết các vấn đề của loài người. Thiên mệnh hiện đại sẽ được loài người mang ra để giải quyết những vấn đề của Trời, chẳng hạn như lỗ thủng tầng ozone, và sự tích tụ của khí gây hiệu ứng nhà kính. Sắc màu của Đế chế Toàn cầu có thể là màu xanh lá cây.
Vào năm 2014, thế giới vẫn còn bị phân mảnh chính trị, nhưng các quốc gia đang nhanh chóng mất đi sự độc lập của mình. Không một quốc gia nào thực sự có thể thực hiện những chính sách kinh tế độc lập, tuyên bố và tiến hành các cuộc chiến tranh như ý muốn, hoặc thậm chí tiến hành những công việc nội bộ của một quốc gia mà nó thấy thích hợp. Những quốc gia đang ngày càng mở cửa cho các guồng máy của thị trường toàn cầu, cho sự can thiệp của các công ty toàn cầu, và các tổ chức phi chính phủ, cho sự giám sát của dư luận toàn cầu và hệ thống tư pháp quốc tế. Những quốc gia buộc phải tuân thủ các tiêu chuẩn toàn cầu trong hành vi tài chính, chính sách môi trường, và công lý. Các dòng thác vô cùng mạnh mẽ của vốn tư bản, nguồn lực lao động và thông tin xoay chuyển và định hình thế giới, với sự xóa bỏ ngày càng nhiều những biên giới và quan điểm quốc gia.
Đế chế Toàn cầu đang được rèn đúc trước mắt chúng ta, không bị chi phối bởi bất kỳ quốc gia hay dân tộc cụ thể nào. Cũng giống như Đế chế La Mã giai đoạn cuối, nó bị cai trị bởi một nhóm ưu tú đa sắc tộc, và bị ràng buộc với nhau bởi một nền văn hoá chung và những lợi ích chung. Trên khắp thế giới, ngày càng có nhiều các công ty, kĩ sư, chuyên gia, học giả, luật sư và những nhà quản lý được kêu gọi để gia nhập đế chế này. Họ phải đắn đo suy nghĩ xem có nên đáp ứng lời kêu gọi của đế chế, hay vẫn trung thành với quốc gia và dân tộc của họ. Và ngày càng có nhiều người lựa chọn đế chế.
12
QUY LUẬT CỦA TÔN GIÁO
Trong một khu chợ trung cổ tại Samarkand, thành phố được xây dựng trên một ốc đảo Trung Á, các thương nhân Syria đang rờ tay trên những tấm lụa Trung Hoa mịn màng, những bộ lạc hung tợn từ vùng thảo nguyên thì bày bán từng toán nô lệ tóc rối bù mới đến từ cực tây, còn những chủ hàng bỏ túi mấy đồng tiền vàng bóng loáng in những ký tự kỳ quái và hình các ông vua lạ hoắc. Tại đây, một trong những ngã tư lớn giao cắt đông-tây, bắc-nam của thời đại đó, sự thống nhất của loài người là một thực tế mỗi ngày. Người ta cũng có thể quan sát quá trình tương tự khi quân đội Hốt Tất Liệt tập trung tiến đánh Nhật Bản vào năm 1281. Kỵ binh Mông Cổ trong những bộ trang phục bằng da và lông thú vai kề vai với đám bộ binh Trung Hoa đội nón tre, lính đồng minh Triều Tiên say xỉn gây gổ với đám thủy thủ xăm mình từ vùng biển Đông, công binh Trung Á mải nghe đến rớt hàm những câu chuyện ly kỳ của các nhà thám hiểm châu Âu, và tất cả đều tuân theo sự chỉ huy của một vị hoàng đế duy nhất.
Trong khi đó, xung quanh trung tâm ngôi đền thiêng Ka’aba ở Mecca, sự hợp nhất người với người lại được thể hiện bằng cách khác. Nếu bạn từng hành hương đến thánh địa Mecca, đi diễu quanh ngôi đền linh thiêng vào khoảng năm 1300, bạn có thể hòa mình cùng với đoàn người đến từ vùng Lưỡng Hà, áo choàng phất phơ trong gió, mắt lóe lên niềm hân hoan xuất thần, miệng lẩm nhẩm cầu nguyện 99 tên gọi của Allah. Đằng trước bạn có thể sẽ là một tộc trưởng Thổ Nhĩ Kỳ phong trần đến từ thảo nguyên châu Á, khập khiễng chống gậy và trầm tư vuốt râu. Ở một phía khác, trang sức vàng lấp lánh trên làn da đen bóng ấy có thể là một nhóm người Hồi giáo đến từ vương quốc Mali, châu Phi. Mùi thơm của cây đinh hương, nghệ, nhục đậu khấu và muối biển sẽ báo hiệu sự hiện diện của những người anh em đến từ Ấn Độ, hoặc có lẽ từ những hòn đảo gia vị bí ẩn ở phương Đông.
Ngày nay, tôn giáo thường được coi là một nguồn gốc của sự phân biệt đối xử, bất đồng và không thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, tôn giáo là đặc điểm thống nhất nhân loại đứng hàng thứ ba, cùng với tiền tệ và các đế chế. Vì mọi trật tự xã hội và hệ thống phân cấp đều được tưởng tượng, nên tất cả chúng đều rất mong manh, và xã hội càng lớn thì nó lại càng dễ vỡ hơn. Vai trò lịch sử quan trọng của tôn giáo là mang tới tính chính đáng siêu phàm cho những cấu trúc mong manh này. Tôn giáo khẳng định rằng luật pháp của chúng ta không phải là kết quả của sự thất thường nơi con người, mà được sắc phong bởi một quyền lực tuyệt đối và tối thượng. Điều này ít nhất giúp cho một số điều luật cơ bản vượt lên mọi thách thức, do đó đảm bảo sự ổn định xã hội.
Vì vậy, tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các quy chuẩn và giá trị con người được xây dựng dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên. Khái niệm này liên quan đến hai tiêu chí đặc trưng:
1. Tôn giáo cho rằng có một trật tự siêu nhiên, không phải là sản phẩm của ý tưởng bất chợt hoặc thỏa thuận của con người. Bóng đá chuyên nghiệp không phải là một tôn giáo, vì mặc dù có các luật lệ, nghi thức và nghi lễ, nhưng mọi người đều biết rằng con người tự nghĩ ra bóng đá, và bất cứ lúc nào FIFA cũng có thể tảng kích thước của cẩu môn hoặc hủy bỏ các quy tắc việt vị.
2. Căn cứ vào trật tự siêu nhiên này, tốn giáo thiết lập các chuẩn mực và giá trị mà nó coi là bắt buộc. Nhiều người phương Tây ngày nay tin vào ma quỷ, các câu chuyện thần tiên và thuyết luân hồi, nhưng những niềm tin này không phải là nguồn gốc của các tiêu chuẩn đạo đức và hành vi. Và như vậy, chúng không cấu thành một tôn giáo.
Mặc dù tôn giáo có khả nâng hợp pháp hoá trật tự xã hội và chính trị rộng rãi, nhưng không phải tất cả các tôn giáo đều kích hoạt tiềm năng này. Để đoàn kết mọi người dưới sự bảo trợ của tôn giáo trên một vùng lãnh thổ rộng lớn có những nhóm người khác nhau sinh sống, một tôn giáo phải có ít nhất hai đặc tính. Đầu tiên, nó phải tán thành một trật tự siêu nhiên phổ quát, luôn luôn đúng ở mọi thời điểm và không gian. Thứ hai, nó phải nhấn mạnh vào việc truyền bá niềm tin này đến tất cả mọi người. Nói cách khác, nó phải mang tính phổ quát và truyền giáo.
Các tôn giáo nổi tiếng nhất của lịch sử, như Hồi giáo và Phật giáo, đều có tính phổ quát và truyền giáo. Do đó mọi người có xu hướng tin rằng tất cả các tôn giáo đều giống như vậy. Trong thực tế, phần lớn các tôn giáo cổ xưa mang tính cục bộ và cá biệt. Những tín đồ của tôn giáo này tin vào các vị thần địa phương và các linh hồn, không quan tâm việc cải đạo toàn bộ loài người. Theo như chúng ta biết, những tôn giáo phổ quát và mang mục đích truyền đạo bắt đầu xuất hiện chỉ trong thiên niên kỷ 1 TCN. Sự xuất hiện của chúng là một trong những cuộc cách mạng quan trọng nhất trong lịch sử, và đóng góp quan trọng cho sự thống nhất của nhân loại, giống như sự xuất hiện của các đế chế và tiền tệ toàn cầu.
Sự im lặng của bầy cừu
Khi thuyết vật linh là hệ thống tín ngưỡng chủ đạo, những chuẩn mực và giá trị của con người phải cân nhắc đến cả thế giới quan và lợi ích của vô số chúng sinh khác, chẳng hạn như động vật, thực vật, thần tiên và ma quỷ. Ví dụ, một bộ lạc cắt cỏ cho súc vật ở vùng thung lũng sông Hằng có thể đã thiết lập một quy tắc cấm mọi người chặt một cây vả cổ thụ to nào đó, vì sợ rằng thần cây vả sẽ trở nên tức giận và trả thù.
Một bộ lạc cổ xưa sinh sống ở thung lũng Indus có thể cấm người dân săn cáo đuôi trắng, vì có một con cáo đuôi trắng từng hé lộ cho một cụ bà khôn ngoan về nơi bộ lạc có thể tìm thấy những viên đá núi lửa quý giá.
Những tôn giáo này có thế giới quan mang đậm tính địa phương, và nhấn mạnh vào những đặc điểm độc đáo của các địa bàn, khí hậu và hiện tượng cụ thể. Hầu hết những người cắt cỏ cả đời chỉ sống trong một khu vực rộng không quá 1.000 km². Để tồn tại, cư dân của một thung lũng nào đó cần hiểu được trật tự siêu nhiên cai quản thung lũng của họ và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Thật vô nghĩa khi cố gắng thuyết phục cư dân của một số thung lũng xa xôi nào đó tuân theo các quy tắc tương tự. Người bộ lạc Indus chẳng bận tâm đến việc phái các nhà truyền giáo đến thung lũng sông Hằng để thuyết phục người dân địa phương không được săn cáo đuôi trắng.
Cách mạng Nông nghiệp dường như đi kèm với một cuộc cách mạng tôn giáo. Người săn bắt hái lượm săn tìm những loại động thực vật hoang dã vốn được xem là có địa vị bình đẳng với người Homo sapiens. Việc con người săn cừu sẽ không khiến loài cừu trở nên thấp kém hơn anh ta, giống như việc loài hổ săn bắt con người không làm cho con người thấp kém hơn con hổ. Các sinh linh thông tri với nhau trực tiếp và thỏa hiệp các quy tắc quản lý môi trường sống chung của mình. Ngược lại, nông dân sở hữu, điều khiển động thực vật, và hiếm khi hạ mình giao tiếp với những gì thuộc sở hữu của họ. Do đó tác động tôn giáo đầu tiên của Cách mạng Nông nghiệp là biến cây trông và vật nuôi từ vị thế là những thành viên bình đẳng trên bàn tròn tâm linh trở thành vật sở hữu.
Nhưng điều này gây ra một vấn đề lớn. Nông dân có thể mong muốn quyền kiểm soát tuyệt đối với những con cừu của họ, nhưng họ biết rất rõ rằng quyền kiểm soát của họ bị giới hạn. Họ có thể nhốt cừu trong chuồng, thiến con đực và chọn cừu cái giống, nhưng họ không thể đảm bảo cừu cái được thụ thai và sinh ra cừu con khỏe mạnh, họ cũng không thể ngăn chặn được sự bùng phát các dịch bệnh chết chóc. Vậy làm thế nào để bảo vệ khả năng sinh sản của đàn gia súc?
Một giả thuyết hàng đầu về nguồn gốc của các vị thần cho rằng, các vị thần có được tầm quan trọng vì họ đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Các vị thần như nữ thần sinh sản, thần bầu trời và thần y học đóng vai trò trung tâm khi thực vật và động vật mất đi khả năng nói chuyện, và vai trò chính của các vị thần là làm cầu nối giữa con người và các loài động thực vật câm lặng. Trên thực tế, phần lớn các thần thoại cổ đại là một hợp đồng pháp lý, trong đó con người hứa muôn đời thờ phụng các thần để đổi lấy quyền làm chủ với vật nuôi, cây trồng – những chương đầu của Sáng thế ký là một ví dụ điển hình. Trải qua hàng ngàn năm sau Cách mạng Nông nghiệp, nghi thức tế lễ chủ yếu bao gồm việc con người mang cừu, rượu vang và bánh ngọt hiến tế cho các thần linh, đổi lại các vị thần này hứa hẹn cho những vụ mùa bội thu và đàn gia súc mắn đẻ.
Cách mạng Nông nghiệp ban đầu có ảnh hưởng rất nhỏ đối với thực trạng của các thành viên khác trong hệ thống tín ngưỡng vật linh, chẳng hạn như đá, suối, ma quỷ. Tuy nhiên, các vật linh này cũng dần mất đi vị thế của nó, nhường chỗ cho các vị thần mới. Chừng nào còn sống cả đời trong những lãnh thổ diện tích vài trăm cây số vuông, chừng đó hầu hết nhu cầu của con người có thể được thần linh địa phương đáp ứng hết. Nhưng một khi các vương quốc và mạng lưới thương mại mở rộng, con người cần tiếp cận các thực thể có sức mạnh và uy quyền bao trùm toàn thể vương quốc hoặc toàn bộ lưu vực thương mại.
Nỗ lực để giải đáp cho những nhu cầu này dẫn đến sự xuất hiện của các tôn giáo đa thần (polytheistic, tiếng Hy Lạp: poly có nghĩa là nhiều, theos có nghĩa là thần). Những tôn giáo này hiểu rằng thế giới được điều khiển bởi một nhóm các vị thần đầy quyền năng, chẳng hạn như nữ thần sinh sản, thần mưa và thần chiến tranh. Con người có thể khẩn cầu các vị thần, và nếu các vị đó nhận được sự sùng kính và vật hiến tế, thì có thể rủ lòng ban cho mưa, chiến thắng và sức khỏe.
Thuyết vật linh đã không hoàn toàn biến mất vào thời điểm ra đời của đa thần giáo. Ác quỷ, thần tiên, ma mãnh, đá thần, suối nước thánh và cây thiêng vẫn là một phần không thể thiếu của hầu hết các tôn giáo đa thần. Những thần linh này có thể không quan trọng bằng các vị thần vĩ đại, nhưng đối với những nhu cầu trần tục của người dân bình thường thì vậy cũng là đủ. Trong khi hoàng đế ở kinh đô hiến tế hàng chục con cừu béo tốt cho vị thần chiến tranh vĩ đại, cầu nguyện cho chiến thắng trước những kẻ man rợ, thì bác nông dân trong túp lều của mình thắp một ngọn nến cầu thần cây vả, xin thần giúp chữa lành cho đứa con trai bị bệnh của mình.
Tuy nhiên, khi các vị thần hiển linh, tác động lớn nhất của các ngài không phải ở đàn cừu hay ma quỷ, mà chính là ở vị thế của Homo sapiens. Thuyết vật linh cho rằng con người chỉ là một trong rất nhiều sinh vật sống trên thế giới. Trong khi đó, thuyết đa thần lại ngày càng nhìn nhận thế giới như là một sự phản ánh của mối quan hệ giữa thần linh và con người. Những lời cầu nguyện, những hy sinh, những tội lỗi và những việc thiện của chúng ta xác định số phận của toàn bộ hệ sinh thái. Một cơn lũ khủng khiếp có thể quét sạch hàng tỉ con kiến, châu chấu, rùa, linh dương, hươu cao cổ và voi, chỉ vì một vài Sapiens ngu ngốc đã làm các vị thần nổi giận. Đa thần giáo qua đó tôn vinh không chỉ vị thế của các vị thần, mà của cả nhân loại. Những thành viên kém may mắn của các hệ thống duy linh cũ đánh mất vai trò của mình, trở nên thừa thãi hoặc là một vật trang trí câm lặng trong vở kịch vĩ đại về mối quan hệ của con người với các vị thần.
Lợi ích của việc sùng bái thần linh
Sau 2.000 năm bị độc thần giáo tẩy não, hầu hết người phương Tây đều xem đa thần giáo như một biểu tượng của sự mông muội và ấu trĩ. Đây là một định kiến bất công. Để hiểu được logic bên trong của đa thần giáo, ta cần phải nắm bắt ý tưởng trung tâm xây đắp lên niềm tin vào nhiều vị thần linh.
Đa thần giáo không nhất thiết phải tranh cãi về sự tồn tại của một thế lực hoặc bộ luật duy nhất điều khiển toàn bộ vũ trụ. Trong thực tế, đa số đa thần giáo và thậm chí cả vật linh công nhận quyền lực tối cao đứng đằng sau tất cả các vị thần, ma quỷ và đá thiêng khác nhau. Trong đa thần giáo Hy Lạp cổ điển, thần Zeus, Hera, Apollo và các vị thần khác đều chịu khuất phục trước quyền năng vô hạn và bao trùm lên tất cả – đó là Số phận (Moira, Ananke). Các vị thần Bắc Âu cũng là nô lệ cho số phận, cam chịu số phận diệt vong trong ngày tận thế Ragnarök (Hoàng hôn của các vị thần). Trong đa thần giáo của người Yoruba ở Tây Phi, thần linh đều được sinh ra từ một vị thần tối cao Olodumare, và là tôi tớ của vị thần này. Trong đa thần giáo Hindu, một nguyên lý duy nhất, Atman, kiểm soát vô số các vị thần linh, con người, thế giới sinh học và vật lý. Atman là bản ngã vĩnh cửu hay linh hồn của toàn bộ vũ trụ, cũng như của mỗi cá nhân và mọi hiện tượng.
Điểm cơ bản của đa thần giáo để phân biệt nó với độc thần giáo, đó là thế lực tối cao chi phối thế giới không có những vị lợi và thiên kiến, và do đó nó không quan tâm đến những ham muốn, mối bận tâm và lo lắng trần tục của con người. Như vậy, thật vô nghĩa khi cầu xin thế lực này ban cho chiến thắng trong cuộc chiến, ban cho sức khỏe hay ban cho mưa, bởi vì ưu thế là thế lực bao trùm, cho nên dẫu là vương quốc nào đó chiến thắng hay bại trận, dẫu là một thành phố thịnh vượng hay tàn lụi nào đó, dẫu là một người phục hồi hay qua đời nào đó, đều không có sự phân biệt. Người Hy Lạp đã không lãng phí bất kỳ đổ hiến tế nào cho Định mệnh (Fate), và người Hindu cũng không xây dựng đền thờ nào cho Atman.
Lý do duy nhất để đến với quyền lực tối cao của vũ trụ là từ bỏ hết mọi tham sân si và bằng lòng với cả cái hay cái dở – chấp nhận cả thất bại, nghèo đói, bệnh tật và cái chết. Vì vậy một số người theo đạo Hindu, được gọi là Sadhus hoặc Sannyasis, cống hiến cả đời mình cho việc hợp nhất với Atman, từ đó đạt được giác ngộ. Họ cố gắng nhìn nhận thế giới từ quan điểm của nguyên tắc cơ bản này để nhận ra rằng từ quan điểm vĩnh cửu của nó, tất cả những ham muốn và sợ hãi trần tục là những hiện tượng phù du, vô nghĩa.
Tuy nhiên, đa phần người Hindu ở Ấn Độ không phải là những người Sadhus. Họ chìm sâu trong mớ rối rắm của các lo toan thế tục mà Atman không giúp đỡ được gì nhiều. Để được hỗ trợ trong các vấn đề như vậy, người Hindu tiếp cận các vị thần với phần quyền lực nào đó. Chính vì quyền hạn của họ chỉ là một phần chứ không phải tất cả, nên các thần như Ganesha, Lakshmi và Saraswati đều có những vị lợi và thành kiến riêng. Do đó con người có thể thỏa hiệp một phần với các thế lực này, và trông cậy vào sự giúp đỡ của họ để giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh và phục hồi bệnh tật. Nhất định phải có rất nhiều quyền lực được chia nhỏ, bởi một khi bạn bắt đầu phân chia quyền lực bao trùm một thế lực tối cao, chắc chắn bạn sẽ có nhiều hơn một vị thần. Vì vậy ta có đa thần.
Thấu hiểu được đa thần sẽ cho phép khoan dung tôn giáo nhiều hơn. Một mặt, người theo thuyết đa thần tin vào một quyền năng tối cao và hoàn toàn không vị lợi, mặt khác cũng tin vào những quyền năng có thiên vị và thành kiến, các tín đồ của một vị thần này không gặp khó khăn gì trong việc chấp nhận sự tồn tại và quyền năng của các vị thần khác. Đa thần giáo về bản chất là cởi mở, và hiếm khi ngược đãi những kẻ “dị giáo” và “ngoại đạo”.
Ngay cả khi những người đa thần giáo chinh phục các đế chế lớn, họ cũng không cố gắng cải đạo những thần dân của mình. Người Ai Cập, La Mã và Aztec đã không gửi các nhà truyền giáo đến những vùng đất xa lạ để truyền bá việc thờ phụng thần Osiris, Jupiter hay Huitzilopochtli (vị thần tối cao của người Aztec), và chắc chắn càng không cử quân đội tới vì mục đích đó. Những dân tộc bị trị trên khắp đế chế được kỷ vọng sẽ thờ thần linh cùng các nghi lễ của đế chế, vì các vị thần và các nghi thức đó bảo vệ và hợp thức hoá cho đế chế. Tuy nhiên, họ không bị yêu cầu phải từ bỏ thần linh và nghi lễ bản địa của mình. Trong Đế chế Aztec, những người nô lệ có nghĩa vụ phải xây dựng các đền thờ thần Huitzilopochtli, nhưng chúng được xây dựng bên cạnh đền thờ các vị thần địa phương chứ không phải thay thế chúng. Trong nhiều trường hợp, chính tầng lớp ưu tú của đế chế tự tiếp nhận các vị thần và nghi lễ của người dân bị trị. Người La Mã thì vui vẻ thêm nữ thần châu Á Cybele và nữ thần Ai Cập Isis vào đền thờ bách thần của mình.
Vị thần duy nhất mà người La Mã từ lâu đã không chịu dung thứ là vị thần độc tôn và loan báo tin mừng của các tín đồ Ki-tô. Đế chế La Mã không yêu cầu các tín đồ Ki-tô từ bỏ tín ngưỡng và nghi lễ của họ, nhưng muốn họ tôn kính các thần linh bảo hộ đế chế và tôn kính Hoàng đế La Mã như thánh thần. Đây được xem là sự tuyên thệ cho lòng trung thành về mặt chính trị. Khi các tín đồ Ki-tô giáo kịch liệt phản đối điều đó, và tiếp tục từ chối tất cả các nỗ lực thỏa hiệp, người La Mã phản ứng bằng cách ngược đãi những người mà họ cho là phần tử lật đổ chính quyền. Và ngay cả điều này cũng chỉ được thực hiện nửa vời. Trong 300 năm từ sự kiện Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cho đến sự cải đạo của Hoàng đế Constantine, các hoàng đế La Mã theo thuyết đa thần đã khơi mào khoảng bốn cuộc thanh trừng tín đồ Ki-tô. Các nhà quản lý và thống đốc địa phương kích động một số hành động bạo lực chống lại người Ki-tô giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta cộng tất cả các nạn nhân của tất cả những cuộc thanh trừng đó lại, hoá ra trong ba thế kỷ, những người La Mã đa thần giết hại không nhiều hơn một vài nghìn tín đồ Ki-tô. Ngược lại, trong suốt 1.500 năm tiếp theo, có tới hàng triệu tín đồ Ki-tô bị giết bởi chính những người Ki-tô nhằm bảo vệ những luận giải có phần khác biệt về tôn giáo, tình yêu thương và lòng từ bi.
Những cuộc chiến tôn giáo giữa người Công giáo và Tin Lành càn quét châu Âu trong thế kỷ 16 và 17 đặc biệt khét tiếng. Tất cả những người tham chiến có liên quan đều chấp nhận vai trò thiêng liêng của Chúa Jesus và Phúc âm của ngài về lòng từ bi và tình yêu thương. Tuy nhiên, họ không đồng ý về bản chất của thứ tình yêu này. Người Tin Lành cho rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn tới mức Thiên Chúa đã nhập thế bằng xác thịt, tự để cho mình bị tra tấn và đóng đinh, qua đó cứu rỗi các tội tổ tông và mở cánh cửa thiên đường cho tất cả những người tuyên xưng đức tin vào Ngài. Tín đồ Công giáo thì cho rằng đức tin đó là cần thiết nhưng chưa đủ. Để được lên thiên đường, các tín đồ phải tham gia vào các nghi lễ nhà thờ và làm việc thiện. Tín đồ Tin Lành bác bỏ điều này, cho rằng sự đổi chác làm tầm thường sự vĩ đại và tình yêu nơi Thiên Chúa. Kẻ nào nghĩ rằng cánh cửa lên thiên đường phụ thuộc vào những việc phúc thiện cá nhân chính là phóng đại tầm quan trọng của mình, chính là ngụ ý rằng sự khổ ải của Chúa Jesus trên thập tự giá và tình yêu của Người đối với nhân loại vẫn là chưa đủ.
Những tranh chấp về thần học trở nên bạo liệt tới mức vào thế kỷ 16 và 17, người Công giáo và Tin Lành giết hại hàng chục vạn tín đồ của nhau. Vào ngày 23 tháng Tám năm 1372, tín đồ Công giáo tại Pháp đề cao tầm quan trọng của phúc thiện, đã tấn công những cộng đồng Tin Lành để cao tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong cuộc tấn công này, được gọi là Thảm sát ngày lễ Thánh Bartholomew, có tới 5.000 đến 10.000 tín đồ Tin Lành đã bị giết hại trong vòng chưa đấy 24 giờ. Khi Giáo hoàng ở Rome nghe tin từ Pháp, ông vui mừng cho tổ chức lễ hội cầu nguyện ăn mừng sự kiện và cắt cử Giorgio Vasari trang trí một phòng của Vatican bằng bức bích họa về vụ thảm sát (căn phòng hiện đang giới hạn đối với du khách). Số người Ki-tô giáo bị chính những anh em Ki-tô hữu giết hại trong 24 giờ đó còn lớn hơn số nạn nhân này của Đế chế La Mã đa thần trong suốt thời gian tồn tại của nó.
Đấng tối cao là duy nhất
Theo thời gian, một số tín đồ đa thần giáo trở nên quá yêu mến một vị thần bảo hộ đặc biệt của họ tới mức ngày càng tách khỏi đa thần giáo cơ bản. Họ bắt đầu tin rằng vị thần của họ là vị thần duy nhất, và rằng trên thực tế Ngài là quyền lực tối cao của cả vũ trụ. Nhưng đồng thời họ vẫn tiếp tục xem Ngài là đấng có những vị lợi, thiên kiến riêng, và tin rằng họ có thể thỏa hiệp với Ngài. Chính điều đó đã sinh ra thuyết độc thần, và tín đồ của tôn giáo này khẩn cầu quyền năng tối cao của vũ trụ giúp họ khỏi bệnh, trúng xổ số và giành chiến thắng trong chiến tranh.
Độc thần giáo đầu tiên mà chúng ta biết đến xuất hiện ở Ai Cập vào khoảng năm 350 TCN, khi Pharaoh Akhenaten tuyên bố một trong các vị thần nhỏ trong bách thần Ai Cập, thần Aten, trên thực tế chính là Đấng tối cao cai trị vũ trụ. Akhenaten thể chế hoá tục thờ thần Aten thành quốc giáo và cố gắng kiểm soát việc thờ phụng mọi vị thần khác. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tôn giáo của ông đã không thành công. Sau khi ông chết, tục thờ thần Aten bị bãi bỏ và quay lại với tục thờ bách thần như cũ.
Thuyết đa thần đâu đó vẫn tiếp tục đẻ ra các thuyết độc thần khác, nhưng chúng vẫn nằm ngoài lề, nhất là vì chúng không thể tiêu hoá nổi thông điệp phổ quát của mình. Ví dụ, Do Thái giáo cho rằng Đấng tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, mà vị lợi chủ yếu của Ngài là đối với đất nước Do Thái tí hon và trong vùng đất heo hút của Israel. Do Thái giáo không có gì nhiều để hấp dẫn đối với các nước khác, và trong suốt sự tồn tại của mình, nó không phải là một tôn giáo có chủ trương truyền giáo. Giai đoạn này có thể được gọi là giai đoạn “độc thần cục bộ”.
Một sự đột phá lớn đã xảy ra với Ki-tô giáo. Đức tin này khởi nguồn từ một giáo phái Do Thái bí truyền có mục tiêu thuyết phục người Do Thái tin rằng Chúa Jesus thành Nazareth là đấng cứu thế mà họ hằng mong ngóng từ lâu. Tuy nhiên, một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của giáo phái, Thánh Paul thành Tarsus, lập luận rằng nếu quyền lực tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, và nếu Ngài buộc phải nhập thế bằng xác phàm và chết trên thập giá để cứu độ nhân loại, thì đây là điều mà tất cả mọi người đều phải biết, chứ không chỉ riêng người Do Thái. Vì vậy cần phải loan báo tin mừng – Phúc âm – của Chúa Jesus – ra toàn thế giới.
Các lập luận của Paul đã gặp mảnh đất màu mỡ. Người Ki-tô giáo bắt đầu tổ chức các hoạt động truyền giáo rộng rãi nhắm đến tất cả mọi người. Ở một trong những bước ngoặt lạ lùng nhất của lịch sử, giáo phái Do Thái bí truyền này đã thống lĩnh trên toàn bộ Đế chế La Mã hùng mạnh.
Thành công của Ki-tô giáo được coi là mô hình cho một tôn giáo độc thần nữa xuất hiện ở bán đảo Ả-rập trong thế kỷ 7 – Hồi giáo. Giống như Ki-tô giáo, Hồi giáo khi sơ khai cũng là một giáo phái nhỏ bé ở một góc hẻo lánh của thế giới, nhưng trong một bất ngờ mang tính lịch sử còn lạ lùng và chóng vánh hơn, nó đã bứt phá khỏi sa mạc Ả-rập và chinh phục một đế chế rộng lớn trải dài từ Đại Tây Dương đến Ấn Độ. Từ đó về sau, tư tưởng độc thần đóng một vai trò trung tâm trong lịch sử thế giới.
Tín đồ độc thần giáo có xu hướng cuồng tín và truyền đạo hơn rất nhiều so với tín đồ đa thần giáo. Một tôn giáo mà công nhận tính hợp pháp của các tín ngưỡng khác thường có hàm ý rằng, hoặc là Đấng tối cao của tôn giáo đó không phải là quyền lực tối thượng của vũ trụ, hoặc là tôn giáo đó chỉ nhận được từ Đấng tối cao một phần chân lý phổ quát. Vì thường tin rằng mình đang nắm trong tay toàn bộ thông điệp của một và chỉ một Đấng tối cao mà thôi, nên tín đồ độc thần giáo đã bị thôi thúc phải báng bổ tất cả các tôn giáo còn lại. Trong hai thiên niên kỷ qua, tín đồ độc thần giáo vẫn không ngừng củng cố quyền hành của mình qua việc triệt tiêu bằng bạo lực đối với tất cả các tôn giáo cạnh tranh khác.
Biện pháp này có hiệu quả. Vào đầu thế kỷ 1, hầu như không có một tín đồ độc thần giáo nào trên thế giới. Khoảng năm 500, một trong những đế chế lớn nhất thế giới – Đế chế La Mã – trở thành một chính thể Ki-tô giáo, các nhà truyền giáo tất bật truyền bá Ki-tô giáo đến các vùng đất khác thuộc châu Âu, châu Á và châu Phi. Đến cuối thiên niên kỷ 1, hầu hết mọi người ở châu Âu, Tây Á, Bắc Phi là những tín đồ độc thần giáo, và các đế quốc từ Đại Tây Dương đến dãy Himalaya đều khẳng định họ được sắc phong bởi một Đấng vĩ đại duy nhất. Đến đầu thế kỷ 16, độc thần giáo thống trị ở hầu hết Á-Phi, trừ Đông Á và các vùng phía nam châu Phi, nó bắt đầu vươn các xúc tu tua tủa của mình về Nam Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương. Ngày nay, hầu hết mọi người bên ngoài Đông Á tuân theo một độc thần giáo này hay một độc thần giáo khác, và trật tự chính trị toàn cầu được xây dựng trên những nền tảng độc thần giáo.
Bản đồ 5. Sự lan tỏa của Ki-tô giáo và Hồi giáo.
Song, cũng giống như thuyết vật linh vẫn tiếp tục tồn tại trong đa thần giáo, đa thần giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong độc thần giáo. Về lý thuyết, khi một người tin rằng quyền lực tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, vậy lý do trong việc thờ phụng những quyền lực cục bộ là gì? Ai sẽ muốn tiếp cận một công chức hạng thấp khi văn phòng tổng thống mở ra với bạn? Thật vậy, thần học độc thần có xu hướng phủ nhận sự tồn tại của tất cả các vị thần ngoại trừ một Đấng tối cao, đổ hỏa ngục và diêm sinh lên bất cứ ai dám thờ phụng những vị thần khác.
Song, luôn tồn tại một hố ngăn cách giữa lý thuyết thần học và thực tế lịch sử. Hầu hết mọi người nhận thấy rất khó khăn để tiêu hoá hoàn toàn ý tưởng về thuyết độc thần. Họ đã tiếp tục phân chia thế giới thành “chúng ta” và “chúng nó”, coi sức mạnh tối cao của vũ trụ quá xa xôi và xa lạ đối với nhu cầu trần tục của họ. Các tôn giáo độc thần đã trục xuất thần linh, vốn xuất hiện nơi cửa trước với rất nhiều sự phô trương, qua cửa sổ bên. Ví dụ, Ki-tô giáo cũng xây dựng những điện thờ riêng dành cho các thánh, với phần nghi lễ có khác nhau đôi chút so với những vị thần của đa thần giáo.
Cũng như thần Jupiter bảo vệ Rome và thần Huitzilopochtli bảo vệ Đế chế Aztec, mỗi vương quốc Ki-tô giáo có vị thánh bảo trợ của riêng mình, giúp nó vượt qua khó khăn và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh. Anh đã được bảo vệ bởi Thánh George, Scotland bởi Thánh Andrew, Hungary bởi Thánh Stephen, và Pháp bởi Thánh Martin. Các thành phố thị trấn, các ngành nghề, và thậm chí cả bệnh tật – tất cả đều có vị thánh của riêng mình. Thành phố Milan đã có Thánh Ambrose, trong khi Thánh Mark che chở thành phố Venice. Thánh Almo bảo vệ người thợ cạo ống khói, còn Thánh Matthew lại giúp đỡ những người thu thuế khi lâm nạn. Nếu bạn bị đau đầu, bạn phải cầu nguyện Thánh Agathius, nhưng nếu bị đau răng thì nguyện cầu Thánh Apollonia hiệu quả hơn nhiều.
Các thánh Ki-tô giáo không chỉ đơn thuần giống như các vị thần trong đa thần giáo cũ. Thường thì họ chính là những vị thân cải trang. Ví dụ, nữ thần chính của văn minh Celtic ở Ireland trước khi có sự xuất hiện của Ki-tô giáo là Brigid. Khi Ireland đã được Ki-tô hoá, Brigid cũng được rửa tội. Bà trở thành Thánh Brigid, người cho đến nay vẫn là vị thánh được tôn kính nhất trong Công giáo ở Ireland.
Cuộc chiến giữa thiện và ác
Đa thần giáo không chỉ sinh ra các tôn giáo độc thần, mà còn cả những tôn giáo nhị nguyên. Những tôn giáo nhị nguyên tán thành sự tồn tại của hai sức mạnh đối lập: thiện và ác. Không giống như thuyết độc thần, nhị nguyên cho rằng cái ác có một sức mạnh độc lập, không được tạo ra bởi Chúa lòng lành, và cũng không thấp kém hơn. Nhị nguyên giải thích rằng toàn bộ vũ trụ là một chiến trường giữa hai lực lượng này, và do đó tất cả những gì xảy ra trong thế giới này là một phần của cuộc đấu tranh.
Thuyết nhị nguyên là một thế giới quan đầy hấp dẫn, vì nó có câu trả lời ngắn gọn và đơn giản cho Vấn đề Cái ác nổi tiếng, một trong những mối quan tâm cơ bản của tư tưởng con người. “Tại sao có cái ác tồn tại trên thế giới? Tại sao có đau khổ? Tại sao những điều xấu lại xảy ra với những người tốt?” Những người độc thần giáo phải rèn luyện trí tuệ để giải thích làm thế nào mà một Đấng tối cao toàn tri, toàn năng và toàn thiện lại cho phép quá nhiều đau khổ trên thế giới. Một lời giải thích nổi tiếng cho rằng đây là cách Đấng tối cao cho phép tự do ý chí trong con người. Nếu không có cái ác, con người không thể lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, và do đó sẽ không có ý chí tự do. Tuy nhiên, đây là một câu trả lời không trực quan, bởi nó ngay lập tức đặt ra một loạt các câu hỏi mới. Tự do của ý chí cũng cho phép con người lựa chọn cái ác. Nhiều người thực sự chọn cái ác, và theo lời giải thích độc thần giáo chuẩn mực, lựa chọn này phải mang lại sự trừng phạt của Đấng tối cao trong kết quả cuối cùng của nó. Nếu Đấng tối cao biết trước rằng một người cụ thể sẽ sử dụng ý chí tự do của mình để lựa chọn cái ác, và kết quả là người đó sẽ chịu trừng phạt vì điều này bằng việc bị tra tấn đời đời trong địa ngục, vậy tại sao Đấng tối cao lại tạo ra người ấy? Các nhà thần học đã viết vô số sách để trả lời câu hỏi như vậy. Một số tìm thấy câu trả lời thuyết phục. Một số thì không. Có điều không thể phủ nhận là những người độc thần giáo đã trải qua quãng thời gian khó khăn để đối phó với Vấn đề Cái ác.
Đối với những người nhị nguyên, điều xấu xảy ra ngay cả với người tốt, vì thế giới không bị chi phối bởi một Đấng tối cao toàn tri, toàn năng và toàn thiện. Vẫn tồn tại một sức mạnh của cái ác độc lập bao trùm lên thế giới. Sức mạnh của cái ác tạo ra những điều xấu.
Quan điểm nhị nguyên cũng có nhược điểm riêng của nó. Đúng, nó cung cấp một giải pháp rất đơn giản để trả lời cho Vấn đề Cái ác, nhưng nó lại bối rối bởi Vấn đề Trật tự. Nếu thế giới đã được tạo ra bởi một Đấng tối cao duy nhất, hiển nhiên thế giới sẽ là nơi có trật tự, mọi thứ đều tuân theo những quy luật chung. Nhưng nếu Thiện và Ác đánh nhau giành quyền kiểm soát thế giới, ai sẽ là người thực thi các quy luật chi phối cuộc chiến vũ trụ này? Hai quốc gia đối địch có thể chiến đấu với nhau vì cả hai đều tồn tại trong không gian và thời gian, đều tuân theo những quy luật vật lý. Một tên lửa phóng đi từ Pakistan có thể bắn trúng mục tiêu trong lãnh thổ Ấn Độ vì các quy luật vật lý là giống nhau ở cả hai nước. Trong cuộc chiến giữa Thiện và Ác, luật pháp chung nào buộc cả hai bên phải tuân thủ, và ai là người ban hành luật pháp đó?
Vậy nên, độc thần giáo giải thích tốt trật tự, nhưng lại hoang mang trước cái ác. Thuyết nhị nguyên giải thích tốt cái ác, nhưng lại lúng túng trước trật tự. Có một cách thức hợp lý giải quyết bài toán này: lập luận rằng có một Đấng toàn năng duy nhất đã tạo ra toàn bộ vũ trụ – và đó là một Thượng đế ác. Nhưng không một ai trong lịch sử lại dung chứa một niềm tin như vậy.
Tôn giáo nhị nguyên phát triển mạnh mẽ trong hơn một ngàn năm. Vào khoảng thời gian giữa năm 1500 và 1000 TCN, một nhà tiên tri tên là Zoroaster (Zarathustra) hoạt động đâu đó ở Trung Á. Tín ngưỡng của ông được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến khi nó trở thành tôn giáo nhị nguyên quan trọng nhất – Bái hỏa giáo. Tín đồ Bái hỏa giáo nhìn thế giới như một trận chiến vũ trụ giữa thần thiện Ahura Mazda và thần ác Angra Mainyu. Con người phải giúp thần thiện trong trận chiến này. Bái hỏa giáo là một tôn giáo quan trọng trong Đế chế Ba Tư thời Achaemenid (năm 550-330 TCN) và sau này trở thành tôn giáo chính thức của Đế chế Ba Tư thời Sassanid (năm 224-651). Nó có tầm ảnh hưởng lớn đến hầu hết mọi tôn giáo ở Trung Đông và Trung Á sau này, và nó truyền cảm hứng cho một số tôn giáo nhị nguyên khác, chẳng hạn như Ngộ đạo giáo (Gnosticism) và Mani giáo (Manichaeanism).
Trong thế kỷ 3 và 4, Mani giáo lan rộng từ Trung Hoa đến Bắc Phi, và có những thời điểm, dường như đã đánh bại Ki-tô giáo để thống trị Đế chế La Mã. Song, Mani giáo đã để mất Rome về tay các tín đồ Ki-tô giáo, Đế chế Sassanid theo Bái hỏa giáo bị đẩy lùi bởi Hồi giáo độc thần, và làn sóng nhị nguyên dần lắng xuống. Hiện nay chỉ có một số ít cộng đồng theo thuyết nhị nguyên còn tồn tại ở Ấn Độ và Trung Đông.
Tuy nhiên, cơn thủy triều độc thần giáo đang dâng đã không thực sự quét sạch được chủ nghĩa nhị nguyên. Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo độc thần hấp thụ rất nhiều tín lý và thực hành nhị nguyên, và một số trong những ý tưởng cơ bản nhất về những gì chúng ta gọi là “độc thần”, trên thực tế chính là nhị nguyên về nguồn gốc và tinh thần. Vô số tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo tin vào một thế lực tà ác mạnh mẽ mà người Ki-tô giáo gọi là Ác quỷ hay Satan, những kẻ có thể hoạt động độc lập, chiến đấu chống lại Chúa lòng lành, và phá hoại mà không được Chúa cho phép.
Làm thế nào một tín đồ độc thần giáo có thể tuân theo một niềm tin nhị nguyên như vậy? (Nhân tiện, chẳng có điều gì tương tự như thế trong Cựu Ước.) Theo logic, đó là điều không thể. Hoặc là bạn tin vào một Đấng toàn năng duy nhất, hoặc bạn tin vào hai sức mạnh đối lập, không bên nào là toàn năng. Tuy nhiên, con người có một khả năng tuyệt vời để tin vào những mâu thuẫn. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi mà hàng triệu tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo mộ đạo tin rằng, tại cùng một nơi và cùng một thời điểm, tồn tại cùng lúc một Đấng toàn năng và một Ác quỷ độc lập. Vồ số tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo đã tưởng tượng tới mức rằng Chúa lòng lành thậm chí còn cần sự giúp đỡ của chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại Ác quỷ, điều này tạo cảm hứng cho những lời kêu gọi thánh chiến và thập tự chinh.
Một khái niệm nhị nguyên quan trọng khác, đặc biệt là ở Ngộ đạo giáo và Mani giáo là sự phân biệt rõ ràng giữa thể xác và linh hồn, giữa vật chất và tinh thần. Ngộ đạo giáo và Mani giáo lập luận rằng Chúa lòng lành tạo ra tinh thần và linh hồn, trong khi vật chất và thân xác là sự sáng tạo của quỷ dữ. Theo quan điểm này, con người là hiện thân của một cuộc chiến giữa linh hồn tốt đẹp và thân xác xấu xa. Từ quan điểm độc thần, điều đó là vô nghĩa – tại sao lại phân biệt quá rạch ròi giữa thể xác và tâm hồn, hoặc vật chất và tinh thần? Và tại sao phải lập luận rằng vật chất và thể xác là xấu xa? Suy cho cùng, mọi thứ đã được tạo ra bởi cùng một Chúa lòng lành. Nhưng người độc thần giáo không thể không bị quyến rũ bởi khái niệm phân đôi của nhị nguyên, chính xác là do chúng đã giúp họ giải quyết các vấn đề của cái ác. Vì vậy, chính những phản đối này cuối cùng lại trở thành nền tảng tư tưởng của Ki-tô giáo và Hồi giáo. Niềm tin vào thiên đường (vương quốc của Chúa lòng lành) và địa ngục (vương quốc của ác quỷ) cũng có nguồn gốc từ quan điểm nhị nguyên. Không có dấu vết của niềm tin này trong Cựu Ước, và Cựu Ước cũng không bao giờ tuyên bố rằng linh hồn của con người tiếp tục tồn tại sau khi cơ thể chết đi.
Trên thực tế, độc thần giáo, như nó đã diễn ra trong lịch sử, là chiếc kính vạn hoa của những di sản độc thần giáo, nhị nguyên, đa thần giáo và tín ngưỡng vật linh, cùng núp bóng dưới một chiếc ô độc thần. Người Ki-tô giáo bình thường tin tưởng vào Thiên Chúa trong độc thần giáo, nhưng cũng tin vào Ác quỷ theo thuyết nhị nguyên, vào các vị thánh của thuyết đa thần, và các bóng ma của tín ngưỡng vật linh. Các học giả tôn giáo đặt tên cho sự kết hợp đồng thời này của các ý tưởng từ nhiều thuyết khác nhau, thậm chí là đối nghịch nhau, và sự kết hợp của các nghi lễ và thực hành có nguồn gốc khác nhau. Nó được gọi là chủ nghĩa hỗn tạp. Trên thực tế, thuyết hỗn tạp có lẽ là thứ tôn giáo vĩ đại duy nhất trên thế giới.
Quy luật tự nhiên
Tất cả các tôn giáo mà chúng ta đã thảo luận cho đến nay đều chia sẻ một đặc điểm quan trọng: chúng đều tập trung đức tin vào thần linh và thực thể siêu nhiên khác. Điều này có vẻ hiển nhiên đối với người phương Tây, chủ yếu quen thuộc với độc thần giáo và đa thần giáo. Tuy nhiên, trên thực tế, lịch sử tôn giáo của thế giới không chỉ gói gọn vào lịch sử của thần linh. Trong thiên niên kỷ 1 TCN, các tôn giáo hoàn toàn mới bắt đầu lan rộng khắp Á-Phi. Những kẻ mới đến, chẳng hạn như Jaina giáo và Phật giáo ở Ấn Độ, Đạo giáo và Nho giáo ở Trung Hoa, và chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa hưởng lạc ở Địa Trung Hải, được đặc trưng bởi sự coi thường thần linh.
Những tín ngưỡng này cho rằng trật tự siêu nhiên chi phối thế giới là sản phẩm của các quy luật tự nhiên chứ không phải ý chí và ý tưởng của thần linh. Một số tôn giáo tuân theo quy luật tự nhiên vẫn tiếp tục tán thành sự tồn tại của các vị thần, nhưng thần linh của họ là đối tượng của quy luật tự nhiên không khác gì so với con người, động vật và thực vật. Các thần linh này có vị trí riêng trong hệ sinh thái giống như voi và nhím cũng có nơi dành cho chúng, và không thể thay đổi các quy luật tự nhiên cũng giống như voi. Một ví dụ điển hình là Phật giáo, tôn giáo quan trọng nhất trong các tôn giáo thuận theo quy luật tự nhiên cổ xưa, và giờ vẫn là một trong những tín ngưỡng lớn.
Nhân vật trung tâm của Phật giáo không phải là một vị thần mà là một con người, Siddhartha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm). Theo truyền thống Phật giáo, Gautama là người thừa kế của một vương quốc nhỏ thuộc Himalaya, vào khoảng năm 500 TCN. Vị hoàng tử trẻ đã bị ảnh hưởng sâu sắc trước các bằng chứng khổ đau xung quanh mình. Ông thấy rằng đàn ông và đàn bà, trẻ em và người già, tất cả họ đều đau khổ không chỉ do thiên tai bất chợt như chiến tranh và dịch bệnh, mà còn do sự lo lắng, thất vọng và bất mãn, mọi thứ dường như là một phần không thể tách rời của cuộc sống con người. Con người theo đuổi sự giàu có và quyền lực, tiếp nhận kiến thức và tài sản, sinh con trai và con gái, xây dựng nhà và cung điện. Tuy nhiên, dù có được điều gì, họ cũng không bao giờ thỏa mãn. Những người sống trong đói nghèo mơ ước được giàu có. Những người có một triệu muốn hai triệu. Những người có hai triệu lại muốn mười triệu. Ngay cả những người giàu có và nổi tiếng vẫn hiếm khi hài lòng. Họ cũng bị ám ảnh bởi những mối quan tâm và sự lo lắng không ngừng, cho đến khi bệnh tật, tuổi già và cái chết đưa đến một kết thúc cay đắng với họ. Mọi thứ mà ta đã tích lũy biến mất như làn khói. Cuộc sống là một cuộc chạy đua vô nghĩa. Nhưng làm thế nào để thoát khỏi điều đó?
Ở tuổi 29, Gautama đã trốn khỏi cung điện vào giữa đêm, bỏ lại đằng sau gia đình và tài sản. Ông ra đi như một người vô gia cư lang thang khắp miền Bắc Ấn Độ, tìm kiếm lối thoát khỏi khổ đau. Ông đã đến thăm các đạo tràng và quỳ dưới chân những bậc đạo sư đầy kinh nghiệm, nhưng vẫn chưa được giải thoát hoàn toàn – vẫn luôn tồn tại một số điều còn mắc mớ. Ông không nản lòng. Ông quyết tâm tự tìm hiểu nỗi khổ đau cho đến khi tìm thấy một phương pháp giải thoát hoàn toàn. Ông đã trải qua sáu năm thiền định về bản chất, về các nguyên nhân và phương pháp chữa trị cho nỗi thống khổ của kiếp người. Cuối cùng, ông đã nhận ra rằng đau khổ không phải bởi rủi ro, bởi bất công xã hội, hay bởi ý tưởng bất chợt của thần linh. Thay vào đó, đau khổ chính là do các hình mẫu hành vi trong tâm trí của chính mình.
Khám phá sâu sắc của Gautama là khi tâm trải nghiệm bất cứ điều gì, nó thường phản ứng với tham ái, mà tham ái luôn kéo theo sự bất mãn. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó khó chịu, nó khao khát thoát khỏi các day dứt và bực dọc. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu, nó khao khát rằng niềm vui sẽ vẫn duy trì và tăng thêm. Do đó, tâm luôn không hài lòng và bồn chồn. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi gặp những điều khó chịu, chẳng hạn như cơn đau. Chừng nào nỗi đau vẫn còn tiếp tục, chúng ta vẫn sẽ bất mãn và làm tất cả những gì có thể để tránh nó. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta trải nghiệm những điều thú vị, chúng ta cũng chẳng bao giờ bằng lòng. Hoặc chúng ta lo sợ rằng niềm vui có thể biến mất, hoặc chúng ta hy vọng rằng nó sẽ táng thêm. Nhiều người vẫn hằng mong tìm kiếm tình yêu nhưng hiếm khi hài lòng khi họ tìm thấy nó. Một số trở nên lo lắng rằng người tình của họ sẽ bỏ đi; những người khác cảm thấy rằng họ đã an phận quá dễ dãi, và đáng lẽ họ có thể tìm thấy một ai đấy tốt hơn. Và tất cả chúng ta đều biết mọi người cố gắng để đạt được cả hai.
Những vị thần vĩ đại có thể mang mưa tới cho chúng ta, các tổ chức xã hội có thể cung cấp công lý và hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt, và những lần tình cờ may mắn có thể biến chúng ta thành triệu phú, nhưng tất cả chúng đều không thể thay đổi các hình mẫu tư duy cơ bản của chúng ta. Do đó, ngay cả các vị vua vĩ đại nhất cũng phải cam chịu sống trong cảm giác lo lắng, không ngừng chạy trốn nỗi buồn và đau khổ, mãi mãi đuổi theo những thú vui lớn hơn.
Bản đồ 6. Sự lan toản của Phật giáo
Gautama thấy rằng có một cách để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này. Nếu khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu hay khó chịu, tâm chỉ đơn giản thấu hiểu sự vật như nó vốn vậy, thì sẽ khống có đau khổ. Nếu bạn gặp nỗi buồn mà không mong nỗi buồn biến mất, bạn tiếp tục cảm thấy nỗi buồn nhưng bạn không đau khổ vì nó nữa. Nỗi buồn thực sự cũng có nhiều giá trị. Nếu bạn từng trải qua niềm vui mà không muốn rằng niềm vui kéo dài và nhân lên nữa, bạn vẫn tiếp tục cảm thấy niềm vui mà không mất đi sự bình an trong tâm hồn.
Nhưng làm thế nào để bạn khiến tâm trí chấp nhận mọi thứ như chúng vốn là, mà không hề có sự thèm muốn nào khác? Làm sao chúng ta chấp nhận nỗi buồn như nỗi buồn, niềm vui như niềm vui, nỗi đau chỉ là nỗi đau? Gautama phát triển một tập hợp kĩ thuật thiền định nhằm huấn luyện tâm trí trải nghiệm thực tế như nó vốn vậy, mà không hề thèm muốn. Những bài tập này huấn luyện tâm trí tập trung tất cả
Sự chú ý của nó vào câu hỏi: “Tôi đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?” hơn là vào “Tôi mong muốn được trải nghiệm gì?” Khó mà đạt được trạng thái tâm trí này, nhưng không phải là không thể.
Gautama đặt những kĩ thuật thiền định này trong một bộ quy tắc đạo đức, để khiến mọi người tập trung vào trải nghiệm thực tế, tránh rơi vào những thèm muốn và hoang tưởng. Ông hướng dẫn đệ tử tránh sát sinh, không tà dâm và không trộm cắp, do những hành vi đó chắc chắn sẽ thổi bùng ngọn lửa tham ái (với quyền lực, niềm vui nhục dục, hoặc sự giàu có). Khi ngọn lửa được dập tắt, tham ái được thay thế bởi một trạng thái mãn nguyện hoàn hảo và thanh thản, được gọi là niết bàn (nghĩa đen của từ đó là “dập lửa”). Những người đã đạt tới niết bàn sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau. Họ trải nghiệm thực tế một cách hết sức rõ ràng, thoát khỏi những hoang tưởng và ảo mộng. Mặc dù họ rất có thể sẽ vẫn gặp phải khó chịu và đau đớn, nhưng những trải nghiệm như vậy không làm họ đau khổ. Một người không thèm muốn thì sẽ không phải chịu đau khổ.
Theo truyền thống Phật giáo, Gautama tự mình chứng được niết bàn và đã được giải thoát khỏi đau khổ. Từ đó về sau ông được gọi là “Phật”, có nghĩa là “Người giác ngộ”. Đức Phật dành phần còn lại của cuộc đời mình để giải thích những khám phá của ông cho người khác để mọi người có thể được giải thoát khỏi đau khổ. Ông tóm gọn những lời dạy của mình trong một quy luật duy nhất: đau khổ phát sinh từ tham ái; cách duy nhất để giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ là giải thoát hoàn toàn khỏi tham ái; và cách duy nhất để được giải thoát khỏi tham ái là huân tập tâm trí trải nghiệm thực tế như nó là.
Quy luật này, gọi là Pháp, được các Phật tử coi như một định luật tự nhiên phổ quát. Vấn đề “đau khổ phát sinh từ tham ái” luôn tồn tại và có ở khắp mọi nơi là đúng, cũng giống như trong vật lý hiện đại, E luôn luôn bằng mc². Phật tử là những người tin vào quy luật này và biến nó thành điểm tựa trong tất cả các hoạt động của họ. Mặt khác, niềm tin vào thần linh có tầm quan trọng thứ yếu đối với họ. Nguyên tắc đầu tiên của độc thần giáo là: “Đấng tối cao luôn hiện hữu. Vậy Ngài muốn những gì từ con?” Nguyên tắc đầu tiên của Phật giáo là “Đau khổ luôn tồn tại. Làm thế nào để tôi thoát khỏi nó?”
Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của thần linh – họ được mô tả như các thực thể quyền năng, có thể đem đến những cơn mưa và chiến thắng – nhưng họ không có ảnh hưởng gì tới quy luật rằng đau khổ phát sinh từ tham ái. Nếu tâm trí của một người thoát khỏi tất cả tham ái, không thần linh nào có thể làm cho anh ta đau khổ. Ngược lại, một khi tham ái phát sinh trong tâm trí của một người, tất cả thần linh trong vũ trụ cũng không thể cứu anh ta khỏi đau khổ.
Song, giống như độc thần giáo, các tôn giáo theo luật tự nhiên thời tiền hiện đại như Phật giáo không bao giờ thực sự thoát khỏi việc thờ phụng thần linh. Phật giáo nói với mọi người rằng họ nên hướng tới mục tiêu tối hậu là giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ, thay vì dừng lại ở những mục tiêu trong đời như sự thịnh vượng về kinh tế và quyền lực chính trị. Tuy nhiên, 99% Phật tử không thể tới được niết bàn, và thậm chí nếu họ hy vọng sẽ làm được như vậy trong một số kiếp sau, thì họ vẫn dành phần lớn cuộc sống hiện tại của mình để theo đuổi những thành tựu trần tục. Vì vậy, họ vẫn tiếp tục tồn thờ các vị thần khác nhau, chẳng hạn như các vị thần Hindu ở Ấn Độ, các vị thần Bon ở Tây Tạng, và các vị thần Shinto tại Nhật Bản.
Hơn nữa, theo thời gian, một vài tông phái Phật giáo phát triển thành một hệ thống các chư Phật và Bồ Tát. Đây là những thực thể người và không phải người có khả năng đạt đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ, nhưng từ bỏ sự giải thoát này vì lòng từ bi, để cứu giúp vô số chúng sinh vẫn còn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi đau khổ. Thay vì thờ lạy các vị thần, nhiều Phật tử bắt đầu thờ các bậc giác ngộ, yêu cầu họ giúp đỡ không chỉ trong việc đạt tới niết bàn, mà còn trong việc xử lý các vấn để trần tục. Do đó, chúng ta tìm thấy nhiều tượng Phật và Bồ Tát khắp Đồng Á, họ dành thời gian mang mưa đến, chấm dứt bệnh dịch, và thậm chí giành chiến thắng trong những cuộc chiến đẫm máu – để đổi lấy những lời cầu nguyện, những vòng hoa đầy màu sắc, trầm hương thơm và những đồ cúng bằng gạo và kẹo bánh.
Sự tôn thờ con người
300 năm qua thường được mô tả như thời đại phát triển của chủ nghĩa thế tục, trong đó tôn giáo ngày càng mất đi tầm quan trọng của nó. Nếu chúng ta đang nói về các tôn giáo hữu thần, thì điều này phần lớn là chính xác. Nhưng nếu chúng ta nói về các tôn giáo theo quy luật tự nhiên thì thời hiện đại hoá ra lại là kỷ nguyên của lòng nhiệt thành mãnh liệt đối với tôn giáo, những nỗ lực truyền giáo chưa từng có và các cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu nhất trong lịch sử. Thời hiện đại đã chứng kiến sự nổi lên của một số tôn giáo mới theo quy luật tự nhiên, chẳng hạn như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phát xít. Những tín điều này không thích được gọi là tôn giáo, và tự coi chúng là những ý thức hệ. Nhưng đó chỉ là về mặt ngữ nghĩa mà thôi. Nếu tôn giáo là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị con người được xác lập dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên, thì những chủ nghĩa kia cũng giống như một tôn giáo không khác gì Hồi giáo.
Tôn giáo là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị con người được xác lập dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu phàm. Thuyết tương đối không phải là một tôn giáo, bởi vì ít nhất cho đến nay, không có bất cứ chuẩn mực và giá trị con người nào được tạo nên dựa trên thuyết đó. Bóng đá không phải là một tôn giáo, vì không ai lập luận rằng các quy tắc của nó lại phản ánh những sắc lệnh siêu phàm. Hồi giáo, Phật giáo đều là các tôn giáo, bởi tất cả chúng đều là các chuẩn mực và giá trị con người được tạo nên dựa vào niềm tin vào một trật tự siêu phàm. (Lưu ý có sự khác biệt giữa “siêu phàm” và “siêu nhiên”. Các quy luật tự nhiên Phật giáo và các quy luật lịch sử là siêu phàm, bởi chúng không do con người tạo ra. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là siêu nhiên).
Chúng ta có thể phân chia các tín điều tôn giáo thành những tôn giáo lấy thần thánh làm trung tâm và những ý thức hệ vô thần, được cho rằng dựa trên quy luật tự nhiên. Nhưng sau đó, để thống nhất, chúng ta sẽ lại cần phải phân mục lại ít nhất một số phái như Phật giáo, Đạo giáo và chủ nghĩa khắc kỷ là những hệ tư tưởng hơn là tôn giáo. Ngược lại, chúng ta nên lưu ý rằng niềm tin vào thần linh vẫn tồn tại trong nhiều hệ tư tưởng hiện đại, và một số trong đó, đặc biệt là chủ nghĩa tự do, sẽ không còn nhiều ý nghĩa nếu không có niềm tin này.
Không thể tiến hành khảo sát lịch sử của tất cả các tín điều hiện đại mới đây trong phần này, nhất là vì không có ranh giới rõ ràng giữa chúng. Chúng không kém phần hỗn loạn so với thuyết độc thần và Phật giáo phổ thông. Cũng giống với việc một Phật tử có thể thờ phụng các vị thần Hindu, một tín đồ độc thần giáo có thể tin vào sự tồn tại của quỷ Satan, người Mỹ điển hình ngày nay vừa là người theo chủ nghĩa dân tộc (tin vào sự tồn tại của Mỹ với một vai trò đặc biệt trong lịch sử), vừa là người theo chủ nghĩa tư bản thị trường tự do (tin rằng sự cạnh tranh mở và việc theo đuổi lợi ích cá nhân là những cách tốt nhất để tạo ra một xã hội thịnh vượng), vừa là một nhà nhân văn tự do (tin rằng con người đã được tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả xâm phạm nhất định). Chủ nghĩa dân tộc sẽ được thảo luận trong Chương 18. Chủ nghĩa tư bản – thành công nhất trong các tôn giáo của lịch sử hiện đại – được mô tả ở toàn bộ Chương 16, trong đó giải thích những niềm tin và nghi thức chính của nó. Trong những trang còn lại của chương này, tôi sẽ đề cập đến các tôn giáo nhân văn.
Các tôn giáo hữu thần tập trung vào việc thờ cúng thần linh. Tôn giáo nhân văn thờ nhân loại, hay đúng hơn là Homo sapiens. Chủ nghĩa nhân văn là một niềm tin, rằng Homo sapiens có một bản chất độc đáo và linh thiêng, mà về cơ bản khác với bản chất của tất cả các loài động vật và mọi hiện tượng khác. Những người theo chủ nghĩa nhân văn tin rằng chính bản chất độc đáo của Homo sapiens là điều quan trọng nhất trên thế giới, và nó quyết định ý nghĩa của mọi điều xảy ra trong vũ trụ. Cái tốt lành tối thượng chính là điều tốt đẹp có ở Homo sapiens. Phần còn lại của thế giới và tất cả các sinh vật khác tồn tại chỉ để phục vụ cho lợi ích loài người.
Tất cả những người nhân văn chủ nghĩa tôn thờ nhân loại, nhưng họ không đồng ý với định nghĩa của nó. Chủ nghĩa nhân văn đã chia thành ba nhóm đối thủ, tranh cãi về định nghĩa chính xác của từ “nhân loại”, cũng giống như các giáo phái Ki-tô chiến đấu về định nghĩa chính xác của Thiên Chúa. Ngày nay, phái nhân văn quan trọng nhất là chủ nghĩa nhân văn tự do, tin rằng “nhân tính” là phẩm chất của mỗi cá nhân, và sự tự do của mỗi cá nhân mang tính linh thiêng. Theo chủ nghĩa tự do, bản chất thiêng liêng của nhân tính ẩn chứa trong mỗi và mọi cá nhân Homo sapiens. Bản chất cốt lõi bên trong mỗi cá nhân mang lại ý nghĩa cho thế giới, và là nguồn gốc cho mọi uy quyền về đạo đức và chính trị. Nếu chúng ta gặp phải một tình trạng khó xử về đạo đức hay chính trị, chúng ta nên nhìn sâu bên trong và lắng nghe tiếng nói bên trong của mình – tiếng nói của nhân tính. Các điều răn chủ yếu của chủ nghĩa nhân văn tự do được dùng để bảo vệ quyền tự do của tiếng nói bên trong này, chống lại sự xâm phạm hoặc tổn hại. Những điều răn này được gọi chung là “nhân quyền”.
Chính điều này được xem là lý do khiến chủ nghĩa nhân văn tự do phản đối việc tra tấn và án tử hình. Trong thời kĩ đầu của châu Âu hiện đại, kẻ giết người được cho là vi phạm và làm mất ổn định trật tự vũ trụ. Để mang vũ trụ trở lại cân bằng, cần phải tra tấn và công khai trừ khử tội phạm, để mọi người có thể thấy trật tự được tái lập. Tham dự buổi hành quyết khủng khiếp là một trò tiêu khiển ưa thích của người dân London và Paris trong thời đại của Shakespeare và Molière. Ở châu Âu hiện nay, việc giết người được xem là một sự vi phạm tính chất thiêng liêng của nhân tính. Để lập lại trật tự, người châu Âu ngày nay không tra tấn và tử hình tội phạm. Thay vào đó, họ trừng phạt kẻ giết người theo cách thức mà họ xem là “nhân đạo” nhất có thể, do đó bảo vệ và thậm chí xây dựng lại sự linh thiêng nhân bản của hắn. Bằng cách vinh danh bản chất con người của kẻ giết người, mọi người được nhắc nhở về sự thiêng liêng của nhân tính, và trật tự được phục hồi. Bằng việc bảo vệ kẻ giết người, chúng ta sửa lại điều mà kẻ đó đã làm sai.
Mặc dù chủ nghĩa nhân văn tự do thần thánh hoá con người, nhưng nó vẫn không phủ nhận sự tồn tại của Đấng tối cao, và trên thực tế nó được hình thành dựa trên những niềm tin độc thần. Niềm tin của chủ nghĩa nhân văn vào bản chất tự do và thiêng liêng của mỗi cá nhân là một di sản trực tiếp của niềm tin Ki-tô về sự tự do và linh hồn cá nhân vĩnh cửu. Nếu không viện dẫn đến linh hồn vĩnh cửu và Đấng tạo hoá, chủ nghĩa tự do sẽ khó giải thích sự đặc biệt của mỗi Sapiens.
Một giáo phái quan trọng khác là chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tin rằng con người có bản chất tập thể chứ không phải cá nhân. Họ không coi tiếng nói bên trong của mỗi cá nhân là thiêng liêng mà nhìn nhận Homo sapiens với tư cách một loài. Trong khi chủ nghĩa nhân văn tự do tìm kiếm tự do càng nhiều càng tốt cho mỗi cá nhân, thì chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa tìm kiếm sự bình đẳng giữa mọi người. Theo những nhà xã hội chủ nghĩa, bất bình đẳng là sự báng bổ tệ hại nhất chống lại sự thiêng liêng của nhân loại, bởi vì nó coi trọng các đặc tính ngoại vi của con người hơn những bản chất phổ quát của loài. Ví dụ như khi coi những người giàu có đặc quyền hơn người nghèo, điều đó có nghĩa là chúng ta coi trọng tiền bạc hơn các bản chất phổ quát khác của tất cả con người, một thứ mà với người giàu và người nghèo là giống nhau.
Cũng giống như chủ nghĩa nhân văn tự do, chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở thuyết độc thần. Quan điểm cho rằng mọi người đều bình đẳng là một phiên bản cải tiến của thuyết độc thần, trong đó mọi linh hồn đều bình đẳng trước Đấng tối cao. Giáo phái nhân văn duy nhất đã thực sự bị tách khỏi thuyết độc thần truyền thống là chủ nghĩa nhân văn tiến hoá, mà đại diện nổi tiếng nhất là chủ nghĩa xã hội quốc gia Đức. Cái phân biệt giữa Đức quốc xã với các giáo phái nhân văn khác nằm ở một định nghĩa khác của khái niệm ‘nhân tính”, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thuyết tiến hoá. Trái ngược với các nhà nhân văn khác, Đức quốc xã tin rằng nhân loại không phải là một cái gì đó phổ quát và vĩnh cửu, mà là một giống loài có thể thay đổi, có thể phát triển hoặc thoái hoá. Con người có thể tiến hoá thành những cá nhân siêu việt, hoặc suy thoái thành một giống nòi yếu kém.
Tham vọng chính của Đức quốc xã là bảo vệ loài người khỏi sự thoái hoá và khuyến khích sự tiến hoá tích cực của nó. Đây là lý do khiến Đức quốc xã cho rằng chủng tộc Arya, hình thức tiên tiến nhất của nhân loại, phải được bảo vệ và nuôi dưỡng, trong khi các hình thức thoái hoá của Homo sapiens như người Do Thái, người La Mã, người đồng tính và các bệnh nhân tâm thần cần phải được cách ly và thậm chí là tiêu diệt. Đức quốc xã giải thích rằng bản thân loài Homo sapiens xuất hiện khi một quần thể “cao cấp” của người cổ đại tiến hoá, trái lại quần thể “kém cỏi” như Neanderthal đã bị tuyệt chủng. Những quần thể người khác nhau này lúc đầu không khác gì những chủng tộc khác nhau, nhưng phát triển độc lập theo những con đường tiến hoá riêng của họ. Điều này cũng có thể xảy ra một lần nữa. Theo Đức quốc xã, Homo sapiens vốn được chia thành nhiều chủng tộc khác nhau, với những phẩm chất độc đáo của riêng mình. Một trong số đó, chủng tộc Arya có những phẩm chất tốt nhất – tính duy lý, vẻ đẹp, tính toàn vẹn, sự siêng năng. Do đó, chủng tộc Arya có tiềm nâng để biến con người thành siêu nhân. Các chủng tộc khác, chẳng hạn như người Do Thái và da đen là phiên bản hiện đại của Neanderthal, sở hữu những phẩm chất thấp kém hơn. Nếu cho phép họ nhân giống, và đặc biệt là kết hôn với người Arya, họ sẽ kéo tụt tất cả các quần thể người và đẩy Homo sapiens đến chỗ tuyệt chủng.
Các nhà sinh học đã vạch trần thuyết chủng tộc của Đức quốc xã. Đặc biệt, nghiên cứu di truyền được tiến hành sau năm 1945 đã chứng minh rằng không có mấy sự khác biệt giữa các giống người so với những gì Đức quốc xã mặc nhiên công nhận. Nhưng những kết luận này còn tương đối mới. Với nền tảng của tri thức khoa học những năm 1933, niềm tin của Đức quốc xã hầu như không quá điên rồ. Sự tồn tại của các chủng tộc người khác nhau, tính ưu việt của chủng tộc da trắng, và sự cần thiết phải bảo vệ và nhân giống chủng tộc cao cấp này đã tồn tại rất phổ biến trong niềm tin của giới tinh hoa nhất phương Tây. Các học giả trong những trường đại học uy tín nhất của phương Tây, sử dụng các phương pháp khoa học chính thống vào thời đại đó, công bố các nghiên cứu được cho là đã chứng minh rằng những thành viên của chủng tộc da trắng là thông minh hơn, đạo đức hơn và giỏi chuyên môn hơn so với chủng tộc người châu Phi hoặc Ấn Độ. Các chính trị gia ở Washington, London và Canberra đương nhiên cho rằng đó là sứ mệnh của họ để ngăn chặn việc xâm nhập và thoái hoá của các chủng tộc da trắng, bằng cách như hạn chế nhập cư từ Trung Quốc hoặc thậm chí Italy tới các quốc gia “Arya” như Mỹ và Úc.
Các tôn giáo nhân văn – các tôn giáo sùng bái nhân tính
Chủ nghĩa nhân văn tự do
Chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa nhân văn tiến hoá
Homo sapiens có một bản chất độc đáo và thiêng liêng, khác hẳn với bản chất của các loài sinh vật và các hiện tượng khác. Sự tốt đẹp tối thượng chính là sự tốt lành của nhân tính.
“Nhân tính” mang nghĩa cá nhân và tồn tại trong mỗi cá nhân Homo sapiens.
“Nhân tính” mang nghĩa tập thể và tồn tại bên trong loài Homo sapiens như một toàn thể.
“Nhân loại” là một loài có thể bị biến đổi. Con người có thể bị suy thoái thành giống nòi kém cỏi hoặc tiến hoá thành những cá nhân siêu việt.
Điều răn tối thượng là bảo vệ cái lõi bên trong và sự tự do của mỗi cá nhân Homo sapiens.
Điều răn tối thượng là bảo vệ sự công bằng trong thế giới Homo sapiens.
Điều răn tối thượng là bảo vệ loài người khỏi sự thoái hoá thành những giống nòi kém cỏi, và khuyến khích sự tiến hoá của con người thành những cá nhân siêu việt.
Những nguyên tắc này không dễ dàng thay đổi chỉ vì nghiên cứu khoa học mới được công bố. Sự phát triển của xã hội học và chính trị học là những đầu kéo thay đổi mạnh mẽ hơn. Theo nghĩa này, Hitler không chỉ tự đào mộ cho mình mà còn tự đào mộ chôn chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nói chung. Khi phát động Thế chiến II, ông ta đã khiến các kẻ thù của mình tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa “chúng ta” và “chúng nó”. Sau đó, chính vì hệ tư tưởng quốc xã là vô cùng kỳ thị chủng tộc, nên nó đã bị bài xích ở phương Tây. Nhưng thay đổi cần có thời gian. Người da trắng ưu việt vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong nền chính trị Mỹ, ít nhất cho đến những năm 1960. Chính sách của người Úc da trắng trong đó hạn chế nhập cứ đối với người da màu đến Úc vẫn có hiệu lực cho tới năm 1973. Thổ dân Úc đã không nhận được quyền lợi chính trị công bằng cho tới những năm 1960, và hầu hết đã bị ngăn cản đi bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử vì họ bị coi là không phù hợp với vai trò công dân.
Hình 29. Một poster tuyên truyền của Đức quốc xã cho thấy phía trên bên phải là một “người Arya thuần chủng” và bên trái là một “con lai”.
Việc Đức quốc xã ngưỡng mộ cơ thể của con người là điều hiển nhiên, giống như nỗi sợ hãi của họ rằng những chủng tộc thấp kém hơn có thể làm ô uế và gây ra sự thoái hoá đối với loài người.
Đức quốc xã không thù ghét nhân loại. Họ chống lại chủ nghĩa nhân văn tự do, nhân quyền và chủ nghĩa cộng sản chính bởi họ khâm phục con người và tin tưởng vào tiềm năng to lớn của loài người. Nhưng theo logic tiến hoá của Darwin, họ lập luận rằng chọn lọc tự nhiên phải được phép loại bỏ những cá nhân không thích hợp, và chỉ để những cá nhân thích nghi tốt nhất được sống sót và sinh sản. Bằng việc giúp đỡ những cá thể yếu, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản không chỉ cho phép các cá nhân không thích hợp được tồn tại, mà còn cho họ cơ hội thực sự để sinh sản, do đó phá hoại chọn lọc tự nhiên. Trong một thế giới như vậy, những người thích nghi tốt nhất sẽ không tránh khỏi bị chết chìm trong một biển những cá thể thoái hoá không thích nghi được. Loài người sẽ trở nên kém thích nghi hơn qua từng thế hệ – cuối cùng có thể dẫn đến tuyệt chủng.
Hình 30. Một tranh vẽ của Đức quốc xã năm 1933. Hitler được diễn tả như một nhà điêu khác, người tạo ra các siêu nhân. Một trí thức tự do đeo kính đứng cạnh bàng hoàng trước bạo lực cần có để tạo ra siêu nhân. (Lưu ý sự vinh danh mang tính khơi gợi về cơ thể con người).
Một cuốn sách giáo khoa sinh học bằng tiếng Đức xuất bản năm 1942 giải thích trong một chương về “Các quy luật của tự nhiên và nhân loại”, rằng quy luật tự nhiên tối cao là tất cả các loài đang bị kiểm tỏa trong một cuộc đấu tranh không thương xót để giành giật sự sống. Sau khi mô tả cách thức các loài thực vật đấu tranh để giành lãnh thổ, cách thức loài bọ cánh cứng đấu tranh để tìm kiếm bạn tình, vân vân, cuốn sách kết luận:
Cuộc chiến sinh tồn thực sự khó khăn và không hề khoan nhượng, nhưng đó là cách duy nhất để duy trì sự sống. Cuộc chiến này loại bỏ mọi thứ không thích hợp với cuộc sống, và chọn ra mọi thứ có khả năng sống sót… Những quy luật tự nhiên là không thể đảo ngược; các sinh vật sống chứng minh các quy luật này bằng chính sự sống còn của mình. Chúng không hề khoan nhượng. Những kẻ chống đối lại chúng sẽ bị xóa sổ. Sinh học không chỉ cho chúng ta biết về động vật và thực vật, mà còn cho chúng ta thấy những quy luật cần tuân thủ trong cuộc sống này, và rèn giũa ý chí của mình để sống và chiến đấu theo những quy luật đó. Ý nghĩa của cuộc sống là một cuộc đấu tranh. Khốn thay cho những kẻ tội lỗi dám chống lại những quy luật này.
Tiếp theo đó là một trích dẫn từ Mein Kampf. “Người nào cố gắng chống lại logic sắt của tự nhiên, nghĩa là chống lại các nguyên tắc mà anh ta phải cảm ơn vì được sống như một con người. Chiến đấu chống lại tự nhiên là mang về sự hủy diệt cho chính mình”.
Vào buổi bình minh của thiên niên kỷ 3, tương lai của chủ nghĩa nhân văn tiến hoá rất mờ mịt. Đã 60 năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh chống lại Hitler, sự nối kết giữa chủ nghĩa nhân văn với tiến hoá và chủ trương dùng biện pháp sinh học để “nâng cấp” Homo sapiens vẫn là điều cấm kị. Nhưng ngày nay các dự án này đang thịnh hành trở lại. Không ai nói về khả năng tiêu diệt những chủng tộc thấp hèn hoặc những nhóm người kém cỏi hơn, nhưng rất nhiều người đang cố gắng vận dụng kiến thức sinh học ngày càng gia tăng về con người để tạo ra những siêu nhân.
Đồng thời, một hố sâu khổng lồ được mở ra giữa các nguyên lý của chủ nghĩa tự do cá nhân và những phát hiện mới nhất của khoa học đời sống, một hố sâu mà chúng ta không thể lờ đi được nữa. Hệ thống chính trị và tư pháp tự do của chúng ta được thành lập dựa trên niềm tin rằng mỗi cá nhân có một bản chất bên trong thiêng liêng, không thể phân chia và bất biến, mang lại ý nghĩa cho thế giới, và đó là nguồn gốc của tất cả các uy quyền đạo đức và chính trị. Đây là một hoá thân của niềm tin Ki-tô truyền thống rằng có một tâm hồn tự do và vĩnh cửu ẩn giấu trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong hơn 200 năm qua, khoa học đời sống đã tàn phá triệt để niềm tin này. Các nhà khoa học nghiên cứu hoạt động bên trong cơ thể con người không tìm thấy linh hồn đó. Càng ngày, họ càng cho rằng hành vi của con người được xác định bởi các hoóc-môn, gen và khớp thần kinh, chứ không phải là ý chí tự do – chính những sức mạnh này cũng xác định hành vi của tinh tinh, chó sói, và kiến. Hệ thống tư pháp và chính trị của chúng ta đã rất nỗ lực để chôn giấu những khám phá bất tiện dưới tấm thảm. Nhưng thật thà mà nói, liệu chúng ta có thể giữ vững bức tường ngăn cách giữa ngành sinh học với ngành luật và khoa học chính trị bao lâu nữa?
13
BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG
Thương mại, các đế quốc và các tôn giáo phổ quát cuối cùng đã đưa gần như tất cả Sapiens trên mọi lục địa đến với thế giới toàn cầu mà chúng ta đang sống ngày nay. Quá trình mở rộng và hợp nhất này không đi theo một con đường tuyến tính và cũng không phải không có những lúc gián đoạn. Tuy nhiên, nhìn vào bức tranh toàn cảnh, ta sẽ thấy quá trình chuyển đổi từ nhiều nền văn hoá nhỏ thành một vài nền văn hoá lớn, và cuối cùng thành một xã hội toàn cầu duy nhất có lẽ là một kết quả tất yếu của những động lực lịch sử loài người.
Nhưng nếu nói một xã hội toàn cầu là tất yếu, thì không đồng nghĩa với việc cho rằng kết quả cuối cùng phải là một hình thái xã hội toàn cầu cụ thể như chúng ta hiện có. Chúng ta hẳn có thể tưởng tượng đến những kết quả khác. Tại sao tiếng Anh hiện nay lại quá phổ biến mà không phải là tiếng Đan Mạch? Tại sao lại có khoảng 2 tỉ tín đồ Ki-tô và 1,25 tỉ tín đồ Hồi giáo, nhưng chỉ có 150.000 tín đồ Bái hỏa giáo, và không còn tín đồ Mani giáo nào? Nếu chúng ta có thể lội ngược lại thời gian về 10.000 năm trước và thiết lập lại quá trình, thì qua thời gian, có phải chúng ta luôn thấy sự nổi lên của độc thần giáo và sự suy tàn của tín ngưỡng nhị nguyên?
Chúng ta không thể làm một thí nghiệm như thế, cho nên chúng ta không thực sự biết chắc. Nhưng một khảo sát về hai đặc điểm quan trọng của lịch sử có thể cung cấp cho chúng ta một số manh mối.
1. Sai lầm của nhận thức muộn màng
Mỗi giai đoạn trong lịch sử đều là một giao lộ. Từ quá khứ đến hiện tại chỉ có một con đường duy nhất, nhưng đến tương lai thì có vô số những ngả rẽ. Một số con đường to hơn, bằng phẳng hơn, được chỉ dẫn tốt hơn, và như thế có lẽ sẽ được nhiều người chọn hơn, nhưng đôi khi lịch sử – hoặc những người làm nên lịch sử – lại đi theo những ngả rẽ bất ngờ.
Vào đầu thế kỷ 4, Đế chế La Mã đối mặt với nhiều lựa chọn tôn giáo. Nó có thể vẫn trung thành với thuyết đa thần truyền thống và đa sắc màu của mình. Nhưng hoàng đế của nó, Constantine, khi nhìn lại một thế kỷ nội chiến tương tàn, dường như đã cho rằng một tôn giáo duy nhất với một lý thuyết rõ ràng có thể giúp thống nhất vương quốc đa sắc tộc của mình. Ông có thể chọn bất kỳ giáo phái đương thời nào làm tín ngưỡng quốc gia: Mani giáo, Mithras giáo, những giáo phái thờ thần Isis hay Cybele, Bái hỏa giáo, Do Thái giáo và kể cả Phật giáo, tất cả đều là những lựa chọn sẵn sàng. Nhưng tại sao ông lại chọn Chúa Jesus? Phải chăng thần học Ki-tô có cái gì đó thu hút con người ông, hay phải chăng một khía cạnh nào đó của nó khiến ông đồ rằng dễ dùng nó làm phương tiện cho những mục đích của mình? Có phải ông đã có một trải nghiệm tôn giáo, hay phải chăng đã có một vài vị cố vấn cho ông gợi ý rằng tín đồ Ki-tô rất nhanh kết nạp tín đồ, và tốt nhất nên vào cùng hội đó? Các sử gia có thể suy đoán, nhưng không thể đưa ra bất kỳ câu trả lời dứt khoát nào. Họ có thể mô tả làm thể nào Ki-tô giáo lại thống trị Đế chế La Mã, nhưng họ không thể giải thích được tại sao chính khả năng cụ thể ấy lại trở thành hiện thực.
Giữa mô tả “làm thế nào’’ và giải thích “tại sao” có sự khác biệt như thế nào? Mô tả “làm thế nào” có nghĩa là dựng lại hàng loạt những sự kiện cụ thể dẫn dắt từ điểm này đến điểm khác; giải thích “tại sao” có nghĩa là tìm những mối liên hệ nhân quả lý giải cho sự xuất hiện của các chuỗi sự kiện cụ thể này và việc loại trừ tất cả những chuỗi sự kiện khác.
Một số học giả trên thực tế đã đưa ra những giải thích tất định về các sự kiện, chẳng hạn sự nổi lên của Ki-tô giáo. Họ cố gắng quy giản lịch sử loài người về hoạt động của các lực sinh học, sinh thái, hay kinh tế. Họ lập luận rằng có một vài khía cạnh nào đó về địa lý, di truyền học, hay kinh tế của Địa Trung Hải thuộc Đế chế La Mã là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự nổi lên của một tôn giáo độc thần. Thế nhưng, hầu hết các sử gia đều có xu hướng hoài nghi những thuyết tất định như vậy. Đây là một trong những biểu hiện nổi bật của lịch sử với tư cách là một ngành học thuật – bạn càng hiểu nhiều về một giai đoạn lịch sử cụ thể nào đó, càng khó giải thích tại sao những điều ấy lại xảy ra theo hướng này mà không phải là hướng kia. Những người chỉ biết nói khơi khơi về một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó thì thường có xu hướng chỉ chú tâm vào những khả năng mà rốt cuộc sẽ trở thành hiện thực. Họ đưa ra một câu chuyện trơn tru để lý giải hậu kỳ về việc tại sao kết quả đó là không tránh khỏi. Những ai nắm sâu hơn về giai đoạn lịch sử này sẽ biết rõ hơn về những con đường mà lịch sử đã không đặt bước lên.
Thực tế, những ai am tường về một giai đoạn lịch sử – chứng nhân đã sống ở thời điểm đó – lại chính là những người mơ hồ nhất. Đối với người La Mã bình dân trong thời đại Constantine, tương lai là một màn sương mù. Đã thành quy luật sắt trong lịch sử, những gì mà trong nhận thức muộn màng người ta cho là không thể tránh khỏi, thì vào thời điểm đó không hiển nhiên như vậy. Ngày nay cũng vậy. Có phải chúng ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hay là điều tồi tệ nhất vẫn còn chưa tới? Có phải Trung Hoa sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi trở thành một siêu cường hàng đầu? Có phải Mỹ sẽ đánh mất quyền bá chủ của mình? Có phải sự bùng lên đột ngột của trào lưu độc thần giáo chính thống là một làn sóng của tương lai, hay chỉ là một xoáy nước ngắn ngủi cục bộ địa phương? Chúng ta đang tiến đến thảm họa sinh thái hay thiên đường về khoa học kĩ thuật? Người ta đưa ra nhiêu lập luận sắc bén để biện minh cho tất cả những kết quả này, nhưng không có cách nào để biết chắc chắn. Trong mấy thập kỷ tới, người ta sẽ nhìn lại và nghĩ lại về câu trả lời cho tất cả các câu hỏi trên thật rõ ràng.
Việc nhấn mạnh rằng những khả năng mà người đương đại dường như rất khó nhận ra lại thường trở thành hiện thực, là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi Constantine lên ngồi nám 306, Ki-tô giáo chỉ nhỉnh hơn một giáo phái bí truyền phương Đông một chút. Nếu bạn cho rằng khi đó nó sắp trở thành quốc giáo của La Mã, bạn sẽ bị cười thối mũi, cũng giống như ngày hôm nay, nếu bạn cho rằng đến năm 2030, Hare Krishna sẽ là quốc giáo của Mỹ. Tháng Mười năm 1913, Bolshevik là một phần tử cực đoan nhỏ tại Nga. Không một người biết phải trái nào lại dự đoán rằng chỉ trong vòng bốn năm họ sẽ nắm quyền kiểm soát đất nước. Vào năm 600, nếu nhận định rằng một toán người Ả-rập ngụ cư ở sa mạc sẽ sớm chinh phục dải đất rộng trải dài từ Đại Tây Dương sang Ấn Độ, thì đó sẽ là nhận định thậm chí còn ngớ ngẩn hơn. Thật vậy, nếu quân đội Byzantine có thể đẩy lùi sự tấn công dữ dội ban đầu, Hồi giáo có lẽ sẽ vẫn là một giáo phái bí hiểm mà chỉ có một số ít chuyên gia mới biết đến nó. Những học giả khi ấy có thể dễ dàng lý giải tại sao một tín ngưỡng dựa trên sự mặc khải cho một thương gia Mecca trung niên lại không bao giờ trở nên phổ biến.
Không phải mọi thứ đều có thể. Các lực địa lý, sinh học và kinh tế tạo ra những ràng buộc. Tuy nhiên, những ràng buộc này vẫn để lại nhiều chỗ trống cho những phát triển bất ngờ, những điều dường như không bị ràng buộc bởi bất kỳ định luật tất định nào.
Kết luận này làm thất vọng nhiều người vốn thích lịch sử là tất định. Thuyết tất định có tính hấp dẫn, bởi nó hàm ý rằng thế giới và những niềm tin của chúng ta là sản phẩm tự nhiên và là tất yếu lịch sử. Việc chúng ta sống trong những quốc gia dân tộc, tổ chức nền kinh tế của chúng ta theo những nguyên tắc tư bản, và tin tưởng nhiệt thành vào nhân quyền là điều tự nhiên và tất yếu. Thừa nhận rằng lịch sử không có tính tất định, chính là thừa nhận rằng việc hầu hết mọi người ngày nay tin tưởng vào chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản và nhân quyền chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Lịch sử không thể được lý giải một cách tất định cũng như không thể dự đoán trước được, vì nó có tính hỗn độn. Rất nhiều lực đang cùng tác động và những tương tác của chúng phức tạp đến nỗi chỉ cần những thay đổi cực kỳ nhỏ trong cường độ của những lực này và cách chúng tương tác với nhau, cũng tạo ra những kết quả khác biệt vô cùng. Không chỉ vậy, lịch sử còn được gọi là một hệ thống hỗn độn “cấp hai”. Các hệ thống hỗn độn có hai cấp độ. Hỗn độn cấp một là hỗn độn không phản ứng với những dự đoán về nó. Ví dụ, thời tiết là một hệ thống hỗn độn cấp một. Tuy nó bị chi phối bởi vố số yếu tố, song chúng ta có thể xây dựng những mô hình máy tính xử lý nhiều biến hơn và đưa ra những dự báo thời tiết ngày càng chính xác hơn.
Hỗn độn cấp hai là hỗn độn có phản ứng với những dự đoán về nó, và do đó không bao giờ có thể tiên đoán được chính xác. Ví dụ, thị trường là một hệ thống hỗn độn cấp hai. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xây dựng một chương trình máy tính dự đoán giá dầu ngày mai với độ chính xác 100%? Giá dầu sẽ lập tức phản ứng với tiên đoán này, và dự báo không thể trở thành hiện thực. Nếu giá dầu hiện thời là 90 đô-la một thùng, và một chương trình máy tính chính xác tuyệt đối dự đoán rằng ngày mai nó sẽ lên 100 đô-la, các nhà đầu tư sẽ đổ xô đi mua dầu để trục lợi từ giá được dự báo tăng. Kết quả là giá sẽ tăng vọt lên 100 đô-la một thùng ngay hôm nay chứ không phải ngày mai. Vậy, những gì sẽ xảy ra vào ngày mai? Không ai biết.
Cũng như vậy, chính trị là một hệ thống hỗn độn cấp hai. Nhiều người chỉ trích các nhà Xô-viết học đã không tiên đoán được cuộc cách mạng năm 1989, và khiển trách nặng nề những nhà nghiên cứu Trung Đông vì đã không lường trước được những cuộc cách mạng Mùa xuân Ả-rập năm 2011. Điều này thật không công bằng. Các cuộc cách mạng, theo định nghĩa, là điều không thể đoán trước được. Một cuộc cách mạng đoán trước được thì sẽ khống bao giờ nổ ra.
Tại sao không? Hãy tưởng tượng đó là năm 2010, và một số nhà khoa học chính trị thiên tài móc ngoặc với một tay phù thủy máy tính để phát triển một thuật toán chính xác tuyệt đối, mà khi kết hợp với một giao diện hấp dẫn có thể bán ra thị trường như một phần mềm dự đoán cách mạng. Họ bán dịch vụ của mình cho Tổng thống Hosni Mubarak của Ai Cập để đổi lấy một khoản tiền hậu hĩnh, ngầm báo cho Mubarak biết rằng theo dự đoán của họ, một cuộc cách mạng chắc chắn sẽ bùng nổ ở Ai Cập vào năm tiếp theo. Mubarak sẽ phản ứng thế nào? Khả năng cao là ông sẽ ngay lập tức giảm thuế, đem hàng tỉ đô-la phát không cho các công dân của mình – và cũng cho tăng cường lực lượng cảnh sát chìm để phòng xa. Những biện pháp đón đầu này đã thành công. Mỗi năm đến rồi đi, và thật bất ngờ, không có cuộc cách mạng nào. Mubarak đòi lại tiền. “Thuật toán của các ông thật vô giá trị!” Ông hét lên với những nhà khoa học. “Lẽ ra tôi đã có thể xây một cung điện khác, thay vì đem tiêu tất cả số tiền đó!” “Nhưng cách mạng đã không xảy ra là vì chúng tôi đã dự đoán nó”, các nhà khoa học bào chữa. “Nhà tiên tri là người dự đoán những điều không xảy ra ư?” Mubarak vừa nói vừa ra hiệu cho cận vệ bắt giữ họ. “Tôi có thể kiếm được hàng tá những kẻ như thế với giá gần như cho không ngoài chợ Cairo”.
Vậy tại sao lại nghiên cứu về lịch sử? Không giống như vật lý hay kinh tế, lịch sử không phải là phương tiện để đưa ra những dự đoán chính xác. Chúng ta nghiên cứu lịch sử không phải để biết tương lai, mà để mở rộng chân trời hiểu biết của mình, để hiểu rằng tình trạng hiện nay của chúng ta không phải do tự nhiên, cũng không phải do tất yếu, và kết quả là chúng ta có nhiều lựa chọn hơn mình tưởng. Ví dụ, nghiên cứu việc người châu Âu đã thống trị người châu Phi như thế nào giúp chúng ta nhận ra, rằng không có gì là tự nhiên hay tất yếu về sự phân biệt chủng tộc, và rằng thế giới lẽ ra cũng có thể được sắp xếp theo một cách khác.
2. Nữ thần sử họcmù lòa
Chúng ta không thể giải thích những lựa chọn của lịch sử, nhưng chúng ta có thể nói điều gì đó rất quan trọng về chúng: những lựa chọn của lịch sử đã không được quyết định vì lợi ích của con người. Hoàn toàn chưa có bằng chứng cho thấy hạnh phúc của con người nhất định được cải thiện theo dòng lịch sử đang cuồn cuộn chảy. Không có bằng chứng cho thấy các nền văn hoá có ích cho con người nhất định phải thành công và lan rộng, còn những nền văn hoá ít có lợi hơn thì biến mất. Không có bằng chứng cho thấy Ki-tô giáo là một lựa chọn tốt đẹp hơn so với Mani giáo, hay Đế chế Ả-rập thì tốt hơn so với Đế chế Sasanid của người Ba Tư.
Không có bằng chứng nào cho thấy lịch sử đang vận hành vì lợi ích của con người, vì chúng ta thiếu một cái cân khách quan để đo đếm những lợi ích như vậy. Các nền văn hoá khác nhau định nghĩa về chân thiện mĩ khác nhau, và chúng ta không có thước đo khách quan để xét đoán chúng. Dĩ nhiên, kẻ chiến thắng luôn tin rằng định nghĩa của họ là chính xác. Nhưng tại sao chúng ta phải tin theo kẻ chiến thắng? Tín đồ Ki-tô tin rằng chiến thắng của Ki-tô giáo trước Mani giáo là có lợi cho loài người, nhưng nếu chúng ta không chấp nhận thế giới quan của Ki-tô giáo thì chẳng có lý do gì để đồng ý với họ. Tín đồ Hồi giáo tin rằng sự sụp đổ của Đế chế Sassanid trước người Hồi giáo đã mang lại lợi ích cho loài người. Nhưng những lợi ích này chỉ hiển nhiên khi chúng ta chấp nhận thế giới quan Hồi giáo. Rất có thể nhân loại sẽ tốt đẹp hơn nếu cả Ki-tô giáo và Hồi giáo đều rơi vào lãng quên, hoặc bị đánh bại.
Ngày càng có nhiều học giả xem văn hoá như là một căn bệnh nhiễm trùng hay ký sinh trên não, còn con người là vật chủ vô thức của nó. Ký sinh trùng hữu cơ, như virus, sống trong cơ thể vật chủ của chúng. Chúng sinh sôi nảy nở và lan truyền từ vật chủ này sang vật chủ khác, lấy dinh dưỡng từ vật chủ, làm họ bị suy kiệt, và thậm chí giết chết họ. Miễn là vật chủ sống đủ lâu để lây truyền ký sinh trùng, còn ký sinh trùng thì chẳng quan tâm mấy đến tình trạng của vật chủ. Giống như cách này, tư tưởng văn hoá sống bên trong trí óc con người. Chúng sinh sôi nảy nở và lây truyền từ vật chủ này sang vật chủ khác, đôi khi làm suy kiệt vật chủ, và có lúc giết chết họ. Một tư tưởng văn hoá – chẳng hạn niềm tin vào thiên đường Ki-tô giáo trên những đám mây – có thể thôi thúc một người dành cả đời mình cho sứ mạng truyền bá tư tưởng đó, cho dù phải đánh đổi bằng mạng sống. Người thì chết, nhưng tư tưởng thì nhân rộng. Theo cách tiếp cận này, các nền văn hoá không phải là những âm mưu được một số người dựng lên để lợi dụng người khác. Đúng hơn, văn hoá là những ký sinh trùng trên não xuất hiện ngẫu nhiên và sau đó lợi dụng tất cả những người bị chúng lây nhiễm.
Cách tiếp cận này đôi khi được gọi là thuyết meme.* Nó giả định rằng, giống như việc quá trình tiến hoá hữu cơ dựa trên sự sao chép các đơn vị thông tin hữu cơ được gọi là “gene”, tiến hoá văn hoá dựa trên sự sao chép các đơn vị thông tin văn hoá thì được gọi là “meme”.Những văn hoá thành công là những văn hoá nổi trội trong việc tái sinh các meme của chúng, bất chấp những chi phí và lợi ích đối với các vật chủ là con người.
Hầu hết các học giả ngành nhân văn đều xem nhẹ thuyết meme, cho rằng nó chỉ là một nỗ lực nghiệp dư nhằm giải thích các quá trình văn hoá bằng những phép ngoại suy sinh học thô sơ. Nhưng nhiều người trong số đó lại bám lấy anh em sinh đôi của thuyết này – chủ nghĩa hậu hiện đại. Những nhà tư tưởng hậu hiện đại nói về các diễn ngôn không phải meme như những khối gạch xây nên văn hoá. Tuy nhiên, họ cũng thấy văn hoá tự truyền bá đi khắp nơi nhưng lại ít quan tâm đến lợi ích của loài người. Ví dụ, các nhà tư tưởng hậu hiện đại mồ tả về chủ nghĩa dân tộc như một bệnh dịch chết người lấy lan khắp thế giới trong thế kỷ 19 và 20, gây ra chiến tranh, áp bức, thù hận và diệt chủng. Thời khắc mà người dân của một quốc gia bị lây nhiễm virus đó, người dân ở những quốc gia láng giềng cũng có thể bị lây nhiễm theo. Virus chủ nghĩa dân tộc mặc nhận nó có lợi cho loài người, thế nhưng nó chỉ mang lại lợi ích chủ yếu cho chính nó.
Những lập luận tương tự cũng phổ biến trong các ngành khoa học xã hội, dưới sự bảo hộ của lý thuyết trò chơi. Lý thuyết trò chơi giải thích việc làm thế nào mà trong những hệ thống nhiều người chơi, các quan điểm và mô hình hành vi gây tổn hại cho tất cả người chơi lại vẫn xoay xở để bén rễ và lan rộng. Chạy đua vũ trang là một ví dụ mà ai cũng biết. Nhiều cuộc chạy đua vũ trang đã làm phá sản tất cả những người tham gia, mà không thực sự làm thay đổi được cán cân quyền lực quân sự. Khi Pakistan mua máy bay hiện đại, Ấn Độ cũng đáp lại. Khi Ấn Độ phát triển bom nguyên tử, Pakistan cũng theo gót. Khi Pakistan mở rộng lực lượng hải quân, Ấn Độ cũng phản pháo. Và kết thúc quá trình, cán cân quyền lực có thể vẫn như cũ, nhưng hàng tỉ đô-la thay vì được đầu tư vào giáo dục hay y tế, lại bị tiêu hao vào vũ khí. Tuy nhiên, động lực chạy đua vũ trang thật khó cưỡng lại. “Chạy đua vũ trang” là một mô hình hành vi có thể tự lan truyền như một loại virus, từ nước này sang nước khác, làm tổn hại đến tất cả mọi người, nhưng có lợi cho mình nó, theo những tiêu chuẩn tiến hoá của tồn tại và sinh sản. (Nhớ rằng một cuộc chạy đua vũ trang giống như một gen vô thức – nó không chủ đích tìm cách tồn tại và sinh sản. Sự nhân rộng của nó là kết quả không chủ đích của một động lực mạnh mẽ).
Bất kể bạn gọi nó là gì – lý thuyết về trò chơi, chủ nghĩa hậu hiện đại, hay thuyết meme – những động lực của lịch sử không hướng đến việc nâng cao đời sống con người. Không có cơ sở để nghĩ rằng những nền văn hoá thành công nhất trong lịch sử nhất thiết phải là những nền văn hoá tốt nhất cho Homo sapiens. Giống như sự tiến hoá, lịch sử xem nhẹ hạnh phúc của các sinh vật riêng lẻ. Và cá nhân con người, về phần mình, thường quá ngu muội và yếu đuối nên chẳng thể tác động đến tiến trình lịch sử theo hướng có lợi cho họ.
Lịch sử đi từ một giao lộ này đến một giao lộ kế tiếp, vì những lý do khó hiểu nào đó, lựa chọn đi theo hướng này trước tiên, rồi mới đến hướng khác. Khoảng năm 1300, lịch sử đã có sự lựa chọn quan trọng nhất, thay đổi không chỉ số phận của loài người, mà có thể là số phận của tất cả sự sống trên Trái đất. Chúng ta gọi đó là Cách mạng Khoa học. Nó bắt đầu ở Tây Âu, một bán đảo lớn ở phía cực tây của Á-Phi, mà cho đến lúc đó không có vai trò quan trọng đặc biệt nào trong lịch sử. Vì sao Cách mạng Khoa học bắt đầu ở đó chứ không phải những nơi khác, và tại sao không ở Trung Hoa hay Ấn Độ? Vì sao nó khởi thủy vào giữa thiên niên kỷ 2 chứ không phải là hai thế kỷ trước đó hay ba thế kỷ sau đó? Chúng ta không biết. Các học giả đã đưa ra hàng tá lý thuyết, nhưng không cái nào trong đó đặc biệt thuyết phục.
Lịch sử có một chân trời bao la những khả năng, và rất nhiều trong đó không bao giờ trở thành hiện thực. Ta có thể tưởng tượng lịch sử đi xuyên các thế hệ trong khi bỏ qua Cách mạng Khoa học, và cũng có thể tưởng tượng lịch sử mà không có Ki-tô giáo, không có Đế chế La Mã, và không có những đồng tiền vàng.