Số lần đọc/download: 1407 / 14
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Chương 5 -
T
hế là hai chiếc xe đò cũ rong ruổi theo nhau chở chúng tôi đến trại tị nạn Leamsing. Len lỏi qua những phố xá sầm uất, băng ngang những đồng ruộng phì nhiêu, hai con trâu máy càng lúc càng thở hồng hộc cố sức bò lên con đường dốc gồ ghề dẫn đến ngọn đồi cheo leo nằm dọc theo ven biển. Bên đường cây cỏ khô héo xác xơ, lèo tèo vài căn nhà lá trông trơ trọi và khôi hài như những người nộm đang khom mình giữa ruộng.
Cuộc hành trình hơn năm tiếng vòng qua những dãy đồi lởm chởm đất đá, giữa đám bụi đất mù mịt thỉnh thoảng xe lọt xuống ổ gà to tướng làm mọi người đang ngủ gà ngủ gật một phen hoảng vía. Cũng đôi khi có những nhánh cây đưa hẳn ra ngoài làm xe phải lách thật nhanh để tránh khiến mọi người bị dồn lại chồng cả lên nhau. Nhiều người mệt mỏi chẳng buồn há miệng nhưng một số thanh niên thiếu nữ hầu như quên hẳn mọi lo phiền vừa qua thừa dịp trêu ghẹo cười đùa nghiêng ngửa và nằm cả vào lòng nhau.
Tôi ngồi thu hẹp ở một góc sau lưng tài xế; ngang bên kia, Nguyện ôm Trường ngủ vùi. Từ lúc được đám thanh niên cõng từ ngoài bãi về cũng là lúc Nguyện làm mặt lạ với tôi. Vì tự ái nên tôi cố giữ gương mặt lạnh như tiền nhưng trong thâm tâm vẫn luôn tìm cách tạo cơ hội cho Nguyện đến gần làm lành. Tôi nghĩ trước một biến cố quá kinh khiếp thì người đàn ông ích kỷ hẹp hòi như Nguyện khó có thể bình thản chấp nhận ngay được. Nhưng càng có nhiều cơ hội, Nguyện càng làm eo và càng tìm cách hờ hững xa lánh tôi. Ngay cả đến bé Trường, Nguyện cũng muốn giữ độc quyền làm như chỉ có Nguyện mới xứng đáng làm cha của nó. Tại sao Nguyện không nghĩ rằng thằng bé tuy mang giòng máu của bố nhưng hình hài lại chính do tôi cưu mang, tác tạo? Vì vậy đâu phải chỉ có Nguyện mà tôi cũng có quyền thương yêu, ôm ấp cũng như có bổn phận và trách nhiệm phải uốn nắn thằng bé ngay từ hồi nhỏ. Tôi không muốn con tôi trở thành Nguyện thứ hai, thành thứ công tử sống thừa, con cháu của ông bà cai Hòa. Thương con, tôi không thể ôm nó vào lòng như Nguyện mà phải dọn sẵn cho nó một tương lai, một tương lai hoàn toàn không có hình ảnh heo gà chó mèo sống trà trộn chung với người. Ý tưởng chợt đến khiến tôi cười cay đắng. Ngày này sáu năm về trước tôi cũng đã từng nói như vậy để rồi nhu nhược yếu hèn và tình thương thể hiện không đúng chỗ đã giết chết tuổi hoa mộng của mình. Cũng có thể cả một cái xã hội nghèo đói trọng tiền khinh nghĩa đã cùng toa rập đè bẹp những người đàn bà với kiếp sống dở chết dở như tôi...
... Sáu năm trước cũng trên con đường gồ ghề cây cối mọc um tùm hai bên như những bóng ma trơi đuổi theo từng bước khi tôi vừa thoát chạy ra khỏi nhà. Tôi nhớ, nhớ rất rõ sau khi bị mẹ và chồng đánh, nhớ mùi xú uế xông ra kịp lúc đã cứu tôi thoát khỏi đám đông và bị vất vào phòng như con chó chết. Nỗi oán thù bốc lên tận đầu khiến tôi quên hết họ hàng giòng tộc, quên bố, quên mẹ, quên Hằng dù nó đã chết mà chỉ nhớ có một mầm sống vừa tiếp nhận hơi thở đang nằm trong bụng. Không thể sống suốt đời với cuộc sống nhục nhã thế này. Có con tôi phải sống khác. Tôi phải sống với trách nhiệm, nuôi dưỡng và bảo vệ nó.
Đêm xuống chờ cả nhà ngủ, tôi lén ôm quần áo đi tắm rồi mở cổng rào chạy trốn. Con đường từ nhà đến Xóm Củi dài ba cây số, về đêm không một bóng người qua lại ngoại trừ những con chó đi hoang thỉnh thoảng đuổi nhau rầm rập giữa đường. Chúng sủa, chúng cắn và chạy từng bầy như muốn biểu dương lực lượng hùng hậu với những chị chó cái còn bị xích trong rào. Ban đêm đời sống hầu như thích hợp với các loài vật; chúng hồn nhiên đùa giỡn với cây cỏ, say sưa tắm mình dưới trăng, reo hò với gió và bóng tối hầu như cũng đồng lõa với những thú vui bản năng.
Vài con mèo nằm trên mái nhà cất tiếng kêu ngao ngao giọng khản đặc như chế nhạo hình hài thô bỉ tất tưởi và lạ lẫm của tôi. Tôi liếc nhanh xuống khoảng bụng vừa đủ căng chật chiếc áo bà ba lòng tự hỏi đó có phải là kết quả của ái ân? Nếu có tại sao tôi lại trốn chạy người tác tạo ra nó? Còn không, với thể xác không rung động tại sao đứa con lại được tạo hình? Đọc trong sách động vật hay thực vật cũng đều sinh sản giống nhau, có nghĩa là không cần sự rung động. Phấn của hoa cái gặp hoa đực sẽ tự động đơm bông kết trái và con người, trai gái ăn nằm không cần yêu thương đứa con vẫn có thể thành hình. Nếu quả thực như vậy thì đứa con trong bụng của những người mẹ chắc gì đã là chứng tích của hạnh phúc?
Chiếc bụng vừa u lên chứa giọt máu của Nguyện ngoài ý muốn, nó còn nhỏ, nhỏ lắm. Tội nghiệp con tôi, dù trai hay gái nó cũng không có những may mắn hoặc sung sướng như mấy đứa trẻ khác. Bỏ nhà ra đi chưa chắc tôi có thể tạo được cho con tôi một cuộc sống tinh thần khá hơn trong khi vật chất lại phải bôn ba xuôi ngược và điều thiệt hại nhất cho những đứa trẻ ra đời có mẹ mà không có cha. Trong xã hội này, giấy tờ khai sinh con cái mang họ mẹ là những đứa con hoang. Con hoang đều bị đời bạc đãi khinh miệt và những trẻ cùng tuổi xô đẩy xa lánh. Tương lai của con tôi bi thảm như thế nhưng ngược lại nếu bố nó là Nguyện thì cuộc đời nó sẽ ra sao? Tôi hoang mang lo sợ nhưng niềm đau thân xác vẫn mãnh liệt hơn cái viễn ảnh có bố hoặc không có bố. Dù thế nào cũng phải đi, tôi không thể mãi làm con nô lệ...
Tôi đến nhà Thanh Huyền trời đã gần sáng với áo quần dính đầy bụi và ướt đẫm mồ hôi. Từ Xóm Củi xuống nhà nó trên mười cây số, không dám gọi cyclo vì sợ lỡ nó không có tiền trả nên tôi cố gắng đi cho hết quãng đường dù biết là quá dài. Dưới ánh điện mờ hoặc khi băng qua những khúc đường tối, tôi cố men theo lề cắm cúi bước nhanh đốt ngắn thì giờ, thời gian đủ để tôi kiểm điểm lại tài hèn sức mọn của mình. Vẫn chưa có một tính toán nào nuôi dưỡng bản thân và dành dụm chút đỉnh tiền trước khi sanh nở.
- Mày điên quá Phượng ạ! Đi như vậy hư thai thì sao? Huyền lo lắng nhìn tôi.
- Càng tốt, chết con chết luôn cả mẹ.
- Đã vậy sao không nhào ra đường cho xe cán chết? Thật là hết khôn dồn đến dại...
Huyền đang chửi tôi. Mặc kệ, ai chửi thì cũng chỉ đến thế!
- Mày có gì cho tao ăn không?
Huyền đứng lên chiên quả trứng gà và hâm nóng tô cơm nguội đưa cho tôi:
- Bữa qua tao "trúng mánh" thành ra mua mấy ổ bánh mì thịt ăn nên cơm mới dư, gặp như mọi hôm chỉ có nước nhịn đói.
Mặc nó lải nhải giải thích, tôi lùa đũa cơm vào miệng. Ngon. Cả đêm tiêu phí bao nhiêu năng lực, giờ ăn vào để lấy sức trở lại.
- Tao phải ăn hai tô nữa mới đủ no. Lấy thêm đi Huyền.
- Sư khỉ, tao đã bảo hết rồi, chờ trưa nấu một lượt cho đỡ tốn.
Cơm nóng trôi xuống bao tử làm ấm cả ruột gan, bây giờ lời đay nghiến của nó mới lọt vào tai tôi.
- Mày sống no ấm đâu cần biết đến bạn bè khốn đốn.
- Ừ, no ấm lắm. No đến nỗi cái bụng ễnh tướng.
- Tao chả đùa đâu. Cả mấy tháng nay má tao đi theo bạn bè buôn huệ dưới lục tỉnh. Huyền tiếp tục than thở.
- Chuyện động trời. Tao không tin má mày dám bước chân ra khỏi nhà.
- Muốn ăn phải lăn vào bếp. Từ ngày dọn xuống chuồng chim cũng là ngày bị cắt luôn lương thực. Hai chị tao cũng khốn đốn lo cho gia đình họ còn chưa xong lấy đâu mà giúp đỡ. Mày xem nhà tao cả ba người lớn còn không lo nổi mà.
- Thằng em mày to xác thế mà cũng đành bó tay?
- Cả nước bó tay thì đúng hơn. Chiến tranh càng lúc càng lan rộng, dân chúng chạy loạn tứ tán chẳng ai còn thiết làm ăn. Thằng em tao khủng hoảng vì thời cuộc nên nghỉ học nửa chừng tạm thời mua đồng, nhôm, ve chai bán lại cho tụi chệt kiếm tiềm. Tao ở nhà mua sỉ bao ni lông của tụi con nít mang đến.
- Mua sỉ? Tôi ngạc nhiên quên hẳn hoàn cảnh cay đắng của mình.
- Ừ, tụi nhóc di tản từ miền trung vào trong này không có việc làm nên lê la ở những cống rãnh hoặc bới trong những đống rác tanh tưởi lượm giấy cũ và bao ni lông. Tao mua lại rồi rửa sạch phơi khô mang vào Chợ Lớn bán cho hãng.
Tôi nhìn Huyền bằng ánh mắt nghi hoặc.
- Mày không tin là đúng, rúc trong chĩnh gạo còn biết gì đến trời đất chung quanh. Giặc đã chiếm gần hết những tỉnh miền trung làm dân chúng di tản vào trong nam rần rần. Nghe họ đồn ông Thiệu đã cắt đất nhường cho họ chẳng biết có đúng thế không nhưng thiên hạ xôn xao và mình càng lúc càng đói thì cũng đâm hoảng. Dân miền quê đâu còn lòng dạ trồng trọt cày cấy cũng đổ xô lên Sài Gòn lánh nạn. Họ làm như gần dinh độc lập là sẽ an toàn nên đã đói lại càng đói thêm. Mày xem chung quanh đây toàn là những kẻ đang chết đói chết khát. Chết đến nơi rồi Phượng ạ!
Huyền nói một thôi một hồi như kẻ rành rẽ hiểu biết mọi chuyện thế sự rồi bỗng ngừng lại vài giây nhìn tôi:
- Thằng Nguyện đối xử tệ bạc hay sao mà mày phải trốn nhà đi vậy?
- Chuyện riêng giữa tao và cha mẹ chồng.
Tôi không dám kể tất cả ngọn ngành dẫu Huyền là bạn thân, dù sao chuyện kể xấu chồng con vẫn là một điều khó nói và khó nghe.
- Tưởng gì chứ cái đó là lẽ thường, đứa nào lấy chồng mà chẳng phải như vậy. Mày có ngon thì dọn nhà ra riêng...
Nó thao thao mang mấy cái triết lý cùn ra nhai cho đỡ buồn, hình như đã từ lâu nó không được nói nên khi nói mắt nó long lên sự cương quyết khác thường. Mới hơn nửa năm không gặp mà nó thay đổi khá nhiều, cằn cỗi, già dặn và cũng chững chạc hơn xưa.
- Sao mày trông bệ rạc vậy? Trời đất ơi... nó la lên khi nhìn kỹ bộ đồ tôi mặc trên người, rách kiểu gì mà ngộ há, lỗ chỗ như hoa rơi, lại còn hai ống quần...
Huyền đảo mắt nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên và dừng lại ở hai bàn tay chai sần của tôi rồi chợt nín lặng. Sự im lặng khiến cả hai sượng sùng nhìn nhau và tự dưng đâm ra xa lạ khách sáo. Hình như tôi vẫn cố tình giữ khoảng cách bằng sự che dấu.
- Ra nhà sau tắm đi Phượng, chuyện gì cũng để từ từ giải quyết. Còn hoàn cảnh gia đình tao thì mày cũng đã biết, chỉ sợ không chu đáo làm mày thất vọng.
Tôi thất vọng thật, ngay từ lúc vừa nuốt trôi tô cơm khỏi cổ. Nếu nó không trúng mánh như đã nói thì dù có là bạn bè thân thiết cách mấy tôi cũng vẫn phải nhịn đói. Cơm ăn vào thì thấy ngon nhưng sau đó biến thành những viên mật đắng ợ mãi trong miệng. Tôi cầm bộ đồ ngủ của Huyền băng qua khỏi chái sau. Nhà tắm lộ thiên vuông vức ghép ba mặt bằng những lá dừa khô cao gần tới ngực; cửa ra vào là một miếng nhựa kéo ngang dính đầy những ghét. Bên trong vỏn vẹn mỗi một phi nước đã cạn gần xuống đáy và chiếc gáo dừa với cán dài nằm chổng chơ. Dưới chân đứng, nền được kê cao bằng những thanh gỗ dẹp cách khoảng đủ nhìn rõ những con giun đang ngoi mình trong đống bùn nhầy nhụa. Huyền vén màn cửa đổ thêm thùng nước vừa mới kéo từ dưới giếng:
- Sống ở chuồng chim, không điện, không nước máy riết rồi cũng quen. Có chén xà bông bột để ở trên cao lấy mà gội đầu nếu không sợ rụng tóc. Quần áo vò tay không, đập cho sạch rồi phơi ở ngoài dây.
Người tôi bẩn của suốt đêm lội bộ nhưng vẫn không hứng thú gì khi nhìn nhìn phi nước đục ngầu vì cặn bị khuấy lên. Mùi xà bông hăng hắc của vùng Chợ Lớn chế tạo khiến ruột gan tôi lộn lạo buồn nôn. Không khăn tay khăn mặt, không vòi sen vòi nước, con Cám không có nước Cam Lồ rưới xuống để tẩy rửa ô uế mà ngồi xổm dội bằng gáo dừa với màu nước đục nhưng cũng cố gột rửa những trĩu nặng ưu phiền. Thực tế chung quanh và những cực khổ của bạn bè làm tôi chán ngẫm. Thì ra bao năm tháng tôi ngụp lặn trong ảo tưởng chỉ mơ những xa vời trong khi mọi người đang tranh sống. Giá trị của công việc làm đã khiến tôi thấy mình trở thành hèn mọn, ích kỷ. Từ ngày lấy chồng tôi chỉ ngồi âm thầm nguyền rủa bóng tối, than thở cho số kiếp gian truân lận đận, nuốt cay đắng nhịn nhục của cảnh làm dâu, làm vợ trong khi bên ngoài ai cũng ao ước cái địa vị tôi đang có. Sự đói khát làm quên nhân phẩm con người, như tôi, ai có thể nghĩ tôi đã ăn vụng củ khoai, nhón bốc thức ăn khi đang làm bếp? Có ai nghĩ rằng tôi đã cãi nhau để đi đến sự xô sát với chồng vì một miếng ăn, vì đĩa trứng gà của mình bị dằm nát? Và bây giờ chỉ vì chén cơm nguội mà Huyền lên án tôi sống sung sướng trong chĩnh gạo. Vừa lên án đó rồi chợt lại ngậm tăm khi thấy quần áo tôi rách nát nếu không muốn nói là sợ gánh nặng nếu phải đeo. Ôi cái giá trị con người ở chỗ đó. Kẻ đói khổ đánh giá trị con người qua đồng tiền bát gạo mà xã hội này có mấy ai giàu có dư ăn dư mặc như gia đình Nguyện?
Trong chĩnh gạo mốc tôi chỉ cảm nhận mùi vị khó nuốt chứ nào đã thực sự biết khổ là gì. Từ bao lâu tôi cố thắp ánh sáng trong tâm hồn dù với một hy vọng thật hãi sợ là thoát ly nhưng bây giờ sự hy vọng dù mỏng manh đó cũng đã tắt. Nó tắt chỉ vì cái giá trị hạnh phúc cho mỗi con người không phải chỉ có tôi mới thèm muốn. Kẻ giàu mơ ước thêm sự giàu có, sống hưởng thụ sao cho thật sung sướng, khác người. Gia đình Huyền, bà cô, ông chú đang tìm cách chuyển ngân sang ngoại quốc và chờ thế sự đảo lộn là xa chạy cao bay. Các tướng tá biết rõ vận mạng quốc gia nên vàng dồn chặt rương, quần áo chĩnh chạc sẵn sàng lên đường thoát nạn để ách cho những kẻ nghèo thấp cổ bé miệng, để bọn dân ngu ở lại làm tấm bình phong chống giữ mạng sống cho họ. Kẻ nghèo như Huyền, như những người đói khát chỉ cầu miếng ăn. Còn tôi kẻ đang đau khổ chỉ mong sao có được hạnh phúc và an bình trong tâm hồn. Con người ta ai cũng chất chứa đầy tham vọng và tham vọng nào cũng là cái túi không đáy.
- Mày có thể cho tao ở đây phụ rửa bao, nhặt giấy kiếm ngày hai bữa ăn đến khi sanh nở không? Tôi hỏi bằng một giọng thất vọng hoàn toàn.
- Khùng, bao ni lông bữa có bữa không; mày cũng có thể ăn bữa đói bữa no nhưng con mày, cái bào thai này thì không thể được. Nghe lời tao về đi, đừng vì tự ái cỏn con mà đày đọa nó. Gia đình không chứa mày thì chẳng còn chỗ nào có thể dung thân. Nếu ai thoát ly cũng có chỗ nương tựa thì làm gì có cảnh đĩ điếm, xã hội này đã chẳng nảy sinh ra những bất công nghèo đói...
Tôi không trách Huyền, nó thực tế như vậy là đúng. Nhà chỉ có ba người lớn mà không lo nổi miếng ăn thì chứa kẻ bầu bì như tôi còn hơn mang một của nợ. Suốt buổi sáng ngồi phụ nó rửa bao lòng tôi lo ngay ngáy. Từ lâu tôi chỉ đặt hy vọng có mỗi mình nó vì tin rằng những đứa nghèo sẽ dễ thông cảm và dễ sống ai ngờ đồng tiền đi liền ngay vào khúc ruột. Ruột đói đến nỗi anh em cũng còn tị nạnh miếng ăn thì nói gì bạn bè như tôi. Tôi thở dài khi chợt nghĩ đến chuyện tá túc nhà bố, càng không thể được vì bài học vừa xong ở nhà Huyền vẫn chưa làm tôi hết cay đắng. Chẳng ai muốn chứa của nợ trong nhà, nhất là dì Loan...
Buổi trưa Nguyện chở bố đến tìm. Không giải thích và không đợi Nguyện năn nỉ đến lần thứ nhì, tôi ra nhà sau thay bộ quần áo còn đang phơi trên dây trước đôi mắt ngỡ ngàng của bố, của cả hai thì đúng hơn. Tôi không nhận ra bố, ông thầu khoán Hoàng Báu ngày nào. Đã lâu không gặp, hơn ba tháng từ ngày Hằng chết, trông bố hoàn toàn lạ lẫm, vẻ hom hem tiều tụy và đôi mắt trũng sâu đã nói lên cuộc sống nội tâm bị khủng hoảng chưa từng thấy. Phải chăng những lúc gần đây sự xung đột giữa bố và dì xảy ra thường xuyên?
- Con làm gì mà áo quần ra nông nỗi này?
Tôi không trả lời nhưng bố đã đọc được tất cả sự thật qua ánh mắt tôi, một thiếu phụ tơi tả, khổ cực chưa từng thấy, một người vợ khô héo, èo ọt trong bể khổ tình yêu và một đứa con gái mất hẳn niềm vui sống. Nếu bố nhìn ra những lầm lẫn khi lựa chọn dì Loan thì có lẽ bố cũng đã nhìn thấy sự lầm lẫn của mình qua hình ảnh tôi đang mang. Tôi cũng chẳng khác gì bố ngoài trừ chiếc bụng gồ lên như đám trẻ đói khổ ở Phi Châu bụng õng đít beo. Bố nhìn tôi qua đôi mắt mở trừng đầy kinh hoảng trong khi tôi cố cắn răng cho khỏi bật tiếng khóc để bố đừng kết án thêm về hành động của mình xưa kia, một chuyện đã qua rồi.
- Anh Nguyện, để em nó ở trên tôi vài ngày cho tinh thần khuây khỏa rồi tôi bảo ban nó thêm.
Câu nói làm tôi giật mình. Sự khó khăn ép buộc ngày nào không còn, những cứng rắn lễ giáo bố cũng bỏ quên đâu mất. Tại sao bố lại có thể thay đổi một cách lạ lùng thế? Không lẽ bây giờ bố mới biết thương tôi và uy quyền của bố đã lấy lại nên không cần chờ lệnh của dì Loan? Không, tôi không tin, ngàn đời chẳng thể tin. Tôi nhìn lại bố như nghi ngờ ở tai mình và chợt thấy mủi lòng.
- Bố về nghỉ cho khoẻ vì con thấy bố cần tỉnh dưỡng hơn con.
Tôi nói bằng giọng nghẹn ngào vì thấy bố quá sa sút. Nội lương tâm hành hạ cũng đủ giết bố cần gì những lời tôi hờn trách. Sự giận hờn ngấm ngầm hoàn toàn tiêu tan, cho đến ngàn đời tôi vẫn không thể hờn trách bố cho dù bố sai trái mặc lòng. Có phải tôi là người dễ tha thứ hay tình thương đã làm con người trở thành mù loà?
- Phượng, bố có thể giúp gì được cho con?
Lời bố thống thiết như cố níu kéo phần nào sự hối hận đang dày vò. Tôi hạ thấp mắt tránh ánh nhìn đau khổ của bố và chợt lạnh người khi nhìn thấy đôi dép da bố đang mang nơi chân, nó đã mòn vẹt một bên bám đầy bụi đất với những móng dơ lười biếng cắt tỉa. Như vậy đôi giầy đã không còn nằm trên chân bố ít nhất cũng phải trên một tháng. Không đi giầy có nghĩa là bố đã lánh xa chốn ăn chơi, có nghĩa là tình trạng gia đình đã sa sút cùng cực.
- Cái xe hơi bố bán rồi phải không?
Bố không trả lời nhưng hai vai rung lên, chiếc áo sơ mi chao động làm nổi bật những lằn ố vàng và nhăn nhúm của sự lười biếng ủi. Nó cũng chứng tỏ phần nào sự thiếu vén khéo của bàn tay đàn bà. Tự dưng tôi buột miệng:
- Dì còn ở với bố không?
Bố biến hẳn sắc và khuôn mặt khô dúm lại:
- Sao con lại hỏi thế?
Không trả lời cũng như đã trả lời. Muộn rồi bố ơi, vậy là con không còn một cơ hội nào nữa hết. Dì Loan bỏ đi là chứng tích của sự sa sút tột cùng. Bố đã bị phá sản. Tiền mất, tình bố cũng mất, còn con muôn đời sống trong kiếp tôi đòi nô lệ. Xã hội này chỉ có thể nói chuyện với nhau bằng tiền bạc, không có tiền bố chẳng thể dùng lẽ phải buộc họ phải đối xử tốt với con gái mình.
- Phượng, bố thấy con yếu lắm. Cố gắng giữ gìn sức khoẻ.
Tôi muốn khóc quá, tại sao bố không bảo giữ gìn cái bào thai, dù gì nó cũng là cháu ngoại của bố cơ mà. Thì ra bố đã biết cảnh khốn khổ của con, biết mà không tỏ thái độ vì không còn khả năng? Người đàn bà gớm ghê đã lấy hết tiền bạc lại còn tước đoạt luôn cả uy quyền.
- Có phải dì trốn đi với chú Khánh không?
Hỏi xong tôi mới giật mình, còn bố mặt tối xầm lại:
- Con biết trước sao không nói cho bố?
Nếu bố biết từ dạo ấy, đời tôi chưa chắc đã thay đổi. Khi con người lụy tình bị phản bội, họ sẽ cố tìm đủ mọi cách chinh phục lại, một phần cũng để thỏa lòng tự ái. Muốn chinh phục người vợ sống bằng tiền chỉ mỗi cách gả tôi cho Nguyện hoặc một Nguyện thứ hai để đạt cùng mục đích. Bố tôi vừa học xong bài học đời, tiền học phí quá mắc nhưng bù lại đổi được cuộc sống bình lặng và có ý nghĩa hơn.
- Tuần tới bố phải dọn nhà về quê vì trước khi đi dì con mang giấy tờ căn nhà, vật cuối cùng cầm bán nốt. Không muốn vương vấn vì kỷ niệm với lại không tiền chuộc nên đành để họ lấy thôi.
Tôi đứng nhìn bố chết trân. Vở kịch làm vợ của dì đã hạ màn. Bẩy năm chung sống làm mưa làm gió, giờ gió đã lặng mưa đã ngừng.
- Con chúc mừng cho bố, cắt bỏ cánh tay đang mâng mủ tuy có đau đớn thật nhưng vẫn còn hơn để nó chạy độc hết vào người.
Tôi ôm bố đau xót cho người, cho mình và cho cảnh chia ly. Lúc ấy Nguyện nửa sượng sùng với bố vợ vì tôi quá rách nát tả tơi, nửa bàng hoàng vì sự sa sút mau chóng của một nhà thầu khoán vang bóng một thời. Và cũng hình như đang trầm ngâm suy nghĩ để sắp đặt một kế hoạch nói dối vĩ đại khi dẫn tôi về nhà trình diện cha mẹ. Dù gì tôi cũng phải về..
Xe dừng lại trên một bãi đất cao và trống, phía trong là hàng rào kẽm gai bao bọc những căn nhà lá mọc lởm chởm cái cao cái thấp nằm san sát dưới lòng thung lũng. Hai bên hai dốc đồi sừng sững như hai hung thần kênh kiệu lúc nào cũng chỉ muốn đè bẹp mạng sống con người. Cổng chính có lẽ là nơi chúng tôi đang đứng vì sợi xích sắt vòng qua hai lần thật kiên cố và ghê rợn chẳng khác gì nhốt những tù nhân chính trị. Nghe máy gọi có thêm một toán dân tị nạn đến tạm cư, mọi người trong trại ùa chạy ra dáo dác tìm người quen.
Trời đang choạng vạng tối nhưng đủ soi rõ từng khuôn mặt rạng rỡ nhìn qua dây rào kẽm. Tất cả đều nhốn nháo tuy vẫn đứng trong khoảng cách đã được ấn định rõ rệt. Tôi đưa mắt nhìn họ, xen lẫn những thân mình trần đen đủi của đám thanh niên đang sức ăn sức sống là đàn bà và đàn ông đứng tuổi với quần áo luộm thuộm đủ màu sắc của mọi nước viện trợ. Họ đứng hàng hai dọc theo lối vào như dàn thành một cổng chào vinh dự. Mà vinh dự thật, những kẻ đến đây là những kẻ sống sót từ cõi chết, người thoát trở về khi nào cũng thấy sự sống của mình giá trị và cần thiết.
Sau nửa giờ kiểm điểm và lập thủ tục nhập trại, cánh cổng sắt được mở ra. Tiếng kéo rít nặng nề nghiến trên những thanh sắt rỉ nghe rợn người như một đe dọa. Mặc, dù tụi lính Thái có đối xử tàn nhẫn với người dân tị nạn thế nào thì vẫn còn tốt lành hơn lũ cướp biển. Bằng chứng gần tuần lễ ở Rangsit bọn cảnh sát quá tốt, hơn cả sự tưởng tượng của chúng tôi. Ở đâu mà chẳng vậy, dân có người nọ người kia, lính cũng có trăm ngàn thứ lính, có người tốt kẻ xấu, có kẻ cướp bóc lại có những người chuyên bố thí.
Đèn trong đảo đã bật sáng, chúng tôi hàng một tiến vào trại giữa tiếng cười nói thăm hỏi niềm nở của mọi người. Vài người nhận ra bạn bè, quen biết kêu lên mừng rỡ, ôm nhau chảy cả nước mắt. Con đường đá từng bậc gồ ghề biến thành con đường hội ngộ vang đầy tiếng cười nói vui vẻ đưa chúng tôi xuống tận đình để ngủ qua đêm. Đình chứa được khoảng hơn một trăm người, là nơi hội họp hoặc chỗ tạm ở cho những người vừa nhập trại ngày đầu. Đình và nhà thờ tuy không nằm gần nhau nhưng khoảng sân rộng, gian nhà lớn và nóc tôn cao đã tách biệt tất cả mọi vật chung quanh. Sát cạnh trung tâm nhà thờ là dẫy nhà lá, vách phên cũ kỹ dựng lên cách đây đã ba năm. Lan dần ra chung quanh và ăn đến tận chân đồi, từng căn nhà mới nằm cách khoảng trông khang trang, sạch sẽ và thoáng khí hơn nhưng chỉ dành cho bọn thanh niên trai tráng ở, vừa để canh phòng tụi Thái đen đêm đêm hay lẻn vào bắt cóc con gái đem vô rừng hãm hiếp, vừa làm hàng rào kiên cố chận bắt bọn trộm cướp không cho thoát lên rừng.
Dân tị nạn ở đây, đầu năm 1980, trên dưới chưa được tám trăm người nhưng đàn bà, con gái và con nít đã chiếm hết hai phần ba. Phần còn lại đa số đã xung phong nhận lãnh công việc không công trong thư viện, bệnh xá, thông dịch cho các phái đoàn và ngay cả công tác cắt chia thịt cá được trợ cấp tuần hai lần do chính phủ Thái nhận lãnh từ nguồn tài trợ quốc tế phân phát cho dân tị nạn. Người ít, việc nhiều, cho nên sự canh chừng ban đêm chỉ còn lại khoảng năm mươi thanh niên lực lưỡng chia nhau xoay tua canh gác. Gọi là gác chứ cả hơn hai trăm căn nhà nằm choán hết gần thung lũng về đêm tràn ngập bóng tối, đứng cạnh còn khó thấy mặt nhau thì biết lối nào mà đuổi cướp. Đèn trong trại sau mười giờ là tự động bị cúp lấy cớ theo lệnh trên. Văn phòng Thái chỉ còn hai người ở lại để giải quyết những tệ trạng về đêm. Thực ra họ chỉ bù nhìn vì đôi khi bắt được trộm, cướp không nói rành rẽ tiếng Việt là dân ta cứ tự động nện thẳng tay, xử tại chỗ cho đích đáng chứ mang lên văn phòng chỉ thấy thêm những bất công và cảnh trái tai gai mắt bởi bọn chúng bênh vực và tự động cho nhau quyền tác yêu tác quái trên đám người tị nạn.
Dân sống trong thung lũng như đám tù lỏng. Trước mặt là hàng rào kẽm gai với cánh cổng sắt kiên cố dẫn đến con đường trống trơn cách chỗ dân bản xứ khoảng mười cây số rồi mới đến phố chợ. Mặt sau ăn thông ra biển, nối dài theo những gềnh đá lởm chởm thỉnh thoảng có những con thuyền tị nạn chạy một mạch từ Việt Nam sang thẳng Thái Lan táp vào. Đường biển là lối dễ vào nhưng khó ra nên bọn cướp chưa bao giờ dám dùng tàu lén vào đảo bắt cóc đàn bà. Có thể họ vẫn còn e dè chánh quyền địa phương và cũng có thể quá tốn kém thời giờ lẫn tiền bạc cho nên hai ngọn đồi hai bên đã vô tình đồng lõa với tội ác.
Vụ bắt cóc xảy ra hàng đêm một. Kẻ gặp nạn bị chúng thay phiên hãm hiếp mãi tờ mờ sáng mới được thả về bước thấp bước cao từ rừng lết vào trại. Việc phòng thủ càng lúc càng kỹ càng, người ta báo động cho nhau bằng cách chỉ cần người bị nạn la lên là lập tức nhà bên cạnh có bổn phận khua nồi niêu soong chảo, đập ầm ầm lên thùng phi hoặc đập gõ thế nào tạo tiếng động lớn đánh thức những người chung quanh. Nhà kế bên nghe tiếng động cũng đập, cũng khua và cứ thế chuyền sang những nhà khác. Dĩ nhiên bọn cướp dù có súng cũng phải bỏ con mồi mà mau chân chạy thoát vào rừng. Từ ngày có tiếng gõ giây chuyền thì vụ bắt cóc hãm hiếp đã bớt quá nửa, phần còn lại chỉ vì đang đêm bị tháo dạ phải mò ra tận ngoài bãi biển hoặc những anh chị nào liều mình hò hẹn trên gềnh đá đèn tắt chạy về không kịp.
Ai mới nhập trại nghe tin này đều sợ vì thế nên khi chúng tôi, một bọn mười người, may mắn được bạn quen ngỏ ý nhượng lại căn chòi cũ ở ngay giữa trung tâm với đầy đủ bếp núc, nồi niêu chén đũa giá hai ngàn bát, khoảng hơn chỉ vàng là chúng tôi mừng như được của. Tôi lần trong lưng quần cũ của bé Trường gỡ sợi dây chuyền mỏng dính, sợi dây cuối cùng sót lại trong số mười sợi đã mất thì bị Nguyện cản lại:
- Ai sao mình vậy đừng có bày vẽ.
Tôi không muốn giải thích dài giòng về chuyện đêm hôm tụi Thái hay lẻn vào trại bắt cóc phụ nữ vì biết có nói Nguyện cũng chỉ nhìn bằng ánh mắt khinh mạn.
- Em mượn đỡ chung tiền nhà cho người ta, mai mốt xin được chân phụ bán hàng sẽ mua trả lại anh.
Sợi dây chuyền không phải của Nguyện mà của Trường, thôi nôi thằng bé bà nội sắm cho tôi còn giữ được tới ngày này.
- Vật kỷ niệm cấm bán.
Nguyện nói đúng, vật kỷ niệm chẳng ai đem cầm bán vì đẹp hay xấu nó vẫn có giá trị tinh thần nhưng ngày thôi nôi, một chứng tích nhạo báng bên nội vì họ gửi giấy mời xuống dưới quê mà bố tôi không có mặt. Đó cũng là một dịp và là cái cớ cho mọi người chê cười. Mặt tôi nóng bừng:
- Không mua để ở liệu anh có lên rừng đốn cây làm nhà như mọi người hay lại chui rúc nay nhà này mai nhà khác, đã vậy rồi ăn uống, giặt giũ, tắm rửa ở đâu?
Nói thế nhưng tôi vẫn trả lại Nguyện sợi dây. Nếu đã hỏi thiếu được Nguyện tại sao tôi không thể hỏi vay nợ những người khác? Cầm sợi dây bỏ vào túi áo, Nguyện làm lơ trước sự nóng giận quá trớn của tôi, có thể cũng là phương pháp cố đấm ăn xôi, mặc tôi tự xoay sở lo liệu. Việc mượn nợ trong trại cũng dễ dàng vì ai cũng hiểu lá lành đùm lá rách. Giờ tôi mới thấm thía câu miếng khi nói bằng gói khi no; có ra đời mới biết xã hội có kẻ xấu người tốt, có kẻ trọng nghĩa khinh tiền và ngược lại. Hôm sau dọn nhà mới, vì nhà sàn nên khá cao phải lên hết bốn bậc cầu thang mới vào được bên trong. Nền nhà đóng bằng gỗ dùng làm chỗ ăn, nghỉ và ngủ, có ép qua ép lại cách mấy cũng vẫn còn chỗ cho bọn chúng tôi gác chân gác tay. Để phòng bị, đám đàn ông con trai phải dồn về một phía gần bếp, ngay cửa ra vào phòng cướp, vậy mà đám con gái vẫn sợ tụi Thái rạch bức tường phên chui vào.
Nhà lợp lá chung quanh ghép bằng phên mỏng choán hơn phân nửa chiều cao. Phần còn lại là những thanh tre cách khoảng cho gió lùa vào. Mùa hè tương đối mát mẻ vì nhà tôi ở cao hơn những nhà chung quanh nên hứng trọn luồng gió và bóng mát của tàng cây cổ thụ xòa ngay mái. Phần bếp, mái thấp hơn nên tấm phên che cũng hạ xuống do đó đứng nấu nướng có thể nhìn ra ngoài mà ở ngoài nhìn được mỗi khuôn mặt mình, âu cũng là một cách sáng chế tài tình của những người đàn ông bị làm bếp.
Đồ đạc mỗi người chúng tôi chỉ vỏn vẹn có mỗi túi xách gác lên kệ nên không đầy năm phút mọi người đã cùng ngồi lại chia công tác và vị trí chỗ ngủ. Đàn ông lo xách nước, chẻ củi, lãnh lương thực còn đàn bà lo việc nấu nướng, dọn dẹp bếp núc trong ngoài. Như vậy cũng nhàn hạ vì lương thực tuần lãnh hai ngày, nước phát mỗi người mười lít, thừa thiếu muốn tắm rửa giặt giũ thì phải tự túc mua lấy. Đám con gái chia ra mỗi người nấu trọn một ngày, cũng hơi mệt nhưng bù lại ba ngày sau chơi không. Tôi là người tiên phong bữa đầu, nồi niêu soong chảo phải lau chùi lại một lượt vì cáu bẩn, chén đũa cũng loại ra, cái thì mẻ cái bị móp méo cong queo, cũng may có sẵn nước và dụng cụ nên việc quét dọn không đến nỗi quá vất vả.
Hôm đầu chưa quen cách xếp đặt nên tôi cứ leo lên leo xuống cầu thang cả mấy mươi lần; nguyên do chỉ vì bếp ở trong nhà mà nơi chứa nước và chỗ làm tôm cá thì ở bên ngoài, qua khoảng sân nắng sát với phòng tắm trên có mái che và cửa căng bằng miếng vải nhựa xanh, vừa để tắm, thay quần áo và cũng vừa để chứa nước của mọi người trong nhà. Buổi tối sau khi cơm nước đánh răng, phần nước còn lại vẫn phải được trùm và buộc giây cẩn thận vì sợ mất cắp.
Chiều đến mới thấy Nguyện lững thững về nhà, tay xách chiếc nồi con và cái chén cũ. Tôi đưa phần cơm trưa cho Nguyện:
- Nếu không đói anh chờ vài phút nữa ăn cho ngon vì cơm sắp chín rồi.
Tờ báo được mở ra lộ khúc cá chiên vàng ngậy nhưng Nguyện thờ ơ:
- Kể từ bây giờ anh nấu cơm riêng.
Tôi cảm thấy nghẹn trong lồng ngực:
- Công tác đã chia hồi sáng ai cũng chấp nhận sao khi không trở chứng như vậy?
- Những con ngựa đau đều bất bình thường. Ăn riêng cũng là hình thức tập luyện cho con người một cuộc sống không bị lệ thuộc.
Ít khi Nguyện có lối lý sự ba xu như thế. Bình thường, chuyện gì không vừa ý chàng hay la toáng lên hoặc hò hét đập phá để lấy oai. Mà chẳng thà làm thế để mọi người nghĩ mình nóng nẩy bực dọc còn hơn thốt ra những lời này, nó chứng tỏ con người nhỏ nhặt ích kỷ, chỉ vì một xích mích cá nhân, gia đình mà xa rời tập thể.
- Nhưng làm sao anh có thể nấu cơm được chứ?
Câu hỏi khá dịu dàng và đầy lo lắng không ngờ lại va chạm tự ái của Nguyện.
- Đội đá vá trời còn làm được nói gì đến chuyện cơm nước.
Giọng Nguyện đầy gay gắt bực bội khiến tôi nghĩ chàng muốn thực hành điều mạnh ai nấy sống như đã nói hôm nọ. Đã muốn vậy thì lơ luôn, mặt tôi cũng biến sang lạnh lùng:
- Tùy anh.
Nguyện lẳng lặng ra ngoài kiếm ở đâu được ba cục đá kê làm bếp. Không có vật gì che cho gió bớt tạt để mồi lửa, mà kê sát vách lại sợ cháy nhà, cuối cùng Nguyện xé chiếc áo cũ làm khung che...
- Anh ấy nấu cái gì vậy chị? Mây nhìn tôi dò hỏi.
- Chắc sắc thuốc cho vợ chứ gì. Trang không nhìn ra nhưng cũng chen vào.
Tôi không trả lời, bê nồi cơm đặt lên phản múc đều mười phần, cá kho khứa bự nên cũng dễ dàng chia.
- Chan nước cá luôn nghe chị Phượng.
Tâm từ ngoài leo lên chưa hết bực thang cũng nói vô. Hình như mọi người lởn vởn gần chung quanh nên vừa đến giờ cơm cũng đã có mặt đầy đủ. Nguyện ngồi khuất gần nhà tắm vì thế không ai để ý nếu không từ trong nhà ngó ra.
- Chan nước kho rồi bắp cải chấm với cái gì? Hãn cau có hỏi Tâm như sợ mất phần nước cá của mọi người.
- Bắp cải chấm nước mắm mới đậm đà. Tâm trả lời.
- Có mày hoặc ma ăn.
- Sợ ma ăn nên dành phần trước.
Mỗi người nói một câu và đề tài nước cá được mổ xẻ dữ dội. Ăn uống chung đụng chia phần phức tạp là thế nhưng nhờ nấu chung mà thức ăn dư giả để chia chứ nếu không, phần lương thực cho mỗi người trong hơn ba ngày chỉ có thể ăn được một bữa.
- Có gì đâu, chia cá xong còn bao nhiêu nước cá tôi múc hết ra tô chế thêm nước mắm ai muốn chan thì chan, chấm thì chấm.
Tôi giải hòa nhưng Thục không chịu:
- Cá kho đã mặn còn bị đổ thêm nước mắm ăn đâu thấy mùi vị nữa. Em đề nghị chia làm mười phần.
- Mấy người đàn ông đừng có xen vào chuyện cơm nước, người nào nấu thì người đó được quyền chia.
Mây lên giọng làm mọi người bật cười, một người ra chiều dễ dãi:
- Ăn cá kho với nước mắm là cha ở đây rồi. Chúng mình dân tị nạn ăn cơm chực mà đòi hỏi chi nhiều, tôi nhường phần nước cá của mình cho cậu Tâm.
Phần cơm cuối cùng còn dư lại, phần của Nguyện, nằm ngay giữa phản. Tôi định lấy cất lên cao thì Tâm lại ré lên:
- Chị Phượng chia ăn gian lỗ phần cơm của em.
- Lại cũng nó nữa, coi bộ hồi xưa đông anh em lắm hay sao mà dành ăn dữ vậy. Trang bực dọc xen vào.
- Bà Trang im dùm cái coi, ai nói với bà mà cứ xía vào.
- Không xía cũng không được, ăn tham nên mắt mờ, bộ không thấy anh Nguyện ngoài kia chưa vô lấy phần sao?
Vô tình Nguyện làm mục tiêu cho mọi người nhìn ra. Cái bếp khổ sở được dịp khói um, mảnh vải che trông tơi tả trước gió.
- Nấu gì vậy anh Nguyện? Chưa gì đã tính ăn riêng, bộ sợ bà con ăn ké hả?
Mặt tôi sượng trân, cái kim dấu trong bọc vải cũng có lúc lòi ra đâm vào tay. Nguyện đâu có ngờ hành động tự túc của chàng cho tôi một nỗi tủi nhục sâu xa. Chuyện trên tàu tôi vẫn chưa thể quên được, chuyện thằng Hãn vác tôi trên lưng vẫn chưa xóa nhòa trong đầu óc mọi người và bây giờ lại công khai ăn riêng có khác nào chứng minh cho mọi người biết chuyện tình cảm giữa chúng tôi không còn? Miếng cơm vừa nuốt đã nghẹn ngay ở ngực, từ ngày lấy Nguyện có mấy thuở tôi được ăn bữa cơm cho ngon lành trôi chảy, có bao giờ được nở nụ cười trọn vẹn hay chỉ gượng ép vá đắp?
- Vào ăn đi anh Nguyện ơi. Tâm nhận ra bộ mặt lầm lì của tôi nên gọi với ra.
- Ổng sắc thuốc hay nấu cao gì đó mà, thây kệ đi.
Mây gỡ thế bí nhưng có lẽ mọi người đều biết sự trở chứng bất thường của Nguyện nên lờ đi chuyển sang đề tài trửng giỡn, chọc phá khác. Bữa cơm rồi cũng xong, khoảnh khắc sau ai nấy tản mát mỗi người mỗi nơi, kẻ dạo bãi biển, người lên chợ xem hàng vải, uống cà phê hoặc tụm năm tụm ba trước cầu thư viện. Bé Trường theo Trang xuống nhà bạn; còn mình tôi dọn dẹp rửa chén và Nguyện ngồi trên phản bên soong cơm nhỏ khét khê.
- Anh ăn cơm như vậy rồi có lãnh nước chẻ củi như mọi người không?
Tôi vẫn còn ấm ức nên không ngăn được câu hỏi. Nguyện lùa cơm vào miệng không thèm trả lời, miếng cơm khô hình như vướng ngay ở cục xương cổ. Nhìn Nguyện khó nhọc nuốt miếng cơm tôi đâm thương hại
- Đang tự dưng chỉ bày vẽ, anh chê cơm em nấu thì mai đến phiên con Trang cũng phải ăn vậy.
Tôi dặt dĩa cơm để dành khi nãy ngay xuống phản cạnh chỗ Nguyện. Mùi cá kho pha trộn mùi cơm khét làm chàng nuốt nước miếng. Yếu điểm của Nguyện là ở chỗ đó, sống với nhau đã bao nhiêu năm tôi đọc được cả những tính nết xấu của chồng. Tự dưng tôi thấy lòng nao nao, sáu năm rồi, dù không tình cũng có nghĩa, cái nghĩa đâu phải cứ chờ lúc ốm đau bệnh tật mới trả được. Ngồi xuống cạnh Nguyện, không còn là sự gượng ép mà tôi nói với cả tấm lòng:
- Vượt bao sóng gió và thử thách, qua được bến bờ tự do mình đặt lại vấn đề sống sao cho có hạnh phúc và vươn lên anh nhé!
Nguyện không trả lời, mắt vẫn liếc chừng miếng cá. Hiểu ý, tôi gạt phần cá vào chén cho Nguyện.
- Mọi chuyện quá khứ mình bỏ qua hết để làm một cuộc đời mới nghe anh.
Không có tiếng trả lời, miếng cá mầu nâu xậm với chất nước sền sệt hớp mất hồn Nguyện, tôi biết chàng đói.
- Có giận có hờn mình cũng đâu thể bỏ nhau được. Từ mai đừng nấu cơm riêng nữa cho cực, anh xem vừa sống vừa khê...
Tôi chợt khựng lại vì thấy Nguyện và lấy và để, từng hột cơm dính nơi khóe mép cũng không biết lấy ra, cá chiên cá kho không từ, cơm sống cơm khê cũng vét sạch, một hành động rõ ràng tự trả lời không muốn nấu riêng ăn một mình.
- Anh uống nước không?
Nguyện vẫn cắm cúi ăn. Bây giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn đang nói chuyện với một cái bóng, cái bóng của lạnh nhạt dửng dưng và bữa cơm dù có ngon lành cách mấy cũng không thể giảm được sự ghen hờn và làm tiêu tan tính ích kỷ nhỏ mọn trong con người Nguyện
.
Mặt trời đã khuất tận chân núi tự bao giờ và đèn trong trại dù đã được bật sáng nhưng hơi nóng của một ngày vẫn còn lẩn quất trong những bụi cây lùm cỏ. Gió ngập ngừng đứng lại chẳng muốn ở mà cũng không nỡ rời nên cái oi bức và nồng mùi nước biển vẫn bốc lên ngột ngạt. Ánh đèn trong nhà không quyến rũ nổi mấy con thiêu thân và ngay đến cả loài người cũng không thể gợi cho họ chút hào hứng để ngồi đọc sách, viết thư hoặc đánh cờ.
Cùng theo chúng bạn tản mát tìm chút gió mát, tôi và Trang dẫn Trường lên gò mả. Gọi là gò mả cho có vẻ ghê rợn chứ thực ra chỉ là một gò đất cao và bằng mặt sát ngay nhà thiêu xác. Chung quanh toàn những cây cổ thụ xoè rợp bóng tối và xa xa gồ lên vài nấm mộ của người Thái đã có từ lâu đời. Hình như đảo này thuộc đất của một gia tộc nào đó vì những ngôi mộ cùng họ với nhau. Gò mả cắt ngang đường đi lên chợ và nối liền với văn phòng Thái nên khá an toàn. Trời tối chợ tan, các tiệm cũng đóng cửa, thỉnh thoảng mới có vài ba người đi tắt ngang để xem ti vi lén qua cửa sổ ở các hàng quán ngủ đêm tại đó. Từ trên cao nhìn xuống dốc, những ánh đèn vàng vọt tỏa ra từ những mái lá như những con đom đóm lạc loài trơ trọi trong bóng đêm, loại đom đóm đã bị gió mưa làm tơi tả cánh phải bám vào những cuống lá ẩn náu giông bão. Vật và người trốn chạy giông bão vẫn luôn mang cảm giác bất an dù đã có tạm nơi nương náu. Trại tị nạn chỉ là một bến tạm, một trạm dừng bấp bênh, một số phận trôi nổi như con thuyền chưa tìm được bãi đậu. Tương lai thì mờ mịt mà tình cảm tôi cứ vẫn mãi trôi nổi mặc những cơn mưa bão, sóng gió của Nguyện. Tôi ngồi bó gối thẫn thờ nhìn bé Trường chạy lăng quăng gần đó nghịch ngợm những chiếc lá khô to hơn bàn chân. Xấp lá khô cứ dầy lên mãi trong bàn tay nhỏ bé của nó. Cuối cùng Trường đưa cả hai nắm tay lên trời tung cao. Lá không có gió rơi nhanh như diều đứt dây; thằng bé tiu nghỉu giây lát rồi lại cúi xuống lượm tiếp tục trò chơi.
- Nghĩ gì vậy chị Phượng?
Không quay đầu lại, hình như những chiếc lá khô, định mệnh oan nghiệt của mỗi con người đã thôi miên lấy hồn tôi.
- Buồn ngủ.
- Ngủ gì giờ này, chưa tám giờ mà?
- Cũng có thể người đang muốn bệnh.
- Chị lúc nào chả thế, cái tay em phình to chỉ vì ngày nào cũng bóp đầu cho chị. Người gì đau đầu kinh niên.
- Bé Trường bóp đầu cũng khá lắm tại Trang dành phần đó chứ! Tôi trả lời quanh co như muốn dấu tâm sự mình.
- Đâu ngờ sợ thằng bé đấm đầu đau tay, chị lấy vải bọc vào cái muôi bắt nó gõ. Ai nhìn mà không sợ điếng hồn? Gõ như thế có bữa long óc ra mà chết.
Trang chợt im lặng vì thấy không có sự đối đáp nồng nhiệt của tôi. Hình như câu chuyện chẳng có gì hứng thú để tiếp tục ngoài trừ những phong cảnh buồn nản chung quanh. Thật xa vẳng lại tiếng sóng vỗ như thôi thúc nỗi buồn mỗi lúc một loang nhanh.
- Chị đau làm sao, hay là có bầu?
Trang bỗng hỏi giựt giọng làm tôi giật mình nhưng vẫn trả lời dù bằng giọng gượng gạo:
- Bầu bì gì, cứ tưởng tượng mãi cho khổ vào thân.
- Chị biết không nỗi sợ hãi nhất của tụi em là chuyện đó. Có bầu với hải tặc là cả một vết dơ, một vết nhục không sao gột rửa.
Tôi gục mặt vào lòng bàn tay, tại sao lại khơi vào lòng nhau niềm hãi sợ mà đã từ lâu tôi cố quên đi. Phải chăng sự cố quên chỉ là hình thức che đậy và bây giờ Trang đã mở nắp che, gỡ tấm vỏ cứng của con ốc sên yếu đuối?
- Đừng nói đến chuyện đã qua, hãy coi như một cơn ác mộng. Tương lai chúng ta phải khác hơn.
- Phải khác hơn nếu ta quên được nó. Chị đã quên được chưa, trả lời em thật đi?
Tôi tránh ánh mắt long lanh của Trang; thì ra đâu phải chỉ mỗi mình tôi để chuyện quá khứ ảnh hưởng tới mình mà còn thêm Trang và biết đâu chừng lại chẳng có Mây, có Thịnh, có Khánh và tất cả mọi người chung quanh.
- Mình không nghĩ đến tức là nó đã chìm sâu trong quá khứ.
- Nếu được như vậy thì nói làm gì. Chị nhìn quanh đây đầy rẫy mọi người ai cũng như mình. Dĩ vãng của họ phơi bày trong hồ sơ lý lịch và hỏi chị xem có chiếc tàu nào bị cướp dưới ba lần không? Có người con gái nào thoát được cảnh hãm hiếp nếu họ không tự mang cái tiết trinh con gái để che đậy mặc cảm của mình? Chị vào bệnh xá mà coi, đứa thì phá thai, đứa thì tự tử, có đứa bị bệnh hoa liễu. Chị tin không, con gái mà bị bệnh hoa liễu thì lũ quỷ đâu phải một thằng mà một toán, một tiểu đội, một trung đoàn mang vi trùng bệnh xâm nhập vào. Em thù bọn Thái đến muôn đời.
- Đừng Trang, càng thù họ thì càng kết án mình nặng hơn.
- Chị có kết án chị không?
Tôi rùng mình, những câu nói như những vết dao đâm tận trong ruột gan, không kết án sao đau khổ, sao có mặc cảm với cả chồng con và mọi người? Không kết án sao lại chấp nhận sự hờ hững của chồng như một định mệnh? Như thế có nghĩa là tôi vẫn đang căm thù những kẻ để lại vết nhơ trong đời tôi?
- Thôi đừng nói chuyện không vui.
- Nhưng em thấy cách cư xử của anh Nguyện mà đâm bất mãn. Suốt thời gian trên thuyền cho tới khi cặp bến mọi hành động đốn mạt của anh ấy đều không thoát qua đôi mắt phê phán công bằng của em. Người gì quá hèn, ở không được thì bỏ, sợ gì phải bấu víu vào con người ích kỷ nhỏ mọn như thế.
- Ghen, đàn ông ai chả ghen.
- Đúng, đàn ông ai lại chẳng ghen nhưng chị có tạo ra nó không hay tai họa giáng xuống mọi người chúng ta? Một cái tang chung cho xã hội đã không chia sẻ thì cút đi đừng bới lông tìm vết, đừng vác cứt ném vào mặt từng người. Tồi, tồi...
Mặt Trang đầy vẻ căm phẫn khi nói những lời đó, nó cũng làm mặt tôi nóng bừng, nửa thương thân mình nửa chua xót cho Nguyện.
- Người ta không có mặt ở đây, nói như thế có khác nào nói xấu kẻ khác. Mỗi người có một cá tính, một lối suy nghĩ riêng, Trang không phải là Nguyện làm sao biết được anh ấy đã nghĩ gì?
- Nghĩ gì? Nghĩ vì có con vợ bị hiếp nên mang nhục với mọi người. Thứ chồng như vậy đem bắn bỏ.
Tôi đứng phắt dậy ôm vội Trường rồi tất tả chạy xuống dốc như trốn chạy sự yếu hèn của mình. Con ốc sên không chịu nổi những ngọn roi dù chỉ quất trên chiếc vỏ. Biết Trang có lòng tốt nhưng tôi không đủ sức chịu đựng sự chà xát vết thương trước khi băng bó; một lần chà là một lần đau rát, một lần chà là một lần chết đi sống lại mà chắc gì sẽ khỏi. Con dốc trơn tuột khi chạy xuống lại có thêm Trường ẵm nặng trên tay như cùng xô đẩy lôi cả cuộc đời tôi lao nhanh theo đôi chân. Nếu không tìm cách ghì lại chắc chắn chúng tôi sẽ rơi xuống hố. Con mày đó Phượng ơi, giết đời mày chưa đủ hay sao mà lại định chôn vùi cả đời nó? Tại sao mày hèn, khiếp nhược và ngu ngốc thế hả Phượng? Hãy đối diện mặt chồng, hãy chấp nhận một sự thật dù bỉ ổi để cuộc đời vươn lên. Ra đi mày nghĩ thế nào? Mày mơ ước thế nào? Một cuộc đời đổi mới, một cuộc sống thực thụ của con người, của con người với quyền làm người chứ không phải con vật...
Hết đoạn dốc tôi bỏ Trường xuống và lầm lũi đi men theo con đường nhỏ cắt ngang bệnh xá và thư viện. Thư viện được cất chênh vênh trên gềnh đá nối liền bờ bằng chiếc cầu gỗ. Dọc theo thành cầu thiên hạ đứng đầy để hóng mát. Giờ này bệnh xá đã đóng cửa, hành lang tối thấp thoáng những bóng người. Tiếng hò hét trửng giỡn của đám trẻ, tiếng cười đùa hồn nhiên vô tư của đám thiếu nữ đang tuổi yêu làm tôi nao nao. Qua rồi tuổi hoa mộng, hết cả thời yêu đương, bổn phận và trách nhiệm đã cay đắng phủ chụp xuống đầu tôi nhưng liệu tình trạng níu kéo này có mãi tồn tại, có làm Nguyện thay đổi hay càng chứng tỏ sự khiếp nhược và ngu muội của tôi? Hai mươi lăm tuổi, còn trẻ lắm nhưng sự trẻ trung chỉ đến khi người ta có sự sống; còn tôi, một cây khô không tưới, một cây chết không thể đâm cành lá, sống giữa đời như một thứ phế thải. Có điều dù là cây chết, cây khô nhưng khi được mưa tưới ướt nó vẫn trở nên bóng bẩy, làn nước mỏng gợn trên những nhánh khô vẫn tạo cho nó sự linh động và cựa mình; còn tôi người có tim óc chẳng lẽ không khác hơn loài cỏ cây? Nhiều khi tôi hoang mang với nhiều dấu hỏi trái ngược lòng mình. Biết đâu hạnh phúc lại chẳng đến với những người khác vì có ai nghĩ rằng bên ngoài cái vỏ sần xùi gai góc là múi sầu riêng béo ngọt, bên ngoài lớp vỏ chát đắng nham nhám có thể là lớp nhãn dòn ngọt lịm. Ngược lại bên trong trái ớt chín đỏ mời mọc kia chẳng cay xé lưỡi và bên trong quả chanh vàng mọng chẳng chua chảy nước mắt? Tôi đang nghi ngờ ở số kiếp và cảm tưởng mơ hồ số kiếp đôi khi vẫn được hóa giải vì nhiều người chết đi vẫn được cứu sống bởi dụng cụ máy móc, khoa học của loài người. Như vậy có phải nếu tôi không hiểu giá trị quyền làm người và tự cho mình làm chủ thân xác mình tức là mình đã chối bỏ quyền sống?
Trong tôi đôi lúc có những mâu thuẫn rõ rệt vì đầu óc là cả một sự hoạt động tranh sống nhưng khi hành động lại đầy tính chất khiếp nhược sợ hãi vì phải đối diện với những khó khăn. Ranh giới tuy phân định nhưng tâm hồn tôi luôn bị giằng co xâu xé, càng xâu xé bao nhiêu thì thân xác càng bất động ù lì bấy nhiêu. Nhiều khi tôi nghĩ nếu mình đừng khiếp nhược và dám đứng lên đòi quyền làm người thì có lẽ cuộc đời tôi đã hoàn toàn đổi khác, đổi ngay từ thuở vừa có trí khôn.
Đúng mười giờ tối, một hồi còi dài hú lên và điện loé hai lần cách khoảng năm phút trước khi tắt hẳn báo hiệu cho mọi người ai về nhà nấy. Trại nằm khuất giữa hai dãy đồi cao, khi điện tắt đứng cách xa một thước không nhìn rõ mặt nên dù sóng biển có đập ầm ầm trên gềnh đá mời mọc những đôi trai gái nán lại thêm cũng khó lòng vì họ không muốn là những cái mồi ngon dâng đến tận miệng lũ cướp người. Tuy nhiên không phải vì thế mà không có những cuộc ăn nằm bất chính. Có những đứa con gái vượt biên một mình ngủ cả đêm trong nhà bạn trai không về và cũng có những ông lớn tuổi đêm đêm bò lộn sang nhà bên cạnh. Cuộc sống ở đây như một chỗ dừng chân cho những kẻ còn đang rong ruổi bước đường dài, cũng là nơi hấp thụ tư tưởng mới từ những cánh thư và hình ảnh, sách báo ngoại quốc do thân nhân gửi sang hỗ trợ thêm cho sự tự do tuyệt đối. Cái tự do được hiểu quá rộng pha trộn cả trụy lạc, ăn chơi, đua đòi. Một số yêu cuồng sống vội thu gọn chân trời hồng bằng sự hưởng thụ niềm vui xác thịt; một số quên mục đích chính của sự ra đi đã để đồng tiền điều khiển con người; một số diện kiến trước những cái chết bi thảm trên biển cả hoặc quá gian khổ trong cuộc hành trình đã đắm mình trong sa đọa để vớt vát lại những gì đã mất; một số xa gia đình, vợ, chồng, con cái đã tìm hơi ấm khác để an ủi nương tựa; cũng một số ngấp nghé giữa văn hóa cũ và mới nửa muốn bước vào nửa lại rụt rè. Cái thiên đàng tự do chỉ mới qua thư từ hình ảnh nhưng lại bị hiểu sai lệch hoặc cố tình làm cho nó sai lệch đã làm chấn động lòng mọi người...
Khí hậu ở đảo nóng cả ngày lẫn đêm. Gió lúc nào cũng mang hơi nồng thổi từ biển vào nên da thịt rít mồ hôi. Dù sao biển vẫn là nơi quy tụ niềm vui và quyến rũ nhất đối với mọi người ngoài trừ đàn bà con gái. Chẳng cô nào, bà nào dám tắm biển mặc dù trời nóng như đổ lửa, cái nóng mà đàn vịt vừa nhìn thấy nước là đã muốn đằm mình xuống. Chỉ cần nhìn ánh mắt thèm muốn khi họ đứng ngắm bọt nước bắn tung tóe cũng đủ nói lên điều đó. Họ sợ là phải vì trên ghềnh đá lúc nào cũng lởn vởn một vài tên Thái lạ mặt. Đa số người Thái buôn bán trên đảo đều là những người hiền lành tốt bụng, vì công ăn việc làm của họ và cũng có thể vì quyền lợi thì đúng hơn. Bọn lạ mặt thường từ những tàu đánh cá ghé lại bán tôm cá hoặc mua nhiên liệu thực phẩm, phần còn lại từ trong tỉnh chạy xe gắn máy ra dò dẫm tình hình để đêm tối đỡ mất công vào lộn nhà. Ở đảo, ban ngày dân bản xứ được quyền ra vào tự do buôn bán hoặc vào quán nhậu nhẹt trong khi dân tị nạn lại bị bó giò bó chân. Thỉnh thoảng một vài người bạo gan lén trốn ra ngoài xem cuộc sống dân Thái có gì lạ nhưng bị cướp cạn chặn ngay ở cổng lấy tiền, đồng hồ hoặc những thứ không đáng giá như cây viết, cuốn tập. Một người trốn ra cũng bị cướp, cả bọn đi chung cũng bị cướp mà vẫn phải đứng chịu trận vì chúng có khí giới và chúng là kẻ được chính phủ dung túng. Riết rồi không ai còn tơ hào sẽ trèo qua cánh cổng sắt, tách rời khỏi tập thể để tạo cho mình niềm vui riêng.
Biển hữu tình nhưng không dành cho mọi người kể cả những đêm rằm. Khi trăng vượt lên khỏi đỉnh đồi thì đã quá nửa đêm. Cảnh dưới thung lũng lúc bấy giờ mới trở nên huyền ảo nhưng không thể ngấm vào da thịt loài người ngọt mát trong màu sữa tươi vì những mái lá che kín, một hình thức ngăn chặn sự kích thích, dẹp lòng tà dục của những kẻ khác phái và cho cả chính mình như người con gái đang tuổi dậy thì cần phải mặc áo trong áo ngoài cho thật kín đáo. Trăng cũng không thể mời mọc những đôi nhân tình quên đi sợ hãi đứng bên ghềnh đá ôm nhau say đắm, cho nhau những lời mật ngọt, âu yếm vì an ninh chung quanh. Ban đêm một mình tác quái, trăng được thể càng lộ sự lẳng lơ. Nó bò xuống tận biển rộng mênh mông, trải đều những hạt tấm vàng trên mặt sóng, mê hoặc cả những ngư nhân dù đã lặn sâu dưới đáy nước. Biển trăng thơ mộng và quyến rũ muôn người, muôn vật đến cùng tận nhưng chẳng ai dám tơ màng và cũng chẳng thể thức đến giờ đó để ngắm trăng. Có chăng chỉ những kẻ cô đơn mất ngủ nằm trong chòi buồn bã đưa mắt qua những khe vách hở nhìn trăng sáng mà ray rứt nhớ thương về quê nhà.
Nửa đêm trăng đang làm tê liệt mọi sinh hoạt thì nghe báo động. Tức thì những tiếng khua giây chuyền thi nhau loảng xoảng vang rền. Đám thanh niên canh gác rọi đèn pin nhớn nhác theo những cánh tay chỉ trỏ lần tận đến nhà người bị nạn. Thì ra lão Hạnh, một chủ tàu nhập trại được hai tháng đang mây mưa với cô Trọng quên trời quên đất đã ngã lăn gô xuống sàn đụng vào những thùng thiếc dùng để xách nước phát ra tiếng động lớn làm mọi người tưởng cướp Thái lẻn vào. Hú hồn. Ai cũng thở phào như trút gánh nặng nhưng lại khoan khoái mỉm cười mát lòng mát dạ vì khi khám phá ra sự thật thì lão cũng đã bị nện oan một trận tơi bời, bán sống bán chết.
Lão Hạnh đã ngoài năm mươi nhưng thân thể trông còn khoẻ mạnh tráng kiện nên nhìn rất phong lưu và bắt mắt; có thể cái nhãn hiệu chủ tàu với số vàng mang theo đã thăng hoa thêm cho lão không biết chừng. Ban ngày người ta hay thấy lão ngồi trong quán ăn với chiếc cặp da căng phồng luồn bằng sợi xích nhỏ qua lưng quần và ổ khoá nặng nề đeo lủng lẳng trước bụng. Chẳng biết lão có được bao nhiêu tiền nhưng nguồn tài trợ từ Mỹ do bà vợ qua trước tiếp viện hàng tháng cũng đủ gợi lòng thèm muốn của mọi người. Nghe nói xưa kia nhờ mối lái đưa người vượt biên, lão chuyển ngân sang Mỹ cả ngàn lượng vàng nên giờ vợ lão có tài trợ cũng là tiền công sức của lão. Có điều nếu vợ lão biết rằng tiền đó chẳng những nuôi riêng lão mà còn cho cả một phần tư số phụ nữ ở trại thì có lẽ dù thương chồng cách mấy cũng phải cắt tiếp viện ngay.
Tàu lão đưa người đi là tàu lớn ngót nghét cả trăm, kẻ trả vàng trước người trả sau nhưng dù trước hay sau thì lão cũng đã dùng đồng tiền mê hoặc mà ngủ lần lượt hầu hết bằng đó đàn bà con gái trên tàu. Người thứ ba mươi, người cuối cùng là một bà già nhà quê trạc ngũ tuần, miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu và hầu như mỗi khi lão sáp lại gần dụ khị là bà chỉ chực nhổ nước bã trầu vào áo để tỏ thái độ khinh bỉ. Ngủ với đàn bà ngoài cái thú xác thịt ra lão còn khoái ngồi ghi chép thành tích và sưu tầm quần lót của họ dồn vào thùng như một thành tích vẻ vang. Đôi khi ngồi trò chuyện, lão nhắc lại hồi còn bốc người dưới vùng Cần Thơ đã bỏ quên thùng quần lót phụ nữ có trên vài trăm chiếc.
Ai cũng ghê tởm lão, coi lão như một thứ heo nọc, một con thú đực mang lớp người nhưng lại bị quyến rũ bởi cái túi da lúc nào cũng lủng lẳng xách trên tay. Càng nhìn họ càng bị ma lực cuốn hút vì tuy khóa dính vào người phòng bị chuyện cướp giựt nhưng lúc nào trông nó cũng nửa kín nửa hở, nửa hời hợt chỉ chực mở ra như hứa hẹn một cuộc sống đế vương nếu được làm chủ. Như thế những người đến với lão rõ ràng chỉ vì tiền và chính lão cũng biết điều đó cho nên lại càng mang tiền ra để nhử, để làm kích thích lòng thèm muốn của mọi người. Ở trại thiếu tiện nghi, đói khát ăn uống, ngay đến vấn đề vệ sinh tối thiểu là tắm cũng phải dùng đến tiền. Một "bát" mua được thùng nước nhỏ cố gắng lắm cũng chỉ gội sạch được một mái đầu, mà nào đã xong, đã là phụ nữ thì hàng tháng ai cũng phải xài những thứ mà không thể không xài được. Tuy ghét lão nhưng người ta cứ xắn lăn vào vì nhiều nhu cầu đòi hỏi.
Nược lại, lão chỉ dám phung phí cho đàn bà con gái còn đối với anh em con cháu thì keo kiết chi li từng đồng. Căn chòi lão ở là của người cháu đến trước hai tháng. Để khỏi mang tiếng ở nhờ, lão nhường hẳn số thực phẩm lãnh được hàng tuần cho nó vì tới bữa lão ăn ngoài quán. Tối đến muốn đuổi thằng nhỏ sang nhà bạn ngủ để được tự do hú hí, lão moi nắm bạc lẻ vừa đủ mua ly cà phê. Ở đảo cà phê và thuốc lá là thứ xa xỉ chỉ những người có thân nhân ở nước ngoài mới dám đụng đến. Thằng cháu cầm tiền của chú cho hí hửng mua gói thuốc lá phì phèo với đám bạn cả đêm để nhà cho lão muốn biến thành ổ heo ổ chuột gì cũng được.
Lão Hạnh khôn ngoan và quỷ quyệt không thua bất kỳ ai vì luôn tính chuyện ăn bánh xong mới trả tiền. Bù lại đám con gái cũng không kém, trước khi hò hẹn cũng đã đớp của lão hai tô mì và ly cô ca căng cứng bụng hết mười bát, khi ra khỏi quán còn đòi mua thêm quả xoài hoặc chùm nhãn bày bán ở lối đi hay cũng có khi đòi cả nải chuối xiêm mập ú. Lão thản nhiên móc tiền ra trả chẳng nhăn nhó khó chịu vì nghĩ của chui vào đâu thì cũng vẫn còn nằm đó, lão có cho họ ăn no tối đến mới đủ sức mà nằm chịu trận mặc cho lão vần vò suốt đêm. Lão cũng biết sức khỏe mình càng lúc càng yếu theo thời gian nhưng lại có tự hào về kinh nghiệm gối chăn, gừng càng già càng cay, người càng già càng dẻo càng dai, càng lắm mánh khóe kéo cưa đến giờ phút chót, nghĩa là mãi đến gần sáng lão mới tự cho phép cả hai đi ngủ để tương xứng với đồng tiền bát gạo đã bỏ ra.
Sở dĩ tôi biết rõ một phần cũng vì lão Hạnh ở ngay sát vách gần bếp nấu ăn. Buổi trưa sau giấc ngủ muộn, lão hay vạch kẽ phên nhìn trộm sang đám chúng tôi hoặc lén nghe những lời chuyện trò to nhỏ. Chẳng ai ưa gì lão, ở đảo tuy đồng tiền cần thiết và có giá trị nhưng cũng tùy người, tùy lòng ham muốn và tùy hoàn cảnh. Có lần lão đã mua chuộc Trang một cách lộ liễu, khả ố. Lão quan niệm người ta chỉ giữ gìn tiết trinh khi chưa bị xâm phạm còn đàng này mười cô đã bị Thái hiếp đến tám thì việc ngủ với lão một đêm để có tiền chi dùng đâu lấy gì là khó khăn hoặc lỗ lã. Tán tỉnh Trang không được, lão lại la cà sang Mây bị nó tát cho hai cái sưng vếu cả cặp môi dày xám xịt sau khi quất vào bụng hai tô mì đầy những thịt thái bên trên. Mọi người cho là Mây khôn vì đã dậy lão một bài học đích đáng nhưng đối với riêng tôi, Mây quá liều lĩnh. Bao nhiêu người thân bại danh liệt chỉ vì cái miệng ăn, hôm nay tránh được vì đã no bụng nhưng ngày mai, ngày mốt liệu có quên hẳn mùi vị thơm ngon của hai tô mì trong khi mỗi bữa lúc nào cũng toàn bơ với cá hộp, khá hơn thì được miếng thịt gà kho mặn còn không thì cứ cơm rang với nước mắm.
Trong nhà ai cũng ghét lão Hạnh nên chỉ chờ có dịp là cho lão một bài học về nhân phẩm con người. Có lẽ giờ đã điểm vì ngay khi cả hai vừa té đánh huỵch xuống đất đụng vào thùng thiếc là Tâm đã nhỏm dậy khua gõ ầm ầm. Tâm còn nhỏ tuổi nhưng lớn xác không khác gì một thanh niên, vấn đề sinh lý cũng có thể vì vậy mà nảy nở sớm. Hằng đêm nó ngủ rất trễ và làm gì thì làm cũng nhất định dành nằm ngay sát vách, gần giường lão Hạnh để nghe lén chuyện ăn nằm của người lớn. Thỉnh thoảng lão mới dám dẫn gái về nhà, không phân định rõ giờ giấc vì sợ người chung quanh rình mò chọc phá. Vì thế năm thì mười họa Tâm mới được nghe những lời trơ trẽn và khả ố của họ. Đêm nay, lão Hạnh dở khóc dở cười, đồng thời Trọng cũng sượng sùng không kém. Trong bóng tối mặt Trọng cúi gầm khi phải trả lời những câu hỏi để điền vào hồ sơ giấy tờ. Những ngón chân di động vô nghĩa nhưng lại cho người nhìn có cảm nghĩ nếu có thể chạy được, Trọng đã chạy ngay từ lúc đầu. Nhìn qua khe vách, tôi cảm thấy xót thương cho Trọng, người đàn bà chỉ vì tiền đã đánh đổi nhân phẩm, làm trò hề trước mặt mọi người.
Đàn bà, hình như hoàn cảnh nào cũng chỉ là trò mua vui cho đàn ông, ngay đến cảnh làm vợ cũng ai oán não nề. Cái hạnh phúc đến với họ khó như mò kim dưới đáy biển vậy mà khi gẫy đổ, gánh nặng và thiệt thòi hoàn toàn trút lên thân phận người vợ. Chồng còn sống dù là phường giá áo túi cơm, mèo mả gà đồng, dù đã dẫn vợ bé xa chạy cao bay, tạo dựng một tổ ấm khác tận phương trời nào thì người vợ vẫn bền chí ở nhà làm lụng nuôi con và tâm hồn luôn hướng về Thượng Đế với lời cầu khẩn xin ơn trên vọng xuống cho chồng hồi tâm trở về. Có người cay đắng hơn trong cảnh chờ đợi nên đã tự an ủi bằng cách đay nghiến: "Cóc chết ba năm quay đầu về núi". Trong đời này có mấy người dám áp dụng "ông ăn chả bà ăn nem"? Miệng lưỡi kết tội của người đời là bản án nặng nề được truyền từ đời con đến đời cháu: "Mẹ nào con nấy". Gia đình đàng trai nhìn tư cách người mẹ để chọn dâu, nhìn tư cách bà để đoán đức hạnh tính nết đám cháu chắt. Người mẹ, người vợ tự mang trong mình một trách nhiệm nặng nề mà không được biết đến, đã tự vứt bỏ tuổi xuân, niềm mơ ước của riêng mình mà sống cho chồng con, cho gia đình nhưng nào ai hay. Nhìn Trọng đâu ai đọc được những cay đắng chôn dấu trong lòng ngoài trừ gương mặt nếu không muốn ghép cho hai tiếng trơ trẽn. Việc làm nào cũng đều có lý do nhưng lý do đối với người đàn bà dẫu đúng hay sai cũng bị cho là ngụy biện.
Mọi người đều giải tán ai về nhà nấy. Trong bóng tối và trong sự yên lặng gượng ép, tôi trở lại chỗ nằm nhưng cứ trăn trở với nỗi thương cảm trong lòng. Tôi thương Trọng, thương bộ mặt xấu hổ cúi gầm và thương cả đôi mắt không dám ngước lên nhìn ai. Nếu người ta đối xử tốt với nhau thì đâu xảy ra tình trạng mua bán, đổi chác sống sượng như vậy. Nếu lão Hạnh đừng dùng đồng tiền mồi chài thì cuộc ăn nằm dù là bất chính vẫn có lý lẽ bào chữa của tình yêu, mà tình yêu nào chả đi đến mục đích tốt đẹp của sự gắn bó?
Thương người rồi lại nghĩ thương thân mình, chuyện giữa tôi và Nguyện vẫn chưa có gì thay đổi hoặc sáng sủa khả quan hơn dù chàng đã hết đốc chứng nấu cơm riêng; hình như cả hai chúng tôi vẫn còn cái hố vô hình ngăn cách. Trong suốt quá trình làm vợ, ngoài vai trò cu li tôi vẫn chỉ là người đàn bà ù lì, chỉ biết than thở hoặc nguyền rủa, trách móc vận số cho lòng vơi đi nỗi tủi hờn uất ức chứ chưa dám có một chống đối ra mặt hoặc một đường hướng rõ rệt cho tương lai. Ước chi có một động lực hoặc sức mạnh nào đó nhập vào để tôi vùng lên. Phải chăng cái vai trò, cái uy quyền của người chồng đã quá lớn mạnh trong tâm trí tôi và phải chăng hình ảnh mẹ Hoài cùng những thua thiệt đã như một đóng ấn trong tủy não? "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh", người xưa nói quả thật không sai. Tôi giống mẹ y hệt, giống ở sự khuất phục nhu nhược, giống ở những phục tùng nô lệ. Có điều mẹ bằng lòng chấp nhận nên yên phận còn tôi như những đợt sóng ngoài biển khơi, khi lắng dịu, khi lại cuốn mình bung cao. Mẹ chấp nhận yên phận nên cuộc đời ngắn gọn, đầu hàng định mệnh bằng cái chết, còn tôi tuổi sống chưa bằng mẹ nhưng cuộc đời sóng gió tủi nhục chắc chắn phải hơn. Mẹ chỉ có mình bố, chỉ chiến đấu tình cảm riêng tư vợ chồng; còn tôi, ngoài Nguyện ra, cả gia đình chồng và những khắc nghiệt họ hàng chụp xuống như người ta tròng chiếc bao vào người con chó đem trấn nước trước khi cạo lông làm thịt. Mẹ khổ tâm nhưng bù lại thân mẹ nhàn hạ ra vào thảnh thơi còn tôi đầu tắt mặt tối làm hoài không hết việc. Chỉ bằng đó thứ suy ra cũng đủ biết tôi có rất nhiều nghị lực để chịu đựng và dư thừa khả năng phấn đấu sống. Nhưng trên đời này có người đàn bà nào nhận ra được giá trị của mình?
Nhiều khi tôi nghĩ nếu không có những ngày Nguyện bị bắt đi học tập cải tạo thì muôn đời tôi vẫn mãi cho rằng mình chỉ là loại dây leo ăn bám. Ba ngày học tập là ba năm chồng tôi trong trại tù. Đâu ai ngờ trong khi mọi người than khóc vì cảnh chia lìa chồng vợ thì tôi lại cảm thấy thoải mái nhẹ bỗng như người vừa thoát ách dù cái bụng mỗi ngày một nặng nề khó chịu thêm ra. Tôi nhẹ người vì tin chắc rằng sống trong lao tù và những đối xử dã man, ti tiện của bọn cai tù sẽ làm Nguyện thay đổi để nhận biết thế nào là con người và quyền sống, sẽ cho Nguyện thấy cái tình người cần thiết với nhau như thế nào, nhất là Nguyện có đủ thời giờ nhìn ra những sai trái, khiếp nhược của mình xưa nay. Tôi cũng hy vọng trong lao tù Nguyện nhìn lại tình cảm mình, với những năm tháng sống thiếu sót bên vợ, với những lỗi lầm ích kỷ sẽ nhìn được từ kẻ khác như chiếc gương phản ảnh. Sự tù tội của Nguyện gần như một hình thức gột rửa và dù gột rửa bằng cách nào cũng vẫn làm cho tâm hồn Nguyện lớn mạnh thêm ra, từ sự lớn mạnh sẽ có những thay đổi cả về đường hướng sống và cung cách đối xử với vợ con. Yên chí là thế nên tôi chỉ còn tự tranh đấu với bản thân và cố gắng hội nhập những khó khăn đang xảy đến từ khi đất nước thuộc vào tay cộng sản và chính sách cai trị Mark, Lénin.
Khoảng năm tháng, sau ngày Nguyện đi học tập. Cơn hoảng sợ của mọi người vẫn chưa lắng đọng thì lệnh đổi tiền ban hành và mỗi hộ khẩu, dù một hay mười người cũng chỉ được đổi hai trăm. Hình như lệnh đổi tiền không thu hoạch được kết quả khả quan, chỉ làm cho kẻ giàu bớt giàu đi chút đỉnh nên chính sách thi hành kiểm kê tư sản mại bản được tung ra khoảng hơn nửa năm sau đó khiến chẳng ai trở tay kịp. Gọi là tư sản mại bản chứ thực ra nhà nào có tí máu mặt trong phường, khóm đều bị đột nhập lục soát. Kẻ được lệnh ngang nhiên vào khám xét là nhóm cách mạng ba mươi phối hợp với các học sinh, sinh viên xưa kia có người thân đi tập kết hoặc những gia đình nào có công với cách mạng được bí mật huấn luyện học kiểm kê mấy tuần liền. Gia đình Nguyện cũng kẹt trong đó chỉ vì gian nhà to lớn tạo sự tham muốn cho chính sách và chế độ, thêm vào ao cá phi, heo bò và cái tên tuổi chủ hãng xưa kia đã không ngăn cản được đầu óc chiếm đoạt vì họ nghĩ đã có của nổi là chắc chắn phải có của chìm. Trong nhà bà cai, ngoài những vật đáng giá như vàng bạc kim cương tiền mặt, ngoài những bình cổ, ảnh tượng chạm trổ cần phải tiếp thu tại chỗ để làm tang vật còn thì bao nhiêu liệt kê hết vào sổ sách.
Dù đã hơn hai mươi năm di cư vào Nam nhưng những vụ đấu tố địa chủ vẫn còn ám ảnh ông bà vì chính bố mẹ họ cũng là nạn nhân. Bây giờ ông bà có con đi lính lại bị ghép thêm tội hút máu hút mủ của dân nên việc tra hỏi cật vấn kéo dài cả hai tuần vẫn chưa hoàn tất. Họ liệt ông bà vào thành phần ngoan cố chống đối chế độ do đó quyết chí lục lọi, tìm đủ mọi cách hăm dọa, ngay cả sự dọa nạt ấu trĩ là mang máy đến rà vàng.
Suốt thời gian làm thủ tục kiểm kê, kẻ ra người vào với đầy sổ sách giấy tờ, kẻ dọa câu này người hù câu kia đủ làm bà sợ phát sốt nên sụt đi hết gần chục cân. Ông cai cũng chả còn oai phong mà cứ trốn ra sau vườn nhặt cái này, vứt cái kia, đôi khi còn mang cuốc xẻng ra đào xới cho đất xốp lên để rắc phân càng làm cho họ nghi là đem của đi chôn. Vì thế chẳng những bà mà ông cũng bị theo dõi rất gắt ngay cả việc tiêu, tiện. Công nhận lề lối làm việc kéo dài ngày giờ thế mà lại gây ảnh hưởng tác hại. Hàng đêm bà cai ngủ không ngon giấc; những lời hỏi cung tra tấn bằng sự đe dọa còn làm bà khủng hoảng sợ hãi hơn là lôi ra nện cho một trận nhừ tử rồi thôi. Ăn không ngon ngủ không yên bà ngã bệnh và cứ thế lải nhải trong giấc mơ. Từ khi cơn mơ bộc phát thì những hàng ngói trên mái nhà bị lục soát cặn kẽ, một góc chuồng heo cũng bị đào lên, hồ cá phi nhộn nhịp kẻ bơi người lặn dưới đáy sâu nhưng ghê sợ nhất vẫn là bồn cầu, từng mảng xi măng để ngồi được cạy bung lên và cả bọn gồm đủ thành phần cao cấp phường xã đến thanh tra. Hố phân bốc mùi thum thủm lẫn lộn với dòi bọ bò lúc nhúc cùng ruồi nhặng bay vo ve, có con xà cả xuống, mút mát căng một bụng rồi lại cất cánh bay lên đáp ngay vào mặt những người đang ngưỡng mộ chúng.
Dù nhặng dù ruồi chẳng ai đặt vấn đề vì của cải trong trí tưởng tượng của họ thơm phức, ngon ngọt hơn nên kẻ thọc gậy, người múc, cứ thế quần quật thay phiên nhau moi móc từ sáng sớm cho đến tối mịt. Sở dĩ họ cố công đào không phải là không có lý do. Trên Chợ Lớn đa số những thương gia người Tàu đúc tượng thờ bằng vàng hoặc để cả khối đem dấu, chỗ dấu duy nhất không ai ngờ chính là cái nhà cầu dơ bẩn. Có người khôn ngoan hơn dấu ngay trong những chậu kiểng đặt tênh hênh sau nhà vì giữa lộ thiên ít ai dòm ngó mà vẫn bị lộ.
Riêng nhà bà cai, có nơi bà khai đúng cũng có nơi sai, có chỗ đào được vàng và cũng có chỗ chỉ thấy phân. Họ thay nhau canh gác, rình mò từng cử chỉ của bà như người ta rình bắt kẻ gian bài. Hễ bà để mắt chỗ nào hơi đáng nghi là chỗ ấy có người đào xới, ngay heo gà cũng bị giết lần mòn mà bà có dám nhìn chúng đâu. Con Bạch con Vàng giữ nhà đã đến hơn mười năm, khôn ngoan là thế nhưng giống chủ cụp tai cúp đuôi sợ họ vành vành mà không thoát, vài bữa sau cũng bị làm thịt vì nghe nói máy rà vào bụng nó kêu bíp bíp. Bà không tin con chó bị ai dụ nuốt vàng, có bắt hoặc đè cổ banh miệng bỏ vào nó cũng chẳng thèm của cứng ngắc chẳng có mùi vị ấy. Bà nhớ từ hôm kiểm kê hai con chó bị bỏ đói, ngay heo cũng bữa được bữa không. Cặp chó to như hổ ăn giành cám heo không đủ no chúng phải lang thang ra ngoài xóm lân la ở những đám trẻ con bò lê bò càng trước nhà chờ được ăn vàng từ ruột già trẻ nít phế thải ra. Bà lại càng không tin có máy rà vì nếu có họ đã chẳng lục lọi loạn xạ mất thời giờ như vậy. Âu cũng là một đòn tâm lý mà những kẻ nhát gan ngay từ phút đầu không đánh đã khai. Tội đôi chó, ăn vàng nào thì cũng phải chết vì chúng có tướng chết bất đắc kỳ tử. Nhất bạch nhì vàng tam khoang tứ đốm, hai con đứng ở hàng nhất và nhì nên thoát thế nào được. Bà không xót thương cho chúng vì người còn không biết sống chết thế nào nói gì đến con vật.
Ở đời, có tật giật mình; quen sống cảnh giàu sang giờ sa cơ bị kẻ ngu xuẩn dốt nát hù vài câu cũng đủ sợ. Chẳng cần suy đi nghĩ lại bà cai tự động dâng hiến bầy heo gọi là ủng hộ anh em ăn mừng chiến thắng, hy sinh luôn cả căn nhà đồ sộ cùng tất cả bò gà, vườn tược, ao cá gọi là chuộc tội với cách mạng chỉ xin giữ lại khung chuồng heo sửa chữa tu bổ để ở vì bà nghĩ vừa có chỗ nương thân già, vừa tránh khỏi cảnh bị đuổi đi vùng kinh tế mới như những nhà tư sản khác. Kể ra nhút nhát và qụy lụy như bà cai cũng có cái hay; các cán bộ khỏi phải ra mặt chiếm đoạt lại còn có người để sai vặt thì tội gì không khoan hồng cho ông bà ở lại làm tôi tớ. Đã vậy họ còn tuyên bố thả lỏng tôi, vợ một tên lính ngụy mang đầy tội ác, nợ máu với nhân dân được lên xuống cơm nước và trông coi vườn tược. Tôi thấy tội cho Nguyện, dù có mặt ở đây anh cũng không dám cãi là chỉ có tội với vợ con, với lương tâm và tổ quốc vì anh là một tên hèn nhát trốn lính, trốn trách nhiệm làm chồng nhưng thôi, tội với ai thì anh cũng đã bị tù; nhà tù cải tạo sẽ gột rửa anh thành một con người khác và dù gì tôi cũng vẫn cứ nuôi hy vọng anh sẽ thành người, một con người thực sự sau khi đã lột bỏ cái nhu nhược thấp hèn của mình.
Từ khi dọn xuống nhà heo, tinh thần của ba mẹ Nguyện sa sút thấy rõ, cả ngày cứ ngồi ủ rũ. Rõ ràng cái oai phong ông bà chỉ có khi còn tiền, con người ta lúc trần truồng ai cũng như ai, cũng có những cái đáng thương đáng tội nghiệp. Nhìn ông bà tôi thấy chua xót cho thân phận kẻ chỉ biết sống dựa vào đồng tiền. Tiền hết, cái hách dịch, khí phách chẳng còn mà giờ như một xác khô chờ chết. Tiền bạc nó làm sầu não ông bà, thằng con trai trong tù là mối đau thương cắn xé ngày đêm và mỗi ngày ra vô nhìn mặt tôi có lẽ ông bà lại thẹn vì lối đối xử khi xưa.
Từ ngày buôn bán ngoài chợ trời có chút đỉnh tiền ra tiền vào bố mẹ Nguyện ân cần tử tế với tôi thấy rõ. Cũng có thể từ lúc bị mất hết tài sản ông bà mới nhận ra rằng trên đời chẳng có gì bền vững, quý báu bằng tình cảm con người nên những hà khắc mắng chửi đã thay thế bằng những lời nỉ non tâm tình. Riêng tôi tình cảm đối với gia đình chồng trước sau như một, vẫn lễ phép, tử tế với bậc cha mẹ nhưng những gì đã xảy ra, những kinh nghiệm sống bắt buộc tôi phải e dè và luôn luôn phòng bị. Cái quá khứ đau thương không thể biến mất dễ dàng bởi nó đã thành vết sẹo to lớn chai cứng trong óc. Quạ đen muôn đời vẫn là quạ đen; tôi biết cái hổ thẹn chỉ là một hình thức che đậy bên ngoài để gợi trong tôi sự tha thứ. Khi đã có sự tha thứ thì đâu ai nỡ ẵm con ra đi như bao nhiêu kẻ đã làm và sẵn sàng chấp nhận làm hầu tớ như ông bà đã biết làm hầu tớ từ khi xuống nhà heo. Có điều ba mẹ Nguyện không hề nghĩ hầu tớ của tôi phát xuất từ luân lý xã hội, từ ràng buộc vợ chồng, từ liên hệ máu mủ, cái hầu tớ phát xuất từ tình người chứ không phải như ông bà đã hầu tớ cách mạng, một hầu tớ lúc nào cũng chờ thời để vùng lên để làm chủ lại họ. Tôi hiểu cái thâm ý của ông bà. Chờ thời. Vâng. Hy vọng là sự sống của con người; ai sống mà chẳng nuôi hy vọng? Quanh xóm tôi và mỗi phường xã đều có những người lén lút bỏ trốn vào trong rừng thành lập đội kháng chiến quân. Toàn dân miền nam giờ chỉ trông vào đoàn quân kháng chiến hợp với sự trợ lực mạnh mẽ từ hải ngoại chờ ngày quật khởi. Không ai giết được niềm hy vọng của con người ngoài trừ họ tự giết nó.
Những ngày tháng sống trong khốn khổ đói khát, tôi vẫn không nghĩ mình sẽ trở thành tay buôn bán vì không có kinh nghiệm lại nhút nhát sợ hãi. Không ngờ túng quá cũng phải liều vác mặt lên Sài Gòn bán vài ba cái quần áo tốt của Nguyện còn lại. Vài ngày sau ăn hết tiền bán đến mắt kiếng, đồng hồ và cứ thế những gì có thể bán được là cứ bán. Bán riết quen mặt, nhờ đó tôi biến thành dân buôn bán chợ trời lúc nào chẳng hay, có nghĩa là tay kẹp cái áo, chân đạp xe dừng lại vỉa hè, gạ bán cho những người từ Bắc vào Nam chơi hoặc mua lại của những kẻ cần tiền mang đồ ra bán như tôi khi xưa.
Buôn bán làm tôi mạnh dạn và vững tin hơn ở mình. Tôi không còn thấy cái bụng bì bì là một đại nạn khi bị công an rượt bắt vì chẳng ai muốn bắt một bà sắp sanh mang nhốt cho tốn cơm gạo và tốn cả tiền đỡ đẻ. Ngày sanh bé Trường, con so mà tôi chỉ rặn có ba hơi. Thằng bé bị lôi ra lẹ làng sợ quá khóc thét lên. Khóc được là tốt, không vừa lòng chuyện gì cứ khóc cứ gào, đừng câm như mẹ nó, đừng khiếp nhược, hèn như bố nó và cũng đừng cay độc như ông bà nội nó. Nhìn Trường tôi nửa mừng nửa tủi, thằng bé không đến nỗi giống y hệt Nguyện như tôi đã nghĩ, nửa mang vẻ tài tử phong lưu như bố tôi, nửa giống ở mẹ Hoài làn da ngăm đen duy có một điều đáng tiếc là giống ở bà nội cái môi trề. Sự ra đời của Trường cho tôi thêm sức mạnh tinh thần phấn đấu và ý nghĩ vượt biên lo cho tương lai bắt đầu lan rộng. Đồng thời nhờ sự thay đổi của ông bà, có thể chỉ là tạm thời, cũng đủ cho tôi hãnh diện phần nào và tự tin vào khả năng của mình hơn. Tôi mang hết sự khôn ngoan tháo vát và tận dụng cả sinh lực trong người để kiếm tiền hầu mong đảo ngược hoàn cảnh.
Sáng sáng đạp xe đi, nhiều khi tối mịt tôi mới mò về với đầy giỏ thức ăn, cũng có hôm cồng kềnh nửa chục hộp Similac, loại sữa bột nhập cảng cho bé Trường. Kể ra thằng bé còn may mắn lắm, thời này trẻ con nếu không có sữa mẹ đành phải uống nước cháo hoặc khá hơn là sữa con chim, sữa ông thọ, sữa mẹ bồng con. Con tôi vẫn phong lưu sung sướng như bố nó thuở nào vì với xã hội nghèo đói ít ai dám bỏ gần cả số lương tháng của cán bộ để chỉ mua một hộp sữa cho con mình. Tôi làm lụng cực khổ vất vả cốt vì thằng bé thì nó phải được hưởng món quà vật chất lẫn tinh thần đó. Nhìn con mút chùn chụt chất sữa ngọt lịm mà lòng tôi xúc động từng hồi. Dưới ánh đèn điện, thằng bé mở tròn đôi mắt to đen nhìn mẹ. Mặt nó bụ bẫm với màu da bánh mật nhoẻn nụ cười tươi, hạnh phúc cả ngày của tôi ở giờ phút đó.
Sau bữa cơm phụ trội toàn thịt quay, bánh mì, bơ sữa với cha mẹ chồng, tôi nằm ôm con mà thấy hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh Nguyện không thể chen vào xen kẽ, mọi lo lắng buồn phiền rã tan, mọi buôn bán tranh giành cũng rũ sạch. Ôm xiết thằng bé trong lòng và bằng một cử chỉ nâng niu tôi áp mặt mình vào chiếc má thơm mùi sữa của nó để tận hưởng cái tình mẫu tử thiêng liêng, để thấy lòng sung sướng vì đã được Thượng Đế đền bù.
Sáng sớm trời còn mờ sương tôi đã vội vã mò đi kiếm ăn, rời bỏ tổ ấm, rời bỏ con tôi còn đang say nồng giấc ngủ. Người ta thương con, nuôi con bằng sữa mẹ ngọt ngào; còn tôi vì sinh kế phải lang thang như chó đẻ trốn con. Chó đẻ trốn con vì không đủ sữa cho con bú; tôi có sữa nhưng không thể ôm con để cả nhà đói. Những hôm đạp xe dưới trời trưa, hơi nóng mặt đất bốc lên đổ lửa, những hôm bị ráp bố chạy mắt đổ hào quang, mọi chướng ngại vật, mọi hiểm nguy tôi đều vượt qua chỉ vì sức mạnh và tình thương yêu quá lớn tôi dành cho con đã thắng tất cả. Tôi làm quên thân mình chỉ vì Trường, vì muốn cho tương lai nó phải rực rỡ. Vâng, dù thế nào nhất định khi Nguyện về chúng tôi cũng phải vượt biên.
Hàng tháng tôi vẫn đút lót tiền để được yên thân với cái nghề đang bị ruồng bố vì làm bẩn phố phường. Họ bảo xã hội chủ nghĩa không có buôn bán, ăn mày, trộm cướp, nhưng cả ba thứ lại được mọc đầy như cỏ dại. Không buôn bán sao sống nổi vì ngay đến cán bộ lương tháng chỉ đủ ăn năm tô phở. Không ăn mày sao phải mang hộ khẩu hân hoan đứng xếp hàng từ sáng đến chiều? Những người có hộ khẩu nghĩa là có nhà cửa sẵn hồi chế độ cũ, có con em đi thanh niên xung phong, có người thân đi tập kết hoặc không có tiền án nợ máu cũng chỉ được mua mỗi tháng vài ký gạo, vài ký khoai, bột mì, vài lạng đường. Bằng đó chỉ đủ ăn một tuần cho mỗi người nên bữa cơm dọn ra phải độn thêm rau hoặc khoai. Người không hộ khẩu nhan nhản từ khắp nơi trốn về vì không sống nổi ở những vùng kinh tế mới, vùng đất khai triển bằng sức con người lại thiếu phân bón, giếng đào sâu chỉ gặp nước phèn, người sống không nổi lấy đâu cây sống nên khô cằn không sinh hoa lợi. Muỗi mòng, bệnh hoạn không thuốc men, thiếu đủ mọi tiện nghi và không lương thực sống, bụng đói ai chẳng làm liều; họ bỏ tất cả để trở lại thành phố. Dân trong thành phố đói, dân ở kinh tế mới cũng đói, không ăn trộm cũng ăn cướp. Vì thế, cướp, cắp lan tràn từ cán bộ đến dân, có điều cán bộ cướp thì có mảnh giấy tạm thu còn dân chúng lớ ngớ, ấm a ấm ớ thì bị đi cải tạo.
Thỉnh thoảng tôi cũng hay sống hình thức, làm cỗ đãi các ông công an phường gọi là chia nhau những con cá còn sót lại dưới ao, gọi là tình bắc nam một nhà và cũng là cái chúc mừng cho mình đã không có nhan sắc để khỏi phải mang kiếp hồng nhan đa truân như nhiều bà có chồng đi học tập đã bị mua chuộc hoặc ép buộc phải rơi vào tay họ. Cũng có hôm kiếm ăn khá tôi mua vài xấp vải đen, chiếc áo len xanh gọi là chút quà đến vợ con họ còn sống chờ đợi tận nơi xa xôi. Thực ra tôi không quá tử tế như vậy nếu không có một dụng ý hoặc một che đậy nào đó. Tôi mua chuộc bằng tiền bạc và tiếp đãi ăn uống không ngoài mục đích tạo sự ràng buộc vật chất. Khi đã sống dựa vào tôi, chắc chắn họ sẽ bị lệ thuộc vào miếng ăn ngon mà lo cho Nguyện mau chóng trở về và một phần cũng để tránh những ánh mắt theo dõi hạng con buôn đi sớm về khuya như tôi. Họ đâu biết tôi trá hình cực khổ vì ngoài bữa cơm thanh đạm được bày ra ánh sáng, trước sự dòm ngó của họ còn thì mọi thức ăn ngon được dấu trong phòng, lét lút vội vàng ăn vào bữa đêm sau khi đã khóa cửa cẩn thận. Ban đêm mới là bữa ăn chính đầy chất bổ dưỡng cho cả nhà bốn người.
Buôn bán quần áo cũ chỉ là hình thức che đậy cảnh đi đi về về, thực ra tôi buôn những thứ phạm luật nhà nước. Những năm sau này nhờ bán thuốc tây, đổi tiền đô và những hàng quà từ ngoại quốc về tôi khá một cách mau chóng. Cũng dạo đó tôi hay đạp xe xuống nhà Thanh Huyền rủ nó sống cuộc đời lê lết đầu đường xó chợ để dành dụm chút tiền cho sớm thành mưu sự. Chẳng phải chỉ những kẻ buôn bán mới dám có ước mơ mà hầu như tất cả mọi người trong nước, những người đã từng sống trong tự do, biết được giá trị của nó nên cũng cố gắng tìm đường vượt biên.
Có những hôm dự định từ trước, tôi mua thịt cá, bánh trái kêu xe ôm chở xuống Lái Thiêu thăm bố cách chỉ hơn mười lăm cây số. Bố ở vườn thế mà hay, vừa sống khỏe khoắn với không khí trong sạch, vui cùng thiên nhiên lại vừa tránh xa được dì Loan, người chỉ gây ra những xáo trộn và buồn khổ. Bố ở chung với bà cô tôi, em ruột của ông nội tuổi đã ngoài tám mươi. Chú Hải con của bà bị tù ba ngày như Nguyện nhưng bà vẫn may mắn hơn những gia đình khác thoát khỏi cảnh chết đói vì còn có bố. Bố làm cật lực nhưng chẳng đủ ăn vì không quen làm vườn và sức khỏe không có; nói cho đúng, bố chỉ trồng vài ba dây lang vớ vẩn ăn qua ngày. Tôi vẫn mua gạo, lương thực khô tiếp tế hàng tháng cho cả hai. Nhiều khi tôi tự nghĩ nếu mình bị chết có lẽ bằng đó người cũng phải chết theo, một thứ dây leo đầy rẫy trong xã hộ chủ nghĩa vì chính sự cải cách sai lầm đã đào tạo ra những loại dây leo đó.
Ba năm trong tù Nguyện được thả về với đôi chân tê liệt, với nửa thân người gần như tàn phế. Cậu ấm Nguyện cả đời chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp, ra vô có kẻ hầu người hạ giờ đói phải vào rừng ăn lá dại lót lòng, bắt ếch, bắt chàng hươu và ngay cả con trùng đất ken ruột nuốt sống. Cậu ấm Nguyện cả đời không hề cầm đến cái xẻng, cái cuốc giờ ra sức đào xới, chặt cây để trở thành người tốt xứng đáng hưởng chính sách khoan hồng của chế độ mà trở về cùng gia đình. Có điều Nguyện chỉ chú trọng về công tác lao động để được rời khỏi sự kềm kẹp mà quên đi phần quan trọng là sự đào luyện tâm hồn. Nguyện cố gắng dằm sương dãi nắng, làm tốt, học tập tốt nhưng lối làm hùng hục của một con trâu bị đeo vào cái ách và vì sức mạnh của làn roi đập tới tấp xuống người, lối học của một con vẹt lập lại lời người ta dậy. Cũng may nhờ là con trâu, con vẹt nên Nguyện không bị tiêm nhiễm thêm thói hợm mình, thói khỉ dòm nhà, thói đào bới hoặc tạo dựng tội ác gia đình giòng tộc để lập công với nhà nước mua chút hư vị.
Ba năm trả nợ kiếp trâu cày thì Nguyện hoàn toàn kiệt lực; đôi chân tê liệt là bằng chứng cụ thể nói lên sự phế thải của một loại nặn chanh bỏ vỏ. Nguyện được thả về vì chẳng những vô dụng lại còn là gánh nặng cho chính sách đang cần sức khỏe để lao động. Ngày đoàn tụ cười ra nước mắt. Hai tên công an trịnh trọng quá mức đâm ra lố bịch khi thấy dân quanh xóm lấp ló lén nhìn từ cửa sổ. Bản tính phô trương lại có cơ hội phục hồi, họ đưa vai cho Nguyện bám lấy rồi cố sức đưa thân thể còm cõi vì thiếu bổ dưỡng nhấc bổng Nguyện lên. Dù được nhấc bổng lên nhưng trông cậu ấm Nguyện chẳng oai phong tí nào, bộ quần áo ngày xưa mang theo đã cũ theo thời gian, mái tóc cắt quá ngắn gần thành trọc nhô mảng sọ to lớn như chiếc đầu lâu. Mắt cậu trũng xuống, lờ đờ mệt mỏi ẩn sâu dưới màu da tái xám. Cậu được đặt ngồi dựa lưng vào tường trên chiếc chõng tre trải manh chiếu đã cũ rách, hai giọt lệ chảy dài và cứ thế lăn mãi, chẳng hiểu đó là lệ vui mừng của ngày xum họp hay cùng chia buồn cả cho thân phận những người ở ngoài vòng tù tội.
Hai gã công an hoàn thành xong công tác đặc biệt mang kẻ tàn phế về tận nhà nhưng vẫn còn đứng sớ rớ đưa mắt nhìn quanh. Lúc đi trong lòng cả hai cùng chung một ý nghĩ sẽ được gia đình Nguyện đãi bữa cơm no, được biếu xén quà cáp thời Mỹ Ngụy còn sót lại hoặc ít ra cũng có chút đỉnh tiền gọi là góp công với cách mạng không ngờ khi bước vào gian nhà lá ghép phên chung quanh, nhà không ra nhà mà chuồng cũng chẳng ra chuồng, nó vá víu chỗ này miếng ván chỗ kia dúm lá trông rất khôi hài. Giữa nhà kê bộ bàn ghế đặt chỏng gọng vài cái ly úp trên đĩa và một bình nước trà như phô bày một sự thực não lòng của những ngày tháng sống thiếu thốn khốn khổ. Mẹ Nguyện đang ngồi ôm cháu chạy đến lệ đổ như mưa nhưng không dám buông tiếng khóc vì sợ con mình lại bị bắt đi học tập trở lại như đã có một số người bị chỉ vì gia đình chưa tiến bộ. Bố Nguyện bệnh nằm co trên giường cũng cố gắng vén màn vừa chào hỏi vừa ho sù sụ cám ơn anh bộ đội và chính sách đặc biệt khoan hồng đã cho Nguyện trở về sớm hơn tất cả mọi người. Ông đâu biết rằng chỉ vì đôi chân liệt đã biến Nguyện thành gánh nặng cho họ vì phải tốn tiền thuốc men, ăn uống và ngay cả việc chôn cất. Hai anh cán bộ trong lòng hả hê dù không được đãi bữa cơm cũng chẳng có quà cáp. Cái làm cho họ tự hào và tự mãn là chính sách nhà nước quả thực minh mẫn, khôn ngoan đã biến dân Nam, Bắc trở thành sạch sẽ từ trong lẫn ngoài. Như vậy dù họ có phải hy sinh cả đời nơi rừng thiêng nước độc để quản chế đám tù binh cải tạo thì dân trong thành phố hay trong rừng cũng đều nghèo như nhau. Sự so sánh thiển cận chỉ dựa vào một vài thành phần bị thu mua tài sản và bị bóc lột cũng đủ làm họ thỏa mãn sự ghen tị sẵn có trong đầu. Họ đâu biết rằng chính họ cũng chỉ là người cầm cái ách đi theo con trâu cày trên khu đất cằn cỗi xác xơ không thể tạo ra hoa lợi.
Lúc Nguyện về tôi không có nhà, nhờ thế đỡ tốn bữa cơm thừa thãi và nhờ thế họ không thể biết tôi đang là thành phần bóc lột để rồi thản nhiên đến trơ trẽn ngửa tay xin xỏ, một hình thức đe dọa bóc lột lại. Ba năm Nguyện không có gì thay đổi ngoài thân thể bị đẽo gọt thê thảm. Đôi chân tê liệt chỉ vì thiếu dinh dưỡng cũng đã làm tôi tốn phí rất nhiều thì giờ và tiền bạc chữa chạy thuốc thang. Bù lại Nguyện đáp trả lại tôi bằng những lời giáo huấn nhẹ nhàng nhưng cũ rích được lập lại như con vẹt để lạm dụng, rằng xưa kia người đàn bà nết na đức hạnh đều tảo tần nuôi chồng ăn học, lập công danh như mẹ Nguyện đã cả đời làm lụng nuôi con nuôi chồng; nay tôi nuôi Nguyện là lẽ thường tình như trăm người đàn bà khác, nhất là trong cảnh đổi đời, người đàn ông như cá nằm trong thớt càng dãy càng chết. Công việc từ bấy lâu nay tôi làm không phiền hà than trách và cũng không nặng nề bằng cái "phải" và "trách nhiệm" mà Nguyện vừa chụp xuống. Từ khi Nguyện được về tôi cảm thấy mình đuối sức, không vì thể xác mà tinh thần đã đến hồi kiệt quệ. Tôi luôn cầu xin cho công việc giúp tôi quên đi những ray rứt trong lòng. Sự thất vọng trong tình chồng vợ mỗi lúc một ắp đầy thì đồng thời số tiền tôi dành dụm càng lúc càng cạn.
Năm sau Nguyện đã đi đứng trở lại bình thường nhưng mộng vượt biên phải trì hoãn vì tôi cần chạy bạy buôn bán thêm một thời gian để kiếm tiền. Chàng cũng chẳng thể giúp gì được cho tôi, cũng không dám bước ra khỏi nhà vì sợ họ buộc cho đủ thứ tội như những người khác đã bị bắt nhốt trở lại. Tôi lại nuôi thêm một miệng ăn nhưng điều đó không đáng lo bằng sự áp chế của bố mẹ Nguyện đã có cơ hồi sinh. Cả ngày tôi rẽo khắp đường phố bất chấp cực khổ mưa nắng để kiếm tiền thì ở nhà bố mẹ Nguyện dạy con dạy cháu bằng những tư tưởng khắc nghiệt. Tối đến cơm nước xong Nguyện mang lời chỉ bảo vàng ngọc của mẹ ra áp dụng với tôi.
- Khốn kiếp, tôi hét lên, anh vẫn không bỏ được cái tính hèn hạ độc ác. Tôi không phải là con chó mà bắt nó mãi ăn cứt. Tôi không phải là đứa nô lệ phải có bổn phận phục dịch cả gia đình anh đến trọn đời.
- Mày muốn làm gái mới, muốn làm đĩ lấy trai phải không?
- Đi buôn đi bán không phải là làm đĩ. Tôi ở nhà cho sướng thân xem ai đói cho biết.
Nói thì oai lắm nhưng chỉ được vài giờ đâu lại hoàn đấy, tôi đội nón và máng giỏ vào ghi đông lầm lũi đạp xuống chợ trời Huỳnh Thúc Kháng. Nghĩ đến cảnh con tôi đói khát, cảnh bà cô và bố tôi ngơ ngáo khi cuối tuần không có tiếng xe honda ôm chở tôi đến nổ dòn từ đầu ngõ, nghĩ đến giấc mộng vượt biên không thể thành tựu tôi quên hết những lời đay nghiến nặng nhẹ của gia đình, quên tiếng làm đĩ lấy trai thô tục, quên tiếng gái mới, gái tân, quên tiếng nạ giòng, nạ giống để chỉ nghĩ đến khuôn mặt kháu khỉnh và tiếng cười dòn của con tôi. Thằng bé lớn, lớn lắm rồi, bốn tuổi nó đã biết dành dụm bỏ tiền vào ống chờ khi bố bệnh có tiền thang thuốc. Nó đã biết thức khuya chờ mẹ về chợ để nhai tỏm tẻm miếng giò lụa hoặc vài chiếc bánh giò nhân thịt. Nó đã biết vòng vai bá cổ biểu tỏ tình thương yêu qua nụ hôn ngọt ngào trên má tôi và nó cũng biết nỉ non xoa xuýt khi thấy tôi mỏi chân, nhức đầu. Ôi con tôi, vị thiên thần nhỏ bé, chỉ có tình mẫu tử mới làm tôi vị tha để sống đẹp với người đã xử tệ mình. Chỉ có tình mẫu tử mới làm tôi vượt mọi trở ngại gớm ghê, vượt những thành kiến khắc nghiệt độc ác của mẹ chồng, của bố chồng và ngay cả chồng. Chồng đấy!
Xã hội mới con người đảo lộn từ trên xuống dưới; người chẳng ra gì nắm quyền hành lớn trong tay; kẻ mù chữ thất học ban bố những đạo luật chướng tai gai mắt và chẳng nói đâu xa ngay xóm tôi nhan nhản kẻ tố chồng, người bỏ vợ, nguyên do chỉ vì miếng cơm manh áo, vì tranh nhau vòng danh lợi khát sống. Nguyện đâu biết được những đổi thay cuộc đời mà đa số như cây cỏ mềm yếu gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy. Nhiều bà chồng bị tù đày không biết ngày về nên đã lấy người khác vì còn tiếc nuối xuân xanh, nhiều bà không chống chọi nổi với thời cuộc, với đói khổ hành hạ tìm con đường chết cho nhẹ gánh nhưng cũng nhiều người gồng mình với thử thách cố giữ tấm lòng son sắt thờ mẹ nuôi con chờ ngày chồng được thả về, thế mà Nguyện đã không biết đón nhận cái hạnh phúc khó tìm, lại còn nặng lời bạc bẽo. Hận Nguyện nhưng rồi tôi lại tự xoa dịu mình bằng những câu ngu xuẩn: Khi người đàn ông ghen có việc gì mà không dám làm, có ngôn ngữ vô sỉ nào mà không dám nói. Từ nhà đạp xe đi mắt tôi nhạt nhòa màn lệ, tới chợ gặp bạn bè, trúng được cú áp phe tôi lại thấy niềm vui và hy vọng tràn về, khi màn đêm buông phủ, với giỏ đồ ăn đeo nặng một bên ghi đông, mắt tôi lại ngời sáng với tiếng cười dòn dã của bé Trường, với đôi má phúng phính thơm ngọt mùi sữa, để rồi quên cả sáng mai, mỗi sáng bước ra khỏi nhà lại bắt đầu bằng một tâm hồn nặng trĩu, cái nặng trĩu.
Ngày qua ngày, tôi luôn trong trạng thái bất thường giữa mưa và nắng nên chỉ thầm mong sao kiếm đủ số vàng chung cho chủ tàu để vượt biên, giấc mộng đã nung nấu bao tháng ngày. Tôi không biết ngày nào giờ nào chúng tôi sẽ được dẫn dắt nhau đi nhất là phải nói thế nào về lời từ biệt với ba mẹ Nguyện. Không hiểu vì bán buôn quen dối trá, môi miếng hay quyết đi cùng chồng con cho bằng được mà tôi đã dùng tiền mua chuộc bố mẹ Nguyện bằng cách để vàng bạc lại hết cho ông bà ngoài một phần phải trả cho chủ tàu. Nào đã xong, tôi còn dùng miệng lưỡi: "Chúng con hứa khi vừa qua đảo sẽ gửi tiền về ngay. Tiền con dấu ở các gói kẹo, bánh, ở hình, ở giầy dép, ở áo quần..." Tôi vạch một tương lai rực rỡ, hứa hẹn toàn những hình ảnh tốt đẹp trong khi tôi chưa hề hình dung trại tị nạn như thế nào, cuộc sống làm ăn và dân bản xứ đối với người tị nạn ra sao. Tôi cứ nhắm mắt, miệng phóng đại những lời ngọt ngào với mục đích duy nhất làm cho ba mẹ Nguyện chỗi dậy lòng tham, bỏ con tép bắt con tôm mà bằng lòng cho chúng tôi đi. Tôi cũng không cảm thấy xấu hổ khi miệng mình bịa chuyện một cách tài tình chỉ vì ba mẹ Nguyện đã quyết định không đi, họ tiếc căn nhà và vườn tược đã tạo dựng mấy chục năm nay. Dù gì cũng phải lo cho tương lai chúng tôi, nhất là Nguyện, bây giờ khác nào cá nằm trong rọ, vùng vẫy cách mấy thì cũng phải chết, không bằng cách này cũng bằng cách khác nếu không tìm đường chui ra ngoài. Thêm vào đó còn tương lai Trường, nếu tiếp tục ở đây suốt đời nó không thể ngóc đầu lên được và rồi cũng như muôn triệu người, không làm cu li cũng là nô lệ cho chế độ.
Làm nô lệ suốt đời... Tôi lại rùng mình. Tôi đang làm gì đây? Gần một tháng nơi đảo tôi đã làm được những gì hay lại nối tiếp quãng đời xưa kia khuất phục trước sự ích kỷ nhỏ mọn của chồng. Tôi không hiểu tại sao mình lại khiếp nhược sợ hãi như vậy? Rõ ràng mỗi lần cãi nhau tôi đâu có chịu bớt mồm nhịn miệng. Rõ ràng mỗi lần Nguyện nổi xung tôi chỉ muốn nhào vào để đón nhận cái chết. Vậy thì vì lý do gì? Phải chăng cái phong kiến lỗi thời đã cột cổ bắt tôi phải chịu đựng hay Nguyện đã lợi dụng những thành kiến khắt khe của người đời để áp chế tôi? Phải chăng đau khổ bởi sự ngu xuẩn của chính mình mà nảy sinh nên từ lâu tôi đã tự cột cổ mình, tự ngụp lặn, giãy dụa trong đầm nước đục không dám phóng mình nhảy ra vì thái độ ươn hèn sợ phải đối diện với thực tại chua chát? Có phải tôi chỉ như con ếch tự bó chân bó tay ồm ồm kêu gào và tự khoác cho mình cái khiếp nhược vì sợ dư luận nguyền rủa, xỉ vả..? Nếu tôi không tự tìm cách phóng lên tìm nơi sáng sủa tốt đẹp mà ở thì sẽ muôn đời chết dần mòn trong cái thòng lọng cuộc đời. Xã hội càng ngày càng tân tiến, tôi không thể đóng khố ở trần, nuốt thịt sống như thời sơ khai còn ăn lông ở lỗ. Ở xã hội văn minh, tôi không thể mãi dùng khúc cây gạch xuống đất cộng trừ nhân chia trong khi chung quanh người ta đã dùng máy tính điện tử. Tôi cũng không thể lọc cọc di chuyển chiếc xe bò làm kẹt đường phố trong khi mọi người chạy xe hơi, xe gắn máy hoặc máy bay, tàu thủy. Tôi cũng không thể đạp xe ngàn cây số thông tin bằng miệng trong khi mọi người đang xử dụng điện thoại, ra đa...
Những gì chậm tiến đã được cải tiến, vậy thì tư tưởng lạc hậu, thành kiến khắt khe làm tổn hại hạnh phúc, làm đau khổ cho đời sống con người sao lại được mãi duy trì? Hôn nhân chúng tôi không hạnh phúc sao lại cứ phải đi đôi như hình với bóng để đày đọa nhau? Tại sao tôi không tìm một phương cách nào đó để giải tỏa sự ràng buộc vô hình? Vẫn biết sự ly dị là chẳng đẹp, chẳng tốt lành gì cả nhưng nếu việc làm đó đưa đến cho con người một cuộc sống mới, một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, mang đến cho tôi một niềm hy vọng vào con, nuôi cho nó ăn học thành tài, thành một người hữu dụng sau này, nhất là tránh khỏi sự nhờm gớm, thoát được những trói buộc hằn trên đôi mắt khinh khi của Nguyện và cũng là một giải thoát cho tôi lột sạch mặc cảm bị hãm hiếp, một tội lỗi không do mình tạo nên thì sự ly dị có phải là một điều xấu?
Thượng Đế ơi xin cho con chút nghị lực và minh mẫn sáng suốt để trả lời bằng đó câu hỏi mà tâm hồn không phải bị dằn vặt...
Màn đêm nhận chìm cảnh vật dưới thung lũng trong bầu không khí nghẹt thở. Cái nghẹt thở đến vã mồ hôi không đủ giảm bớt những ớn lạnh vì người ta vẫn hình dung các oan hồn uổng tử đang ẩn náu trong bóng đêm, lẩn quất đâu đây chưa muốn siêu thoát. Cùng đi theo, gió từng đợt quất vào rừng cây rào rào tiếng lá rớt, âm thanh cuộn tròn như con lốc cất cao, cao mãi, vượt khỏi hai đỉnh đồi phát ra những tiếng hú thê lương não nuột. Tiếng hú nhọn, xoáy sâu vào màng óc kèm theo mùi máu tanh tao đến nôn nao gan ruột. Trong cái im lặng mang sự bí mật bao trùm chợt có tiếng chân chạy huỳnh huỵch và rồi vài phút sau chuông nhà thờ đổ liên hồi; lẫn lộn theo sau là kẻng báo động và tiếng mõ, tiếng trống khua rền. Âm thanh khủng khiếp vang lên giữa đêm khuya tĩnh mịch như giặc cướp tràn về khiến những lo sợ vỡ ra. Tất cả mọi người trong trại đều thức giấc.
- Thôi rồi tàu bị nạn cặp bến.
Thằng Tâm hốt hoảng bật dậy phóng mình ra ngoài. Thằng Hãn, thằng Thụy và Nguyện không kịp xỏ dép cũng băng mình trong bóng đêm. Trang ôm lấy ngực, Mây co rúm người lại còn tôi trống ngực đánh liên hồi.
- Ra mà xem chuyện gì đi chị Phượng.
- Không.
Tôi run rẩy dấu người trong chăn mặc chúng lải nhải bàn tán. Rốt cuộc không chịu nổi tiếng gào khóc và tiếng hò rống thê thảm bên ghềnh đá chúng cũng hơ hải nhập bọn với đám người đang chạy rầm rập. Tôi lạnh người vì những tin tức cứ lần lượt tới từ những người đi xem trở về. Đêm náo loạn như tận thế với những bóng đen tất tưởi qua lại. Những vệt đèn pin lóe lên như con mắt giận dữ của ai đó rồi lại tắt ngấm trong hờn tủi bẽ bàng.
Suốt cả đêm ai nấy như ngồi trên lửa đỏ. Chiếc tàu năm mươi tám người vừa cặp bến khác nào xác con vật khổng lồ rữa thối đầy vi trùng độc hại trôi giạt lên bờ và lan tràn tứ tán, gặm bám vào ruột gan con người, đục đẽo nỗi đau triền miên, niềm đau cố hương muộn màng mất mát. Cái đớn đau không thể kêu gào bằng lời, không thể bộc lộ bằng tiếng khóc, bằng nước mắt, bằng oán than mà thấm nhập vào người làm chương phình từng thớ thịt, làm mí mắt cộm cay và làm trái tim tắc nghẽn. Cái đau, cái oán hờn nhất là thảm cảnh trên biển Đông diễn ra ngay sau hòn đảo nổi, cách trại chưa khỏi tầm mắt.
Người trên tàu kể lại rằng qua bẩy lần bị cướp nhẵn nhụi trần truồng, lần thứ tám cũng là lần cuối cùng, như con chó bị dồn vào nước đường cùng trước sự đau đớn và trước cái chết bắt buộc phải cắn trả để tự vệ, đàn chó ốm trơ xương, đói khát, ốm yếu không đủ sức chống chọi; họ bị những nhát búa phạng vỡ đầu lòi óc, bị những cú giầy nhọn đá bật máu mắt, bị những họng súng lạnh lùng nhả đạn. Người gục xuống ngọt như chặt chuối nhưng khi rơi xuống biển lại nặng nề như mụ đàn bà mang thai. Máu vọt từng vòi, bắn tung tóe đầy lên kẻ sống và người chết. Máu tuôn từng vũng, tràn khỏi tàu từng vệt dài, loang xuống biển loãng ra thành màu đỏ tươi như trận hồng thủy thuở nào.
Máu, máu, máu. Máu chung quanh, mọi nơi, chỗ nào cũng ngập tràn máu và thây người. Đám cướp hung hãn đập mạnh vào những kẻ còn đang giãy giụa hấp hối chưa chịu nằm yên. Số còn lại dúm cả vào một góc, rút nhỏ lại trong khoang tàu nhưng mùi máu tanh khiến bọn chúng hăng tiết. Lại những tiếng dãy chết, lại những tiếng ặc ặc của kẻ vừa bị bẻ gẫy cổ. Kinh hoàng, khủng khiếp và dã man chưa từng thấy. Con người ta chỉ có thể giết nhau vì tranh giành, vì bị chống trả hoặc vì bảo vệ mạng sống; còn đám người kia có khác gì kẻ tàn tật, vừa mù vừa què nằm liệt một chỗ mà vẫn bị lôi ra giết để thỏa mãn sự tức giận. Cơn ác mộng xảy ra chớp nhoáng nhưng gây tai hại không thể lường. Nguyên do xẩy ra vụ thảm sát chỉ vì bọn cướp mang đầy hành động thú vật với lối hãm hiếp rừng rú chưa từng thấy. Chúng công khai lột quần áo đám phụ nữ ngay trong khoang thuyền và hiếp trước mắt mọi người như một thách thức khinh dể đã thúc đẩy đám thuyền nhân vùng dậy chống cự. Một người bị đánh, một nhóm nhào vào và cứ thế loang nhanh như lửa cháy. Vài giờ sau khi bọn cướp bỏ đi, nhờ mực nước dâng cao, con tàu như được oan hồn hướng dẫn cứ lững lờ trôi, len lách qua những ghềnh đá và dạt vào chiếc cọc cao ngay sau lưng thư viện.
Cả đêm tiếng gõ mõ cầu hồn và tiếng lầm rầm đọc kinh cứ liên tục không ngừng. Mọi người cùng thức chia sẻ cơn hoạn nạn đau thương với những thuyền nhân còn sống sót để rồi bàng hoàng nhìn nạn nhân như nhìn chính họ của những ngày tháng trước đây. Đêm vẫn dài dù trời đã sáng tỏ. Từng bệt máu bầm dính chặt trên khoang. Sườn tàu như chiếc kiệu tang sơn đầy những hình thù quái gỡ bằng máu người được bọc kín không cho những oan hồn bung ra tìm lỗ thở. Mãi khi nắng lên cao, trên cao ủy mới cho đám thuyền nhân nhập trại vì lý do chờ thủ tục giấy tờ nhưng thực ra họ còn bị bọn Thái lằng nhằng đòi đút lót vàng bạc như những chuyến trước đây. Gọi là nhập trại cho nhẹ nhàng chứ số nhập viện lên tới mười lăm người, nhập nhà thiêu hai mươi người, phần còn lại rớt rơi cả dưới đáy biển làm mồi cho cá. Đám thanh niên được phân chia công tác ai làm phận nấy. Họ chạy đi mượn băng ca, khăn liệm và những cái xác còn nguyên máu được khiêng bộ thẳng đến nhà thiêu bằng ngõ tắt gần nhất, dĩ nhiên quãng đường ngắn đi qua nhà tôi.
Một cái xác được khiêng ngang, hai cái rồi ba cái, càng đếm, đầu tôi càng mê muội dù đã đứng hẳn lên nghiêm trang, một hình thức tiễn đưa và cũng tỏ sự chia buồn, kính trọng người chết. Trên băng ca qua mảnh khăn phủ, máu từ thây người vẫn còn rịn ra như cố làm tang chứng oan ức. Những cái xác sõng xoài nằm im bất động nhưng lại có tác dụng khiến lòng tôi nhói lên từng cơn vội vã, thôi thúc từ trong ruột trong gan để nước mắt chảy ra mà hai mí vẫn cứng đơ không thể chớp. Cái chết đối với loài người quá vô tình hờ hững và người nằm xuống là hết nhưng để lại kẻ sống với những ám ảnh không nguôi. Số mạng đâu thể giết một lúc bằng đó người. Một trái bom nổ, một tràng đại liên là những mạng người ngã gục nhưng ít ra cũng biểu hiệu cho một chiến tranh khốc liệt. Còn những người này? Chiến tranh gì đây hay cái hoà bình giả tạo độc hại đã đẩy họ vào bước đường cùng, biết đi là sẽ chết, là sẽ bị cướp mà vẫn cứ đi. Người ta bằng lòng chấp nhận vùi thây trên biển cả nếu lỡ gặp sự rủi còn hơn lần mòn chết ở quê nhà trong sự kềm kẹp của cuộc đời trâu ngựa.
Chiếc cáng chỉ là miếng vải bố căng ngang vào hai cây dài. Hai người khiêng hai đầu kẻ trước người sau cứ thế nhịp nhàng từng bước, rút ngắn đoạn đường lồi lõm như hai con kiến càng khiêng hột gạo. Một người trật dép phải đứng lại nhưng khi xỏ vào mới hay nó bị tuột cả quai, vì thế chiếc cáng bị chao khi đặt xuống lối đi. Theo độ nghiêng, gió hất tấm khăn hở một mảng vừa đủ lộ khuôn mặt người chết. Mắt tôi dính chặt vào đôi mắt đang mở trừng như loài ong đáp xuống nhụy hoa say sưa hút mật. Cái nhìn như ăn như nuốt khiến hai đồng tử xác chết nhỏ dần và cuối cùng chỉ còn lại màu trắng nhờ nhợ kéo màng che kín cả những gân máu. Đôi mắt bây giờ mới đúng là đôi mắt của kẻ hãi sợ tột cùng trước khi chết. Nó phơi bày cả một thảm kịch hòa hợp với vệt chém ngay giữa trán. Vết chém hằn sâu tựa một cái rãnh nhỏ ứa những máu đen đặc như máu đỉa; vài con nhặng xanh bay theo tự lúc nào thừa dịp đáp xuống hút chặt lấy vệt máu, một sự rút rỉa nhờm gớm mà chỉ thấy ở những đàn quạ dành ăn trên xác người hoặc những xác vật rữa thối.
Người khiêng cáng đã gắn được quai dép nên kéo khăn phủ mặt thiếu phụ lại và đứng dậy tiếp tục đi nhưng để lại đôi mắt đeo theo tôi ám ảnh. Nó lẩn quất ngay trước mặt, trên phản, ở bếp và ngay cả trong chén cơm. Đôi mắt kèm theo mái tóc dài và làn da ngăm đen bánh mật cho tôi liên tưởng đến mẹ Hoài. Cái chết oan ức khiến mắt mẹ cũng không thể khép lại được, như người đàn bà bất hạnh kia. Sự ám ảnh gây cho tôi nỗi sợ hãi mơ hồ không thể giải thích. Hình như có sự sắp đặt nào đó. Tại sao xác chết lại được dừng ngay trước cửa cho tôi nhìn thấy mặt? Bà và mẹ Hoài có những oan ức nào không thể giải bày? Mái tóc, màu da, đôi mắt, cả ba điểm giống nhau chắc chắn không thể là sự trùng hợp vô tình.
Buổi trưa khói đen ngùn ngụt bốc lên từ phía nhà xác, mùi da thịt khét khê đảo ngược cả ruột gan khiến không ai nghĩ đến ăn uống. Ba cái xác cùng đẩy vào lò thiêu một lúc nhưng vẫn không thể kết thúc trong một ngày. Những xác còn lại đặt sẵn hàng dọc trong ngôi nhà trống trơn không vách che chỉ mỗi mái tôn chai lạnh, tàn nhẫn. Nhà xác sát cạnh chợ nhưng người đến coi thì ít mà ruồi nhặng bu lại thì nhiều. Những con ruồi xanh to bằng hột bắp len lỏi trong hốc mũi, trong miệng. Lũ ruồi quái quỷ hơn cả gió vì gió trên cao thỉnh thoảng chỉ luồn vào một vài lần đủ tốc mảnh khăn phủ rồi thôi, còn chúng chui vào lại chui ra, bay lên đáp xuống lẹ làng hơn phi cơ phản lực, đôi cánh mỏng manh rung đều phát ra những âm thanh o o đập thẳng vào màng nhĩ làm người bị nghe ngứa ngáy khó chịu. Đã vậy chúng còn lượn vòng quanh dãy chợ, đáp vào tận hàng quán, có con hiên ngang phóng hẳn vào nồi cháo đang ngùn ngụt bốc hơi. Nguyên một ngày chợ búa ế hẳn đi, các quán ăn cũng vắng khách vì không ai nuốt cơm vào miệng mà không tưởng tượng ra đang nuốt miếng thịt mang đầy hơi hám của người chết.
Người ta mong cho ngày chóng qua nhưng lại sợ đêm về, sợ những âm thanh từ tiếng chuông, tiếng tụng kinh, tiếng gõ mõ cầu siêu của đêm trước vòng trở lại. Bóng tối như tấm vải the đen, đậy không kín những chuyện bí mật của thế giới bên kia. Chẳng cần phải vén lên họ cũng có thể tưởng tượng dưới lớp vải lố nhố những khuôn mặt hãi hùng ghê rợn đang nhe nanh dọa nạt. Có thể vì thế mà giấc ngủ khó tìm nhưng cũng có thể bụng đói, tinh thần rách nát, tim gan vỡ vụn nên không ai yên giấc. Ngủ không yên nhưng họ muốn nằm im gói kín tâm trạng mình, không muốn nhắc đến như sợ khơi động nỗi buồn mạnh mẽ thêm.
Lại một đêm nặng nề chậm chạp trôi và rồi chợt đứng lại. Hình như luồng gió bị một phù phép nào đó nuốt gọn nên mọi tiếng động dù thật nhẹ cũng được khuếch đại cho lớn hơn ra. Trang trở người, chân đạp trúng vách phên làm tôi giật mình. Chính ra mọi cử động của những người nằm chung quanh giúp tôi an tâm và vững bụng hơn nhưng không hiểu sao lúc này lại tác dụng trái ngược. Ngay tiếng lá rơi ngoài vườn sau cũng rõ ràng như bước chân ai ngập ngừng. Không phải một bước, hai bước mà nhiều bước, bước nọ xô đẩy đạp lên bước kia như những bóng ma lòng vòng quanh nhà; vách phên cũng cọ quẹt như có người muốn chui vào. Toàn thân tôi nổi da gà. Hình như đôi mắt của người đàn bà lúc sáng lẩn quất đâu đây, đôi mắt trắng dã không có đồng tử, đôi mắt đã kéo màng như người loà. Tiếng sột soạt mỗi lúc một lớn hơn và một hơi nóng phà ngay trên mặt quyện theo mùi thiêu khét lẹt. Mắt tôi mở trừng trừng nhìn khối đen khổng lồ đang chụp xuống ngực, nặng nề khó thở nhưng không thể ú ớ kêu la.
- Phượng, con đừng sợ...
Tôi không tin ở tai mình nhưng nhìn rất rõ, gương mặt của người chết, của người đàn bà trên chiếc tàu năm mươi tám người khiêng ngang nhà sáng nay, nổi bật trong khối đen đang được thu gọn lại. Đúng rồi, mái tóc dài, làn da bánh mật.
- Phượng đừng sợ, mẹ Hoài đây mà.
Tiếng nói êm dịu trấn tĩnh được tôi phần nào nhưng bản tính sợ hãi nhút nhát từ nhỏ và mẹ là người biết rõ hơn ai hết.
- Chó con chết nhát. Phượng này, rờ nốt ruồi ở sau gáy mẹ xem có lớn hơn tí nào không?
Bàn tay nóng ấm của bà tỏa ra một sức hút mãnh liệt tựa khối nam châm cực mạnh mà thân thể tôi chỉ là những mảnh sắt vụn kết tụ nên đã bị sức hút điều khiển. Cái nốt ruồi lồi lên bằng hạt đậu, điểm mốc quen thuộc của những tháng ngày mân mê khi nằm nghe mẹ kể chuyện, điểm mốc của sự thương yêu máu mủ ruột thịt nên không có khoảng cách ngăn vì thế vật nặng nề trên ngực tôi tự dưng cũng biến mất. Tôi ngồi bật dậy, nhanh nhẹn như đứa bé đang giấc ngủ ngon nghe tin mẹ về chợ. Trong thoáng giây thời gian chợt thâu hẹp lại để tôi thấy mình nhỏ bé như thuở nào và choàng tay ôm chặt lấy mẹ. Mùi da thịt quen thuộc, mùi áo quần ướp long não làm tôi ngất ngây.
- Nào con, đi theo mẹ.
Giống con bé Phượng ngô nghê thuở xưa, tay tôi níu áo mẹ như sợ vuột mất giữa phố chợ đông đúc, xô bồ, cái tình cảm cũng theo đó bám chặt để nỗi sợ hãi giữa kẻ sống với người chết không còn. Gió lồng lộng thổi khi mẹ kéo cánh cửa mỏng manh ghép bằng phên cho tôi lách ra ngoài. Bầu trời xậm một màu đen mướt lóng lánh những vì sao bóng tròn như viên kẹo cuốn giấy bạc. Tôi buông áo mẹ ra và lòng reo lên từng đợt tựa giây lục lạc đeo chân thuở bé. Mỗi bước chân là mỗi tiếng ngân tự đáy lòng mà chỉ có mẹ mới cảm nhận được nhịp rung của con mình. Tôi đi sau lưng mẹ, bé bỏng và tung tăng trong khoảng tròn của chiếc bóng chiếu từ ánh đèn chênh chếch. Trời không có trăng, đèn đường cũng chẳng có nhưng chiếc bóng tưởng tượng vẫn nằm dưới chân. Vẻ huyền hoặc cho tôi một cực kỳ thích thú, hình như những khát khao tình mẫu tử từ lâu bị dồn nén đang sôi sục, nhào lộn chỉ chực vỡ ra. Theo lối nhỏ tiến về ghềnh đá càng lúc tôi càng bước chậm, đôi khi phải khựng lại vì những viên sỏi nằm lăn lóc cản bước. Vẫn nét âm thầm chịu đựng như thuở nào, như gà mẹ chăm dẵm gà con, cứ được một vài bước ngắn lại đứng chờ trong khi cô gà bé xíu thơ thẩn ngắm trời ngắm đất. Hết đoạn đường cụt, mẹ Hoài đỡ tôi leo lên từng tảng đá và dừng lại trên một mỏm cao nhất mà mẹ bảo chỉ ở chỗ này mới thấy gần gũi với vũ trụ và nhìn rõ ràng về mình. Chỉ ở đây mới thấy rằng dù phong cảnh hữu tình, dù sóng biển tạo những sôi động ầm ĩ, dù gió mang hương hoa cỏ rừng và dù sương trắng từng cụm mỏng đẹp não nuột đang sa xuống thật thấp cũng không đẹp và giá trị bằng sự hiện hữu của loài người, một sinh vật quan trọng nhất trong vũ trụ. Tôi ngồi trong lòng mẹ, gió thổi tam phương tứ hướng làm vạt áo dài bằng lụa mỏng mẹ mặc xòe ra như hai cánh bướm khổng lồ. Tóc mẹ cũng vướng cả vào cổ, vào mắt mũi tôi quyện theo mùi hoa dại thoang thoảng. Tôi nằm im hít hơi hướng thân yêu vào tận trong lồng ngực, người lâng lâng tưởng chừng như đang được ngồi trên lưng hạc lơ lửng giữa trời. Ôi còn gì sung sướng, hãnh diện bằng được có mẹ, còn gì xúc động ngất ngây bằng được nằm trong vòng tay mẹ.
- Mẹ... mẹ ơi... Kể chuyện cô bé choàng khăn đỏ cho Phượng nghe đi mẹ.
Giọng tôi kéo dài, nhão ra như thể đang trêu chọc bé Hằng. Hằng không có ở đây, tha hồ cho tôi độc quyền rúc trong lòng mẹ.
- Có chồng rồi mà tưởng mình còn bé lắm sao hở Phượng?
Mẹ đưa tay vuốt nhẹ trên tóc tôi, mái tóc khô xác xơ màu cỏ chết, giọng đầy ân hận:
- Tội nghiệp con tôi, vì mẹ mà con phải ra nông nỗi này.
Tôi rùng mình. Mẹ. Mẹ nói gì vậy? Con không muốn làm người lớn đâu mà chỉ muốn làm Phượng bé nhỏ thuở nào. Nghĩ thế nhưng tôi không tài nào thốt ra lời vì cảm tưởng người mình đang bị chương phình lên. Bàn tay mũm mĩm măng non chợt nổi những đường gân xanh và từng đốt ngón tay bắt đầu nở lớn. Bàn chân cũng thế, nó được kéo dài bởi những khúc xương ống khiến thân thể tôi không còn cuộn tròn mà cứng còng thô kệch. Làn da cũng chẳng còn mịn màng thơm mùi sữa mà bụi thời gian và cực khổ đã biến thành xần xùi chai nhám. Chỉ một loáng tôi thấy mình to lớn và cằn cỗi như mẹ. Nước mắt tôi chợt ứa ra. Chúng tôi khác nào đôi bạn đời, kẻ đi trước người đi sau mang tâm sự cay đắng giàn trải.
- Mẹ, tại sao lại đến đây? Tôi hỏi bằng giọng não nề và thất vọng hoàn toàn.
- Con không muốn nghe chuyện đời xưa nữa à, mẹ cười giả lả như thể dỗ dành, lớn hay nhỏ cũng vẫn là con của mẹ. Phượng, giỏi nằm im nào, mẹ kể chuyện con nghe nhé!
Giọng mẹ ấm và đều nhưng không phải chuyện "con Tấm con Cám" hoặc "Công chúa Da Lừa" với tiếng tôi cười dòn dã phụ họa. Không có công chúa hoàng tử, không có con sói con chồn cũng chẳng có ác giả ác báo trong cổ tích mà cay đắng chua chát quá. Tôi nằm trong lòng mẹ thần kinh co giãn theo từng tiếng thở dài xót xa.
- Con à, đường đời nào không có những hòn sỏi lăn lóc cản trở bước chân, và cuộc trèo núi nào không gặp những chướng ngại của vách đá. Cuộc sống vợ chồng con cũng vậy, nếu không có những giọt nước mắt đổ ra và không có những đau khổ dằn vặt cắn xé thì con đâu biết thế nào là giá trị của hạnh phúc. Có điều hạnh phúc không phải tự nó có sẵn mà cả hai phải tạo dựng ngay từ bước đầu như người thợ hồ kiên nhẫn xây từng viên gạch nhỏ cho tới khi hoàn thành căn nhà. Để đạt được điều đó con cần phải có óc kiên nhẫn và ý chí tiến thủ. Xưa kia mẹ chỉ lấy kiên nhẫn và chịu đựng làm kim chỉ nam đặt nền tảng. Mẹ cố gắng lo cho chồng con, nhường nhịn hy sinh cả cuộc đời để mong có được mái gia đình êm ấm nhưng sự cho đi mà không được đền bù nên chẳng những không nhận thức được tình yêu của mẹ, ngược lại bố còn cho rằng mẹ làm chỉ vì bổn phận và trách nhiệm. Bố con đã có những ỷ lại quá lố và sự thiếu trưởng thành, đã để lối giáo dục phong kiến sai lầm biến ra cảnh chồng chúa vợ tôi, coi vợ như một nô lệ phục dịch cho mình. Mẹ đã làm hư hỏng bố bởi không dám nói ra những điều mình nghĩ, không dám làm những việc mình muốn dẫu không có hại vì sợ cái chau mày khó chịu của bố con, vì không muốn gia đình ồn ào xáo trộn và vì không muốn cho lối xóm nhìn vào dị nghị, không muốn dư luận chỉ trích. Chính sự nhẫn nhục lặng câm đã khiến bố con nghĩ chỉ có bố là người đúng; đôi khi còn bị bố con đổ cả lầm lỗi của chính bố sang thành lỗi lầm của mẹ. Mẹ đã sống hoàn toàn che đậy, chấp nhận lệ thuộc vào chồng chỉ vì sợ tai tiếng, chỉ vì muốn người ta nhìn vào mẹ lúc nào cũng là một hiền phụ. Con ơi hai tiếng hiền phụ dùng không đúng chỗ đã đánh đổi cả tuổi thanh xuân, đã khiến mẹ ngụp lặn trong đau khổ không sao thoát ra được. Mẹ đã vô ý thức biến sự hy sinh của mình trở thành thuốc độc giết hại bố, đã tạo cho bố nảy nở mãi trong cái hợm hĩnh càng lúc càng to lớn vĩ đại mà người đàn ông nào chẳng tham lam; họ cho rằng giá trị trong gia đình là giá trị ngoài đời. Chính mẹ đã bị nhồi nhét một cách ngu xuẩn rằng cái sĩ diện của chồng là của mình trong khi thực ra sĩ diện là sự thể hiện tư cách của mỗi con người chứ chẳng thể mua bán, mượn vay hoặc tạo dùm cho người khác. Muốn tạo cho bố có sĩ diện mẹ đã tự hạ mình để bố được nâng cao. Mẹ đã khúm núm, chịu sự sai bảo để mọi người nhìn bố nể phục và cái lầm lỗi tai hại nhất là mẹ không dám nói thật những sai trái, lố bịch của bố con. Mẹ bọc bố con trong tấm vải tốt lành để che mắt mọi người chỉ vì cái sĩ diện mà mẹ luôn nghĩ của chồng chính là của mình. Con ơi, một lần ngu, hai lần ngu, biết mình lầm lẫn mà không sao thoát khỏi chỉ vì an phận và tự vỗ về rằng không phải riêng mình mà muôn triệu phụ nữ cùng trong cảnh huống ấy, như một guồng máy gông cùm xỏ xâu tâm não con người, biến đàn bà thành nô lệ phục dịch cho đàn ông...
Tôi lạnh người vì những lời mẹ than trách. Ôi giòng máu di truyền, khổ nỗi nó không di truyền riêng họ hàng giòng tộc mà cho cả mọi người.
- Con biết không, cái gông cùm khổng lồ chứa đầy phong kiến sai lầm chụp xuống không một ai thoát. Tuy nhận thức được điều đó nhưng mẹ vẫn bị quan niệm cũ như một khuôn mẫu gò ép. Hơn nữa cũng như mẹ, cái khó khăn trong gia đình mình không thể vượt nổi, không thể làm thức tỉnh được bố thì những người phụ nữ khác cũng ngụp lặn, đắm chìm như mẹ mà thôi. Mẹ sợ khó khăn không dám vươn lên tranh sống, sợ làm cái đích cho muôn mũi dùi nhắm vào thì ai còn dám sống thật với lòng? Con ơi bây giờ mẹ mới hiểu rằng tiếng tăm là thể diện con người nhưng con người lại kiến tạo ra nó, tốt hay xấu do người dám sống đúng hay sai chứ không phải cứ phục tùng nô lệ mới chứng tỏ là người vợ hiền dâu thảo. Bố con đã hiểu lệch lạc và sai lầm chỉ vì muốn bảo tồn bản chất ích kỷ để tạo nên vai trò chồng chúa vợ tôi. Chữ nâng khăn sửa túi, cơm bưng nước rót không được hiểu là sự săn sóc lẫn nhau mà lại biến sang một kẻ hầu hạ và một người tận hưởng. Thêm vào đó người ta đặt vị trí người hiền phụ chỉ quanh quẩn ở ngưỡng bếp, là tề gia nột trợ sống hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng chứ không nên xông xáo ra đời, phụ giúp chồng trong sinh kế làm ăn. Điều đó đã gây biết bao tai hại vì khi người chồng chết đi, người đàn bà đương nhiên gặp cảnh khó khăn, chật vật vì phải tự lập nuôi con nên khó thủ tiết chờ chồng và luôn là cái đích của mọi dòm ngó chê trách. Người chồng chết đi, người đàn bà phải sống trong hoàn cảnh mẹ góa con côi, nếu có khăn gói về ở gia đình chồng cũng bị dùng để phục dịch mọi người đổi lấy miếng cơm cho qua cơn đói nghèo.
Tôi nghe lỗ tai mình lùng bùng, mỗi tiếng nói rót thẳng vào tai khiến nó đau buốt. Thân phận đàn bà... Mẹ nói đúng... Thân phận đàn bà là con số chung chứ nào phải riêng tôi.
- Phượng ơi, mẹ lại tiếp tục bằng giọng não nề nhưng đã có nhiều cứng rắn và cương quyết, sự hiểu biết trong cuộc sống cần phải được cân bằng, nó không chỉ áp dụng riêng cho đàn bà và cũng không thể không ứng dụng cho đàn ông. Người ta không thể bắt đứa con nít mới sanh nuốt miếng thịt thì cũng không thể bắt người đàn ông to lớn lực lưỡng cả ngày phải nằm trên giường tu bình sữa. Cùng là con người đã gọi là vợ chồng tại sao có cảnh người này ra phán lệnh và người kia cắm cổ làm? Đừng đổ sang trách nhiệm và bổn phận vì nếu vợ có trách nhiệm thì người chồng cũng phải tham dự một phần trong đó. Đàng này vì quyền lợi riêng tư của một nhóm, một giới nào đó đã vơ vét tất cả để rồi tạo ra những giáo điều đi ngược lại nhân phẩm con người. Cuộc sống vợ chồng làm gì có cảnh trai năm thê bẩy thiếp? Tại sao họ không nói gái chính chuyên chỉ có một chồng và đàn ông có sĩ diện cũng chỉ một vợ? Giá mẹ dám sống thực với lòng mình, dám vùng lên chiến đấu với bản thân, đánh bẹp bản ngã thường tình của con người, vứt bỏ dư luận để thẳng thắng nói với bố con những cảm nghĩ thiệt thòi thua kém của mẹ, của người vợ cả đời chỉ biết nghe và làm theo mệnh lệnh của chồng thì đã không gây cái chết cho mẹ. Từ khi bố con quen dì Loan, mẹ vô cùng ăn năn vì sự hy sinh của mình càng ngày càng bị bố lạm dụng một cách vô ý thức. Bố không biết sống đẹp cho mình mà ngược lại chỉ tìm cách chỉ trích, dựa trên những thiếu sót của mẹ để công khai tìm kiếm lạc thú nơi người khác. Biết là ngu dại mà cứ cắn răng chịu đựng chỉ vì mẹ sợ tai tiếng lọt ra ngoài. Đôi khi để lòng bớt đớn đau mẹ tự trách mình đã ăn ở, hầu hạ không khéo, không đáng để bố thương yêu nên bố mới tìm người khác. Câu trách mình rồi hãy trách người nó không đúng trong trường hợp mẹ vì người ta chỉ trách người có lỗi chứ không trách kẻ vô tội. Đã không hờn bố mẹ lại còn bị dày xéo trong mặc cảm; mẹ đã tự cho bố cái quyền hành quá cao trên thân xác mình nên mặc tình coi như chấp nhận chuyện bố và dì Loan. Mẹ mất đi chỉ vì âm thầm ghen hờn nhưng nào ai hay ngoài việc tự suy đoán vì con biết sao không? Vì muốn giữ cái sĩ diện cho bố, cái sĩ diện mà mẹ vừa nói khi nãy là nó chỉ có được qua hành động và tư cách của mỗi người.
- Phượng...
Tay mẹ đã rời khỏi mái tóc xác xơ để thoa lên tấm lưng còm cõi của tôi, giọng mẹ cũng nhẹ xuống, tiếng nói như tiếng khóc làm nước mắt tôi ứa ra.
- Con phải can đảm lên, phải thoát khỏi những u mê sai lầm. Văn hóa ảnh hưởng con người mạnh mẽ gớm ghê như tín đồ sùng kính trước tín ngưỡng. Tín ngưỡng luôn hướng về chân thiện mỹ, giúp họ sống thánh thiện tốt đẹp và trong thương yêu bảo bọc, nhưng vẫn phải được sửa đổi để thích hợp với cuộc sống, theo kịp đà tiến hóa của xã hội. Văn hóa gần gũi và đi sát với con người hơn, vì thế lại càng phải chú trọng nhất là những giáo điều sai lầm làm khổ ải, đày đọa họ. Phượng, điều mẹ cần nói, cần nhấn mạnh là không ai có quyền trên thân xác con dù chỉ là một cái đánh, cái tát dẫu lầm lỗi hay không. Con người đối xử với con người bằng tình thương, nếu bằng sức mạnh tự họ đã biến thành cầm thú. Loại cầm thú có xứng đáng ở chung với loài người? Phải dùng trí óc nhận thức đâu là phải trái và dùng sức mạnh tinh thần chiến đấu để dành quyền sống, quyền làm người, quyền bình đẳng vợ chồng. Những gì con làm được chồng con cũng phải làm được. Làm để phụ giúp, tỏ tình thương yêu lẫn nhau chứ không phải sai khiến, lợi dụng hoặc chà đạp lên nhau. Con muốn cuộc đời có giá trị thực sự phải can đảm đứng lên hành động và chấp nhận trả cho nó một cái giá xứng đáng chứ đừng như mẹ...
Nước mắt tôi rớt như mưa. Mẹ nhìn đời tôi rành mạch như những nhà khảo cổ đang xem xét tỉ mỉ một di tích lịch sử vừa tìm thấy được. Mẹ đọc cuộc sống vợ chồng tôi như những đứa bé say sưa đọc truyện cổ tích để tìm thấy quả báo ở đoạn kết. Mẹ mang tâm sự và kinh nghiệm đã trải qua, một bài học cay đắng tình trường để nhồi trong tôi một ý chí tiến thủ, đẩy mầm hy vọng tranh sống phải vươn lên. Biến con sâu tật nguyền nằm trong xác kén thuở nào phải tự tìm cách hóa bướm để được bay trong rừng hoa hạnh phúc.
- Không mẹ ơi, tôi chồm lên ôm chặt lấy mẹ, mẹ bảo con phải vùng lên trong khi mẹ chết tức tưởi, cay đắng. Mẹ bảo con đừng đánh mất cuộc đời son trẻ trong khi mẹ từ giã trần gian lúc tuổi đang xuân. Mẹ không thể thực hành được những mơ ước thì sức con sao gồng gánh?
- Phượng, con phải tự tin vào con và vứt bỏ những ràng buộc phiền toái quanh mình. Sợi dây thòng lọng chỉ thắt cổ được người ta nếu họ tự đút đầu vào.
- Nhưng...
- Mẹ chỉ nói bấy nhiêu thôi. Cuộc đời con chính do con quyết định chứ không thể để cho ai đó quyết định dùm. Đừng đi theo bước chân sai lầm của mẹ để cùng lao đầu xuống hố.
Mẹ nghiêm mặt giận dỗi khi thấy tôi còn chìm đắm trong sự yếu hèn.
- Xưa kia mẹ cũng như con, sợ hãi dư luận, nhút nhát bản thân để rồi chấp nhận thua thiệt cho gia đình khỏi sóng gió xào xáo. Bằng đó thứ mà không thoát ra được thì cũng chỉ như mẹ mà thôi. Nhớ lời mẹ nói, tương lai mình phải do chính mình định đoạt và phải có trách nhiệm với những đứa con mình đã sinh ra...
Tôi nằm đón nhận thêm những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ như cũng đang chua xót cảm thương thân phận của mình. Mẹ nói đúng, muốn đạt được ước nguyện ai không phải trải qua những gian lao thử thách, những xông xáo nguy hiểm, những cạm bẫy chung quanh mà càng gặp nhiều cản trở thì giá trị đạt được càng cao. Cuộc sống vợ chồng là con đường trải đầy những viên sỏi nhọn đâm vào gan bàn chân đau nghiến mà kẻ sợ hãi không dám bước tức là đã chấp nhận thua thiệt. Tôi muốn có một mái ấm gia đình thực thụ, muốn được chồng thương yêu quý trọng, muốn được những đứa con kết tụ của hạnh phúc thì phải vùng lên đừng chấp nhận thua thiệt để rồi chết trong cay đắng hờn tủi như mẹ Hoài.
- Con cố ghi nhớ lời mẹ nói. Đừng đánh mất cuộc đời son trẻ.
Mẹ chợt buông tôi ra. Hơi nóng ấm và bóng mẹ tan loãng mau chóng theo câu nói. Tôi vùng dậy níu vạt áo còn lật phật bay trước gió. Cái níu hụt khiến người tôi chao đi và trượt khỏi mõm đá. Tôi thét lên, âm thanh không vượt thoát trong khi người vẫn rơi vùn vụt xuống vách núi.
- Mẹ... Mẹ ơi...
Tôi thấy rõ mình đang rơi và người chợt nảy tung lên. Choàng tỉnh mới hay vừa trải qua một giấc mơ, người tôi ướt đẫm mồ hôi và lòng bồi hồi. Giấc mơ thật đẹp, thật buồn và cũng tạo trong tôi nỗi mất mát khủng khiếp. Ngày tháng đã qua không thể trở lại được, kẻ mất mẹ là kẻ muôn đời chịu thiếu thốn tình cảm như người hành khất luôn đói khát tiền bạc. Cái hơi hám ấm êm hạnh phúc vừa thoáng đến rồi biến đi càng tạo trong tôi khoảng trống lớn lao. Những lời vàng ngọc của mẹ tôi chưa hội nhập ngay được nhưng đã ươm trong tôi một đòi hỏi bình đẳng, bình quyền, đã tưới lên thân thể tôi một thứ nước hồi sinh làm sống dậy tất cả tế bào. Đúng như lời mẹ Hoài nói, cái khó nhất là làm thế nào hướng con người về chân thiện mỹ mà vươn lên. Danh giá là khuôn mẫu, mực thước để con người sống theo nhưng con người đào tạo ra phẩm giá chứ không phải phẩm giá đào tạo ra con người. Sự thờ ơ hoặc lạm dụng quá mức sẽ có hại như người ta dùng thuốc quá liều, thay vì chữa khỏi bệnh lại dẫn đến sự chết.
Con người càng được tự do bao nhiêu thì trách nhiệm tinh thần càng nặng nề bấy nhiêu, trách nhiệm đó không phải chỉ dành cho ông A. bà B. mà cho tất cả mọi người, dĩ nhiên trong đó phải có tôi. Đã mang trách nhiệm thì không thể sống ươn hèn sợ sệt, không thể sống dưới sự thống trị, áp chế của người khác. Sang đến bên đây, nếu tôi tiếp tục chấp nhận cuộn tròn trong lớp vỏ kén cũ xưa chắc chắn tôi sẽ giết tôi trước. Đúng, nếu không loại bỏ được những ám ảnh nô lệ đã thấm nhập vào trong máu là tự tôi giết tôi.
Tôi kéo vạt áo lau trán. Đêm nóng, nóng ghê hồn, mùi thiêu khét vẫn bám chặt trong không khí. Nhìn quanh mọi người đang ngủ mê mệt với tiếng ngáy nặng nề. Qua khung nứa thưa, phần cao trên vách, vài vì sao mờ nhạt dửng dưng như cố tạo sự xa cách với cái thung lũng khốn khổ nghèo nàn cả thể xác lẫn tinh thần mà sự bắt nguồn không từ tình đồng loại. Tôi đổi thế nằm nghiêng dỗ lại giấc ngủ nhưng lòng vẫn miên man nghĩ về mẹ Hoài và những lời nói vàng ngọc... Trên đồi cao tiếng lá bắt đầu xào xạc ru ngủ...
Buổi trưa gió chợt đứng im, mặc tình cho nắng tiếp tục đổ xuống dù đã bị đất đá khô cứng dưới lòng thung lũng đánh bật trở lại. Nắng chói chang, một thứ nắng vàng nhẫy gay gắt như muốn đốt cháy thịt da con người. Cùng trong cái oi bức nóng nực ấy, đàn chim ủ rũ trên nhánh cao lười biếng cất tiếng hót như bị ảnh hưởng lây bởi khí trời. Con người cũng trốn tận trong mái lá tìm một trò giải trí cho quên đi cái nóng khát, quên đi một tô đá lạnh hoặc một thùng nước mát ngâm người thỏa thích.
Buổi trưa sau bữa ăn là giờ buồn nản, vô vị nhất. Trang và Mây che miệng ngáp dài nhưng không dám nằm giữa sàn mà ngủ vì sợ sự hớ hênh lộ liễu có thể bị phơi bày. Tâm và Thụy chơi cờ tướng với hai người bạn cạnh đó nhưng cử chỉ uể oải thấy rõ, hình như họ chẳng hứng thú gì ngoài việc giết thời giờ. Nguyện không đi rong như thường ngày mà độc quyền nằm trên võng xem quyển tướng số. Sát vách là nơi bé Trường nằm ngủ trong khi tay tôi không ngừng quạt. Ngồi đó nhưng hồn tôi để mãi tận ngoài sau nhà, qua lỗ hở của vách phên mà đêm qua dãy giụa Mây lại đạp cho nó to hơn. Gọi là sau nhà nhưng đất không phải của chúng tôi, tuy nhiên những gì mình nhìn thấy ít ra nó vẫn thuộc quyền sở hữu dưới đôi mắt mình.
Qua lỗ phên, dưới tàng cây loang lổ những đốm nắng lẫn lộn trong màu đất nâu đẹp rực rỡ như một vườn hoa. Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp nhìn hoa nắng với tâm trạng bồn chồn khác thường dù nơi đây trưa nào cũng là trưa và nắng nào cũng giống nhau. Giấc mộng hai ngày trước đã bơm trong tôi một sinh khí tràn trề. Ngồi đây nhưng lòng tôi không đứng yên một chỗ, nó chạy lăng quăng đuổi theo ánh nắng đang lẩn trốn, chui rúc dưới những khe hở, nhảy tung tăng trên những nhánh non không như lũ chim đứng buồn bã kia. Màu hoa nắng không nhắc nhở cho tôi con Phượng hoang mang trước tình yêu của thời mới lớn, cũng không dẫn đến đứng trước một bà Nguyện héo úa ngồi giặt quần áo mỗi trưa dưới tàu dừa tưa rách. Màu hoa nắng như một cõi địa đàng vừa hé cửa mà chỉ những ai được trợ tiếp sinh khí mới cảm nhận được.
Tôi đang hoạch định trong đầu một cuộc chiến đấu mãnh liệt với Nguyện. Thực ra chuyện ly dị chỉ là biện pháp cuối cùng nếu không còn cách nào khác. Một đứa trẻ có cha có mẹ vẫn hãnh diện và tự hào với bạn bè hơn là bố mẹ còn đó nhưng mỗi người sống mỗi nơi. Cuộc sống riêng rẽ không tình cảm sẽ nảy sinh trong đầu óc non dại của nó một ám ảnh tương lai với hạnh phúc vợ chồng không bao giờ có. Và đối với cá nhân nó, dù sao sức mạnh tinh thần của cả hai dồn lại muôn đời vẫn là món quà quý giá. Sáu năm sống với Nguyện có thể là quá dài cho những ai phải chịu đựng gánh nặng nhưng cũng chính nhờ những đau khổ đó đã rèn tôi thành một thứ thép đã được tôi không thể bẻ gẫy. Chắc chắn như thế!
Tiếng nước chảy tồ tồ như ai giơ cao chai rượu đầy rót cả vào bình đột ngột vang lên và mùi hôi nồng nặc theo đó bưng kín lỗ mũi. Mọi người quay phắt lại theo thói quen, bằng đó con mắt trợn ngược nhìn qua mảnh phên loang lỗ hở. Một bóng người in sau vách và nửa phần đầu ló ra khỏi mảnh phên ghép đưa hẳn chỏm tóc dựng đứng vô trật tự như đuôi gà mái già xác xơ. Lại cũng lão, ngày này qua ngày khác vẫn là lão. Tâm gầm lên:
- Trời ơi là trời, đồ heo gà, chó ngựa chứ người ai lại ở dơ như vậy nè trời. Mũi có điếc thì cũng còn mắt chứ.
Tiếng tồ tồ nín liền sau lời Tâm gào nhưng chỉ được nửa phút rồi lại tiếp tục, hình như lão cố kéo dài sự tiểu tiện để trêu tức thì phải.
- Có ngon quay lại ông lấy thung bắt cho thọt luôn...
Nói thì nói vậy, chửi cũng chỉ cho đã miệng chứ chưa ai dám đụng tới lão Xùi Cụt bao giờ. Chẳng biết ai đã đặt cho lão cái tên thật xứng với con người. Từ trên xuống dưới da lão sần lên một cách quái lạ, nó không đỏ hẳn như người bị phỏng lạnh, cũng không mang màu da của những người bình thường mà lại xám xanh, xám như những vết bớt vẫn thường thấy trên mông của trẻ con; màu xám phủ từ đầu tới chân ăn sâu trong làn da nhưng không dính thịt mà lại dộp, ứa nước và lở loét cục lớn cục nhỏ như mụn cóc. Chỉ nội làn da sần trên người lão đã thấy ghê sợ đừng nói gì đến chiếc chân cụt đầy những móc sắt được gắn ở dưới đầu gối. Nghe đâu hồi xưa lão là tay anh chị khét tiếng đã một thời ngang dọc. Chiếc chân cụt là chứng tích của cuộc tranh giành quyền lợi đã đưa lão lên ngôi chúa đảng ở vùng Gia Định và cũng nhờ nó mà lão đã chống chọi lại với đủ loại vũ khí tấn công bất thình lình. Lão có võ Bình Định, đôi tay mạnh như cặp búa tạ cùng với đôi song cước đá trúng ai người đó chỉ có thổ máu tháo tiết mà chết. Vợ lão tên Thoa, có lẽ là vợ thứ năm hoặc thứ sáu gì đó nên còn rất trẻ, người nhỏ thó thấp hơn lão một cái đầu. Trông Thoa còn mặn mà xinh xắn chỉ tội làn da lúc nào cũng xanh đớt và đôi mắt ủ dột không bao giờ thấy loé lên một niềm vui. Trước khi lấy lão, Thoa là một nữ sinh ở dưới lục tỉnh, gia đình khá giả nề nếp nhưng gặp phải mối tình đầu ngang trái. Chán cuộc đời bẽ bàng Thoa lên Sài Gòn tìm cách sinh sống thì gặp ngay Xùi Cụt. Cũng may thời đó lão không còn tung hoành mà về ở ẩn dưới ngôi nhà ngói khang trang của người mẹ vừa qua đời. Nhờ có tiền lão mua chuộc được Thoa thật dễ dàng, cũng có thể tại lúc đó Thoa mang thai, lý do của sự trốn nhà ra đi. Được lão Xùi bảo bọc no đủ nhưng cuộc sống không ngày mai và lối đánh đập xảy đến với những tên đàn em hết thời trốn về bám lấy lão sống qua ngày làm Thoa hãi sợ. Đôi khi chè chén say sưa lão cũng thẳng tay đánh đập Thoa không nguyên cớ khiến cái thai trong bụng bị xảy. Thoa không thương lão nhưng bản tính hiền lành nhút nhát lại tứ cố vô thân nên cố bám chờ ngày vượt biên. Sang tới đảo chứng nào tật đấy, lão vẫn đánh vợ và vẫn coi mọi người như rơm rác. Ai cũng e dè tránh xa lão, phần vì không muốn dây với hủi, với con người hung hãn thô bỉ ăn nói lỗ mãng, phần vì làn da cóc lở loét như thứ phong cùi dễ lây sang cho bất cứ ai.
- Em phải cho lão một bài học về vệ sinh. Khai chịu hết nổi. Tâm bỏ dở ván cờ bò sát lại chỗ tôi.
- Đừng, tôi nói thật nhỏ vì sợ bất thình lình lão quay lại, đâu thể đánh người tàn tật dù họ vô ý thức.
Chuyện lão tiểu bậy bạ ngay đến chính quyền Thái còn bó tay vì chiếc chân cụt, vì làn da tái xám và mái tóc lốm đốm trắng khập khễnh từng bước thê thảm còn hơn con chó què. Con đường đá gồ ghề từ nhà lão dẫn đến nơi tiêu tiểu công cộng nối chênh vênh ra khỏi mép nước hàng ba chục thước bằng chiếc cầu khỉ mà lão chỉ có một chân với chiếc gậy tre thì lết vài lần đã hết ngày. Vì thế để giữ vệ sinh chung, họ cho phép lão tiêu tiểu trong bô và vợ lão phải có bổn phận đi đổ. Đi cầu thì lão giải quyết bằng cách nào chẳng ai biết nhưng chuyện đi tiểu ai cũng thấy bất bình. Nhiều bữa mọi người đang ăn cơm, lão chống chiếc gậy lọc cọc tiến ra sân sau, quay mông vào mọi người và cứ thế cởi nút quần tồ tồ đái.
- Mọi người thua cơ lão khốn này. Tâm tiếp tục lải nhải như để quên đi mùi nước tiểu chứa lâu ngày trong chiếc lu bể miệng đang bị khuấy động bốc mùi hôi nồng nặc.
- Đồng ý nhưng nện lão không thể vì lý do làm mất vệ sinh, nhất là với người Thái nếu chuyện cò bót thưa kiện vì đái ỉa thì kể ra cũng nhục cho bọn tị nạn chúng mình lắm.
Tâm im lặng suy nghĩ, hình như nó đang thấm thía hai chữ tị nạn qua hành động của lão Xùi.
- Tụi Thái cũng mọi rợ có hơn gì ai.
- Chúng mọi rợ thì mình phải sống thế nào cho chúng phục, chúng nể chứ không phải dùng sự mọi rợ mà đánh trả lại.
Tâm ngó sững tôi như không tin ở đôi tai mình. Hình như càng lúc tôi càng thay đổi, mỗi giờ mỗi thay đổi, bắt đầu từ ngày hôm kia.
- Đ. M. mày Thoa, coi chừng tao tọng cái con c. vào miệng thấy con đ. mẹ mày bây giờ.
Tâm và tôi giật mình trong khi Trang, Mây, Nguyện cùng tất cả mọi người không ai bảo ai đều chồm tới ghé sát mắt vào những lỗ phên thưa nhìn sang nhà Xùi Cụt.
Lão Xùi Cụt đã ngừng tiểu và vào trong nhà từ lúc nào. Như mọi lần, mọi ngày, mỗi khi la mắng vợ bao giờ lão cũng cho Thoa ăn một tràng tục tĩu phủ đầu, cũng có thể cố tạo sự chú ý gần như là một thách thức những ai muốn xen vào chuyện riêng của gia đình lão. Lần này tiếng lão rít cao hơn, có lẽ Thoa đã chọc vào đúng chỗ nhược.
- Đ. M. mày chạy đàng trời nghe con. Ông mà chụp được thì tha hồ ăn c.
Lão Xùi Cụt đã đeo vào ống chân sắt khác hẳn thường ngày; tay lão cũng vứt chiếc nạng thoăn thoắt đuổi theo. Từ trong nhà Thoa phóng ra vườn sau, chạy loanh quanh luồn lách và núp ngay ở gốc cây có chiếc lu bể chứa nước đái.
- Con đ. mày dám sỉ nhục tao. Thứ vợ nào lại dám đốp chát lời một lời hai như thế.
Tôi không tin chỉ vì những chuyện vớ vẩn không đâu khiến lão Xùi mang vào chiếc chân sắt, một thứ khí giới mà Thoa bảo chỉ khi nào đi đánh nhau lão mới dùng đến thay vì gậy. Thoa là người hiền lành và nhu nhược cả trại ai cũng biết thì làm gì có chuyện đánh lại mà phải dùng hai tiếng đánh nhau. Còn nói rằng tại ghen nên lão phải dậy vợ thì càng vô lý vì mấy khi Thoa dám rời khỏi nhà. Có muốn nói chuyện với Thoa, bạn bè chờ lão đi vắng mới đến, vậy mà cũng chỉ mười, hai mươi phút là lão đã lù lù trở lại. Người ta bảo rằng gọi Thoa là vợ cũng không đúng vì nhà tù vẫn còn có cửa mở cho tội nhân đi tắm. Nhiều lần thấy mặt mũi Thoa tím bầm họ khuyên nên thưa kiện lão Xùi nhưng nàng luôn nhắc đến cái nghĩa vợ chồng tuy vá víu mà lại cũng rất nhiều ân tình. Thoa kể rằng bước đầu tiên lên Sài Gòn lạ lẫm thêm phần bụng mang dạ chửa, chỉ có cái chết mới tiêu tan được nhục nhã và khổ cực, lúc ấy lão hiện ra như một phù thủy nhưng mang đầy tấm lòng cao cả và bao bọc che chở. Thoa nghĩ đã gọi là chồng thì một ngày hạnh phúc cũng là nghĩa huống hồ gì ngoài những lúc điên khùng lão cũng đối xử tốt với mình, cũng biết nấu nồi cháo, kho nồi thịt hoặc đấm lưng cạo gió mỗi khi Thoa lâm bịnh.
- Mục đích em chỉ muốn anh ấy đừng đánh em nữa thôi.
Tôi nhìn Thoa, còn quá trẻ đẹp, cuộc đời còn quá dài mà niềm mơ lại thật nhỏ bé tầm thường, sự mơ ước của những người vợ hiền lỡ có chồng đội lớp thú. Đã gọi là thú thì đâu biết đến liêm sỉ, con người đã đánh vợ quen tay như kẻ ăn tim gan người, ăn được một lần cứ thòm thèm muốn ăn mãi. Lão Xùi xưa nay hò hét ra lệnh quen miệng, bây giờ một thằng đàn em để giựt le với người đời cũng chẳng có. Lão đã dùng vợ để làm sống lại cái dĩ vãng lẫy lừng xưa kia thì việc đánh đấm thị oai có gì là lạ nhưng cũng có thể sự đánh đập vợ con nảy sinh ra từ mặc cảm sợ mất vợ. Có phải lão sợ mất nàng hay muốn dùng sức mạnh để buộc trói như Nguyện đã mượn danh nghĩa chồng vợ để buộc trói tôi?
Vườn sau bốc bụi mù mịt, từ lâu chỉ thấy lão hò hét đánh đấm vợ trong nhà vì Thoa không muốn chạy ra ngoài chẳng những xấu hổ cho mình mà cả cho chồng. Hôm nay chẳng hiểu vì lý do gì khu vười biến thành võ đài tự do mặc lời phê bình đàm tiếu, mặc những đôi mắt tò mò lẫn thương hại. Vườn hoa nắng trở nên linh động hẳn ra bởi sự xuất hiện của hai nhân vật lạ lùng, lão Xùi đang mang hình ảnh của con chó sói hung hăng chìa nanh nhe lợi nhưng lại bị cụt một giò cố đuổi bắt cắn xé cho bằng được con nai con ốm yếu. Chung quanh người ta lén lút nhìn qua vách phên, bốn vách tám nhà, nếu chỉ tính phân nửa số người chứng kiến thì đã lên tới gần hai chục. Những mặt phên chắn ngang không có lối ra vì vườn sau là của riêng nhà lão Xùi.
Lần đầu tiên chúng tôi được chứng kiến tận mắt những gì người ta đồn thổi về lão, về một tay anh chị lẫy lừng nhưng khổ nỗi tay anh chị này lại sống hèn nên khi về chiều không biết đánh ai ngoài vợ. Chiếc chân sắt ngày xưa ngang dọc trên nền xi măng thế nào thì không biết chứ bây giờ cứ nhìn lão vất vả đuổi theo Thoa, những móng sắc móc xuống đất làm bụi bốc cao trong khi bóng Thoa cứ chập chờn như loài yêu ma khó bắt... Lão cố vận dụng mọi cử động của mình cho lanh lẹ hơn nhưng càng xoay sở lại càng biến thành vụng về chậm chạp. Giờ là lúc mọi người nhìn ra khuyết điểm từ chiếc chân cụt, đúng là gậy ông đập lưng ông, giá Thoa đừng chọn gốc cây làm chỗ tránh đòn thì thể nào cũng bị lão nện cho một trận kinh hồn. Đàng này những rễ cây trồi khỏi mặt đất như một loại nam châm hút sắt, nó hút chặt những móng sắt làm lão phùng mang trợn mắt vừa rút vừa chửi. Lợi dụng cơ hội đó Thoa đứng lại để thở, nếu không con người yếu đuối kia đâu còn sức để kéo dài cuộc đấu.
Cơn giận làm lão uất lên. Không túm được vợ mặt lão đổi sang sắc hồng và chợt nhìn quanh quất. Rõ ràng lão nghe có tiếng lào xào chế riễu về quá khứ oanh liệt của mình.
- Đ. M. con nào thằng nào có ngon thì ra đây. Chỉ có những đứa co đầu rụt cổ mới núp trong bóng tối nói lén.
Lão run rẩy chân thấp chân cao chống nạnh như thể ăn tươi nuốt sống những người vô hình. Sự thách thức làm mọi người nóng mặt. Lúc đó Thoa đã bớt sợ nhưng nhìn lu nước tiểu mẻ chứa toàn một màu vàng đục đã đóng màng, mùi hôi được dịp bay nồng nặc vì những cái va chạm mạnh từ chiếc chân sắt phát ra tiếng lanh canh khiến người Thoa nổi gai mấy lần và lợm giọng chỉ chực ói. Thoa vừa há miệng thở lại phải ngậm ngay lại nên trông mệt mỏi vô cùng. Cử chỉ đó không lọt khỏi đôi mắt tinh anh của lão Xùi. Lão biết nếu chất hôi kia chảy tràn ra chung quanh gốc cây, chắc chắn Thoa sẽ phải tìm một chỗ khác để lẩn trốn. Thế là chẳng nói chẳng rằng bàn chân sắt được xử dụng cấp thời, nó chắc như chiếc búa tạ đập vào thành lu. Chiếc lu đã om sẵn nên không chịu nổi cú đá quá mạnh chỉ kêu được một tiếng cách rồi vỡ toang, theo đà một số nước tiểu dính vào bàn chân sắt bắn tung toé. Thoa lùi ra sau mặt xám xanh. Suy ra sức mạnh tinh thần vô cùng cần thiết mà người trong cuộc ít ai nghĩ tới. Đa số người ta thắng chỉ vì sự hò hét thị oai làm khủng hoảng đối phương, như tôi, mỗi lần Nguyện hò hống bao trái phải đều nín nhịn vì thần trí đã bay đi còn đâu lý lẽ mà đôi co. Lúc ấy chân tay Thoa luống cuống thấy rõ. Không bỏ lỡ cơ hội lão Xùi hét lên và khấp khểnh phóng đến như hung thần. Chỉ vài bước chân lão đã xoắn được tóc Thoa và cứ thế thẳng tay nện xuống đầu...
Nhìn Thoa bị đánh, máu trong người tôi chạy rần rật đồng thời tim gan đau buốt như chính mình đang đón những cú đòn dã man đó. Hình ảnh người đàn bà nhỏ bé lê lết, câm nín, phủ phục dưới chân người đàn ông nhận chịu những cú đánh tới tấp trong khi miệng cố ngậm tăm để che đậy sự sợ hãi của mình, đau mà không dám kêu, thù hận mà không dám nguyền rủa chỉ vì kẻ có sức mạnh khi nào cũng là kẻ quyết định sự sống chết. Hình ảnh Thoa đã làm cho tôi nhìn ra thân phận thiệt thòi của người đàn bà, nhìn ra chính tôi, con Phượng xưa nay thê thảm và tang thương như thế. Sự uất hờn bùng lên, kiếp làm vợ không thể để cho những người chồng ác độc vô liêm sỉ biến thành súc vật, biến thành con chó chết nhờm gớm. Chân tay, mặt mũi tôi co rúm lại đau đớn theo câu chì chiết:
- Bằng này người mà không ai dám ra can để cho lão Xùi đánh chết vợ?
- Thấy ăn chạy lại, thấy đánh chạy đi. Nguyện ra vẻ hiểu biết.
Quan niệm của Nguyện làm tôi nóng mặt. Chẳng trách gì xưa kia những người đàn bà quanh xóm tôi bị chồng đánh, ngoài trừ có thể thiệt hại đến tính mạng đành phải chạy sang can, còn không thì họ lờ đi như một hình thức dạy vợ dạy con là điều cần phải làm. Cũng có thể họ cho rằng đèn nhà ai nấy rạng, can dự vào làm gì cho rắc rối thêm ra. Cuộc sống ích kỷ chỉ biết riêng mình đã tiếp tay cho người chồng càng lúc càng đi quá lố và coi chuyện chồng đánh đập vợ là lẽ đương nhiên. Con người ta đa số chỉ chú trọng đến thiệt thòi về vật chất, kiện tụng để tranh giành của cải còn thiệt thòi về tinh thần ít ai nhờ đến pháp luật, nhất là trong phạm vi gia đình chồng vợ. Hình như họ cho rằng chỉ có những người đàn bà không ra gì mới phơi bày những cái xấu của chồng con trước công chúng.
- Còn Tâm thì sao, không lẽ cũng cùng ý nghĩ như anh Nguyện?
- Tưởng đánh vì lão ta ăn ở bẩn thỉu chứ còn can gián chuyện chồng vợ không phải đầu cũng phải tai. Chỉ cần lão nạt cho một câu: "Mày là nhân tình của vợ tao hay sao mà chạy đến bênh?" là thấy đời mình tiêu.
- Nhưng mày có phải là bồ của bà ấy đâu? Trang xen vào.
- Vậy mới càng không nên dính với hủi.
Đàn ông con trai có muôn vàn luận điệu bào chữa về sự ích kỷ của họ mà lý do nào cũng đúng cũng hợp tình. Không vào can vì sợ phiền toái, tai bay vạ gửi, vì sợ ghen ngược, vì không phải chuyện của mình và còn những lý do chính đáng nào nữa? Tâm hồn người đàn ông muôn đời vẫn là những cánh cửa khép kín. Họ thực lòng muốn tránh xa vì sợ cái tai họa của người khác ảnh hưởng tới mình hay sợ khi can dự sẽ giảm bớt đi cái quyền làm chồng, một ngôi vị mà những kẻ không ra gì đều thèm muốn và gìn giữ cho nhau. Như vậy đàn bà được sinh ra để tạo thêm giá trị cho đàn ông qua hình thức chịu lụy nhục nhã? Một lão già què xấu xa tục tằn dám công khai đánh vợ mà không sợ vợ bỏ hoặc phản công lại thì trên đời còn biết bao nhiêu kẻ lành lặn nhưng trí óc còi cụt sợ gì mà không dám làm chuyện đó? Lão Xùi đại diện cho hung thần của sức mạnh khiến Thoa rũ gục nhưng lại có những người đàn ông trói gà không chặt cũng vẫn dấm dúi vợ trong buồng bằng những cái tát, đạp hoặc thô tục hơn giựt quần xé áo cho vợ lõa lồ để tỏ uy quyền làm chồng. Nhưng nói gì thì nói, sức mạnh của người chồng chỉ có thể hạn chế được thân xác và hành động của người vợ chứ không thể làm họ hư hao ý tưởng. Chính quan niệm sai lầm chấp nhận và chịu đựng đã tự giết mòn sức phản kháng mà người vợ không hề biết. Kẻ thù của đàn bà là sự nhu nhược và chấp nhận cũng như tôi bây giờ đang căm thù lão Xùi mà vẫn ngồi dúm một chỗ không dám ra can. Phải chăng lối đánh dã man phủ đầu không những làm Thoa mà ngay chính tôi, Trang, Mây cùng muôn vạn người đàn bà khác cũng rũ liệt tay chân? Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, Thoa bị đánh như tôi, những kẻ đã và sẽ lần lượt bước vào ngưỡng cửa gia đình bằng lối trong nhờ đục chịu phó thác cho số mệnh. Có nên chấp nhận định mệnh oan nghiệt không từ Thượng Đế mà từ cách cư xử và phán xét của người chồng? Như vậy số phận đàn bà nằm trong tay người chồng chứ đâu phải do Trời Đất? Nếu người đàn ông tốt lành, biết thương vợ chiều con, đối xử công bằng và tôn trọng vợ giống như bạn thì trên thế gian này đâu còn những tiếng kêu ai oán, đâu còn là lửa hỏa ngục lúc nào cũng ngùn ngụt cháy?
Nguyện mang luận điệu chuyện mình mình lo, chuyện người người tính. Tâm thì có lý do của nó nhưng còn những người chung quanh? Chẳng lẽ lòng họ cũng được niêm phong bằng nút sắt? Đàn ông đánh vợ chỉ thỏa mãn tự ái trong phút giây nhưng mỗi lúc một xé toạc vết thương tình cảm không sao hàn gắn trong tâm hồn người vợ. Sở dĩ không hàn gắn được là vì họ không dựa trên lỗi lầm chính đáng để sửa phạt mà hành động giây chuyền, một người đánh vợ, tất cả những người khác được quyền làm như thế. Cũng như đàn ông luôn cho rằng chuyện bếp núc là của đàn bà nên không bao giờ đụng tay. Bếp núc, giặt giũ, quét dọn, coi con là của đàn bà; đêm hôm thoa dầu bóp chân cho cha mẹ chồng cũng là của đàn bà; con ốm, con hư cũng là chuyện của đàn bà trong khi đàn ông ngày hai buổi đi làm, thì giờ còn lại ngồi đọc báo, xem ti vi, nhậu nhẹt, bạn bè hoặc hơn thế nữa cờ bạc, hút sách, vợ một vợ hai. Nào ai biết đàn bà cực khổ thế nào mà luôn bị coi là thứ ăn bám vào chồng. Chính vì cho rằng phải sống dựa vào nên người chồng đã tự tạo ra quyền hành trên người vợ. Đàn ông như thế sao được gọi là khí phách? Ra ngoài thì muốn được tiền hô hậu ủng, về nhà lại so đo với vợ từng câu nói, chấp nhất từng cái nhìn, đã vậy lại còn hầm hừ dọa nạt.
- Sau này lấy vợ em có đánh cô ta không Tâm? Nếu không thấy lòng xót xa là đã tự để hình ảnh này đầu độc bộ não và cũng đi vào đường hèn hạ như lão Xùi mà thôi.
Tôi đang dùng đòn tâm lý để khích bác Tâm, kẻ sức yếu không thể mang thân ra đỡ thì phải có cái miệng.
- Còn anh Nguyện nữa, anh có thể dửng dưng nhìn chị Thoa ngất xỉu dưới bàn tay thô bạo của lão Xùi thì tình người và lòng nhân anh để ở đâu?
Câu nói khích làm Tâm vùng lên phóng bay ra ngoài trong khi Nguyện vẫn thản nhiên nhìn qua lỗ phên, một hành động trả lời câu nói khi nãy của mình.
Bên kia Tâm đã sang tới nơi; nó hùng hổ kéo cả hai vai lão Xùi ra:
- Ông không nên đánh đập vợ ông như thế.
Lão Xùi bỏ Thoa ra đứng lên thở hồng hộc. Đánh vợ mà mệt lả thì Thoa có lẽ chỉ còn là bị thịt.
- Đ. M. mày ăn ngủ với nó hay sao nhào vào bênh?
Quả đúng như Tâm nói, đàn ông đánh vợ là những người hàm hồ, lố bịch không thể tưởng. Mặt Tâm đỏ rần vì bực và ngượng. Bực quá hóa liều nó chống nạnh với thái độ ngang tàng thách thức:
- Ông già cả mà ăn nói lỗ mãng. Thứ người như ông chỉ có nước ở nhà đánh vợ chứ dám chường mặt ra đời làm oai với ai?
- Đ. M. mày chưa được ăn c. ông nên chưa sợ.
Lão Xùi hùng hổ tiến lại trong khi Tâm đã khuỳnh hai tay sẵn sàng phản công. Cũng may ngay lúc đó có mấy người chung quanh chạy vội sang can:
- Em Tâm nó còn nhỏ dại bác đừng có chấp làm gì cho nhọc.
- Tôi thèm chấp với cái quân ấy à!
- Bác nói đúng, cũng như chị nhà, bác răn dậy như vậy đủ rồi xin tha cho chị ấy.
Mỗi người một câu tâng bốc, xoa dịu khiến cơn giận của lão xìu xuống như quả bóng. Không ngờ vài lời môi miếng lại có thể tác dụng thật to lớn đối với những kẻ hợm mình. Cùng một lối can nhưng Tâm đã thất bại trong khi chỉ vài câu vuốt ve lão Xùi đã biến thành người cao thượng, nói cho đúng cố tỏ ra mình là người cao thượng. Lão Xùi cười toe toét, từ lâu ít ai thấy lão có nụ cười phóng khoáng như vậy. Riêng lão, lão cười vì cho rằng cả lũ trước mặt ngu ngốc, Thoa chẳng có tội gì cả ngoài việc mê ngủ làm khê nồi cá, phần ăn của hai ngày. Mọi lần tức bực lão chỉ xáng cho Thoa vài cái nằm lăn quay giữa nhà nhưng hôm nay rõ ràng Thoa muốn chống đối bằng cách bỏ chạy cho lão phải cực nhọc đuổi.
- Các ông yên chí, tôi chỉ đánh dọa nó thôi chứ làm gì có chuyện thâm thù để bụng. Thứ vợ con hoang đàng không răn dậy để nó hư đi.
Lão Xùi dọa vợ mà phải đeo chân sắt vào rượt đuổi thì khi đánh thật có lẽ sẽ dùng nó đá ngay lên mặt Thoa lưu lại nhưng vết thẹo để đời. Vậy mà không ai chú ý lời lão nói, không hiểu họ muốn cho câu chuyện êm đi hay còn một thâm ý nào khác. Tôi chẳng thể nào hiểu được cái lối can quái gỡ kỳ quặc. Họ đâu biết rằng chính thái độ vuốt ve tâng bốc đã thúc đẩy lão Xùi thêm tự mãn tự hào đến nỗi cười nói huênh hoang lộ hẳn bản tính lố bịch kém cỏi. Họ đã quá nhiều kinh nghiệm trong lối hoà giải hay chỉ có đàn ông mới rành tâm lý đàn ông. Họ giả vờ như không biết, đặt lão vào cái thế vẻ vang, nắm gọn lẽ phải thì làm gì còn đối tượng để sát phạt hoặc gây chiến? Cái hèn của lão Xùi là trước mặt vợ hung hăng ác độc bao nhiêu thì lại niềm nở bặt thiệp với những người vừa tâng bốc lão bấy nhiêu. Trong vài phút lão đã thay đổi liên tục muôn bộ mặt nhưng nguyên thủy bộ mặt chính, cái tâm gan cần thay đổi thì lại không. Lão tàn nhẫn đối với vợ rồi lại thản nhiên cười nói trước sự tâng bốc của mọi người mặc Thoa sống dở chết dở không ngó ngàng. Người ta chỉ can vì tiếc của sợ hai con gà chọi nhau đến chết, chỉ sớt đôi cá lia thia riêng ra hai bình vì biết chắc hai đối thủ không thể nhốt chung vì sẽ thiệt mạng còn đàn ông và đàn bà? Vợ chồng sống với nhau có nghĩa là đàn ông không có đối thủ nhưng sao đàn bà vẫn bị đánh mãi?
Nguyện trở mình, nằm nghiêng mãi một bên, bả vai tê chồn và khớp xương hông cấn dưới tấm phản đau điếng. Cũng may, tấm phản khá dầy lại được đóng chặt trên những thanh gỗ thưa cách khoảng thay nền nhà nên không thể tạo một mảy may rung chuyển. Đêm khuya tĩnh mịch một cách đáng sợ, nếu không có những hơi thở đều của đám con gái phía trong, nếu không có tiếng ngáy ồ ồ của lũ con trai nằm chung quanh có lẽ Nguyện đã mang cảm giác mình đang đơn độc trên ghế đá trong công viên gặm nhấm nỗi mất mát đang vây bủa. Chưa bao giờ Nguyện cảm thấy buồn bã bằng lúc này, hình như trong cuộc đời đây là lần đầu tiên hắn mang tâm trạng đó. Những năm trong tù tuy bị nếm trăm cay ngàn đắng nhưng uất hờn nhục nhã đó xảy ra giữa kẻ trên người dưới, giữa kẻ bị cầm tù và cai tù, giữa kẻ đầy uy quyền và người mất quyền hành, dẫu bị chụp mũ hay hàm oan thì Nguyện vẫn phải chấp nhận như con cá bị nhốt trong rọ; còn đàng này vợ hắn chỉ đáng giá như kẻ tôi tớ lại dám ngang nhiên mạ lỵ chồng giữa ban ngày ban mặt và trước mắt mọi người. Nguyện không hiểu nguyên do nào đã thúc đẩy Phượng lời một lời hai, đong đỏng chanh chua cãi chồng như vậy. Chắc chắn không phải tại Nguyện ngồi đánh tổ tôm với chúng bạn chiều qua, cũng không phải tại sáng sớm này. Xưa nay Nguyện còn làm quá đáng hơn nữa mà Phượng đâu hề có phản ứng gì.
Nguyện lại trở mình, hết nghiêng bên này rồi lại đổi sang bên kia, mỗi tiếng thở dài như những bóng mờ ký ức ráp nối lại tạo thành cuộn phim sống động đưa hắn trở lại buổi sáng sớm hôm nay..
.
Kể ra Nguyện cũng khá môi mép, nỉ non dụ dỗ thế nào mà mới sáng sớm Phượng đã xách bịch ni lông lên rừng hái nấm với hắn. Trèo qua khỏi những ghềnh đá giáp nối từ lòng thung lũng, ranh giới của trại, một bên dẫn xuống biển và một bên là đồi cao với những rặng cây xanh um cỏ gai mọc chắn lối. Nguyện xông xáo đi trước tay vẹt đám cỏ cao quá gối. Đàn muỗi rừng đang bám đầy trên cánh lá bị động lại ngửi thấy hơi người nên báo động bằng những tiếng kêu vo ve rồi thi nhau đáp xuống khoảng da mềm mại cắm phập chiếc vòi nhỏ bằng sợi tóc say sưa hút máu. Phượng vung tay loạn xạ đuổi đám muỗi đang điên cuồng nhào đến tấn công.
- Ra đi anh, vào đây không mang nhang muỗi theo là chỉ có nước hiến máu cho chúng còn rước bệnh sốt rét vào người.
Nguyện lờ đi, mục đích đưa Phượng vào rừng đã có sẵn từ hôm qua, lúc chợt khám phá ra ở đây có một tổ ấm chẳng biết của đôi nhân tình nào bỏ lại. Tổ ấm tròn trĩnh xinh xắn như một tổ chim đại bàng kết bằng lá khô nằm khuất trong đám bụi rậm được phủ thêm hai hàng lá thấp giao nhau. Con đường dẫn đến ngập cỏ cao nên khó có thể biết nếu không muốn nói là tình cờ hoặc may mắn. Vợ chồng đã lâu không có chuyện ăn nằm, Nguyện cho rằng đó là một điều bất hạnh của người chồng. Tuy một đôi lúc nghĩ vợ đã nằm trong vòng tay đen đúa của bọn Thái và đôi lúc cơn ghen bốc lên đầu đã làm tê liệt cảm giác nhưng chỉ một thoáng giây rồi sau đó sự đòi hỏi thể xác vẫn đeo theo nung nấu. Nhà mười người ra vô, Nguyện không có cách nào để được đụng chạm gần gũi giữa đêm khuya hay ban ngày, phần không muốn cho mọi người nhìn ra những liên hệ vợ chồng của Nguyện, phần Phượng cứ tảng lờ hoặc đôi khi còn cố ý trốn tránh nên hắn đã bỏ công vào rừng tìm chỗ kín đáo không ngờ may mắn lại gặp. Cái tổ ấm tiện lợi và kín đáo thật, bên trên còn căng sẵn một chiếc mùng tuyn tuy đã cũ vì mưa gió nhưng chưa có dấu rách.
- Đi ra thôi anh.
Phượng nhắc thêm lần nữa và đứng hẳn lại khua tay đuổi đàn muỗi đang đảo tròn trên đỉnh đầu.
- Biển lặng gió êm nên muỗi mới rong chơi như chúng mình đó mà! Lát nữa chỉ một cơn gió đưa tới là bọn chúng lẩn mất. Giọng Nguyện ngọt ngào một cách bất bình thường nhưng Phượng không để ý.
- Chờ gió đến em cũng sưng hết cả mặt mũi.
- Một chút nữa thôi, sắp tới rồi.
Không một chút như Nguyện nói. Từ bìa rừng vào đến tổ ấm phải gần hai trăm thước.
- Em không đi nữa đâu, hái được rổ nấm mất hai chén máu.
Đã làm tiên phong cho muỗi cắn, cho cỏ tranh cạ rát hai ống chân mà còn nghe tiếng Phượng lải nhải, cằn nhằn, Nguyện phát bực bội nhưng hắn vẫn cố gắng ôn tồn:
- Không thích hái nấm thì cũng đi dạo một vòng cho biết.
- Dạo với muỗi đó hả? Anh thích thì đi một mình.
Phượng quay người trở ra. Nguyện quên cả mình đang ngọt nhạt dụ dỗ vợ đưa vào động đào, hắn phóng lẹ năm bước chặn trước mặt Phượng.
- Tại sao đã lên đây em còn trở chứng?
Phượng hơi ngạc nhiên về thái độ bắt ép của chồng nên vẫn vô tình:
- Anh mới khùng, muỗi cắn ngứa muốn điên vào trong đó làm gì?
Nguyện đưa tay gãi xồn xột trên má. Có nên nói thật không? Nếu không chẳng còn lý do gì ép buộc được Phượng cả.
- Anh đã dọn sẵn một chỗ có căng mùng cho em đàng hoàng.
Mặt Phượng thoáng biến sắc nhưng Nguyện không để ý; hắn vẫn tiếp tục mồi chài:
- Anh trải áo cho em nằm, bảo đảm êm như mơ.
À... thì ra thế! Cơn giận bỗng đâu chợt đến, Phượng nói một hơi như muốn trút bỏ tất cả những nỗi bực dọc chất chứa trong lòng quá lâu:
- Em đã nói với anh bao nhiêu lần là cái quá khứ hãi hùng ám ảnh em vẫn chưa thể quên được. Những hành động tàn nhẫn của anh đối với em vẫn còn nằm sâu trong tủy não; vết thương không thể hàn gắn bằng ân ái. Hôm nọ anh bảo chúng ta coi nhau như bạn chờ qua Mỹ hãy tính. Ừ thì chờ qua Mỹ.
- Phượng, Nguyện gọi giật giọng, anh năn nỉ. Thèm quá cho anh đi.
- Chỉ vì thèm khát thể xác nên anh đã dối gạt em bảo là đi hái nấm? Cái thèm của anh chứa đầy sự ích kỷ chỉ tận hưởng riêng cho mình. Tại sao anh không thèm hạnh phúc, thèm một mái ấm gia đình, thèm con cái ngoan ngoãn thông minh?
- Em nói năng tận mãi đâu vậy Phượng? Ít khi có dịp riêng tư chỉ hai đứa mình...
- Ngày xưa có hai đứa cũng đâu khác bây giờ? Anh bảo em nói mãi đâu trong khi chính anh mới vớ va vớ vẩn. Nguyện, em hiểu khi anh đã lên cơn thì có thể quỳ lết dước chân em nhưng chỉ cốt sao đạt được mục đích. Trò này anh đã diễn đi diễn lại mấy năm trời liền nên không còn bịt mắt được em nữa đâu.
- Đi Phượng, một lần thôi. Nguyện tiếp tục năn nỉ.
- Một lần như mọi lần rồi lại đay nghiến đày đọa em. Xưa kia chưa bị tì vết anh còn coi em chẳng ra gì huống hồ bây giờ... Giọng Phượng đặc nghẹn.
- Tại sao em cứ nhắc chuyện xưa? Người gì thù dai quá vậy?
Phượng nhìn những con muỗi với chiếc bụng căng tròn bám chặt trên làn da nâu của chồng lòng càng thêm uất hờn:
- Khi con lợn lòng nổi dậy, anh quên muỗi mòng rắn rết, quên cả bọn Thái có thể đang lởn vởn quanh đây. Khi con lợn ngủ yên anh lại bơi móc từng đôi cánh muỗi, từng vết đỏ trên da. Thôi xin tha cho em chuyện ăn nằm chỉ có thể giải quyết bằng tình yêu chứ không thể ép buộc như mọi lần.
- Nhưng anh chịu không nổi.
- Chịu không nổi thì kiếm gốc cây. Phượng cũng cất cao giọng.
- Hỗn láo, tưởng qua đây là ngon rồi hả?
- Biết ngay mà. Vừa xong em bảo anh chỉ luồn lụy để thỏa mãn dục vọng. Không đời nào, em không thể mãi là công cụ cho anh sai khiến, nhất là chuyện ghê tởm đó.
Lần đầu tiên Phượng quyết liệt chống đối chuyện ăn nằm, phải chăng lời mẹ Hoài trong giấc mơ đã ăn trong tủy não Phượng nên nàng không còn sợ hậu quả dù đã lường trước. Quả nhiên Nguyện nổi cơn điên. Sự nín nhịn chỉ tạm thời nên khi không được đáp ứng, bản tính hung ác ti tiện lại bung ra, hắn châm biếm:
- Ăn nằm với chồng thì cho là ghê tởm trong khi nằm ngửa cho những thằng khác thay phiên nhau "chơi" thì không một tiếng kêu.
- Tồi quá đi.
Phượng hét lên nước mắt chỉ chực trào ra, vết thương trong tim lại được dịp khơi động.
- Anh có thể dùng danh từ hèn hạ đó để gán ghép cho vợ anh trước cảnh hãm hiếp dã man. Anh có thể dùng tiếng chơi đĩ thõa để diễn tả hành động bạo dâm của lũ quỷ biển trước đám đàn bà con gái trần truồng trong tay không một tấc sắt tự vệ. Nguyện... Nguyện... Phượng rít lên căm hờn... Anh không phải là con người. Loài muông thú còn biết thương vợ con, còn biết xót xa khi nhìn vợ nó bị hãm hiếp. Anh bất lực không bảo vệ được tôi thì đừng đay nghiến lời một lời hai như vậy.
- Tôi... tôi... tôi... lại tôi. Tao lại chẳng vả cho sưng môi để hơi một chút thì tôi.
Nguyện hùng hổ tiến đến trong khi Phượng mỗi lúc một lùi. Đám cỏ được dịp xào xạc khua động làm muỗi mòng bay tứ tán.
- Còn hơn anh mày tao.
- Con khốn nói một mày trả lời một hả?
Nguyện chưa kịp xấn tới Phượng đã vụt chạy đi. Cũng may khoảng cách từ bìa rừng tới ghềnh đá chỉ hơn vài chục thước. Ở đó nhiều người đang ngồi phơi nắng nên cùng quay lại nhìn kẻ trước người sau đuổi nhau, có lẽ tiếng cãi cọ dội từ vách đá tạo sự chú ý của mọi người ngay từ đầu. Tuy những đôi mắt xa lạ chỉ nhìn bâng quơ nhưng có tác dụng làm cho Nguyện chùn chân. Phượng không nghe tiếng chân gấp rút đuổi theo nên ngoái cổ lại và cũng chậm bước, ít ra cũng còn giữ chút thể diện của cả hai trước mặt mọi người. Chỉ vài bước chân Phượng chậm lại Nguyện đã đi song song nhưng giọng vẫn gay gắt:
- Quay vào rừng nói chuyện cho xong để dứt khoát một lần.
- Tại sao phải vào rừng mới được? Hỏi mạnh bạo là thế nhưng Phượng vẫn run lên, rõ ràng Nguyện muốn đánh Phượng nên mới tìm chỗ vắng người.
- Chuyện gì không thể nói giữa đám đông thì cũng đừng đưa trong bóng tối mà nói.
- Ơ hay khùng rồi à! Chuyện vợ chồng cãi nhau ngay ở đây cho người ngoài nghe thấy?
- Nghĩa là anh quyết định mổ xẻ? Đã vậy sao không dám ngồi ở đây?
Phượng chọn mỏm đá cao và ngồi xuống. Ở đó Phượng có thể nhìn thấy hết tất cả mọi người và ngược lại, có nghĩa là một nơi rất an toàn cho chính nàng.
- Anh muốn nói gì thì nói đi.
Nguyện đã lấy lại bình tĩnh, nhất là thấy vùng ngực phập phồng của vợ sau làn áo mỏng bị đẩy gồ lên vì thế ngồi thẳng lưng. Chiếc tổ chim lại lởn vởn trong đầu, hắn nuốt nước bọt đấu dịu:
- Chuyện vừa rồi bỏ qua đi, anh chạy về nhà lấy nhang muỗi đưa em đi dạo rừng nhé!
Thấy Phượng quay đi tưởng nàng đã xiêu lòng nên hắn uốn thêm ba tấc lưỡi tấn công:
- Cái tổ chim đẹp không chịu nổi. Bảo đảm êm như...
- Em không muốn nghe chuyện ấy, Phượng ngắt lời, lúc đầu anh bảo vào rừng hái nấm, sau đó lại bảo vào hang chồn hang chuột. Thì ra cả đời anh chỉ lừa dối vợ con để đạt được mục đích. Hãy nhìn lại quá khứ anh đã đối xử với em như thế nào. Nhớ lúc trên tàu và khi cặp bến anh coi em là hạng người nào mà giờ đây dám buông lời rủ em vào hang động. Nguyện, hãy nói chuyện chúng mình một lần như vừa xong anh đã nhắc nhở. Thà cắn răng nhổ cái dằm ra khỏi con mắt còn hơn cứ để nó đâm thêm nhức nhối. Hãy nói đến cuộc sống hiện tại và tương lai sắp tới khi mình không còn bị lệ thuộc vào nhau. Phượng thấy không thể kéo dài mãi tình trạng bấu víu tạm bợ này.
Nguyện nhăn mặt khó chịu. Đàn bà hình như họ có những ương bướng ngu ngốc giống nhau. Những lúc người đàn ông dễ sai bảo, dễ chiều nhất là những lúc họ đang ôm ấp nhân tình hay vợ. Khi người đàn ông thỏa mãn, người đàn bà muốn gì chẳng được? Đàng này Phượng chỉ yêu sách, đòi hỏi quyền lợi khi hai đứa cắn cấu còn những lúc chăn gối thì lại mím môi nhắm mắt nằm chịu trận như người chết. Rõ ràng là Phượng có những bất mãn và chống đối hắn từ lâu. Cơn giận chợt bốc lên khiến Nguyện quên ngay bộ ngực căng phồng, quên những hàng nút áo hờ hững khiêu khích và những rung động cũng rút lẹ như ống cống vừa được thông, hắn lại gầm lên:
- Chuyện vợ chồng mà bảo là bấu víu tạm bợ vậy thế nào mới cho là ăn đời ở kiếp?
- Sống với nhau dù cả chục năm mà không có tình thì gọi là tạm bợ bấu víu. Em muốn nhân cơ hội này mỗi đứa một nơi là xong.
- Nói cái gì như quân lạc chợ vậy? Liệu cái phần hồn kẻo trách thằng này nặng tay. Vợ chồng đang ấm êm hạnh phúc lại cố tạo cho sóng gió. Hỏi trên đời có đứa nào khốn nạn như em không?
Nguyện không đứng nữa, hắn ngồi bệt xuống mỏm đá ra dáng bực tức tận cùng.
- Hạnh phúc? Với anh hạnh phúc là gì? Là cơm ngày hầu anh hai bữa, là vợ ngồi một nơi, chồng đi một nẻo, là thấy mặt nhau dửng dưng xa lạ, là khinh bỉ ghê tởm khi người đồng hành gặp cơn hoạn nạn, là...
Tiếng nói chợt tắt nghẹn, giấc mơ gặp mẹ Hoài mấy hôm trước lại hiện ra. Nỗi uất ức được dịp sôi sục, Phượng cắn chặt môi đè cơn cảm xúc. Gió biển thổi mạnh, khô và rát chận đứng những giọt nước nhưng vẫn làm mắt Phượng cay xé. Phải có ý tưởng dứt khoát, phải thẳng thắng nói những sai trái thiếu sót của Nguyện chứ đừng câm nín như mẹ Hoài. Đúng, phải can đảm vứt bỏ cái duyên nợ ngang trái trói buộc cuộc đời.
- Mà thôi nói đi nói lại cũng chẳng giúp ích được gì. Đã không sống được với nhau thì mỗi đứa một nơi. Anh xem chỉ một mảnh giấy ly dị, một chữ ký là xong, mình chẳng còn hờn trách cay đắng lẫn nhau...
Trên ghềnh cao Nguyện ngồi cứng ngắc như pho tượng trơ mắt nhìn những chú ốc mượn hồn chui rúc trong kẹt đá. Ly dị. Hai tiếng ly dị đối với người đàn bà sao dễ dàng quá. Mà đâu chỉ một lần, mỗi khi trở chứng Phượng đều mang nó ra để được nhận cơn thịnh nộ từ đôi tay cứng ngắc của Nguyện mà vẫn chưa tởn. Lần này Phượng chọn đúng địa điểm thuận lợi giữa đám đông nên Nguyện cố nín nhịn nhưng quai hàm bạnh to ra. Hắn rít từng tiếng một:
- Muốn ly dị phải bước qua xác chết thằng này.
- Anh đừng hăm dọa những câu lỗi thời. Con người khác xác chết là biết đi đứng suy nghĩ, Phượng lấy anh khác nào đã chết? Như vậy một xác chết bước qua xác chết khác để tìm lại sự sống cũng là chuyện thường.
- Thật ghê tởm cho miệng lưỡi đàn bà. Thì ra những điều anh đoán đều đúng cả, hơn tháng nay em lạnh nhạt xa lánh chỉ vì muốn bỏ chồng. Anh bảo thật thằng nào nhào vào cướp vợ người ta là từ chết đến bị thương.
- Đâu phải cứ ly dị chồng là sẽ lấy chồng khác? Cũng đâu phải phép hôn phối cột vào cổ ai là người đó phải chết? Anh đừng cho rằng lấy nhau rồi có bị vật lên vật xuống cũng phải ở với nhau. Ngày xưa Phượng sợ gia đình, sợ giòng tộc dư luận, sợ tất cả mọi người, chính vì vậy nên đã sống chịu đựng nhẫn nhục như một đứa tôi tớ hèn hạ, là một người vợ không được thương yêu, là đứa con dâu bị tước hết nhân phẩm khúm núm trước mặt cha mẹ chồng, là một đứa...
- Làm gì cứ oang oác cái mồm cho thiên hạ nghe hết vậy? Nguyện nạt vợ nhưng họng hắn còn lớn hơn.
- Phượng biết xưa nay anh vẫn sống che dậy hình thức, trong lòng đối với vợ con chẳng ra gì nhưng bên ngoài lại muốn cho người ta nể phục mình là người đạo đức tốt lành. Chính hành động ruồng rẫy trên tàu cũng là một cố tình cho họ biết anh không thể chấp nhận một người vợ đã "ăn nằm" với lũ quỷ biển.
Nguyện hừ trong cổ họng cùng lúc với con sóng mạnh vô tình đập vào ghềnh đá nghe chát chúa làm Phượng cũng nín lặng. Ngoài khơi biển trải rộng một màu xanh biếc liếm đến tận chân mây. Vài con tàu sắt phản chiếu màu nắng sáng loáng như những khối thủy ngân làm biển bừng lên một sức sống mãnh liệt. Gần đó hòn đảo hoang nổi chênh vênh phủ ngập màu xanh của lá còn vương vấn sương đêm nên khi gặp nắng sớm chúng sáng lấp lánh như kim cương. Phượng quay mặt đi vì thấy lòng nhói đau, cảnh sôi động như có linh hồn, đẹp như được trau chuốt cho khuôn mặt thêm mỹ miều nhưng cảnh chỉ phục vụ cho loài người ngắm nghía trong khi Phượng, một người vợ có trái tim lại trống trải và lạnh lẽo như huyệt địa. Lòng Phượng chai cứng:
- Xưa nay anh luôn đối xử với em tàn tệ thì mình nối tiếp cuộc sống khổ ải này làm gì?
- Đã không định ở với nhau sao còn dắt díu qua bên này làm khổ nhau hả Trời ơi là Trời? Nguyện cau mặt lại và chợt vung tay hùng hổ.
- Anh đừng kêu Trời. Trời không làm khổ anh. Trời cũng chẳng khắc nghiệt với riêng em mà tự chúng mình đày đọa nhau. Tự chúng mình chui vào cái thòng lọng của hôn nhân ép buộc.
- Thì ra bây giờ hai đứa cần phải gỡ bằng cách ly dị? Phải thế không con vợ lăng loàn trắc nết?
- Anh không có quyền nhục mạ em khi không có bằng cớ.
- Vậy chứ ly dị để làm gì? Để lấy trai tơ hay trai tân? Nguyện vẫn rít lên đay nghiến.
- Anh bình tĩnh lại đi. Phượng chỉ muốn mang chuyện ly dị để giải quyết nếu vấn đề không thể gỡ rối.
- Hôn nhân ai buộc mà đòi gỡ với bỏ? Tại sao những điều láo khoét khốn nạn xảy ra trước mắt không giải quyết lại đào bới chuyện khi xửa khi xưa?
- Anh nói như vậy với ý gì?
- Đứa nào hứa hẹn vượt biên sẽ có cuộc sống sung sướng hơn, bây giờ một xu cũng chẳng có, ngày nào cũng ngồi chầu chực như ăn mày để xin thực phẩm, nước uống.
Thái độ hung hăng và tư tưởng thiển cận của Nguyện làm Phượng chán ngẫm:
- Không ngờ anh có thể thốt ra những lời hèn mạt đê tiện đó. Nếu không sợ trời sợ đất cũng phải sợ thẹn với lương tâm chứ.
- Câm họng ngay, thằng này đếch có sợ ai. Nguyện lập lại thêm một lần nữa nhưng tâm hồn đang bị khuấy động mạnh. Hắn linh cảm lần này khác với tất cả những lần trước, không phải vì những lời lạnh lùng sắt thép của vợ mà vì cuộc sống xô bồ chung quanh như một môi trường cho những người vợ muốn vùng dậy. Ở đảo, chuyện ly dị và tách hộ khẩu xảy ra thường xuyên như một phong trào mà đa số đàn bà tự khởi xướng và cổ động lẫn cho nhau.
- Đúng, anh không sợ ai nhưng anh sợ sự thật. Ai đi làm để có tiền tiếp tế thuốc men cho anh mấy năm liền trong trại cải tạo? Ai thay anh săn sóc gia đình nuôi con? Rồi khi ở tù ra ai dằm sương giãi nắng lo cho anh trong những tháng nằm trong bệnh viện? Ai bán quần bán áo mua thực phẩm ngon mỗi ngày cho anh bồi bổ sức khoẻ? Anh sống sung sướng như một ông hoàng. Anh khác hẳn những người thất trận cùng thời chỉ vì Phượng suốt đời chỉ biết cùi cụi làm và phục dịch. Trong tù anh ăn giun ăn dế không than khổ, không thù ghét kẻ bắt nhốt anh trong khi đánh đổi sự sống sang đây tìm tự do anh lại sợ sắp hàng chờ lãnh thực phẩm? Anh ngửa tay lãnh thực phẩm thì sợ nhục còn nằm đó cho vợ nuôi, cho vợ buôn bán chợ trời, một cuộc sống chui rúc như bọ, một bám víu tạm thời không có ngày mai thì lại không sợ nhục.
- Câm ngay. Tiếng Nguyện quát để lấn áp vợ nhưng không còn mạnh như lúc đầu.
Phượng thở dài, nói được phần nào những uẩn ức chứa đựng quá lâu trong lòng nhưng vẫn không cảm thấy nhẹ đi. Thực ra chuyện ly dị nàng chỉ lợi dụng nó làm áp lực với hy vọng Nguyện nhìn ra sự sai trái, nhất là sợ mất con mất vợ mà nhìn ra lỗi lầm của mình cũng như đánh thức cái tình cảm thực thụ vợ chồng mà chỉ khi người ta sắp mất hoặc đã mất mới thấy tiếc nuối để níu kéo.
- Lát nữa em xuống cao ủy làm lại giấy tờ xin tách hộ khẩu.
Phượng tiếp tục bồi thêm những nhát đánh chí tử. Quả nhiên mặt Nguyện trắng bệch.
- Chỉ chừng một hai tháng nữa là có thể mình sẽ được đi. Sao bỗng dưng hóa rồ như vậy?
Nguyện hoảng sợ là phải. Đàn bà nhất là vợ hắn có những cái liều lĩnh vô cùng ngu ngốc. Nếu tách hộ khẩu chắc chắn hắn sẽ bị đẩy đi nước khác vì không thân nhân bên Mỹ ngoài trừ người chú họ của Phượng bảo lãnh. Khi làm lại giấy tờ, cái bất lợi cho Phượng chỉ là ở lại thêm vài tháng nhưng với hắn tương lai định cư thật xa vời và điểm tới chỉ là Úc hoặc Canada. Ở đảo ai cũng mơ ước được qua Mỹ vì nơi đó quy tụ người Việt Nam nhiều nhất. Người ta viết thư kể rằng những người Việt sống thành từng vùng, có chợ búa, đường phố và đi lại gần gũi mật thiết không khác gì ở quê nhà.
- Biết là tách hộ khẩu chuyến đi sẽ bị đình lại nhưng cho dù một năm em cũng vẫn chờ đợi được hơn là phải sống với anh, với người lạm dụng mình cho tàn tạ cuộc đời. Đã vậy còn tương lai bé Trường nữa.
Nguyện toát hết mồ hôi nhưng giọng hắn còn hung hăng lắm:
- Dù vợ chồng có lầm lỗi tày trời cũng không thể bỏ nhau huống hồ anh chẳng làm gì cả.
- Anh chẳng làm gì? Có nhắc lại cũng như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu năm trời em đã khóc đã gào đã nói bên tai mà anh có thèm sửa đổi. Nói cho đúng anh không thể sửa đổi vì tâm tánh con người đã ăn liền trong máu. Anh bảo anh đã lỗi gì? Lỗi nảy sinh từ con người ích kỷ hẹp hòi chỉ biết sống cho mình và riêng mình, từ tư tưởng phong kiến lạc hậu, anh chấp nhất câu nệ trinh tiết vợ con trong khi em không cố ý tạo ra lầm lỗi đó. Anh không cảm nhận được niềm đau trong nỗi tủi nhục và mất mát của em. Anh không chia sẻ được những đắng cay của những ngày em sống làm dâu. Những tháng bên đảo em nghiệm thấy giá trị người đàn bà không phải do trinh tiết mà do từ tâm hồn. Lòng em vẫn trong sạch và bao dung, em vẫn chờ đợi sự hối lỗi trong cách đối xử quá đáng của anh để được nói câu tha thứ nhưng cho đến nay cũng vẫn hoài công, nói cho đúng, đã muộn rồi.
Ngày xưa em thù, em hận, em đau cho đời em khi nghĩ chúng ta không yêu thương nhau mà vẫn phải bị trói buộc vì luân lý. Bây giờ lòng em thanh thản dửng dưng, luân lý tạo ra để cho con người sống đẹp, sống phải, sống thực, sống hạnh phúc chứ không phải lợi dụng nó để biểu tỏ quyền hạn, để đánh đập và để làm cho nhau đau khổ. Thú thật em đã quá chán trò cay nghiệt vợ chồng, chán sự che đậy giả dối. Sáu năm làm vợ làm dâu em đã che đậy chẳng những với họ hàng mà ngay với chính em. Những hình thức bên ngoài, phong cách của một người vợ, con dâu được chồng yêu, cha mẹ chồng mến chuộng trong khi thực tế em còn bị coi thua con chó vì nó còn biết sủa. Sự che đậy đã làm em đánh mất một quãng thời gian dài nhưng thôi, con người ta chỉ lớn, chỉ biết sống đẹp sau khi đã trải qua một kinh nghiệm đời, mà kinh nghiệm nào học được lại chẳng phải trả cho nó một cái giá. Nhờ có sáu năm nhẫn nhục em mới lớn, mới trưởng thành và chững chạc như mọi người. Nhờ có sáu năm sống khổ em mới biết sự tương thân tương ái của con người như những mắt xích dính vào nhau, rớt một mắt xích cả một bộ phận sẽ phải ngừng hoạt động. Anh sống tách khỏi guồng máy tham gia hoạt động, không dám sống vì mình và cho người thì tự đã khoác lên mảnh bọc trắng của loài dòi bọ. Dòi bọ không có mắt chân tay, nó là một thứ phát sinh từ cống rãnh, từ phân rữa hôi thối của loài người bài tiết ra, nó là cặn bã của xã hội mà ai cũng phải ghê sợ. Em không muốn ngụp lặn mãi trong đống dòi bọ. Có thể người ta, một số sẽ kết án em, cho em là một loại gái mới nhưng nếu họ là em, họ đã sống như em thì họ sẽ làm gì? Câu trả lời có phải là tìm cái chết? Con người ta không ai tránh được cái chết nhưng chết vì bị đày đọa, vì tương lai đen tối là chết hèn. Em đang chống đối anh và chống đối tới cùng, đó cũng là một lối chết nhưng chết cho những người còn lại. Xã hội này chẳng phải có mình em mà có trăm ngàn con Phượng bị ép duyên, bị đánh đập, bị coi là nô lệ phải phục dịch người khác; cũng không phải chỉ có một mình anh mà trăm ngàn Nguyện khác. Anh đã lợi dụng phong kiến để trói buộc em, anh đã lợi dụng luân lý để đánh giá trị vợ khi em bị hãm hiếp thì anh là một thằng hèn. Em không chống đối luân lý, em chỉ chống đối kẻ lạm dụng nó mà anh là một trong những tên đàn ông chuyên môn lạm dụng vì sợ mất quyền lợi, sợ mất cảnh chồng chúa vợ tôi, sợ mất cảnh cơm hầu nước rót, sợ mất cảnh ăn trên ngồi trốc để vợ làm đầy đầy như con ở. Em hỏi anh nếu sống mãi khổ như em, làm nô lệ phục tùng gia đình như em để không bị người đời kết án thì em có được gọi là người? Em không phải là con múa rối đứng chờ người ta giựt dây cho nó cử động mà là con người như mọi người, có niềm đau, có sự tủi nhục. Họ không phải là em nên không thể cảm nhận được cái đau của mình. Mình không thương thân mình thì hy vọng gì ở những người chung quanh. Hơn nữa sự thương hại của họ có mang đến cho em hạnh phúc...?
Giọng Phượng đặc nghẹn, nước mắt theo nỗi lòng cứ tiếp tục rơi. Đối diện, càng lúc người Nguyện càng rũ xuống. Hình như những lời Phượng nói đã tích tụ thành một khối đá vô hình đè nặng trên người hắn nhưng đôi mắt kia, đôi mắt mở tròn lại chứa đầy căm hận.
- Đừng nói nữa kẻo thành đống thịt.
- Không, anh phải nghe lần cuối cùng em nói với anh trước khi xa nhau. Anh sống không đẹp với vợ con thì cũng không thể sống đẹp với mọi người. Anh không làm đẹp cho anh thì cũng chẳng thể nào làm đẹp cho mọi người. Chúng ta vượt biên không phải vì lý do kinh tế, anh nhớ kỹ cho điều đó và một điều nữa anh nhớ rằng anh lỡ mang tiếng là người lính quốc gia thì phải sống thế nào cho những người đã anh dũng nằm xuống khỏi thất vọng vì sự hy sinh của họ. Xưa kia vì thương bố em phải lấy anh, lấy một người chồng chẳng ra gì thì bây giờ cũng vì thương con em phải bỏ anh. Em không thể để một con sâu làm sầu nồi canh. Bé Trường không thể có người cha tồi, độc ác và mất tư cách như anh. Em ly dị chỉ vì không muốn vết dơ cứ mãi loang trong đầu óc non nớt của nó.
Người Nguyện run lên, khối đá càng lúc càng đè nặng. Phượng không ngờ nghệch dại khờ, cũng không dễ chấp nhận như xưa nay hắn vẫn nghĩ. Từ lúc lão Xùi đánh vợ, từ lúc thấy Phượng đưa đôi mắt căm thù nhìn mình, Nguyện đã ngờ ngợ, hình như có một cái gì kinh khủng dữ dội hơn ẩn sâu trong đôi mắt kia. Hắn không tin Phượng là một trong những người đàn bà đua đòi bình đẳng bình quyền, một thứ gái mới chưa sang tới Mỹ đã tự do bỏ chồng, bỏ con, bỏ cả gia đình. Nguyện nghiến răng trèo trẹo:
- Vợ con như thế là vất đi.
Nguyện cảm thấy tức tối khi chợt nghĩ quyền lợi mình sẽ bị tước mất nếu nhượng bộ lần này. Chắc chắn như vậy vì hội bảo vệ các người vợ vừa được thành lập cách đây hai ngày. Nó làm xôn xao dư luận, tạo sự bất bình cho số đông đàn ông mà Phượng lại là mục tiêu để họ chỉ trích, dè bỉu. Chính Phượng đã đứng ra cổ động, hô hào thành lập hội và đàng sau, cả một phái đoàn từ thiện quốc tế bảo trợ và khuyến khích. Hôm vừa thành lập đã có vài bà ôm mùng gối dọn lên ngủ nhất định không chịu về.
- Anh không ngờ lại có người vợ như em, thật là điếm nhục gia phong.
- Điếm nhục vì đã không biến thành dòi bọ như anh? Phượng quệt ngang nước mắt, đúng là nói chuyện với dòi bọ thì cũng bị coi như là dòi bọ.
- Xưa nay đàn bà chỉ quanh quẩn trong nhà lo việc bếp núc thêu thùa vá may. Chỉ có thứ trôi sông lạc chợ mới xông xáo ngoài đời, chỉ có thứ đĩ mới bảo tiết trinh không đáng trọng. Chỉ có thứ trốn chúa lộn chồng mới lập đảng lập hội đòi tự do bình đẳng. Muốn tự do thì chọn nghề mãi dâm đừng học đòi làm vợ. Đã muốn làm vợ phải biết nghe lời, phải biết phục tùng chồng, phải bảo vệ luân lý, phải ở trong một khuôn mẫu.
- Đến giờ phút này anh còn muốn lạm dụng tập tục cổ xưa ra để lừa bịp vợ con. Hiến pháp còn phải sửa đổi cho hợp lẽ hợp thời và theo đà tiến triển của con người thì nói gì đến thành kiến khắc nghiệt đó. Hơn nữa luân lý đâu có bắt người vợ phải thế này thế kia? Luân lý đâu có cho phép đàn ông lấy nhiều vợ? Luân lý có dậy cho con người dùng sức lớn đánh bé? Và thú thực với anh luân lý cũng chẳng bắt buộc người vợ không được bước ra khỏi ngưỡng bếp. Tự anh, tự những người đàn ông bất tài, ích kỷ, tự những kẻ hẹp hòi phong kiến đã dùng nó để che đậy, để làm cho mình, cho người chồng mang một uy quyền to lớn hơn. Em bảo thật chỉ có những người đàn ông nhu nhược mới lôi luân lý ra để hơn thua với vợ.
- Cảng cổ ra đi. Cứ ngồi đó mà nói cho đến khi nào chung quanh người ta vác gậy gộc tới cào nhà, đập như đập chó vì xúi bẩy vợ con người ta thì mới biết ai phải ai trái.
- Muốn đạt tới mục đích ai chẳng qua những thời kỳ gian truân thử thách? Thử nhìn lại Gandhi trước khi được coi như một vị thánh sống ông ta đã bị khinh bỉ ngược đãi như thế nào? Thử nhìn lại Luther King, người luật sư da đen nếu không quên mình để chiến đấu cho tự do và quyền sống, quyền làm con người thì dân da đen bây giờ và cho dẫu muôn đời vẫn còn bị xiềng xích xỏ xâu như chó bán ở chợ. Anh biết tại sao dân da trắng lại quyết chống đối tới cùng để xảy ra chuyện xô xát đổ máu lớn? Vì họ cũng như anh, cũng ích kỷ muốn làm ông chủ trên lưng người khác. Cùng một giống người tại sao kẻ khác màu da phải làm nô lệ? Người ta có thể giết con vật để ăn nhưng không thể mổ sống con người để dùng bữa thì vợ chồng, nhân cách và quyền sống cũng phải được coi ngang nhau. Chồng không phải ngồi một chỗ hét ra lửa và vợ cũng không thể biến thành nô lệ. Anh muốn có người hầu hãy bỏ tiền ra mướn. Họ hầu anh là vì họ cần tiền, vì có sự thỏa hiệp, trao đổi với nhau chứ không thể cưỡng ép. Người vợ săn sóc, giúp đỡ, cơm nước cho người chồng là vì thương yêu chia sẻ trong công việc chung chứ không phải là bổn phận. Anh đừng nhập nhằng giữa hai danh từ khác hẳn nghĩa đó.
- Gái đĩ già mồm. Thấy tao im đi không nói là cứ tưởng hay. Mặt Nguyện rắn lại.
- Anh Nguyện này, mặt Phượng cũng tím xanh, anh đừng có giở giọng điệu ngày xưa. Ngày xưa tôi chịu nhục vì đàn bà không có môi trường sống tự lập, họ đã được coi và chấp nhận như thứ dây leo phải sống bám vào chồng. Đàn bà ra ngoài đời làm việc xã hội sẽ bị chửi như chửi chó. Đàn bà mặc áo tắm hai mảnh là điếm nhục gia phong. Đàn bà cười nói ngoài đường là thứ chẳng ra gì. Nói tóm lại đàn bà bị coi là một thứ nô lệ như dân da trắng đã nhìn dân da đen. Nhưng anh nhớ cho, sở dĩ dân da đen bị coi khinh vì đã sống bám. Còn anh thì trái hẳn vì đã sống bám vào tôi, vào gấu quần vợ.
- Còn nói nữa ông vả ngay vào mồm.
- Không bao giờ tôi ngừng nói, nói hoài và nói cho đến giờ chết. Tôi đã chấp nhận cái chết nếu tiếp tục bị cầm tù nhưng là chết vinh. Anh thử đánh tôi một cái rồi biết. Mọi người sẽ xúm lại và lũ đàn ông đánh vợ như anh sẽ bị khinh bỉ coi như con quái vật. Lũ quái vật mình người lòng thú rồi sẽ bị tận diệt như lũ da trắng kỳ thị xưa kia. Lũ...
- Câm, câm ngay.
Nguyện đưa đôi mắt đỏ ngầu nhìn vợ, những đường gân nơi thái dương gồ lên và hai quai hàm bạnh ra. Hắn nghiến răng ken két theo từng lời đe dọa của Phượng.
- Anh định biến thành lão Xùi hèn hạ thứ hai đánh vợ giữa công chúng phải không? Tôi thách anh đấy.
Tuy thách đố nhưng Phượng đã khôn ngoan tuột xuống khỏi mỏm đá và đi nhanh về phía đám đông đang hau háu nhìn hai người. Thì ra Phượng đã biết rõ được nhược điểm của hắn, "việc gì không dám làm ngoài ánh sáng thì lại làm trong bóng tối". Nguyện không dám công khai đánh vợ như lão Xùi vì không muốn mọi người khinh bỉ nguyền rủa thì lại đánh đập vợ trong rừng, trong bụi. Mới hôm qua, khi cả nhóm đang chơi bài tứ sắc ở nhà một người bạn thì Phượng gọi hắn về ăn cơm. Bạn bè nhìn Nguyện chế diễu:
- Về lẹ đi, lệnh bà gọi.
Biết họ nói đùa nhưng Nguyện vẫn tự ái:
- Em không thấy anh đang bận hay sao mà kêu với réo?
- Em gọi anh về ăn cơm, tới bữa rồi.
- Chẳng tới với lui gì cả, cứ để trên kệ như mọi ngày.
Mọi ngày Phượng khác nhưng hôm nay khác, hình như nàng cố tình gây chiến.
- Tới bữa tự động về ăn sao lại để em đi gọi?
- Thôi đi ông Nguyện ơi đã nói sợ vợ ngay từ đầu mà!
Một người lên tiếng châm biếm;. cả bọn a dua cười ồ lên, kẻ nheo mắt, người cười hô hố.
- Anh nghĩ xem làm như vậy có đúng không. Bài bạc là khi người ta dư tiền dư của, dư ăn dư mặc, dư thời giờ dư hạnh phúc. Còn anh chẳng có một thứ gì làm căn bản lại cứ hay đua đòi.
Thấy Phượng có vẻ găng, lão Hạnh ngồi bên cạnh kéo tay Nguyện lôi dậy:
- Thôi về đi ông Nguyện ơi kẻo cãi nhau to bây giờ. Bà ấy kêu về là sự chẳng vừa, vài tháng nữa qua Mỹ lại như con chó cúp đuôi. Ông nên nhớ bọn mình đứng hạng thứ ba sau con chó đấy.
Nguyện đỏ bừng mặt, vừa giận vừa tự ái nhưng hắn vẫn phải kềm hãm. Không thể làm gì trước đám đông. Không dám làm gì tức là điều đó sai trái? Phượng đã nắm được yếu điểm đó nên đã thay đổi quá sức không còn nể sợ, phục dịch chồng trước mặt mọi người như xưa. Hắn tức tối đứng lên trong khi Phượng ngoe ngoảy bỏ về. Nguyện xỏ vội đôi dép hùng hổ đuổi theo cho kịp:
- Con khốn dám nhục mạ tao trước đám đông.
- Họ là những người lười lĩnh, vô ý thức chỉ biết đục đẽo và làm khổ vợ con.
- Họ có là ăn mày ăn xin đi chăng nữa thì cũng phải nói năng lễ phép để giữ thể diện cho chồng cho con chứ?
- Anh có thể diện đâu mà đòi giữ?
Nguyện cười cay đắng. Con người ai chẳng có thể diện, chẳng nhiều thì cũng ít. Nếu Nguyện không có thể diện thì Phượng đã bị bộp tai trước mặt mọi người chứ đợi gì đến giờ này? Hắn nhìn quanh, chỗ nào, hốc kẹt nào cũng lắm người qua kẻ lại. Phượng quả cố tình gây chiến với hắn toàn trong khung cảnh và giờ giấc tréo cẳng ngỗng, vừa xong lại lôi nhau ra chỗ đông người để bôi tro trát trấu vào mặt chồng. Mục đích đã rõ ràng còn gì mà nghĩ với ngợi? Phượng quyết liệt dứt khoát nếu không đã chẳng công khai thách đố ngay trên ghềnh đá. Kể ra Phượng cũng khôn đã dùng đám đông làm chỗ nấp an toàn. Không ngờ những đôi mắt tưởng là tầm thường kia lại có sức mạnh khóa cứng chân tay hắn. Ngồi bất động nhưng óc hắn muốn vỡ tung ra. Sự bất lực dù chỉ ở trong lòng cũng đủ làm hắn thấy nhục với mọi người, với những đứa con nít vẫn gọi hắn bằng chú xưng cháu mà ngoài kia sóng đang như cùng với nắng diễu cợt hắn, cây cũng rì rào nguyền rủa hắn nhu nhược. Phải dậy vợ. Phải tẩn Phượng một trận đòn nên thân để cho nó biết thế nào là đau đớn ê chề của sự vùng lên và để cho mọi người biết cái quyền làm chồng là quyền bất khả xâm phạm. Người xưa bảo đóng cửa dạy vợ chứ chẳng ai mở cửa cho bà con lối xóm nhảy vào can hoặc bàn tán chê cười. Ý nghĩ dậy vợ cho Nguyện thấy tự tin đôi chút nhưng lòng vẫn cảm thấy bất an. Hình ảnh Xùi Cụt với những nguyền rủa của miệng đời và đôi mắt Phượng căm hờn đầy thách thức, cả hai đang giằng co cấu xé tâm hồn hắn. Nguyện biết vị thế Phượng bây giờ và những năm tháng ở quê nhà khác xa. Đụng vào Phượng là đụng vào cả tập thể. Phượng không còn là con chó giữ nhà mà biến thành loại chó rừng hung tợn với bầy thú hoang bảo vệ chung quanh. Chỉ có thú hoang vô gia đình mới đòi tự do, mới đòi vùng lên chống lại phong tục lễ giáo đã có từ ngàn đời. Không chặt đứt ý tưởng ly dị có khác nào để mặc Phượng tác yêu tác quái, ngồi lên đầu lên cổ. Mẹ hắn một tay làm ra tiền nhưng chưa bao giờ dùng ưu điểm của mình để lấn lướt chồng. Hắn nghĩ những kẻ bước chân ra đi như hắn là dại vì luân lý tồn tại hay không là do những ràng buộc chung quanh. Vượt biên một vợ một chồng bà con chẳng có, Phượng đâu còn sợ ai khi nghĩ đến việc bỏ chồng. Đúng là những thằng đàn ông đến xứ sở văn minh đều thua con chó giữ nhà...
...Sóng vẫn ì ầm va vào ghềnh đá, tiếng dội chát chúa đập vào đầu tăng thêm cảm giác khó chịu cùng cực. Mặt trời đã đứng bóng, nơi hắn ngồi ngả lưng ở trong kẹt đá hơi cong nên vẫn còn một khoảng mát. Nhìn quanh mọi người đã ra về hết, có lẽ giờ cơm. Bụng hắn cũng cồn cào đói, đói nhưng không về, mặt mũi nào bưng đĩa cơm ăn trong khi lát nữa đây cũng chính cánh tay đó phải ký vào giấy tách form. Không, không bao giờ...
Nghĩ như thế nhưng chỉ một loáng sau đã thấy hắn lững lững ngồi trong nhà bưng dĩa cơm ăn ngấu nghiến. Bên cạnh Phượng ngồi quạt cho con mặt vẫn giữ vẻ lạnh lùng. Chẳng sao, cứ lạnh lùng đi rồi lát nữa sẽ biết. Xưa nay chưa bao giờ hắn thua cơ bất cứ một ai nói gì đến Phượng, người đàn bà tuy cứng miệng nhưng trong lòng hãi sợ hơn ai hết. Chỉ nội khuyết điểm ấy Nguyện đã thấy mình nắm chắc vai chủ động nói gì đến sự vừa chớm bùng dậy của vợ. Người ta bảo nhổ cỏ nhổ tận gốc. Phượng chỉ là thứ cỏ còi cụt chỉ cần bứt ngọn cũng khó có thể mọc lại được.
Vừa nhai cơm Nguyện vừa cười một mình, đánh vào khối đông khó thắng nhưng đánh vào một mình Phượng chắc chắn phải gục. Chỉ lát nữa thôi... Hắn mỉm cười đắc chí vừa ăn vừa rung đùi, đĩa cơm chan nước mắm với chút trứng chưng mà sao ngon hơn bào ngư vi cá. Đầu óc hắn đang hoạch định một cuộc đánh vợ đại quy mô mà chiến thắng nắm gọn trong tay nên ăn gì mà chẳng thấy ngon. Vừa ăn hắn vừa dòm chừng vợ; đối diện thỉnh thoảng Phượng cũng liếc nhìn hắn và cũng bắt chước nghĩ ngợi. Hắn cười trong lòng. Đúng là kỳ phùng địch thủ... Lát nữa thôi...
Lát nữa là vài giờ sau nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cơ hội để lôi vợ vào chỗ vắng vẻ. Lúc nào Phượng cũng ngồi kề bên Trang, không Trang thì cũng Mây hoặc Trường, những tên cận vệ đắc lực mồm to nhất. Nguyện ấm ức trong lòng đi ra đi vào và cuối cùng trở lại ghềnh đá để suy nghĩ kế hoạch. Ở chỗ cũ, nắng đã xoay nghiêng tạo nhiều bóng mát nhưng ánh sáng vẫn chói chang lẫn lộn với màu đá làm Nguyện thấy đầu váng vất. Hắn nhìn quanh quất, khung cảnh buồn và vắng không một bóng người qua lại, có lẽ đang giờ nghỉ trưa. Chọn một góc mát, hắn ngồi xuống thẫn thờ suy nghĩ. Cơm vừa ăn xong một bụng no nê, mắt hắn cũng rà rà muốn nhắm. Ngủ một giấc hay suy nghĩ cách đánh vợ? Cả hai giằng co như một bản nhạc kích động làm những sợi giây thần kinh sau ót đập mạnh. Tim hắn cũng đập nhanh khi thấy Phượng từ xa đang đi đến, một mình trơ trọi.
- Giấy tờ đây ký vào rồi từ mai đường ai nấy đi.
Đầu hắn quay quay không hiểu vì say nắng hay bóng Phượng không rõ ràng mà cứ chập chờn lung linh.
- Không dám ký à! Sao anh hèn kém như thế?
Rõ ràng con quỷ cái cố tình đến đây nạp mạng. Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Thay đổi là thay đổi thế nào? Hơn ba mươi năm nay, từ nhỏ tới lớn, hắn luôn sống trong khuôn khổ nề nếp, kẻ thay đổi chính là con ác quỷ mới đúng. Hắn lảo đảo đứng lên, hơi nóng hừng hực bốc trên đầu và các mạch máu chạy tứ tung:
- Muốn ly dị thì xuống gặp diêm vương đòi quyền lợi.
Trước mặt Nguyện, Phượng là con quỷ có những móng vuốt nhọn bấu xuyên qua màng óc. Nó đang muốn vùng lên đè bẹp uy quyền của người chồng đã có xưa nay. Nó muốn vùng lên để làm một thứ gái mới, một thứ đĩ. Nguyện quên hết những gì chung quanh, quên cả sóng nước đập ầm ầm, quên ghềnh đá cao cheo leo chỉ còn Phượng của ác quỷ, Phượng của hớ hênh trên mỏm đá thật vừa tầm tay, thật dễ dàng để nhận một trận đòn nhừ tử. Hắn vung bàn tay rồi từ từ bóp lại cho những mắt xương nổi gồ hẳn ra và bằng hết sức lực hắn tung một cú đấm chí tử từ dưới phóng ngay vào cằm. Cú đấm mà từ xưa rày mỗi lần hứng chịu là mỗi lần Phượng phải phủ phục. Nhưng cú đấm chưa tới hắn đã bị bàn tay của ai đó khoá cứng.
- Anh định giết vợ hả. Thằng mưu sát phải nhốt vào tù hoặc ở đảo tị nạn mút mùa không có ngày định cư.
Cái khoá tay cứng ngắc làm Nguyện phải quay trở lại nên đầu bị đập vào đá đau điếng. Tỉnh hồn. Thì ra chỉ là một trong những ý nghĩ vừa thoáng đi qua và sẽ được thực hành mà mộng và thực rất dễ gặp nhau. Nguyện rùng mình, tội ác nào chẳng có những sơ hở dễ đưa con người nằm trong lao tù như chơi. Đừng giết vợ, chỉ răn đe thôi... Trí óc minh mẫn nhắc nhở cho hắn những khôn khéo ma le nên sự tính toán đã có thoáng chút giằng co. Nếu vừa rồi xảy ra thật thì hậu quả tai hại chỉ riêng dành cho mỗi mình hắn trong khi Phượng bên ngoài vẫn nhởn nhơ. Không được... Phải có kế hoạch chu đáo an toàn hơn... Hắn lại mơ mơ màng màng và ngủ thiếp đi đến bữa cơm chiều mới bước vào nhà. Mọi người chung quanh không ngờ trong đầu óc hắn đang chất chứa đầy mưu mô nên vẫn đối xử thân mật như thường ngày, duy chỉ có Phượng vẫn lạnh nhạt dửng dưng và hình như đoán được cả những toan tính nên càng phòng thủ.
Vài giờ của hắn kéo dài mãi đến tối; tối lại trì hoãn đến khi tắt đèn và bây giờ đã quá nửa đêm... Hắn thở dài... Làm thế nào lôi Phượng ra ngoài mà đừng ai thức giấc? Chắc chắn kế hoạch dùng võ lực hăm dọa khó thực hiện, mà dụ ngọt để vợ chui ra khỏi mùng thì Phượng đâu dễ bị mắc lừa. Nó là thứ thành đanh đỏ mỏ, là thứ gái mới thập thành lại được trợ giúp của những kẻ có nhiều thế lực. Phải làm thế nào đây? Câu hỏi được nhắc đi nhắc lại như chiếc đĩa hát bị hư. Phải làm thế nào đây? Cứ thế câu hỏi đưa hắn về giấc ngủ mệt mỏi lẫn lộn trong cơn mộng đánh vợ...