Nguyên tác: Terre Des Hommes
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-03-26 22:18:54 +0700
Chương 4 - Chiếc Máy Bay Và Trái Đất
C
hiếc máy bay, nó hẳn là một cái máy rồi, nhưng nó còn là một dụng cụ để phân tích quý giá biết bao! Dụng cụ ấy giúp ta khám phá khuôn mặt thật của Trái đất. Ví dụ như đường sá, trong bao nhiêu thế kỷ, đường sá lừa dối ta. Ta giống như bà hoàng hậu nọ muốn đi thăm các thần dân, muốn biết họ có hân hoan vì sự trị vì của mình không. Để dối nhà vua, những kẻ nịnh thần bố trí một vài cảnh an lạc trên đường vua qua, thuê người múa nhảy ở những nơi đó. Ngoài con đường bé tí, vua không nhìn thấy gì trong đất nước của mình, và tuyệt không hay biết là trong các làng mạc, những người sắp chết đói đang nguyền rủa mình.
Cũng vậy đấy, ta men theo dọc những con đường quanh co. Những con đường này tránh các khoảng đất cằn, tránh đá, tránh cát, đáp ứng những nhu cầu của người và đi hết giếng nước này đến giếng nước khác. Chúng đưa nông dân đi từ các kho lúa đến các đất trồng lúa, nhận ở các sân chuồng đàn súc vật còn ngái ngủ và vào lúc bình minh đổ chúng ra đồng cỏ. Chúng nối khu làng này đến khu làng kia, vì trai làng này lấy gái làng kia. Và cho dù một con đường có thử phiêu lưu vượt một miền sa mạc thì nó cũng vòng đi vòng lại hàng hai chục lần quanh các ốc đảo.
Bị lừa gạt như vậy bởi các đường vòng của chúng, cũng như bởi những lời dối trá khoan dung, trong những cuộc hành trình của ta, ta đã đi dọc biết bao miền đất được tưới tắm, bao vườn rau, bao đồng cỏ, lâu rồi ta đã tô vẽ hình ảnh cái nhà tù của chúng ta. Cái hành tinh này, ta vốn ngỡ nó ẩm ướt và dịu dàng.
Nhưng mắt ta được mài sắc, và ta đã có được một sự tiến bộ tàn bạo. Với chiếc máy bay, ta học được cái vạch thẳng. Chi cần cất cánh là ta rời bỏ ngay những con đường có xu hướng đi về các giếng nước và chuồng trại, những con đường len lỏi từ thành phố này sang thành phố khác. Từ nay được giải thoát khỏi những thói tục nô lệ yêu dấu, giải thoát khỏi các giếng nước, ta hướng tay lái về những mục đích xa xôi. Có làm như thế, từ trên cao các đường bay thẳng ta mới khám phá thấy cái nền cơ bản, ta mới khám phá thấy chân đá, chân cát, và chân muối, cái nền cơ bản nơi mà cuộc sống, đôi khi, giống như một ít rong rêu trong khe các di tích, mon men nở hoa, đây đó.
Và ta bỗng biến đổi thành nhà vật lý, nhà sinh vật, chăm chú ngắm kỹ các nền văn minh đang tô điểm cho các thung lũng, và có khi, như là một sự kỳ diệu, nở rộ như những khu vườn hoa, nơi nào mưa thuận gió hòa. Như vậy ta đánh giá con người theo tầm cỡ của vũ trụ, nhìn kỹ con người qua cửa sổ tàu như qua các đồ dùng nghiên cứu. Như vậy ta đọc lại lịch sử của chính ta.
o O o
Người lái bay về phía eo biển Magellan, có nhìn thấy chếch một tí về phía Nam Rio Gallegos vết tích một cuộc phun chảy phún thạch ngày xưa. Đống đổ nát này đè nặng đồng bằng với một bề dày hai mươi mét. Rồi anh lại gặp vết tích một cuộc phun chảy thứ hai, một cuộc thứ ba, và từ đây trở đi, ở mỗi chỗ đất gù, mỗi ngọn đồi thấp hai trăm mét đều có trên sườn một miệng núi lửa. Không phải núi lửa đồ sộ loại Vésuve: đặt ngay trên đất bằng, thật là những cái miệng đại bác.
Nhưng ngày nay là sự yên tĩnh. Người ta kinh ngạc mà gặp sự yên tĩnh trong cái khung cảnh đã được cải tạo, nơi này hàng nghìn quả núi kia từng đối đáp nhau, bằng những cái bụng lớn ở dưới đất, khi chúng phun lửa. Và ta giờ bay trên một miền đất đã câm tắt, tô điểm bằng những dải băng hà màu đen.
Nhưng, xa hơn có những dải núi lửa già cỗi hơn, chúng đã khoác lên mình một lớp vỏ vàng kim. Chốc chốc lại có một cái cây mọc trong khe đá núi lửa như một đóa hoa mọc trong một cái chậu cũ. Dưới ánh sáng màu hoàng hôn, đồng bằng có vẻ sang trọng như một công viên, có vẻ văn minh với lượt cỏ ngắn, chỉ còn hơi bồng bồng một tí quanh cái mép khổng lồ. Một con thỏ lao xuống sườn núi, một con chim cất cánh bay, cuộc sống đã chiếm hữu trên một hành tinh mới, nơi mà chất đất nhào nhuyễn tốt lành sau cùng đã đặt được trên một tinh cầu.
Sau cùng, một quãng trước khi tới Punta Arenas, những họng núi lửa cuối cùng được lấp kín. Một thảm cỏ mịn màng nối liền đường cong các núi lửa: từ đây đi, chúng tuyền là dịu dàng. Mỗi khe núi đều được khâu lại bằng thứ chỉ lanh mềm mại ấy. Mặt đất phẳng, sườn núi nhẹ thoải, làm cho ta quên đi gốc nguồn của chúng. Thảm cỏ ấy đã xóa đi cái dấu hiệu đen tối trên các triền đồi.
Và đây, là thành phố cực Nam nhất của thế giới, nó có thể có được nhờ sự tồn tại ngẫu nhiên của một chút bùn, giữa các phún thạch nguyên sơ và băng hà Nam Cực. Ở tận kề các dòng phun chảy đen kịt, thật người ta mới cảm thấy sự kỳ diệu của con người! Cuộc gặp gỡ thật kỳ lạ! Người ta không hiểu như thế nào, không hiểu tại sao người khách qua đường ấy lại viếng các khu vườn sẵn có, các khu vườn có thể ở được chỉ một thời gian ngắn như thế, một kỷ nguyên địa chất học, một ngày tốt lành trong chuỗi tháng ngày.
Tôi hạ cánh trong buổi chiều êm ả. Punta Arenas! Tôi tựa lưng vào một giếng nước và nhìn những người con gái. Chỉ cách vẻ xinh đẹp của họ có hai bước, tôi càng thấy rõ hơn nữa sự bí mật của con người. Trong một thế giới mà sự sống đính liền cuộc sống sít sao như vậy, trong cái thế giới mà những đóa hoa trong chính dòng gió trộn lẫn với hoa, mà con thiên nga nhận mặt được mọi con thiên nga, chỉ có những con người là dựng xây sự cô đơn của mình.
Khoảng không gian nào tích trữ giữa họ với nhau cái phần tinh thần của họ! Một giấc mơ con gái làm cho cô ta trở nên cách biệt tôi, làm sao tôi vào được giấc mơ ấy của cô? Ta hiểu gì về người con gái kia đang chậm bước để về nhà, mắt vừa nhìn xuống vừa mỉm cười một mình, lòng cô đã tràn trề lắm những sáng tạo và những lời nói dối đáng yêu? Bằng ý nghĩ, giọng nói, những chốc lặng im của một người yêu dấu cô đã có thể tự tạo cho mình một Vương quốc, và ngoài người yêu dấu ra, còn lại, đối với cô, chỉ toàn là kẻ dã man. Tôi có cảm giác cô thu mình kín trong niềm bí mật của mình, trong các thói quen của mình, trong những âm vang ru hát của trí nhớ mình, còn hơn là cô bị thu kín trong một hành tinh khác. Sinh ra hôm qua từ những núi lửa, thảm cỏ hay mùi muối mặn của biển, bây giờ cô đã hầu như một vị thiên thần.
Punta Arenas! Tôi ngồi dựa lưng vào thành giếng. Những người đàn bà già nua đến kéo nước; số phận của họ, rồi tôi chỉ còn nhớ rõ cái cử chỉ kéo nước tôi đòi ấy. Một đứa trẻ, đầu sát tường, khóc thút thít; trong trí nhớ của tôi về sau, nó chỉ còn là hình ảnh một đứa trẻ con không gì thỏa được thèm khát. Tôi là một người khách lạ. Tôi có biết gì đâu. Tôi chẳng bước vào các Vương quốc riêng của những con người đâu.
Mỏng manh làm sao cái cảnh trí trên đó diễn ra tấn kịch bao la của giận hờn, ưu ái, và những lạc thú của con người! Từ đâu đó mà những con người rút ra sự yêu thích cái vĩnh cửu, khi bản thân họ vốn ngẫu nhiên có mặt trên một phún thạch hãy còn ấm, mà cũng đang bị đe dọa bởi những sóng cát ngày mai, bởi những cơn gió tuyết? Những nền văn minh của họ chỉ là những vàng son thật mỏng manh: một trái núi lửa xóa sạch tức thì các vàng son đó, một biển mới, một làn gió cát.
Cái thành phố này như là xây lên trên một nền đất quý mà người ta tưởng bên dưới giàu có như một khu đất miền Beauce. Người ta quên rằng cuộc sống, ở nơi đây cũng như ở mọi nơi, chỉ là một sự xa xỉ, và dưới bước chân đi của những con người, không miền đất nào thật là sâu thẳm cả. Tôi có biết thật chứ, cách Punta Arenas mười ki lô mét, một cái đầm chứng minh được điều đó. Xung quanh là cây cối khô cằn và những mái nhà ẩm thấp, nó bé bỏng như một cái ao trong vườn, nhưng nó lại có sóng, không làm sao giải thích được. Ngày và đêm, ngực phập phồng chậm rãi giữa bao nhiêu hiện thực êm đềm kia, những loài lau sậy ấy, những đứa trẻ đang chơi ấy, cái đầm tuân theo những quy luật khác. Bên dưới mặt nước phẳng lặng hay mặt giá băng yên tĩnh, bên dưới chiếc thuyền nát độc nhất, là sự tác động của năng lượng mặt trăng. Dưới những tầng sâu, các ngọn sóng lừng nhào nặn cái mảng đen này. Những ngọn sóng kỳ lạ sinh sôi và đuổi bắt nhau quanh hồ và cho đến tận eo biển Magellan, dưới cái lớp nhẹ cỏ và hoa. Cái ao một trăm mét rộng này, ngay bìa một thành phố mà anh ngỡ là quê hương, cái ao nằm vững chãi trên miền đất của những con người, nó đập nhịp đập của biển.
o O o
Chúng ta là cư dân của một hành tinh lang thang. Thỉnh thoảng nhờ có máy bay mà rõ ra cội nguồn của cái hành tinh này: một cái ao có quan hệ với mặt trăng, điều ấy gợi cho ta những dây nhợ bà con thầm kín; song về việc đó, tôi còn biết nhiều dấu hiệu khác nữa.
Dọc bờ biển Sahara, giữa Mũi Juby và Cisneros chốc chốc ta lại bay qua những vùng cao nguyên hình thù giống như hình nón trụ, bề rộng có khi là vài trăm buớc, có khi đến ba chục ki lô mét. Còn bề cao thì bằng nhau một cách đáng chú ý, ba trăm mét. Nhưng, ngoài bề cao bằng nhau ấy ra, chúng còn cùng màu, cùng chất đất, các ghềnh đá cùng hình dáng. Các cây cột của một ngôi đền trồi lên cô độc trên bãi cát chỉ cho ta vết tích của ngôi đền cũ, nay đổ nát; cũng thế, các cây cột trơ trọi này chỉ rõ ngày xưa chúng nguyên là một cao nguyên bao la liền nhau.
Vào những năm đầu thiết lập đường bay Casablanca-Dakar, vào thời kỳ vật tư còn mỏng manh, những trường hợp hỏng máy, tìm kiếm hay cứu cấp thường buộc chúng tôi hạ xuống đất. Thế nhưng, cát lại hay lừa gạt người: tưởng nó chắc, hóa ra nó lún. Còn những ruộng muối cổ, có vẻ rắn như hắc ín, chân ta nện nghe cứng thình thịch, nhưng có bánh xe đè là chúng sụt xuống. Lớp vỏ muối trắng vỡ để lộ ra một cái ao đen bốc mùi hôi thối. Vì vậy, chúng tôi hay lựa đậu, nếu điều kiện cho phép như vậy, trên mặt phẳng các cao nguyên: các mặt phẳng cao nguyên không ẩn giấu cạm bẫy gì.
Sở dĩ có sự đảm bảo này là có một loại cát trắng, to hạt, một đống khổng lồ những vỏ ốc li ti. Trên mặt cao nguyên, chúng còn nguyên vẹn, nhưng càng xuống dưới triền núi, ta càng thấy chúng nát vỡ và dồn đống lại. Trong hang động cổ xưa nhất dưới chân núi, nó đã thành can xi nguyên chất.
Thế nhưng, vào thời kỳ chiếm đóng Reine và Serre, hai anh bạn đồng nghiệp, bị quân phiến loạn giam giữ, có một lần tôi đậu xuống một điểm như vậy, để cho một người liên lạc thuộc dân tộc Moor xuống. Tôi cùng tìm kiếm với y, trước khi tôi bay đi, xem có lối nào cho y xuống núi không. Nhưng mặt phẳng chúng tôi đậu bốn bề đều là ghềnh đá thẳng đứng, các vách ghềnh xếp như nếp vải, bên dưới là vực sâu. Không thể nào thoát đi đâu được.
Tuy vậy, trước khi cất cánh để tìm một mảnh đất đậu khác ở nơi khác, tôi vẫn chùng chình ở đây. Tôi cảm thấy vui một niềm vui có lẽ hơi trẻ con, chân mình được đặt xuống một vùng đất tuyệt chưa in vết chân người hay chân thú nào. Không tên giặc Moor nào đã xung phong được vào nơi thành lũy kiên cố này. Không người châu Âu nào có thể khám phá ra vùng đất này. Tôi bước rất dài trên một bãi cát vô cùng trinh trắng. Tôi là người đầu tiên, tay này vốc đổ sang tay kia, như là một thứ vàng quý, cái bụi vỏ ốc này. Là người đầu tiên làm rộn lên cái yên tĩnh này. Trên băng hà Bắc Cực này, thiên thu không một lá cỏ mọc, tôi như một hạt giống theo gió mà đến, nhân chứng đầu tiên của cuộc đời.
Đã có một vì sao nhấp nháy và tôi ngắm nhìn nó. Tôi nghĩ rằng cái mặt băng trắng tinh này hàng chục vạn năm nay vẫn nằm dâng đợi các vì tinh tú. Một tấm thảm không vết gợn trải dưới trời trong. Bỗng tôi thấy đau nhói trong ngực, như đến gần kề một khám phá lớn khi tôi chợt bắt gặp, cách chỗ tôi mười lăm hay hai mươi mét, có một viên sỏi màu đen.
Tôi đậu xuống trên ba trăm mét bề dày vỏ ốc. Toàn bộ cái nền tảng khổng lồ này, như một bằng chứng rành rành, rằng không thể có bất cứ thứ đá nào ở đây. Đá lửa có lẽ ngủ trong sâu thẳm lòng đất, nó do cuộc tiêu hóa chậm rãi của địa cầu nảy sinh, nhưng sự kỳ diệu nào đã đẩy được một viên lên cái mặt bằng còn quá mới này? Tim đập thình thình, tôi tức thì nhặt lên vật tôi tìm thấy: một viên sỏi rắn, đen, to bằng nắm tay, nặng như kim khí, hình dáng giống một giọt nước mắt.
Một tấm thảm trải dưới một cây táo chỉ có thể hứng được táo, một thảm trải dưới các vì sao chỉ có thể hứng các bụi sao: chưa hề có một tinh thạch nào nói rõ nguồn gốc của mình một cách hiển nhiên như vậy.
Và rất tự nhiên, khi ngẩng đầu lên, tôi chợt nghĩ rằng, từ trên ngọn cây táo trời kia, hẳn là đã rơi xuống nhiều quả khác. Tôi có thể tìm thấy các quả táo đó ngay nơi chúng rơi, bởi vì từ chục vạn năm nay chẳng gì có thể quấy rầy chúng cả. Bởi vì chúng không thể nào lẫn được với các vật khác. Nghĩ thế, tôi liền đi tìm kiếm để kiểm chứng giả thuyết của mình.
Giả thuyết đó đúng. Tôi nhặt các hòn sỏi bắt được đó, mật độ là khoảng một viên một héc ta. Viên nào cũng hình giọt phún thạch bị ấn bẹp gí đó. Cùng cái rắn chắc của kim cương đen đó. Và như vậy đó, tôi thấy hiện ra trước mắt, trong một khoảnh khắc rõ ràng thu hẹp từ trên chóp máy đo mưa đầy tinh tú của tôi, trận mưa rào lửa chậm chạp kia.
o O o
Nhưng kỳ diệu nhất là, đứng đấy trên cái lưng tròn của Trái đất, giữa tấm chăn có từ kia với các vì tinh tú kia, có một ý thức con người, để cho cơn mưa đó có thể soi lên như nó soi vào một tấm gương. Trên một nền tầng khoáng chất, một giấc mơ là một điều kỳ diệu. Và tôi nhớ lại một giấc mơ…
Một lần trước, cũng như thế này, đổ xuống trên một vùng cát dày, tôi đợi hừng đông. Các trái đồi vàng dâng cho trăng những khoảng triền sáng chói của mình, và các triền ở trong bóng tối thì dâng lên cận kề đường giao điểm tối và sáng. Trên công trường vắng lặng của bóng tối và ánh trăng ấy ngự trị một niềm yên tĩnh, cái yên tĩnh sau khi lao động, và cũng là một cái yên tĩnh cạm bẫy. Tôi thiếp đi trong lòng sự yên tĩnh đó.
Khi tôi choàng tỉnh dậy, tôi không thấy gì khác ngoài vòm trời đêm, vì tôi nằm dài trên một ngọn núi, hai tay dang rộng và mặt đối mặt với cái ao đầy sao kia. Còn chưa hiểu trước mặt là những sâu thẳm nào, tôi bỗng choáng ngợp, vì không có một cái rễ nào níu giữ lấy tôi, không có một mái nhà, một nhành cây, giữa các sâu thẳm ấy và tôi, tôi đã không gì trói buộc nữa rồi, sắp rơi ngã như một người thợ lặn.
Nhưng tuyệt nhiên tôi không rơi ngã. Tôi tự phát hiện ra mình, từ gáy đến gót chân, đính chặt vào Trái đất. Tôi cảm thấy hầu như an ủi, được giao phó cho đất sức nặng của thân mình. Sức hút đối với tôi trở nên tuyệt diệu như là tình yêu.
Tôi có cảm giác đất đưa tay nâng hai bên người tôi, đỡ tôi, nhấc tôi, chở tôi đi trong không gian tối mịt. Tôi thấy tôi áp sát vào hành tinh, toàn thân tì lên hành tinh như trong khi lái qua một đường vòng, cả người ta tì vào chiếc xe, tôi sung sướng vì sự cận kề kỳ diệu đó, sự chắc chắn đó, sự an toàn đó, và tôi đoán thấy, bên dưới thân xác tôi cái boong cong của con tầu của tôi.
Tôi có ý thức rất rõ là tôi được đỡ đưa đi, rõ đến nỗi tưởng chừng nghe vẳng lên từ sâu thẳm các miền đất mà không kinh ngạc chút nào, tiếng kêu than của các vật liệu chúng đang điều chỉnh lại trong vận lực, tiếng rên rỉ của những chiếc thuyền buồm đã già đang đi vào chỗ trú, cái tiếng kêu dài và chát chúa của những chiếc sà lan ngược gió. Nhưng trong sâu thẳm lòng đất, vẫn còn yên tĩnh. Nhưng trên hai vai tôi, sức nặng trở nên hài hòa, nó được nâng đỡ, nó ngang bằng với vĩnh cửu. Tôi đúng thực là quê xứ này, như thân xác các tên tử tù được buộc đá vào người và nằm dưới đáy biển.
Rồi tôi ngẫm đến thân phận mình, lạc loài trong sa mạc, bị dọa nạt, trơ trụi giữa cát và các vì sao, cách biệt hẳn với các cực cuộc đời của bản thân mình, vì nhiều yên lặng quá. Bởi vì, các cực của cuộc đời tôi ấy, tôi biết rồi tôi cũng để ra nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng để trở về với chúng, nếu như rồi không có một chiếc máy bay nào tìm thấy tôi, nếu ngày mai, người Moor không giết tôi. Ở đây, trên đồi, tôi không còn sở hữu gì nữa hết. Tôi chỉ còn là một con người luân lạc giữa cát và các vì sao, chỉ còn biết có một niềm êm đềm duy nhất là được thở.
Và tuy vậy, tôi cũng bắt gặp tôi tràn đầy mơ mộng.
Các mơ mộng ấy đến cùng tôi không tiếng động, như nước suối vậy, và thoạt đầu, tôi chưa hiểu ngay nỗi êm đềm tràn ngập lòng tôi. Tuyệt không có giọng nói, không có bóng hình, chỉ là cảm tưởng về một sự có mặt, một tình bạn rất gần và cũng đã áng chừng được một nửa. Rồi tôi hiểu ra, tôi tức thì nhắm mắt lại, buông thả mình theo những kỳ diệu của trí nhớ.
Ở đâu đó, có một khu vườn đầy một giống thông đen, và cây bồ đề, và có một ngôi nhà cũ mà tôi yêu mến. Nó xa hay gần, hay không thể sưởi ấm cho thịt da tôi nữa, không che nắng che mưa cho tôi được nữa thì nào có quan hệ gì, khi bây giờ nó chỉ còn là mơ mộng: nó có đó để choán trọn đêm tối của tôi bằng sự có mặt của nó, thế là đủ rồi. Tôi không còn là cái thân xác dạt vào bãi cát, tôi định hướng được, tôi là đứa con của mái nhà này, tôi tràn đầy kỷ niệm vì những mùi hương của nó, tràn đầy sự tươi vui của các gian nhà ngoài của nó, tràn đầy những giọng nói cười làm cho nó thành rộn rã. Cho đến tiếng hát của các con ễnh ương trong các ao hồ cũng đến đây cùng tôi. Tôi cần hàng nghìn cọc tiêu như thế để mình nhận ra chính bản thân mình, để khám phá ra niềm yêu thích đối với sự hoang vắng này bắt nguồn từ những xa vắng nào, để tìm ra một ý nghĩa cho sự yên tĩnh cấu thành bằng hàng nghìn yên tĩnh, trong sự yên tĩnh ấy, cả loài ễnh ương cũng không lên tiếng.
Không, tôi không còn cư trú giữa khoảng cát và các vì tinh tú. Cảnh trí chỉ mang tới cho tôi một lời thông báo lạnh lùng. Cả cái dư vị vĩnh cửu mà trước đây tôi tưởng cảnh trí đó cho tôi, bây giờ tôi khám phá ra cội rễ của nó. Tôi lại thấy những chiếc tủ to trang trọng của ngôi nhà. Cửa tủ mở hé, lộ ra từng chồng chăn vải trắng như tuyết. Lộ ra những thực phẩm dự trữ ướp tuyết lạnh. Người u già khập khiễng như một con chuột đi hết tủ này lại tủ khác xem lại các chăn áo đã giặt trắng, giở ra, gấp lại, đếm lại, kêu lên: “Ôi Trời, khổ!” mỗi khi nhìn thấy một vết sờn mòn đe dọa sự vĩnh cửu của ngôi nhà, lập tức chạy đi gí sát một ngọn đèn vào mà nhìn kỹ, thùa lại chỗ chỉ xô trên các tấm khăn thờ, vá lại những chiếc buồm thuyền lớn, phục vụ cho một cái gì còn lớn hơn u, tôi không rõ, Thượng Đế hay một con tàu.
Ôi chao, tôi còn nợ u một trang viết. Ngày ấy, bay những chuyến bay đầu trở về, u ơi, tôi nhìn thấy u tay cầm kim, những chiếc áo lễ trắng muốt ngập đến đầu gối u, mỗi năm mỗi thêm những nếp răn, mỗi năm càng thêm trắng bạc, lúc nào cũng thấy u tự tay mình làm chăn chiên cho bọn tôi ngủ, trải khăn lên bàn cho bọn tôi ăn, ôi những bữa yến tiệc đầy pha lê và ánh sáng. Tôi vào thăm u ở nơi để quần áo, tôi ngồi xuống đối diện u, tôi kể cho u nghe các nguy hiểm chết người hòng làm u xúc động, hòng làm u mở mắt mà nhìn cuộc thế, hòng làm u mềm lòng. “Em vẫn chẳng khác trước,” u nói. “Hồi bé, em đã làm rách áo nhiều lần.” “Ôi Trời, khổ! Em làm sướt cả da đầu gối, em về nhà để băng bó, như tối nay.” Nhưng mà không, u ơi, không! Hôm nay tôi về nhà, đâu có phải là từ góc cuối vườn mà là từ góc cuối trời, tôi mang về cùng tôi cái vị chua chát của những niềm cô quạnh, tôi mang về cùng tôi những cơn lốc cát, những vầng trăng rực rỡ miền chí tuyến! Đấy! Bảo mà, u nói với tôi, trẻ con cứ chạy nhảy, gãy cả tay chân mà vẫn cứ cậy giỏi! Không u ơi, không u ơi, tôi đã nhìn thấy xa hơn cái khu vườn này! Giá u hiểu rằng các bóng râm của khu vườn này nào có nghĩa gì đâu! Cát, đá hoa cương, rừng rậm, đầm ao của Trái đất xa thẳm vô cùng tận kia. Có những miền đất hễ chạm mặt ngưởi là người ta giương súng lên, u có biết không nào? Có những vùng sa mạc, trong đêm giá buốt, bọn tôi phải ngủ không có lấy một mái che, u ạ, không giường, không chăn chiếu, u có biết không nào?
“Ôi, đúng là một thứ người rừng,” u nói.
Tôi chẳng làm sờn được chút nào lòng tin của u, u cũng như cô gái tu sĩ ở nhà thờ. Tôi chỉ thương số phận hẩm hiu đã làm cho u mù quáng, điếc lác như vậy thôi…
Nhưng đêm nay, giữa Sahara, trần trụi giữa cát và các vì sao, tôi vụt thấy u đúng.
Tôi không hiểu có cái gì xảy ra trong tôi. Bao nhiêu vì tinh tú nữa cũng đều có từ mà trọng lực lại nhất nhất quyết dán tôi chỉ vào mặt đất này. Một trọng lực nữa đưa tôi trở về với bản thân mình. Tôi cảm thấy sức nặng của bản thân mình cuốn hút mình hướng về bao nhiêu sự vật! Các mơ mộng của tôi còn thực hơn các gò đống kia, còn thật hơn vầng trăng kia, những điều hiển hiện kia. Ôi, cái kỳ diệu của một ngôi nhà không phải ở chỗ nó che nắng che mưa làm sưởi ấm ta, cũng không phải vì ta sở hữu các tường vách. Mà chắc chắn là ở chỗ nó dần dà để lắng trong lòng ta những thức dự trữ dịu dàng. Ở chỗ nó cấu thành, trong sâu thẳm trái tim ta, cái trái núi mờ ảo ấy, từ đó, giống như nguồn suối, nảy sinh những mơ mộng…
Sahara của tôi, ôi Sahara của tôi! Tất cả trở nên huyền diệu như vậy đấy, nhờ một người đàn bà xe chỉ!