Số lần đọc/download: 1240 / 18
Cập nhật: 2017-05-20 08:51:54 +0700
Chương 4
K
hi Peter Morgan bước ra khỏi xe buýt ở San Francisco, gã đứng nhìn quanh một hồi lâu. Chiếc xe buýt để gã xuống tại phía Nam khu Market, trong một vùng rất xa lạ với gã. Hồi gã ở đây, tất cả mọi sinh hoạt của gã đều diễn ra ở những khu dân cư tốt hơn. Gã đã từng có ngôi nhà ở Pacific Heights, căn hộ ở Nob Hill, nơi gã thường dùng là chỗ buôn bán ma túy và gã đã có những hợp đồng làm ăn ở Silicon Valley. Gã không bao giờ đến những khu dân cư hạ cấp như ở đây, nhưng gã vừa ở tù ra, là đồ cặn bã của xã hội, nên rất xứng với nơi gã đang đứng.
Gã đi dọc theo phố Market một lát, cố làm quen với cảnh người đi lại quanh mình, gã cảm thấy hèn mọn, bị người ta chen lấn. Gã nghĩ rồi ra gã sẽ vượt qua được cảnh này. Nhưng sau bốn năm rưỡi sống trong nhà tù Pelican Bay, gã cảm thấy mình như quả trứng bị bóc vỏ trên đường phố. Gã vào một quán ăn ở Market, mua cái bánh hamburger và tách cà phê, trong khi thưởng thức món ăn và sự tự do ở ngoài tù, gã cảm thấy đây là bữa ăn tuyệt vời nhất từ trước đến nay. Sau đó, gã đứng ngoài đường để nhìn người qua lại, có phụ nữ và trẻ con, còn đàn ông thì trông có vẻ như đang đi đâu đó với mục đích trong đầu. Có nhiều kẻ vô gia cư nằm ngoài vỉa hè và những người say khập khiểng trên đường. Thời tiết đẹp, mát mẻ, gã đi trên đường phố, không có mục đích. Gã biết, khi đã đến nhà tạm trú cho tù nhân mới được tha, gã lại phải tuân theo nhiều luật lệ ở đấy. Gã muốn hưởng thú tự do trước khi đến đấy. Hai giờ sau, khi đã hỏi và được người ta chỉ đường, gã lên xe buýt đi đến khu Mission, nơi có nhà tạm trú.
Nhà ở trên đường phố thứ mười sáu. Gã xuống xe, đi bộ cho đến khi tìm thấy ngôi nhà, rồi gã đứng ở ngoài, nhìn chỗ ở mới của mình. Nhà rất khác với những nơi gã đã ở trước khi đi ở tù. Gã không thể không nghĩ đến Janet và hai đứa con gái của gã, lòng tự hỏi không biết bây giờ chúng ở đâu. Gã nhớ con kinh khủng, từ lâu gã không gặp chúng. Gã đọc đâu đó và biết Janet đã lấy chồng khác rồi. Gã đọc tin này trong tạp chí khi ở tù. Quyền làm bố của gã đã chấm dứt nhiều năm trước đó. Gã nghĩ có lẽ những đứa con gái của gã bây giờ đã được người chồng mới của Janet nhận làm con nuôi. Gã đã bị cấm không được gặp vợ con, gã cố xua đuổi ký ức ra khỏi đầu khi bước lên cầu thang ngôi nhà tạm trú đổ nát. Ngôi nhà dùng để làm nơi tạm trú cho giới cướp của giết người vừa thụ án xong, nhưng còn phải bị quản chế một thời gian.
Ngôi nhà tạm trú hôi mùi chuột, nước tiểu và thức ăn bị cháy, sơn trên tường đã tróc hết. Nó là chôn địa ngục cho người có bằng MBA Đại học Harvard ở, nhưng nhà tù Pelican Bay cũng vậy, thế mà gã đã sống được hơn bốn năm trời. Gã nghĩ gã cũng sẽ sống qua được ở đây. Gã là người chịu được cuộc sống ở mọi hoàn cảnh.
Một người da đen cao gầy đang ngồi nơi bàn làm việc, anh ta sún hết răng và Peter thấy trên hai cánh tay có xám những hình vẽ. Anh ta mặc áo sơ-mi tay ngắn và có vẻ thờ ơ. Mặc dù anh ta da đen, nhưng trên mặt vẫn có hình xăm giọt nước mắt, chứng tỏ anh ta đã ở tù. Anh ta nhìn Peter và cười. Anh ta có vẻ niềm nở và vui vẻ. Anh ta thấy trong mắt Peter vẻ bàng hoàng kinh ngạc của kẻ mới ra tù.
- Tôi có thể giúp anh gì đây, ông anh? - Nhìn vẻ mặt, áo quần và kiểu cắt tóc của gã, mặc dù rõ ràng Peter có vẻ xuất thân từ giới quý tộc, anh ta vẫn biết gã mới ở trong tù ra. Có cái gì đó trong cách đi đứng của gã, cách gã nhìn người ngồi nơi bàn làm việc với vẻ thận trọng, đã nói lên rất rõ gã là tù nhân mới được phóng thích. Họ liền nhận ra giữa họ có mối ràng buộc chung ngay. Bây giờ Peter có nhiều điểm chung với người đàn ông ngồi nơi bàn hơn với bất cứ người nào trong thế giới trước đây của gã. Nơi này đã trở thành thế giới của gã.
Peter gật đầu và đưa cho anh ta giấy tờ chứng minh, gã nói rằng gã được phép vào ở tại nhà tạm trú này. Người đàn ông nơi bàn nhìn gã, gật đầu lấy chìa khóa trong hộc bàn rồi đứng dậy.
- Tôi chỉ phòng cho anh, - Anh ta nói.
- Cám ơn. - Peter đáp, giọng cụt lủn. Gã lại phải đề phòng như thời gian bốn năm trong tù. Gã biết ở đây chỉ bình an hơn trong nhà tù Pelican Bay một chút thôi. Đám người ở đây cũng thô lỗ và nhiều người trong số họ sẽ vào tù lại. Gã không muốn trở lại nhà tù, không muốn lời cam kết của mình trở thành vô hiệu vì chuyện cãi vã nhau hay đánh nhau để tự vệ.
Họ đi lên hai dãy cầu thang, qua những hành lang bốc mùi chua. Ngôi nhà cũ xây theo kiểu thời Victoria đã hư hỏng từ lâu không được sửa chữa, dùng làm nơi trú ngụ cho tù nhân còn bị quản chế. Trong nhà chỉ có đàn ông ở. Trên lầu, ngôi nhà bốc mùi chuột và mùi hôi ở các thùng rác ít khi đem đi đổ. Người quản lý ngôi nhà đi đến cuối hành lang, dừng lại trước một cánh cửa và gõ, không có ai trả lời. Anh ta dùng chìa khóa mở cửa, đẩy ra. Peter bước vào phòng. Phòng không lớn hơn cái tủ đựng chổi. Trong phòng có tấm vải thô cũ bị vấy bấn trải trên nền nhà, chiếc giường hai tầng, hai cái tủ, cái bàn ọp ẹp và chiếc ghế. Phòng chỉ có độc một cánh cửa sổ nhìn ra phía sau ngôi nhà khác, tường nhà dơ bẩn cần sơn lại. Căn phòng quá tệ. Ở Pelican Bay, ít ra phòng giam còn tân tiến, sáng sủa và sạch sẽ, hay ít ra phòng gã cũng được như thế, còn ở đây trông như quán trọ rẻ tiền. Peter nhìn người quản lý và gật đầu. Anh ta nói tiếp:
- Phòng tắm ở cuối hành lang. Trong phòng này còn có người khác nữa đang ở, tôi nghĩ anh ta đi làm rồi.
- Cám ơn. - Peter thấy trên giường ở tầng trên không có vải trải giường, gã biết phải sắm vải trải giường mà dùng, nếu không thì ngủ trên nệm, như nhiều người khác. Hầu hết những vật dụng của người ở cùng phòng đều để trên nền nhà. Căn phòng quá bê bối, gã đứng nhìn ra ngoài cửa sổ một hồi lâu, cảm thấy mọi thứ đều khác trước rất nhiều. Gã cảm thấy thất vọng, buồn và lo sợ. Gã không biết bây giờ phải đi đâu. Gã không có việc làm. Gã cần tiền. Gã phải giữ mình trong sạch. Nếu gã buôn ma túy để có tiền thoát khỏi cảnh túng thiếu này thì sẽ rất dễ. Nghĩ đến cảnh làm việc tại các cửa hàng McDonald hay đi rửa bát đĩa đâu đó là gã cảm thấy chán nản. Khi người quản lý đi rồi, gã leo lên tầng giường trên, nằm nhìn lên trần nhà. Một lát sau, gã cố không nghĩ đến những việc gì phải làm, thiu thiu ngủ.
• • •
Ngay lúc Peter Morgan bước vào phòng của mình tại nhà tạm trú ở Mission District San Francisco, thì Carlton Waters vào phòng của hắn ta tại nhà tạm trú ở Modesto. Hắn được phân bổ ở với một người mà hắn đã từng ở chung trong nhà tù San Quentin suốt mười hai năm, tên là Malcolm Stark. Hai người là bạn cũ, nên khi vừa thấy Stark, Waters cười liền. Hắn đã khuyên Stark đôi điều về pháp luật hay ho, nhờ thế đã giúp cho Stark được phóng thích.
Khi thấy Stark cười toe toét. Waters liền sung sướng ra mặt.
- Cậu làm gì ở đây? - Waters hỏi, tuy không nói ra, nhưng sau hai mươi bốn năm ở từ, bây giờ được ra, hắn đã bị cú sốc văn hóa làm choáng váng, vì vậy hắn rất sung sướng khi gặp bạn.
- Tôi vừa mới ra tù tháng trước. Tôi đã tham gia một vụ làm ăn khác ở Soledad và ra tù năm ngoái. Rồi chúng lại nhốt tôi sáu tháng vì tội có vũ khí, không có gì lớn. Tôi vừa mới ra tù lại. Ở đây không tệ đâu. Tôi nghĩ ở đây có hai người biết anh.
- Anh làm ăn cái gì? - Waters hỏi, nhìn gã ta. Stark để tóc dài, gương mặt hắc ám, đầy vết sẹo. Lúc nhỏ gã là tay tổ đánh lộn.
- Chúng ập vào bắt tôi ở San Diego. Công việc của tôi là chuyển hàng biên giới. - Khi gã và Waters gặp nhau lần đầu, gã ở trong tổ chức buôn lậu ma túy. Stark chỉ biết có công việc ấy. Gã đã bốn mươi sáu tuổi, được nhà nước nuôi lớn, buôn bán ma túy từ khi mười lăm tuổi và nghiện ma túy từ khi mười hai tuổi. Nhưng lần đầu tiên đi ở tù, gã còn bị thêm tội ngộ sát nữa. Khi một vụ buôn ma túy bị nguy hiểm, có người đã bị giết. - Lần này không có ai bị thương tích gì hết. - Waters gật đầu. Hắn thích Stark, mặc dù hắn cho Stark là thằng điên đã để bị bắt lại. Làm công việc vận chuyển phải lâu. Nghĩa là người ta thuê Stark chở ma túy qua biên giới và rõ ràng gã không nhanh nhẹn trong việc này, nên đã bị bắt. Nhưng không chóng thì chày, dân buôn ma túy cũng bị bắt thôi.
- Vậy ai ở đây mà biết tôi? - Waters hỏi. Đối với chúng, đây giống một câu lạc bộ hay dân ở tù với nhau như anh em một nhà.
- Jim Free và vài người nữa biết anh. - Calton Waters nhớ Jim Free, gã ta đã ở tù tại Pelican Bay vì tội âm mưu giết người và bắt cóc. Có người thuê gã giết vợ và gã đã làm lộ vụ âm mưu này. Cả gã lẫn người chồng đều bị tù, mười năm, mỗi tội năm năm. Pelican Bay và San Quentin trước đó, được xem là trường học cho kẻ tội phạm tốt nghiệp. Nó có thể xem như nơi Peter Morgan học lấy bằng MBA ở Harvard. - Vậy bây giờ anh sẽ làm gì, Carlton? - Stark hỏi, như thể bàn chuyện nghỉ hè, hay là việc làm ăn mà chúng sẽ bắt đầu làm. Hai nhà kinh doanh đang bàn chuyện tương lai.
- Tôi có vài công việc phải làm. Tôi phải trình diễn với hãng thông tấn của tôi và tìm gặp vài người để xem có việc gì để làm không. - Waters có gia đình ở tại khu vực này và hắn có kế hoạch làm ăn lâu dài.
- Tôi đang làm việc trong một nông trại, đóng cà chua vào thùng - Stark tự ý nói - Công việc này chán lắm, nhưng tiền công cũng khá. Tôi muốn lái xe tải. Họ nói tôi phải đóng cà chua vào thùng ba tháng để cho họ hiểu tôi đã hoàn lương. Tôi phải làm hai tháng nữa. Họ đang cần nhân công, nếu anh muốn làm, họ sẽ nhận đấy. - Stark tự nhiên nói, như muốn giúp bạn.
- Tôi muốn xem thử có thể tìm được việc gì làm trong văn phòng không. Tôi muốn có công việc tốt. - Waters cười. Thân hình hắn vạm vỡ, hoàn toàn không có chút gì thanh nhã, nhưng không muốn làm công việc bằng chân tay. Hắn muốn xem thử có thể tìm công việc gì tốt hơn. Hắn đã làm việc cho người nhân viên cung cấp vật liệu trong tù suốt hai năm qua, nên ông ta cho hắn giấy giới thiệu rất tốt và ở trong tù hắn đã học kỹ thuật sử dụng máy tính rất thành thạo. Và sau những bài hắn viết, hắn đã trở thành nhà văn có kỹ thuật tiên tiến. Hắn vẫn muốn viết một cuốn sách về cuộc sống trong tù của mình.
Hai người ngồi nói chuyện một lát rồi ra tiệm ăn tối. Họ phải ký tên mỗi khi đi và về và phải về vào lúc chín giờ. Khi Carlton Waters đi ra tiệm ăn tối với Malcolm, hắn chỉ nghĩ đến chuyện được đi trên đường phố trở lại, được đi ra tiệm để ăn tối và cảm thấy kỳ lạ biết bao. Hắn không được làm thế đã hai mươi bốn năm nay, từ khi mới mười bảy tuổi. Hắn đã ở trong tù hết sáu mươi phần trăm cuộc đời, mặc dù không bắn một phát đạn, hắn đã nói như thế với ông chánh án và họ không thể chứng minh là hắn đã bắn. Bây giờ thì chuyện đã xong rồi. Hắn đã học được ở trong tù nhiều điều mà hắn không bao giờ học được ở đâu khác, vấn đề là làm gì với những điều đã học được này, hiện tại, hắn không biết được.
• • •
Fernanda đón Ashley và Sam ở trường, đưa Ashley đến chỗ học vũ ba lê rồi đi về nhà với Sam. Như mọi khi, họ thấy Will trong nhà bếp. Cậu ta thường ở nhà để ăn, mặc dù trông cậu có vẻ không ăn nhiều. Cậu ta là vận động viên, vừa gầy vừa khỏe và cao trên 1, 80m. Allan cao 1, 85m, bà nghĩ rằng thế nào Will cũng cao bằng bố, vì cậu đang còn tuổi cao lớn.
- Mấy giờ con đấu? - Fernanda hỏi. Bà rót cho Sạm ly sữa, thêm trái táo vào đĩa bánh qui, rồi đổ hết trước mặt cho chú bé. Will đang ăn cái bánh xăng uých thật bự vởì nhân thịt gà tây, cà chưa, pho mát, nước mù tạt và sốt mayone chảy nhỏ giọt. Chàng trai sẽ ăn hết chúng.
- Đến bảy giờ mới đấu - Will đáp, miệng ngồm ngoàm - Mẹ đến chứ? - Cậu nhìn mẹ, làm ra vẻ như không quan tâm đến việc này, nhưng bà biết cậu rất quan tâm. Bà luôn luôn đến dự. Ngay cả bây giờ, đầu bà đang vẩn lên vì nhiều việc, bà cũng sẽ đi. Bà thích đến xem cậu đấu, vả lại đây là công việc của bà, hay công việc của bà cho đến bây giờ. Rồi đây bà phải làm việc gì đấy. Nhưng bây giờ, bà vẫn còn là bà mẹ dành hết thì giờ cho con, lúc nào cũng thích xem con đấu thể thao. Bây giờ Allan đã qua đời, việc đến xem con thi đấu còn quý hơn cho bà nữa.
- Phải đến để xem chứ! - Bà cười với con, trông có vẻ mệt mỏi, cố không nghĩ tới chồng hóa đơn mới đến mà bà đã bỏ vào thùng trước khi đi đón các con. Mỗi ngày lại có thêm hóa đơn, chồng hóa đơn càng lúc căng nhiều. Bà không biết Allan đã tiêu bao nhiêu tiền. Bà cũng không biết bây giờ bà phải trả bao nhiêu. Họ phải bán nhà sớm thôi, để có tiền trả nợ thêm chừng nào hay chừng ấy. Nhưng bà cố không nghĩ đến việc này khi nói chuyện với Will.
- Con sẽ đấu với ai?
- Đội bóng ở Marin, đội này yếu. Chúng con sẽ thắng. - Cậu cười với bà và bà cười đáp lại, còn Sam thì ăn bánh qui mà không lưu tâm đến trái táo.
- Tốt. Ăn táo đi, Sam. - Bà nói, không quay đầu nhìn cậu bé. Sam càu nhàu trả lời.
- Con không thích táo. - Cậu bé rất dễ thương, mới sáu tuổi, tóc đỏ nhạt, mặt có tàn nhang và mắt nâu.
- Vậy thì ăn lê cũng được. Ăn thêm trái cây vào, chứ đừng chỉ ăn bánh qui thôi. - Ngay khi gia đình đang lâm vào cảnh bi đát, cuộc sống vẫn diễn tiến như cũ. Những trận đấu bóng, vũ ba lê, ăn thức ăn nhanh sau khi đi học về. Bà vẫn duy trì cuộc sống trong gia đình bình thường, nhất là cho các con, nhưng cũng cho chính bà nữa. Vì các con mà bà phải sống ra vẻ bình thường.
- Anh Will không ăn trái cây. - Sam đáp, vẻ bực tức. Mỗi đứa con bà có một màu tóc. Will tóc đen như bố, Ashley tóc vàng như mẹ, còn Sam thì tóc đỏ nhạt, không biết cậu lai ai trong gia đình. Cả bên ngoại lẫn bên nội của cậu bé không có ai có màu tóc như cậu. Với cặp mắt nâu to và mặt nhiều tàn nhang, trông Sam như cậu bé trong mục quảng cáo hay trên tranh biếm họa.
- Cứ nhìn vào tủ lạnh thì biết Will đã ăn những gì ở trong đó. Anh ấy còn bụng đâu nữa mà ăn trái cây. - Bà đưa cho Sam trái lê và trái quýt, rồi xem đồng hồ tay. Mới hơn bốn giờ, nếu Will thi đấu lúc bảy giờ; thì bà sẽ dọn ăn lúc sáu giờ. Bà phải đi đón Ashley ở lớp khiêu vũ ba lê lúc năm giờ. Bây giờ cuộc đời của Fernanda vỡ vụn ra thành nhiều mảnh nhỏ, tuy trở lại như trước đây, nhưng bây giờ khó khăn hơn nhiều, vì không có ai giúp đỡ bà. Sau khi Allan qua đời một thời gian ngắn, bà cho người quản gia và cô giúp việc nhà thôi việc, cô này trước đây chăm sóc Sam. Bà làm thế để khỏi tốn một số chi phí và tự mình làm lấy việc nhà. Nhưng các con bà có vẻ thích thế. Chúng thích lúc nào cũng có bà bên cạnh, mặc dù bà biết chúng nhớ bố.
Mấy mẹ con cùng ngồi ở bàn trong bếp. Sam phàn nàn hôm ấy có một học sinh lớp bốn bắt nạt cậu tại trường. Will nói cậu có bài khoa học phải làm cho xong trong tuần ấy và hỏi không biết bà có kiếm cho cậu một ít dây đồng được không. Rồi Will khuyên em trai cách thức để đối phó với những học sinh bắt nạt Will học trường trung học, còn hai em học tiểu học và trường cơ sở. Will vẫn học hành đều đặn từ tháng Một, nhưng Ashley đã có phần sa sút, còn giáo viên lớp một thì nói Sam cứ khóc mãi. Chúng vẫn còn bàng hoàng và Fernanda cũng vậy. Lúc nào bà cũng muốn khóc. Bây giờ thì những đứa trẻ đã quen rồi. Bất cứ khi nào Will hay Ashley đi vào phòng bà, bà cũng có vẻ như đang khóc. Bà giữ vẻ bình tĩnh trước mặt Sam, nhưng cậu bé ngủ trên giường bà suốt bốn tháng nay, thỉnh thoảng cậu nghe mẹ khóc. Thậm chí bà còn khóc trong giấc ngủ. Mới cách đây mấy hôm, Ashley nói với Will rằng mẹ họ sẽ không bao giờ cười nữa, thậm chí cười mỉm cũng không, trông bà như người máy.
- Mẹ sẽ cười, - Will đáp vẻ tin tưởng - hãy cho mẹ một thời gian. - Bây giờ Will đã lớn, không còn bé bỏng nữa, cậu cố thay bố trong gia đình.
Tất cả đều cần thời gian để hồi phục, Will cố đóng vai trò của người đàn ông trong gia đình. Fernanda nghĩ cậu sẽ làm tròn nhiệm vụ ấy. Thỉnh thoảng bà cảm thấy như có gánh nặng đè lên vai cậu. Mùa hè này Will sẽ đi dự trại môn bóng lacrosse(2) bà rất mừng cho cậu. Ashley có kế hoạch đi Tahoe, đến nhà người bạn, còn Sam đi dự trại ban ngày và ở lại thành phố với bà. Bà mừng vì các con bà sẽ có việc bận rộn, nhờ thế bà sẽ có thì giờ để suy nghĩ, làm những việc phải làm với vị luật sư của họ. Bà hy vọng ngôi nhà sẽ bán được nhanh khi rao bán. Tuy nhiên, việc này thế nào cũng là cú sốc cho các con bà. Bà không biết khi bán xong họ sẽ sống ở đâu, có lẽ họ sẽ ở đâu đó trong ngôi nhà nhỏ và rẻ tiền. Bà cũng nghĩ rằng không chóng thì chầy chuyện Allan phá sản, nợ nần nhiều khi ông chết cũng sẽ bị tiết lộ. Bà đã làm những gì có thể làm được để bảo vệ ông cho đến bây giờ, nhưng cuối cùng sự thật thế nào cũng bị phơi bày. Mặc dù bà tin chắc hiện chưa có ai biết tin này, nhưng đây là loại bí mật người ta không thể giữ kín mãi. Lời cáo phó về cái chết của ông viết rất tuyệt, rằng ông là người rất cao quý, khen ngợi ông hết lời, họ khen ngợi thành quả của ông. Bà nghĩ chắc Allan thích những lời khen như thế.
[2]Môn thể thao giống như khúc côn cầu, do hai đội, mỗi đội 10 cầu thủ chơi, sử dụng vợt để bắt, đỡ và ném bóng.
Khi bà ra đi để đón Ashley trước năm giờ, bà dặn Will canh chừng Sam. Bà lái xe đến trường vũ ba lê San Francisco; Ashley theo học lớp vũ mỗi tuần ba lần. Bà sẽ không còn khả năng cho con theo học ở đấy nữa. Khi mọi chuyện đã được đưa ra ánh sáng, tất cả những gì họ có thể làm được chỉ là đi học, có mái nhà che mưa nắng và có cái ăn. Tất cả các thứ khác đều phải dẹp bỏ hết, trừ phi bà có được một công việc kiếm ra nhiều tiền, mà chuyện này thì quá hy hữu. Nhưng chuyện giàu có không thành vấn đề nữa. Họ sống bên nhau như thế này là được rồi, bây giờ bà chỉ cần được như thế. Đã nhiều lần bà tự hỏi tại sao Allan không hiểu điều này. Tại sao thà chết còn hơn sống mà đối diện với những sai lầm của mình, hay đối diện với chuyện rủi ro, với sự xét đoán sai trái, hay với sự nghèo túng? Ông bị cuốn hút theo cơn sốt làm giàu thật nhanh, cơn sốt đẩy ông đến tận mép vực rồi vượt ra ngoài và bị mọi người chê là dại dột. Fernanda và các con muốn có ông hơn là có tiền. Cuối cùng, chuyện không hay đã xảy đến. Họ không cần những giây phút được sống huy hoàng, không cần đồ chơi đẹp, không cần nhiều nhà, căn hộ nhiều phòng và trang trại. Đối với bà, du thuyền và máy bay là những thứ xa hoa vô bổ. Mấy đứa bé mất bố, bà mất chồng. Ông chết là cái giá phải trả rất cao cho họ trong bốn năm sống xa hoa. Bà ước chi ông không làm ra tiền, họ không rời khỏi Palo Alto. Bà đang nghĩ đến chuyện đó, thì xe đã đến nơi, bà dừng xe trên đường phố Franklin ở trước trường dạy vũ. Bà đến nơi vừa lúc Ashley từ trường bước ra trong bộ áo quần nịt và đôi giày vải, tay xách đôi giày múa.
Dù mới mười tuổi, Ashley trông đã khôn lớn, mái tóc vàng thẳng dài trông giống tóc của Fernanda. Cô có nét giống bức tượng đá với thân hình kiều diễm. Cô là đứa bé đang dần trở thành một người phụ nữ và hình như đối với Fernanda thì bà không thích cô lớn nhanh như thế và đã không thấy cô lớn lên từ từ. Vẻ nghiêm trang trong mắt cô làm cho cô có vẻ già trước tuổi rất nhiều. Tất cả họ đã lớn lên nhiều trong thời gian bốn tháng vừa qua. Fernanda cảm thấy mình già thêm một trăm tuổi chứ không phải là bốn mươi vào mùa hè này.
- Lớp học như thế nào? - Bà hỏi Ashley khi cô bé bước vào chỗ ngồi phía trước, trong khi xe dồn lại phía sau xe bà và bóp còi inh ỏi. Ngay khi Ashley vào xe và nịt dây an toàn xong, mẹ cô liền lái xe về nhà.
- Rất tốt. - Mặc dù cô rất thích môn vũ ba lê, nhưng trông cô bây giờ có vẻ mệt mỏi, thiếu nhiệt tình. Việc gì đối với họ cũng phải cố gắng nhiều hơn. Fernanda cảm thấy như thể mấy tháng nay bà đã lội ngược dòng nước và Ashley trông cũng có vẻ như thế. Cô gái nhớ bố như mọi người trong nhà.
- Tối nay Will có trận đấu bóng. Con muốn đến xem không? - Fernanda hỏi. Xe họ đang chạy về phía bắc trên đường Franklin vào giờ tan tầm xe cộ đông đúc.
Ashley lắc đầu.
- Con có bài tập phải làm ở nhà. - Ít ra cô cũng cố làm, mặc dù thành tích học tập của cô không tốt. Nhưng Fernanda không ép con phải học nhiều. Bà biết cô bé không thể đạt thành tích cao hơn. Bà cảm thấy hiện tại chuyện gì cũng đang tuột dốc. Bà chỉ lo việc trả lời những cuộc điện thoại có liên quan đến các hóa đơn trả nợ, lo chăm sóc con cái và giữ nhà cửa ngăn nắp, còn việc đương đầu với thực tế diễn ra hằng ngày hầu như bà không thể nào kham nổi.
- Tối nay, trong lúc mẹ đi khỏi nhà, nhờ con canh chừng Sam, được không? - Ashley gật đầu. Trước đây không bao giờ bà để chúng ở nhà một mình, nhưng bây giờ không có ai để gửi chúng. Fernanda không có ai để gọi nhờ đến giúp. Sự thành công đột ngột của chồng bà làm cho họ bị cô lập khỏi những người khác và việc gia đình bà đột ngột nghèo đi cũng vậy. Bạn bè của họ trước đây cảm thấy lúng túng khi họ giàu lên một cách đột ngột. Cuộc sống của họ khác đi, cũng như nếp sống mới của họ đã làm cho họ xa bạn xa bè. Rồi cái chết của Allan và chuyện rắc rối mà ông để lại càng làm cho bà cô độc thêm. Bà không muốn ai biết gia đình bà đang lâm vào cảnh bi đát. Bà tránh tất cả các cuộc điện thoại gọi đến, hiếm khi trả lời. Bà không muốn nói chuyện với ai hết, ngoài các con của mình và người luật sư. Trông bà có vẻ rất bi quan, thất vọng, nhưng trong hoàn cảnh ấy ai mà không như vậy? Tự nhiên bà trở thành góa phụ lúc 39 tuổi và sắp mất mọi thứ mà bà có, ngay cả cái nhà đang ở tất cả, chỉ còn lại mấy đứa con.
Khi về nhà, bà nấu bữa tối cho gia đình, dọn lên bàn lủc sáu giờ. Bà làm thịt bò băm viên và xà lách, rồi để ra một tô khoai chiên không phải là thức ăn bổ dưỡng, nhưng chúng cũng ăn. Bà xóc khoai chiên lên đĩa để ăn, nhưng không lấy thịt bò băm viên, còn xà lách thì đổ vào thùng rác. Bà ít khi thấy đói, Ashley cũng vậy. Cô bé cao hơn, gầy hơn trong bốn tháng qua, vì thế mà trông cô bỗng lớn lên.
Đến bảy giờ kém 15 phút, Fernanda và Will đi đến sân vận động trường Presidio, Ashley lên lầu làm bài tạp, còn Sam ngồi xem ti vi. Will mang giày có đế gắn đinh cao su cho khỏi trượt và mặc áo quần chơi dã cầu, cậu không nói gì nhiều với mẹ. Hai mẹ con lặng lẽ, trầm tư và khi tới nơi, bà đến ngồi vào hàng ghế lộ thiên cùng với những phụ huynh học sinh khác. Không ai nói chuyện với bà và bà cũng không muốn nói chuyện với ai. Người ta không biết nói gì với bà. Nỗi buồn của bà làm cho mọi người cảm thấy lúng túng. Như thể mọi người sợ sẽ lây sự mất mát của bà. Những phụ nữ đang sống bình an hạnh phúc với chồng không muốn đến gần bà. Trong khi lặng lẽ ngồi xem trận bóng, bỗng bà cảm thấy lần đầu tiên cô đơn trong mười bảy năm qua.
Will ghi được hai bàn. Đội cậu thắng sáu không và khi họ về nhà, cậu có vẻ sung sướng. Cậu thích chiến thắng, ghét thất bại.
- Con muốn dừng lại mua bánh pizza không? - Bà đề nghị, cậu ngần ngừ một lát rồi gật đầu. Cậu lấy tiền mẹ đưa rồi chạy vào tiệm bán bánh, mua cái bánh thật lớn với đủ thứ gia vị ở bên trong. Khi trở ra xe, cậu cười với mẹ, rồi bước vào chỗ ngồi ở phía trước, để cái hộp đựng bánh trên đùi.
- Cám ơn, mẹ… cám ơn mẹ đã đến dự… - Cậu muốn nói gì nữa với mẹ, nhưng không biết nói sao. Cậu muốn nói việc mẹ cậu đến dự là việc làm rất có ý nghĩa với cậu và cậu tự hỏi không biết tại sao bố cậu không đến, không đến từ khi cậu còn bé. Ông không bao giờ xem những trận bóng lacrosse của cậu. Allan dẫn cậu đi xem những trận đấu quốc tế, những trận Super Bowl với một vài người hợp tác kinh doanh với ông, nhưng chuyện này lại khác. Ông không bao giờ đến dự những trận đấu của cậu, nhưng bà thì đến dự và khi họ về nhà, bà nhìn cậu, cậu cười với bà. Đó là những giây phút tuyệt vời quý báu nhất thỉnh thoảng xảy ra giữa hai mẹ con, khiến cho người ta phải nhớ mãi.
Khi bà rẽ xe sang con đường vào nhà, bầu trời trên vịnh nhuốm màu hồng nhạt và hoa cà và khi Will bước ra khỏi xe với cái bánh pizza, bà nhìn lên bầu trời một chút. Đây là lần đầu tiên trong mấy tháng qua, bà cảm thấy lòng tràn trề hy vọng, an bình, nhẹ nhõm, như thể bà đã giải quyết được những chuyện khó khăn trong cuộc sống và mấy mẹ con sẽ vượt qua được những cam go của cuộc đời. Có lẽ mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hết, bà tự nhủ. Bà khóa xe, đi theo Will vào nhà. Bà cười thầm trong bụng, và khi bà nhẹ nhõm đóng cửa lại thì Will đã đi vào bếp.