For friends... do but look upon good Books: they are true friends, that will neither flatter nor dissemble.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Tác giả: Ransom Rigg
Thể loại: Kinh Dị
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 766 / 22
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:41 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
ôi dành buổi chiều cuối cùng của Trước để dựng một mô hình thu nhỏ cỡ một phần mười nghìn tòa nhà Empire State bằng những hộp đựng tã giấy người lớn. Đó quả là một công trình đẹp đẽ, phần đáy dài mỗi chiều một mét rưỡi và vươn lên ngạo nghễ trên khu bày mỹ phẩm, với nền móng là các hộp cỡ lớn, những hộp loại siêu nhẹ cho đài quan sát, và những chồng tã giấy dùng thử đủ cỡ được xếp cẩn thận tạo nên phần chóp nhọn mang tính biểu tượng của tòa nhà. Mô hình gần như hoàn hảo, ngoại trừ một chi tiết tối quan trọng.
“Cậu dùng tã giấy Neverleak”, bà Shelley nói, cau mày nhìn công trình của tôi đầy ngờ vực. “Loại đang bán giảm giá là Stay-Tite cơ mà.” Bà Shelley là quản lý cửa hàng, đôi vai luôn chùng xuống cùng bộ dạng khắc khổ đã trở thành một phần bộ đồng phục của bà ta, cũng như sơmi polo màu xanh dương mà tất cả chúng tôi phải mặc.
“Cháu tưởng bà bảo là Neverleak”, tôi đáp, vì quả tình bà ta đã nói thế thật. “Stay-Tite”, bà quản lý khăng khăng, lắc đầu đầy tiếc rẻ như thể tòa tháp của tôi là một con ngựa đua bị què còn bà ta đang cầm trong tay một khẩu súng ngắn có báng nạm ngọc trai. Một im lặng lúng túng buông xuống, trong khi ấy bà ta tiếp tục lắc đầu, hết đưa mắt từ tôi đến tòa tháp rồi lại trở về phía tôi. Tôi nhìn bà ta chằm chằm vô cảm, như thể hoàn toàn không sao nắm bắt nổi bà ta đang ngụ ý công kích gì.
“Ôi trời”, cuối cùng tôi lên tiếng. “Ý bà là muốn cháu làm lại từ đầu ấy ạ?”
“Tôi chỉ bảo là cậu đã dùng Neverleak”, bà quản lý nhắc lại.
“Không vấn đề gì. Cháu sẽ bắt đầu ngay lập tức.” Dùng mũi đôi giày đen đế mềm vẫn hay đi, tôi gạt cái hộp duy nhất làm móng tòa tháp. Trong khoảnh khắc, toàn bộ công trình nguy nga ào ào đổ ụp xuống quanh chúng tôi, làm cả một con thủy triều tã giấy tràn ra trên sàn, những cái hộp liên tiếp đập vào chân các khách hàng đang hoảng hồn, trượt dài ra tới tận cửa ra vào tự động lúc này đã trượt mở để luồng hơi nóng tháng Tám ùa vào.
Khuôn mặt bà Shelley chuyển sang màu quả lựu chín. Đáng lẽ bà ta nên đuổi việc tôi ngay tại chỗ, song tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ gặp may đến thế. Suốt mùa hè tôi đã cố để bị đuổi việc khỏi Smart Aid, tuy nhiên việc này đã được chứng tỏ là gần như bất khả thi. Tôi đi làm muộn hết lần này tới lần khác mà hầu như chẳng có lý do nào; thay đổi lung tung các thứ đến mức gây sốc; thậm chí còn cố tình xếp hàng lên nhầm kệ, bày nước thơm xen vào giữa thuốc xổ và để lẫn bao cao su với dầu gội đầu trẻ em. Hiếm có lúc nào tôi tận tụy làm bất cứ việc gì, ấy vậy nhưng cho dù tôi có tỏ ra bất tài vô dụng đến đâu đi nữa, bà Shelley vẫn kiên quyết giữ tôi lại trong danh sách trả lương.
Hãy cho phép tôi chứng thực cho phát biểu lúc trước của mình: với tôi, bị đuổi việc khỏi Smart Aid gần như là điều bất khả thi. Bất cứ nhân viên nào khác hẳn cũng đã bị tống ra khỏi cửa từ đời tám hoánh rồi. Đây chính là bài học đầu tiên của tôi về chính trị. Có ba cửa hàng Smart Aid tại Englewood, thị trấn nhỏ mơ màng kề bên bãi biển nơi tôi sống. Có hai mươi bảy cửa hàng ở hạt Sarasota, và một trăm mười lăm trên cả Florida, rải khắp tiểu bang như một chứng phát ban vô phương chữa trị. Lý do tôi không thể bị đuổi việc là vì các bác tôi sở hữu tất cả các cửa hàng kể trên. Lý do khiến tôi không thể bỏ việc là chuyện làm việc tại Smart Aid với vai trò công việc đầu tiên trong đời đã từ lâu trở thành một truyền thống thiêng liêng trong gia đình. Kết quả duy nhất từ chiến dịch tự phá hoại của tôi là mối xung khắc không thể hóa giải nổi với bà Shelley cùng sự oán giận tột độ trường tồn từ các nhân viên khác - những người, nói một cách thẳng thắn, kiểu gì cũng oán giận tôi, vì cho dù tôi có làm đổ bao nhiêu hàng trưng bày hay trả tiền thiếu cho bao nhiêu khách hàng, đến một ngày nào đó tôi vẫn sẽ thừa kế một phần đáng kể của công ty, còn họ thì không.
o O o
Lội qua đống tã giấy, bà Shelley gí ngón tay vào ngực tôi và chực nói gì đó gay gắt thì hệ thống loa thông báo xen ngang vào.
“Jacob, cậu có điện thoại ở đường dây số hai. Jacob, đường dây số hai.”
Bà quản lý trừng mắt nhìn tôi khi tôi lùi lùi chuồn đi, để khuôn mặt như lựu chín của bà ta ở lại giữa đống đổ nát của tòa tháp tôi dựng lúc trước.
o O o
Phòng nhân viên là một căn phòng ẩm ướt không cửa sổ, và lúc đến đó tôi gặp cô phụ việc nhà thuốc, Linda, đang gặm một cái sandwich không vỏ trong quầng sáng rực rỡ của chiếc máy bán đồ uống tự động. Cô ta hất hàm về phía cái điện thoại được gắn trên tường.
“Của cậu đường dây số hai ấy. Người gọi nghe có vẻ kỳ lắm.”
Tôi cầm ống nghe đang treo toòng teng lên.
“Yakob? Có phải cháu đấy không?”
“Vâng, cháu chào ông.”
“Yakob, ơn Chúa. Ông cần chìa khóa của ông. Chìa khóa của ông đâu?” Ông có vẻ lo lắng, thở không ra hơi.
“Chìa khóa nào cơ ạ?”
“Đừng giở trò”, ông gắt. “Cháu biết chìa khóa nào còn gì.”
“Nhỡ ông để nó nhầm chỗ thì sao ạ.”
“Bố cháu xúi cháu làm chuyện này chứ gì”, ông nói. “Cứ nói cho ông biết. Bố cháu không cần phải biết.”
“Chẳng ai xúi cháu làm gì hết.” Tôi cố thay đổi chủ đề. “Sáng nay ông đã uống thuốc chưa ạ?”
“Chúng đến tìm ông, cháu hiểu chưa? Ông không biết bằng cách nào chúng tìm thấy ông sau từng ấy năm qua, nhưng chúng đã làm được. Ông sẽ phải chiến đấu với chúng bằng cái gì đây, con dao trét bơ mắc dịch này chăng?”
Đây không phải là lần đầu tiên tôi nghe ông nói kiểu này. Ông nội tôi đã già, và thành thực mà nói ông bắt đầu lẫn lộn. Những dấu hiệu suy giảm minh mẫn của ông ban đầu chỉ loáng thoáng, như quên mua đồ tạp hóa hay gọi mẹ tôi bằng tên dì tôi. Nhưng đến hè này, chứng lú lẫn đang phát triển dần của ông đã có một bước ngoặt tàn khốc. Những câu chuyện hoang đường ông tưởng tượng ra về phần đời của mình trong chiến tranh - những con quái vật, hòn đảo được phù phép - đã trở nên thật đến nỗi ám ảnh với ông. Ông tỏ ra đặc biệt bất an trong mấy tuần gần đây, và bố mẹ tôi, sợ rằng ông đang trở thành một mối nguy hiểm cho chính mình, đã nghiêm túc nghĩ tới chuyện đưa ông vào viện dưỡng lão. Vì một lý do nào đó, tôi là người duy nhất nhận được những cuộc gọi điện báo điềm gở này từ ông.
Như thường lệ tôi cố hết sức để làm ông bình tâm lại. “Ông vẫn an toàn mà. Mọi thứ vẫn ổn. Cháu sẽ mang đến một bộ phim để ông cháu mình xem sau, ông thấy thế nào?”
“Không, ở yên chỗ cháu đấy! Ở đây không an toàn!”
“Ông ơi, không phải lũ quái vật đang tìm đến ông đâu. Ông đã giết hết chúng trong chiến tranh rồi, ông nhớ chứ?” Tôi quay mặt vào tường, cố che giấu cuộc hội thoại kỳ lạ này để Linda khỏi nghe thấy, cô ta đang tò mò đưa mắt về phía tôi trong khi giả bộ đọc một tạp chí thời trang.
“Không phải tất cả chúng”, ông nói. “Không, không, không. Đúng là ông đã giết rất nhiều, nhưng vẫn luôn còn nhiều hơn.” Tôi có thể nghe thấy ông đang lục lọi quanh nhà, mở ngăn kéo, đóng sầm thứ này thứ kia. Ông đang rơi vào cơn hoảng loạn cùng cực. “Cháu phải tránh xa chỗ này, nghe ông nói chứ? Ông sẽ ổn thôi - cắt lưỡi chúng và đâm vào mắt chúng, đó là tất cả những gì cháu phải làm! Chỉ cần ông tìm ra cái chìa khóa mắc dịch đó!”
Cái chìa khóa đang được nhắc tới dùng để mở một cái rương to tướng trong gara của ông nội Portman. Trong rương là một kho súng và dao đủ để trang bị cho một đội dân quân nhỏ. Ông đã dành nửa cuộc đời sưu tầm chúng, cất công đi tới tận các hội chợ súng ở tận ngoài tiểu bang, thực hiện những chuyến đi săn dài ngày, lôi cả gia đình miễn cưỡng của mình tới trường tập bắn vào các chủ nhật nắng đẹp để mọi người có thể học bắn súng. Ông yêu những khẩu súng của mình đến mức thậm chí có lúc đi ngủ cùng chúng. Bố tôi có một bức ảnh cũ để chứng minh cho điều đó: ông nội ngủ trưa với khẩu súng ngắn trong tay.
Khi tôi hỏi bố xem vì sao ông nội lại phát cuồng lên vì súng như thế, bố tôi nói đôi khi chuyện này vẫn xảy ra với những người từng là quân nhân hay những người phải trải qua những điều tàn khốc cực độ. Tôi đoán là sau tất cả những gì ông nội tôi đã trải qua, ông không bao giờ còn cảm thấy được an toàn ở bất cứ đâu, thậm chí cả ở nhà. Điều mỉa mai nằm ở chỗ, giờ đây khi ảo giác và chứng hoang tưởng bắt đầu kiểm soát ông, điều đó thành ra lại đúng - ông không còn được an toàn ở nhà, làm sao mà an toàn được khi có ngần ấy súng ống xung quanh. Đó là lý do vì sao bố tôi lại lấy cái chìa khóa đi.
Tôi nhắc lại lời nói dối rằng tôi không biết nó ở đâu. Thêm nhiều tiếng rủa và tiếng rầm rầm nữa vang lên trong lúc ông nội Portman lục tung khắp nhà để tìm chìa khóa.
“Phù”, cuối cùng ông nói. “Cứ để bố cháu giữ cái chìa khóa nếu nó thấy điều đó quan trọng đến thế. Để nó nhặt xác ông luôn!”
Tôi gác máy lễ độ hết mức có thể rồi gọi điện cho bố.
“Ông nội lại lên cơn rồi!”, tôi cho bố biết.
“Hôm nay ông đã uống thuốc chưa?”
“Ông không nói với con. Nhưng nghe có vẻ là chưa.”
Tôi nghe thấy bố thở dài. “Con ghé qua xem ông thế nào được không? Bố không thể dứt ra khỏi công việc ngay bây giờ được.” Bố tôi làm tình nguyện viên bán thời gian cho tổ chức cứu hộ chim, giúp chữa trị cho những con diệc trắng bị ô tô đụng và những con bồ nông nuốt phải lưỡi câu. Ông là một nhà điểu cầm học nghiệp dư và cũng muốn trở thành tác giả viết về thiên nhiên - có cả đống bản thảo chưa được xuất bản để chứng minh cho điều đó - những thứ chỉ có thể được coi là công việc đúng nghĩa nếu bạn tình cờ kết hôn với một phụ nữ mà gia đình sở hữu tới một trăm mười lăm nhà thuốc.
Tất nhiên, thứ tôi đang làm cũng chẳng phải công việc đúng nghĩa gì cho cam, và nếu thích thì tôi luôn dễ dàng lỉnh đi được. Vậy là tôi nói sẽ ghé qua xem ông nội thế nào.
“Cảm ơn con, Jake. Bố hứa chúng ta sẽ sớm thu xếp ổn thỏa mọi chuyện liên quan tới ông nội, được chứ?”
Mọi chuyện liên quan tới ông nội. “Ý bố là đưa ông vào viện dưỡng lão phải không ạ”, tôi nói. “Biến ông thành vấn đề của người khác.”
“Bố mẹ vẫn chưa quyết định.”
“Tất nhiên hai người đã quyết định rồi.”
“Jacob...”
“Bố, con có thể lo liệu chuyện của ông. Thật đấy.”
“Bây giờ thì có lẽ là con lo liệu được. Nhưng tình hình của ông sẽ chỉ ngày càng tệ thêm thôi.”
“Được thôi. Sao cũng được.”
Tôi gác máy và gọi cậu bạn Ricky để đi nhờ xe. Mười phút sau, tôi nghe thấy tiếng còi khàn khàn chẳng lẫn vào đâu được từ chiếc Crown Victoria cũ kỹ của cậu ta vọng vào từ bãi để xe. Trên đường ra ngoài, tôi thông báo lại tin xấu cho bà Shelley: tòa tháp xây bằng tã giấy Stay-Tite của bà ta sẽ phải đợi tới ngày mai.
“Chuyện gia đình khẩn cấp”, tôi giải thích.
“Được rồi”, bà ta nói.
Tôi bước ra ngoài buổi chiều muộn nóng nực và thấy Ricky đang ngồi hút thuốc trên mui chiếc xe cà tàng. Có điều gì đó trên đôi ủng cáu bùn của cậu ta, cũng như trong cách cậu ta nhả những bụm khói thuốc lượn lờ trên môi và ánh hoàng hôn chiếu lên mái tóc màu xanh lục ấy làm tôi nhớ tới anh chàng James Dean vô dụng, lỗ mãng. Anh chàng này đúng là tất cả những thứ đó, một sản phẩm lai tạp kỳ lạ giữa các nhóm văn hóa chỉ có ở miền Nam. Trông thấy tôi, cậu ta đứng lên khỏi mui xe. “Mày bị đuổi chưa?”, cậu ta gân cổ lên hỏi với từ tít cuối bãi để xe.
“Suỵtttt”, tôi vừa nói vừa chạy lại chỗ cậu ta. “Bọn họ không biết kế hoạch của tao đâu!”
Ricky đấm mạnh vào vai tôi với ý động viên nhưng thiếu chút nữa đã làm trật khớp xoay của tôi. “Đừng lo, Ed Đặc Biệt. Luôn có ngày mai mà.”
Cậu ta gọi tôi là Ed Đặc Biệt vì tôi có tham gia vài lớp năng khiếu, mấy lớp này, trên lý thuyết mà nói, là một phần trong chương trình giảng dạy đặc biệt của trường tôi, một cách lựa chọn từ vựng rất tinh tế mà Ricky cảm thấy vô cùng thú vị. Tình bạn của chúng tôi là thế: phần khó chịu cũng nhiều ngang với phần hợp tác. Phần hợp tác là một thỏa thuận thương mại không chính thức mà chúng tôi đã thảo ra với nhau đổi chất xám lấy cơ bắp, trong đó tôi giúp cậu ta không trượt môn Anh văn, còn cậu ta giúp tôi không bị mất mạng dưới tay những thằng bệnh hoạn to vâm nghiện steroid vẫn lảng vảng khắp các lối đi trong trường. Chuyện cậu ta làm bố mẹ tôi cực kỳ gai mắt chỉ là một lợi ích bổ sung. Tôi nghĩ có lẽ Ricky là bạn thân nhất của tôi, và đây là cách ít thảm hại hơn để nói rằng cậu ta là người bạn duy nhất tôi có.
Ricky đá vào cánh cửa bên phía ghế phụ chiếc Crown Vic, một cách để mở cửa, và tôi bèn chui vào trong xe. Chiếc Vic thật đáng kinh ngạc, một tác phẩm nghệ thuật dân gian không chủ đích xứng đáng được trưng bày trong bảo tàng. Ricky đã mua nó từ bãi xe thải của thị trấn với giá một phần tư vại bia - hay ít nhất đó là những gì cậu ta nói - chiếc xe là một con ngựa nòi có thứ mùi mà cả một rừng các món khử mùi không khí được cậu ta treo sau kính chắn gió cũng không thể át nổi. Các ghế ngồi được gia cố bằng băng dính để những chiếc lò xo không tìm được đường xuyên qua lớp vỏ bọc đâm vào mông bạn. Tuyệt hơn cả là phần ngoại thất, một bề mặt hoen gỉ chi chít những vết móp, vết lõm chẳng khác gì cảnh trên mặt trăng, kết quả từ kế hoạch kiếm thêm tiền đổ xăng bằng cách cho phép những kẻ tiệc tùng say xỉn dùng gậy đánh golf nện chiếc xe với mức phí một đô mỗi gậy. Quy định duy nhất, và cũng không được tuân thủ chặt chẽ cho lắm, là bạn không được phép nhắm vào bất cứ thứ gì làm bằng kính.
Động cơ nổ vang giữa một đám khói xanh lè. Trong lúc chúng tôi rời khỏi bãi để xe, lăn bánh qua các dãy cửa hàng hướng tới nhà ông nội Portman, tôi bắt đầu lo lắng không biết chúng tôi có thể thấy gì khi tới đó. Những viễn cảnh tồi tệ nhất bao gồm ông nội trần như nhộng chạy ngoài phố, lăm lăm trên tay một cây súng săn, sùi bọt mép trên bãi cỏ trước nhà, hay nằm nấp đợi đâu đó với một món đồ cùn trong tay. Điều gì cũng có thể xảy ra, và tôi đặc biệt bồn chồn khi nghĩ rằng đây sẽ là ấn tượng đầu tiên của Ricky về một người tôi vẫn nhắc tới với lòng kính trọng.
Bầu trời đã chuyển sang màu của một vết bầm mới khi chúng tôi rẽ vào khu ông nội tôi sống, một mê cung rối rắm với những ngõ cụt đan xen nhau được gọi dưới cái tên chung Circle Village. Chúng tôi dừng xe tại chốt an ninh để thông báo, nhưng vì ông lão ngồi trong phòng đang ngáy vang còn cổng thì mở toang, chuyện vẫn thường diễn ra, nên chúng tôi cứ thế lái xe vào. Điện thoại của tôi kêu bíp bíp báo có tin nhắn, bố tôi hỏi mọi việc thế nào, và trong khoảng thời gian ngắn ngủi cần thiết để tôi trả lời, Ricky đã thành công trong việc làm chúng tôi lạc đường hoàn toàn tới mức đáng kinh ngạc. Khi tôi nói chịu không biết chúng tôi đang ở đâu, cậu ta bật rủa và thực hiện liên tiếp một loạt cú quay đầu xe, vừa lái vừa phun thành hình vòng cung qua cửa xe những bãi nước bọt thấm thuốc lá trong lúc tôi liếc mắt nhìn quanh tìm kiếm một dấu mốc quen thuộc. Thật không dễ chút nào, cho dù tôi đã tới thăm ông nội vô số lần từ bé đến lớn, vì nhà nào nhà nấy trông cũng giống hệt nhau: thấp bè, vuông vắn như những chiếc hộp, chẳng mấy khác biệt, được tô điểm bằng các khung cửa nhôm hay gỗ sẫm màu kiểu thập kỷ bảy mươi, hay ở mặt tiền dựng các cây cột bằng thạch cao gần như chỉ góp phần gây nhầm lẫn thêm. Các biển chỉ đường, bong tróc bạc phếch vì phơi nắng, chẳng còn mấy hữu ích. Dấu mốc thực sự chỉ có những bãi cỏ làm cảnh lạ lẫm đầy màu sắc, nhờ chúng mà Circle Village trở thành một bảo tàng ngoài trời thực sự.
Cuối cùng, tôi nhận ra một hòm thư được đỡ trên giá kim loại, cho dù có vẻ ngay ngắn và sang chảnh song lại đang chảy ra những giọt nước mắt hoen gỉ. Tôi hét lớn bảo Ricky rẽ trái; bộ lốp chiếc Vic nghiến ken két và tôi bị hất đập người vào cửa xe. Cú va đập hẳn đã vặn lại con ốc nào đó bị lỏng trong đầu tôi, vì đột nhiên tôi vụt nhớ lại đường đi. “Ngay chỗ đám hồng hạc nhảy múa ấy! Rẽ trái ở chỗ đám ông già Noel đội mũ đủ loại dân tộc! Thẳng qua chỗ mấy cậu nhóc thiên sứ đang tè!”
Khi chúng tôi rẽ ở chỗ mấy cậu nhóc thiên sứ, Ricky giảm tốc độ đến khi xe bò rì rì và ngước mắt nhìn đầy ngờ vực vào ngôi nhà ông nội tôi sống. Ngoài cổng không một ngọn đèn nào bật, không thấy quầng sáng của màn hình ti vi sau bất cứ khung cửa sổ nào, cũng không thấy chiếc Town Car nào hiện diện ở lô để xe. Tất cả cư dân trong khu vực đều đã tháo chạy lên phía Bắc để trốn tránh cái nóng gay gắt của mùa hè, để mặc những bức tượng trang trí ngoài vườn chìm nghỉm trong thảm cỏ mọc cao và các cánh cửa chớp đóng chặt, vì thế nhà nào nhà nấy trông như một hầm tránh bom nhỏ màu phấn.
“Nhà cuối cùng bên trái”, tôi nói. Ricky đạp ga và chúng tôi chồm chồm lao xuống con đường. Tới ngôi nhà thứ tư hoặc thứ năm, chúng tôi chạy xe ngang qua một ông già đang tưới cỏ. Đầu ông ta hói nhẵn như một quả trứng, ông ta đứng đó mặc áo choàng tắm và đi dép lê, phun nước lên bãi cỏ xén cao tới mắt cá chân. Ngôi nhà cũng tối om, cửa chớp đóng chặt như những ngôi nhà khác. Tôi quay sang nhìn, và ông lão dường như trừng mắt nhìn lại - mặc dù tôi hơi sốc nhận ra rằng không thể có chuyện đó - vì đôi mắt ông ta chỉ đục một màu trắng sữa. Thật lạ, tôi nghĩ. Ông nội chưa bao giờ nhắc đến chuyện hàng xóm của ông có người bị mù.
Đi hết con phố là đến một bức tường những cây thông non, Ricky cua mạnh tay lái sang trái lượn vào đường chạy xe dẫn vào nhà ông nội tôi. Cậu ta tắt máy, ra khỏi xe, và đá mở cửa cho tôi. Chúng tôi hối hả giẫm giày lên cỏ khô đi về phía cửa.
Tôi bấm chuông và chờ đợi. Một con chó sủa ẳng lên đâu đó, một âm thanh cô độc giữa màn đêm oi bức. Không nghe ai trả lời, tôi liền đập cửa vì nghĩ có thể chuông cửa hỏng rồi. Ricky vung tay lên đập những con muỗi mắt bắt đầu bu đến quanh chúng tôi.
“Có khi ông mày ra ngoài rồi cũng nên”, Ricky cười nhăn nhở nói. “Hẹn hò tình tứ chăng.”
“Cứ cười đi”, tôi nói. “Bất cứ tối nào trong tuần ông tao cũng còn nhiều cơ hội hơn tao với mày. Chỗ này đầy ấp các bà góa, tha hồ chọn.” Tôi cợt nhả để làm dịu thần kinh xuống. Sự im lặng khiến tôi lo ngại.
Tôi lấy chìa khóa dự phòng từ chỗ giấu trong bụi cây ra. “Đợi tao ở đây.”
“Còn khuya ấy. Tại sao chứ?”
“Vì mày cao đến một mét chín sáu và tóc màu xanh lục, còn ông tao vừa không biết mặt mày vừa có một đống súng trong nhà.”
Ricky nhún vai và nhét một cục thuốc lá nữa vào ngậm trong má. Cậu ta đến ngồi duỗi dài trên một cái ghế gập trong khi tôi mở khóa cửa trước bước vào trong nhà.
Ngay cả dưới ánh sáng lờ mờ tôi cũng có thể nói ngôi nhà đã gặp phải một tai họa; trông như thể nơi này vừa bị lũ trộm lục tung. Các giá sách và ngăn tủ bị vét trống trơn, những món đồ trang trí chẳng mấy giá trị và những tờ tạp chí Reader’s Digest khổ lớn từng được xếp trên đó bị ném tung tóe dưới sàn. Nệm đi văng và ghế bị lật nhào. Cửa tủ lạnh và tủ đông mở toang, những thứ đựng bên trong chảy ra thành từng vũng dính bết trên vải sơn lót sàn.
Tim tôi chùng xuống. Cuối cùng thì ông nội Portman cũng đánh mất sự minh mẫn thật rồi. Tôi gọi tên ông - nhưng không nghe thấy gì.
Tôi đi từ phòng này qua phòng khác, bật đèn lên, tìm kiếm ở mọi ngóc ngách mà một ông lão hoang tưởng có thể trốn tránh lũ quái vật: sau các món đồ gỗ, trên tầng áp mái chật chội, dưới gầm bàn thợ trong gara. Thậm chí tôi còn kiểm tra cả bên trong ngăn tủ đựng vũ khí của ông, mặc dù tất nhiên nó bị khóa, tay cầm có những chỗ đầy vết xước do ông cố cậy mở ra. Ở ngoài hiên, một dãy dương xỉ chưa được tưới nước tối sẫm dần, đung đưa theo con gió hây hẩy; quỳ hai đầu gối trên mặt sàn trải vải sơn, tôi cúi xuống ngó vào bên dưới những chiếc ghế mây, lo sợ những gì có thể mình phát hiện ra.
Tôi nhìn thấy một quầng sáng từ phía sân sau.
Chạy ra ngoài qua cửa sau, tôi tìm thấy một cây đèn pin bị bỏ lại trên bãi cỏ, luồng sáng chiếu về phía vạt rừng tiếp giáp với sân sau nhà ông - một khu vực hoang vu rậm rạp với những cây cọ lùn lá răng cưa và cọ chạy dài cả dặm từ Circle Village đến khu dân cư kế tiếp, Century Woods. Theo truyền thuyết địa phương, khoảng rừng này nhung nhúc rắn, gấu trúc Bắc Mỹ và lợn lòi. Khi hình dung ra ông nội tôi đang ở ngoài đó, lạc lối và mất trí, lang thang chỉ với chiếc áo choàng tắm trên người, một cảm giác u ám lan khắp người tôi. Tuần nào cũng có tin tức mới về một công dân lớn tuổi sẩy chân rơi vào một bể lắng và bị cá sấu ăn thịt. Chẳng khó gì để tưởng tượng ra kịch bản xấu nhất.
Tôi hét lớn gọi Ricky và nháy mắt sau cậu ta xuất hiện, chạy vòng qua bên hông nhà. Cậu ta lập tức nhận ra điều tôi đã bỏ sót: một vết xước dài dữ tợn trên cánh cửa hậu. Ricky khẽ huýt sáo. “Một vết cào quỷ quái. Có lẽ là do lợn rừng. Hay một con linh miêu. Mày phải nhìn thấy móng vuốt của bọn chúng cơ.”
Một tràng sủa hung hãn vang lên gần đó. Cả hai chúng tôi cùng giật mình bồn chồn đưa mắt nhìn nhau. Hoặc một con chó, tôi nói. Tiếng sủa khởi đầu một phản ứng dây chuyền và chăng mấy chốc tứ phía đều ầm ĩ tiếng sủa.
“Có thể lắm”, Ricky gật đầu nói. “Tao có một khẩu.22 trong thùng xe. Mày đợi ở đây.” Rồi cậu ta quay ra lấy súng.
Tiếng chó sủa lắng dần xuống, thay bằng dàn đồng ca đêm của những con côn trùng, vo vo xa lạ. Mồ hôi chảy ròng ròng từng giọt xuống trên mặt tôi. Lúc này trời đã tối hẳn, nhưng con gió cũng ngừng thổi và không khí dường như còn nóng hơn cả ban ngày.
Tôi nhặt đèn pin lên và bước về phía các hàng cây. Ông nội tôi đang ở đâu đó ngoài kia. Tôi biết chắc là thế. Nhưng ở đâu? Tôi không phải thợ săn, Ricky cũng không. Ấy thế nhưng dường như có thứ gì đó đang dẫn dắt tôi - một sự thôi thúc trong lồng ngực; một lời thì thầm trong không khí nóng nực đặc quánh - và đột nhiên tôi không thể đợi thêm một giây nào nữa. Tôi lao vào lùm cây bụi như một con chó săn đánh hơi thấy một dấu vết vô hình.
Thật khó để chạy trong một khu rừng ở Florida, từng tấc đất nếu không bị các cây lớn chiếm chỗ thì cũng ken kín những cây cọ lùn chỉ đến ngang đùi nhưng nhọn như mũi giáo và những mạng lưới chằng chịt dây mơ tròn, nhưng tôi vẫn cố hết sức, lớn tiếng gọi tên ông và đưa đèn pin chiếu khắp xung quanh. Từ khóe mắt, nhìn thấy một vật màu trắng nổi bật lên, tôi bèn lao thẳng tới chỗ đó, nhưng khi lại gần hơn, vật đó hóa ra chỉ là một quả bóng đá bạc phếch đã xẹp lép tôi đánh mất từ nhiều năm trước.
Tôi đang định bỏ cuộc và quay trở lại chỗ Ricky thì trông thấy một dải hẹp những cây cọ lùn có vẻ mới bị giẫm rạp xuống cách chỗ mình không xa. Tôi bước vào đó và chiếu đèn ra xung quanh: những chiếc lá bị thứ gì đó sẫm màu bắn lên. Cổ họng tôi khô khốc. Cố trấn tĩnh lại, tôi bắt đầu lần theo lối đi. Tôi càng đi xa hơn, dạ dày lại càng thắt lại, như thể cơ thể tôi đã biết cái gì nằm phía trước và đang cố gắng cảnh báo tôi. Rồi sau đó, vệt cây bụi bị đè bẹp gí xuống mở rộng ra, và tôi trông thấy ông.
Ông nội tôi nằm úp mặt xuống một đám dây leo, chân xoạc ra, một cánh tay gập lại dưới thân mình như thể ông đã bị rơi từ rất cao xuống. Tôi tin chắc rằng ông đã chết. Chiếc áo lót ông mặc ướt sũng máu, quần ông rách toạc và một chiếc giày đã mất. Suốt một lúc lâu, tôi chỉ đứng nhìn trân trối, ánh đèn pin run rẩy chiếu lên người ông. Khi đã có thể thở bình thường trở lại, tôi gọi tên ông, nhưng ông không hề cựa quậy.
Tôi quỳ gối xuống áp lòng bàn tay lên lưng ông. Máu trào ra vẫn còn ấm.
Tôi có thể cảm thấy hơi thở của ông, dù rất yếu.
Tôi luồn cánh tay xuống dưới người ông và lật ông nằm ngửa ra. Ông nội tôi vẫn còn sống, dù chỉ còn hấp hối, đôi mắt ông đờ dại, khuôn mặt hốc hác, trắng bệch. Rồi tôi nhìn thấy những vết cào rách chằng chịt trên thân người ông và thiếu chút nữa ngất xỉu. Những vết rách rất rộng và sâu, dính bết đất, còn mặt đất nơi ông vừa nằm bê bết máu dính nhớp. Tôi cố lấy những mảnh áo rách của ông che lên các vết thương mà không nhìn vào chúng.
Tôi nghe thấy Ricky gọi lớn từ phía sân sau. “TAO Ở ĐÂY!” tôi la lên, và đáng ra nên nói thêm gì đó, như nguy hiểm đấy hay có máu, nhưng không thể nói nên lời. Tất cả những gì tôi nghĩ đến là những người ông đáng lẽ nên qua đời trên giường, ở nơi yên tĩnh với tiếng rì rì khe khẽ của máy móc, chứ không phải nằm một đống trên mặt đất ướt sũng hôi hám với lũ kiến bò lổm ngổm bên trên, trong bàn tay run rẩy nắm chặt một con dao mở bì thư bằng đồng thau.
Một con dao mở bì thư. Đó là tất cả những gì ông có để tự vệ. Tôi gỡ nó ra khỏi các ngón tay ông, ông đưa tay ra chới với bất lực, tôi bèn nắm lấy tay ông. Các ngón tay bị gặm cụt móng của tôi đan vào các ngón tay ông, nhợt nhạt và nổi đầy những tĩnh mạch tím tái.
“Cháu phải đưa ông đi”, tôi nói với ông, luồn một cánh tay xuống dưới lưng ông, cánh tay còn lại dưới hai chân ông. Tôi bắt đầu nâng ông lên, nhưng ông rên lên và cứng người lại, vì thế tôi dừng lại. Tôi không thể làm đau ông. Tôi cũng không thể để mặc ông ở đó, và chẳng còn biết làm gì hơn ngoài chờ đợi, tôi cẩn thận khẽ phủi đất khỏi cánh tay, khuôn mặt và mái tóc bạc lưa thưa của ông. Đúng lúc đó tôi nhìn thấy môi ông mấp máy.
Giọng nói của ông gần như nghe không rõ, thậm chí còn khẽ hơn một tiếng thì thầm. Tôi cúi xuống, ghé tai sát vào miệng ông. Ông đang lẩm bẩm lúc mê lúc tỉnh, lúc nói tiếng Anh, lúc lẫn sang tiếng Ba Lan.
“Cháu không hiểu”, tôi thì thầm. Tôi nhắc lại tên ông cho tới khi đôi mắt ông dường như tập trung vào tôi, rồi ông thở hắt ra một hơi và nói, khẽ nhưng rõ ràng, “Hãy tới hòn đảo, Yakob. Ở đây không an toàn.”
Lại vẫn là sự hoang tưởng xưa cũ. Tôi siết nhẹ bàn tay ông và cam đoan rằng chúng tôi vẫn ổn, và ông rồi sẽ ổn cả. Đây là lần thứ hai tôi nói dối ông trong một ngày.
Tôi hỏi ông chuyện gì đã xảy ra, con vật gì đã khiến ông bị thương, nhưng ông không lắng nghe. “Hãy tới hòn đảo”, ông nhắc lại. “Ở đó cháu sẽ được an toàn. Hứa với ông đi.”
“Cháu sẽ đi. Cháu hứa.” Tôi còn có thể nói gì khác đây?
“Ông tưởng có thể bảo vệ cháu”, ông nói. “Đáng lẽ ông phải nói với cháu từ lâu rồi...” Tôi có thể thấy sự sống đang rời khỏi ông.
“Nói gì với cháu cơ?” tôi cố nén khóc hỏi.
“Không còn thời gian nữa”, ông thì thầm. Rồi ông ngẩng đầu lên khỏi mặt đất, run rẩy vì gắng sức, và phều phào vào tai tôi, “Hãy tìm con chim. Trong cái vòng. Ở phía bên kia ngôi mộ ông lão. Mồng ba tháng Chín năm 1940.” Tôi gật đầu, nhưng ông có thể nhận ra tôi không hiểu. Bằng chút sức lực cuối cùng của mình, ông nói thêm, “Emerson... lá thư”. Hãy nói cho họ biết những gì đã xảy ra, Yakob.”
Nói xong, ông nằm vật xuống, kiệt sức xỉu đi. Tôi nói với ông là tôi yêu ông. Sau đó dường như ông chìm vào mê man, ánh mắt rời khỏi tôi hướng lên bầu trời lấp lánh các vì sao.
Một lát sau, Ricky xồng xộc lao đến từ sau lùm cây. Nhìn thấy ông nằm bất động trên tay tôi, cậu ta bật lùi lại một bước. “Ôi trời ơi. Ôi lạy Chúa. Ôi lạy Chúa”, cậu ta thét lên, đưa hai tay bưng mặt, và trong khi cậu ta lảm nhảm về tìm mạch và gọi cảnh sát, rồi hỏi tôi có thấy gì trong rừng hay không, một cảm giác lạ lùng tột độ xâm chiếm lấy tôi. Tôi đặt ông nội xuống và đứng dậy, mọi đầu dây thần kinh căng lên nhờ cái trực giác mà tôi không hề biết mình có. Có thứ gì đó trong rừng, được rồi - tôi có thể cảm nhận được điều đó.
Không có trăng, và trong các lùm cây không có gì động cựa ngoài chính chúng tôi, ấy thế nhưng bằng cách nào đó tôi lại biết đúng thời điểm để giơ đèn pin lên, biết đúng vị trí để rọi đèn tới, và trong một khoảnh khắc, tôi nhìn thấy trong luồng sáng hẹp ấy một khuôn mặt dường như vừa bước ra từ những cơn ác mộng thời thơ ấu của tôi. Khuôn mặt đó trợn trừng nhìn lại với đôi mắt ngập giữa chất lỏng tối sẫm, những múi thịt nhăn nheo đen như than đeo bùng nhùng trên cái lưng gù, miệng nó há ngoác ra một cách quái đản để một mớ lưỡi dài như những con lươn uốn éo thò ra. Tôi hét lên gì đó, nó liền quay ngoắt lại và biến mất, làm lùm cây rung rinh khiến Ricky chú ý. Cậu ta giơ khẩu súng.22 lên và bắn, pằng - pằng - pằng - pằng, rồi hỏi, “Cái gì thế? Cái quỷ gì thế?” Nhưng cậu ta không nhìn thấy nó, còn tôi không thể nói cho cậu ta hiểu được trong khi tôi đang đứng chết cứng tại chỗ như hóa đá, cái đèn pin đang cạn nguồn chập chờn chiếu vào khoảng rừng hoang vắng. Rồi sau đó chắc tôi đã ngất đi, vì cậu ta có gọi Jacob, Jake, này Ed, mày ổn chứ hay gì đó, và đó là điều cuối cùng tôi còn nhớ được.
Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine - Ransom Rigg Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine