Số lần đọc/download: 1240 / 18
Cập nhật: 2017-05-20 08:51:54 +0700
Chương 3
F
ernanda Barnes ngồi nơi bàn trong bếp, mắt nhìn đăm đăm vào chồng hóa đơn. Bà cảm thấy như thể bà đang nhìn vào chồng hóa đơn mà bà đã nhìn cách đây bốn tháng từ khi chồng bà mất, hai tuần sau lễ Giáng sinh. Nhưng bà biết rất rõ rằng, tuy bà thấy chồng hóa đơn có vẻ giống như trước, nhưng thực ra ngày nào nó cũng cao thêm lên. Mãi khi thư từ đến là có thêm hóa đơn. Từ khi Allan qua đời, bà thấy tin xấu đáng sợ cứ ùn ùn kéo đến cho bà. Tin xấu mới nhất là công ty bảo hiểm không chịu trả tiền bảo hiểm nhân mạng cho chồng bà. Bà và vị luật sư của bà đã chờ đợi đón nhận tin ấy. Chồng bà chết một cách đáng ngờ trong chuyến đi câu cá ở Mexico. Trong khi các bạn đồng hành của ông đang ngủ trong khách sạn, thì ông lấy thuyền ra biển một mình lúc đêm khuya. Khi ông lấy thuyền thì nhân viên trên thuyền đều lên bờ vào trong quán rượu và ông đã rơi ra khỏi thuyền. Năm ngày sau người ta mới tìm thấy xác của ông. Căn cứ vào tình hình tài chính của ông lúc ông mất và vào bức thư thê thảm mà ông đã gửi cho vợ, bức thư đầy tuyệt vọng, nên công ty bảo hiểm nghi rằng đây là một vụ tự tử. Fernanda cũng nghi như thế. Bức thư đã được cảnh sát giao cho công ty bảo hiểm.
Fernanda không xác nhận chuyện này với ai, ngoại trừ với vị luật sư của họ, Jack Waterman, nhưng khi họ gọi báo tin cho bà, bà nghĩ ngay đây là vụ tự tử. Trước đó, Allan đã ở trong trạng thái hoảng hốt lo sợ suốt sáu tháng và luôn luôn nói với bà rằng ông sẽ qua khỏi tình trạng đáng lo ấy, nhưng khi đọc bức thư, bà mới thấy ông không tin vào việc ấy. Allan Barnes đã gặp một chuyện rất may vào lúc kỹ nghệ máy tính đạt đỉnh cao, xem như ông đã trúng số độc đắc, như được của trời cho. Ông bán công ty mới thành hình của mình cho một tập đoàn lớn với giá hai trăm triệu đô-la. Bà thích đời sống êm ả trước đó. Cuộc sống trước khi ông trở nên giàu có rất phù hợp vội bà. Họ có ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh ở trong một khu vực an lành tại Palo Alto, gần khuôn viên Đại học Stanford vào hôm sau ngày tốt nghiệp. Mười ba năm sau, ông làm nên sự nghiệp lớn. Chưa bao giờ bà nghĩ đến chuyện họ giàu to như vậy, chưa bao giờ bà hy vọng, cần hay muốn giàu to như thế. Mới đầu bà không hiểu nổi chuyện này. Bỗng nhiên ông mua du thuyền, máy bay, mua một hợp tác xã ở New York để làm chỗ họp hành về chuyện làm ăn và mua một ngôi nhà ở London, ông nói ông đã muốn có nhà ở đấy từ lâu. Ông còn mua căn hộ có nhiều phòng ở Hawaii, mua một ngôi nhà ở thành phố rất rộng, đến nỗi khi thấy lần đầu tiên, bà đã khóc. Ông đã mua ngôi nhà ấy mà không hỏi ý kiến bà. Bà không muốn dọn đến ở trong một lâu đài. Bà thích ngôi nhà ở Palo Alto, nơi họ đã sống từ khi cậu con trai Will của họ ra đời.
Mặc dù Fernanda chống đối, nhưng họ vẫn dọn nhà đến thành phố cách đây bốn năm, khi Will được mười hai tuổi. Ashley lên tám, và Sam mới hai tuổi. Allan nhất quyết đòi bà phải thuê một chị vú để bà có thể đi du lịch với ông, việc mà Fernanda không muốn. Bà thích tự mình chăm sóc con cái. Bà không làm việc gì, may sao Allan làm đủ tiền để nuôi gia đình. Cuộc sống thỉnh thoảng gặp lúc ngặt nghèo, nhưng mỗi khi như thế, bà sống thắt lưng buộc bụng, nên họ qua khỏi những giây phút túng thiếu ấy. Bà thích ở nhà với các con. Will ra đời đúng chín tháng sau ngày họ cưới nhau, bà làm việc ngoài giờ tại một tiệm sách trong khi có thai đứa con đầu lòng và từ đó bà không làm việc gì nữa. Bà học môn lịch sử hội họa thêm để lấy bằng thạc sĩ hay tiến sĩ, mới mong đi dạy hay làm việc ở viện bảo tàng. Ngoài việc này, bà không có tài buôn bán. Bà chỉ giỏi một việc là làm vợ, làm mẹ. Con cái của bà được hạnh phúc, khỏe mạnh và thông minh. Dù khi Ashley đã mười hai và Will mười sáu tuổi, cái tuổi có khả năng gây nên lắm chuyện rắc rối, nhưng bà vẫn không có gì rắc rối với các con. Các con bà cũng không muốn đến ở thành phố. Tất cả bạn bè của ho đều ở tại Palo Alto.
Ngôi nhà mà Allan mua cho gia đình ở rất lớn. Nhà được một nhà tư sản mại bản danh tiếng xây cất, ông ta bán lại khi về hưu để đi châu Âu. Nhưng Fernanda thấy ngôi nhà lớn như một lâu đài. Bà đã lớn lên trong khu ngoại ô của Chicago, bố bà làm bác sĩ, còn mẹ là giáo viên. Họ sống thoải mái, và không giống Allan, bà chỉ có những niềm ước mơ đơn giản. Bà chỉ muốn lấy người nào yêu mình, muốn có những đứa con kháu khỉnh dễ thương. Bà bỏ nhiều thì giờ để đọc những tài liệu nói về phương pháp giáo dục thực nghiệm, bà say mê môn tâm lý học có liên quan đến việc nuôi dạy con và chia sẻ đam mê về hội họa của mình với con. Bà khuyến khích con ham thích hội họa và theo đuổi môn học mình thích. Bà cũng luôn luôn khuyến khích Allan như thế. Bà không ngờ ông đã cố những ước mơ vượt quá giới hạn sự mong đợi của bà.
Khi nghe nói ông bán công ty của mình được hai trăm triệu đô-la, bà gần ngất xỉu, cứ tưởng ông nói đùa. Bà cười ông, cứ nghĩ có lẽ may mắn lắm ông bán được một, hai, hay năm triệu, hay là ngáp phải ruồi cũng đến mười triệu là cùng, chứ không thể đến hai trăm triệu. Bà chỉ muốn có đủ tiền để cho con theo học đại học và sống thoải mái cho hết những ngày còn lại của hai vợ chồng thôi. Bà chỉ muốn đủ tiền để Allan có thể về hưu sớm hơn, để hai vợ chồng có thể đi du lịch một năm ở châu Âu, bà có thể dẫn ông đi xem các viện bảo tàng. Bà thích đến chơi ở Florence một hay hai tháng. Nhưng của trời cho này quá lớn ngoài sự mơ ước của bà. Và Allan đã hăm hở tận dụng vận may này một cách quá đáng.
Không những ông mua nhà, mua hợp tác xã, du thuyền và máy bay, mà còn đầu tư vào ngành kỹ nghệ cao hết sức liều lĩnh. Mỗi lần làm thế, ông cam đoan với bà rằng ông làm công việc này đứng đắn. Ông cưỡi trên đầu ngọn sóng và nghĩ là mình vô địch. Ông tin vào phán đoán của mình đến một ngàn phần trăm. Hai vợ chồng bắt đầu cãi nhau về việc này. Ông cười bà vì bà quá lo sợ. Ông vung tiền vào những công ty chưa có dấu hiệu phát triển, trong khi giá cả thị trường tăng vùn vụt, và bất cứ thứ gì ông đụng tay vào, đều đã biến thành vàng chỉ trong vòng gần ba năm. Hình như bất cứ thứ gì ông làm, hay thứ gì ông phiêu lưu đầu tư vào, ông cũng không mất tiền. Theo sổ sách thì vào năm đầu hay hai năm đầu, gia sản mới kếch sù của họ đã tăng gấp đôi. Ông đã đầu tư vào hai công ty mà ông tin tưởng với số tiền lớn đáng kể, nhiều người cảnh báo ông rằng, hai công ty này có thể sẽ phá sản, nhưng ông không nghe, không nghe bà và nhiều người khác. Niềm tin của ông dâng cao đến độ chóng mặt, trong khi đó bà trang hoàng nhà mới và ông mắng bà vì quá bi quan, quá thận trọng. Khi ấy, dù bà đã quen với cảnh giàu sang, đã bắt đầu tiêu tiền nhiều hơn trước, nhưng Allan vẫn nói bà nên hưởng thụ cuộc đời và đừng lo lắng. Bà sửng sốt khi thấy mình mua hai bức tranh ấn tượng đắt tiền tại cuộc bán đấu giá của cửa hàng Christie ở New York và run cả người khi treo lên trong phòng khách. Bà không bao giờ nghĩ rằng có ngày bà lại làm chủ hai bức tranh ấy. Ông đang bay cao, đang hưng phấn, ông muốn bà cùng vui sống như thế.
Nhưng dù đang làm ăn phát đạt, Fernanda cũng không phung phí, không quên thời gian sống đơn giản của mình trước đây. Gia đình của Allan xuất phát từ nam California, họ có cuộc sống sung túc hơn gia đình bà rất nhiều. Bố ông là thương gia, mẹ ông nội trợ? khi còn trẻ bà làm người mẫu. Họ có xe hơi đắt tiền, có nhà đẹp, tham gia câu lạc bộ trong xứ. Lần đầu tiên đến nhà Allan, bà rất ấn tượng, nhưng bà nghĩ bố mẹ ông có vẻ muốn phô trương bề ngoài. Vào một đêm đẹp trời mà mẹ ông cũng mặc áo khoác lông thú, khiến bà nghĩ đến mẹ bà. Ngay khi sống trong mùa đông lạnh giá của miền Trung Tây, mẹ bà cũng không có áo lông thú và không muốn mặc áo ấy. Allan muốn phô trương sự giàu sang hơn bà, cho dù ông làm giàu nhờ may mắn chứ không phải do tài năng và chỉ mới giàu trong thời gian ngắn. Ông chỉ ân hận một điều là bố mẹ ông không còn sống để chứng kiến cảnh giàu sang của ông. Ông nghĩ sự thành công của ông sẽ làm cho bố mẹ ông nở mặt nở mày với thiên hạ. Còn Fernanda thì mừng vì bố mẹ đã chết, không thể thấy được cảnh này. Họ đã chết vì tai nạn xe hơi vào một đêm băng giá cách đây mười năm. Nhưng bà luôn luôn có cảm giác rằng bố mẹ bà sẽ hết sức kinh ngạc khi thấy cách Allan tiêu tiền và bà vẫn thấy lòng xao xuyến mãi ngay sau khi mua hai bức tranh. Ít ra mua hai bức tranh cũng là cách đầu tư, hay bà hy vọng như thế. Thực ra bà thích hai bức tranh. Nhưng phần nhiều những thứ mà Allan mua là vì lý do muốn khoa trương mà thôi. Và khi ông để bà mua hai bức tranh, ông cũng muốn khoa trương.
Cuộc sống sang trọng của họ tiếp diễn gần ba năm, Allan tiếp tục đầu tư vào những công ty phiêu lưu khác, đổ tiền rất lớn vào những công ty công nghệ cao có nhiều mạo hiểm, ông rất tin vào trực giác của mình, nhưng thỉnh thoảng niềm tin ấy xem ra không hợp lý chút nào. Bạn bè và đồng nghiệp của ông trong giới máy tính gọi ông là tên Cao Bồi Điên, họ trêu ông về việc này. Rất thường khi, Fernanda cảm thấy mình có tội vì không giúp chồng được gì nhiều. Khi ông còn nhỏ, ông thiếu niềm tin, bố ông thường chê ông không mạnh dạn. Bây giờ ông tin rằng bà cảm thấy ông thường xuyên đang đứng cheo leo trên bờ đá và không hề tỏ ra sợ sệt chút nào. Nhưng tình yêu của chồng đã làm bà quên hết mọi nghi ngờ của mình và cuối cùng bà đành phải động viên ông, hoan hô ông ở ngoài đường biên. Có lẽ bà không thấy có gì phải phàn nàn về chuyện này. Trong vòng ba năm mà gia sản của họ tăng gắp ba lần và ông có trong tay nửa tỷ đô-la. Đây là điều ngoài sức tưởng tượng của họ.
Bà và Allan luôn luôn sống hạnh phúc với nhau, ngay cả trước khi họ giàu có. Ông là người dễ mến, dịu dàng, thương yêu vợ con. Mỗi lần bà sinh con là họ vui sướng vô cùng, và ông rất mực thương chúng, cũng như bà vậy. Ông rất tự hào về Will, vì cậu có tài thể thao bẩm sinh. Lần đầu tiên ông xem Ashley trình diễn vũ ba lê vào lúc cô bé năm tuổi, ông đã khóc ròng, ông là người chồng người cha tuyệt vời và khả năng biến việc đầu tư nhỏ thành số vốn khổng lồ làm cho các con họ có cơ hội thể hiện hết năng khiếu của minh, cơ hội mà không có ai trong họ mơ tưởng tới. Ông đang tính chuyện sang London một năm vào lúc nào thuận tiện, để cho các con có thể đi học ở châu Âu, Fernanda mỗi lần nghĩ đến chuyện sẽ đi suốt ngày thâm Viện bảo tàng Anh Quốc và Viện bảo tàng Tate là bà náo nức, say sưa. Cũng vì thế mà bà không phàn nàn khi ông mua ngôi nhà ở Belgrave Square với giá hai mươi triệu đô-la. Đây là cái giá cao nhất trong lịch sử buôn bán nhà từ trước tới nay, nhưng chắc có lẽ ngôi nhà đẹp lắm.
Khi trường nghỉ hè, các đứa bé không phản đối việc đi nghỉ một tháng ở bên Anh và bà cũng không. Họ thích thăm viếng London. Thời gian còn lại trong hè, họ đi chơi trên du thuyền ở miền Nam nước Pháp, mời một số bạn bè ở Silicon Valley đến nghỉ với họ, Allan đã trở thành nhân vật huyền thoại. Có nhiều người khác làm ra nhiều tiền gần như ông, nhưng họ như những kẻ đánh bạc ở Las Vegas, một số thắng rồi không đánh nữa, trong khi những người khác đặt tiền lên bàn, tiếp tục đánh nữa. Allan tiếp tục kinh doanh, ông đầu tư những số vốn khổng lồ. Bà không hiểu rõ những việc ông làm. Bà chỉ có việc coi sóc nhà cửa, chăm nom con cái và không ngớt lo âu về việc ông đầu tư gì. Bà tự hỏi, không biết những người; giàu có thường lo sợ như thế này không. Phải mất ba năm bà mới cảm thấy yên tâm khi giấc mộng làm giàu của ông có vẻ đã thành sự thật.
Ba năm sau ngày may mắn từ trên trời xuống, cái bong bóng vỡ tan tành. Vụ thất bại đầu tiên có liên quan đến một trong những công ty mà ông đã đầu tư vào rất nhiều với tư cách có phần hùn nặc danh. Không ai biết ông đã đầu tư bao nhiêu, nhưng ông mất tiêu hơn một trăm triệu đô-la. Kỳ diệu thay là khi ấy số tiền này so với gia sản của ông chẳng nghĩa lý gì. Fernanda đọc báo thấy công ty vỡ nợ, bà nhớ có nghe ông nói đến công ty này, bèn hỏi ông, nhưng nói bà đừng lo. Theo ông thì đối với họ một trăm triệu chẳng nghĩa lý gì. Gia sản của ông vẫn còn gần một tỷ đô-la. Ông không nói cho bà biết, nhưng ông đã vay tiền để mua số cổ phiếu đang lạm phát lúc ấy và khi cổ phiếu mất giá, ông không bán kịp đủ để trang trải nợ nần. Ông gây dựng tài sản bằng cách vay mượn để mua thêm tài sản.
Vụ thất bại thứ hai nặng hơn vụ đầu, gần gấp hai số tiền lần đầu. Và sau vụ thất bại thứ ba khi việc làm ăn tụt dốc. Allan bắt đầu có vẻ lo sợ. Số cổ phiếu ông vay tiền để mua, bỗng không có giá trị gì hết, ông chỉ còn lại nợ nần thôi. Chuyện xảy ra sau đó là sự phá sản hết sức nặng nề, đến nỗi toàn bộ tiền bạc trong ngành kỹ nghệ máy tính đều mất hết. Chỉ trong vòng sáu tháng, tất cả sự nghiệp của Allan đều tan thành mây khói, các cổ phiếu có giá trị đến hai trăm đô-la bây giờ không đáng giá một đồng xu. Nói trắng ra, tương lai gia đình Barnes đang đứng trên bờ vực hiểm nghèo.
Cay đắng trước hiện trạng này, ông bán du thuyền và máy bay, ông cam đoan với Fernanda và với chính mình rằng ông sẽ mua lại các thứ ấy, hay mua lại những chiếc đẹp hơn thế trong vòng một năm, khi công việc làm ăn phát tài trở lại, nhưng dĩ nhiên sẽ không có chuyện này. Không những ông mất hết những gì mình có, mà số tiền đầu tư của ông cũng thua lỗ nặng, khiến ông mắc nợ rất nhiều, trong khi đó vốn đầu tư mạo hiểm của ông sụp đổ như ngôi nhà bằng giấy. Đến cuối năm, ông thấy số nợ lớn bằng số tài sản trời cho của ông. Và cũng như lần đầu tiên ông gặp may mắn có của từ trên trời rơi xuống, Fernanda hoàn toàn không hay biết chuyện gì sẽ xảy ra, vì ông không nói gì với bà hết. Ông luôn luôn căng thăng, lúc nào cũng nói chuyện trên điện thoại, đi từ nơi này đến nới khác và khi về nhà thì to tiếng với bà. Bỗng nhiên ông như người điên. Ông hoàn toàn hoảng hốt, việc này cũng có lý do của nó.
Trước Giáng sinh năm ngoái, bà chỉ biết một điều là ông mắc nợ nhiều trăm triệu và tất cả cổ phiếu của ông đều không có giá trị gì. Bà biết như thế, nhưng không biết ông sẽ làm gì để trả nợ, không biết tình hình sẽ trở nên bi quan như thế nào. Kỳ lạ thay ông đầu tư nhiều phần hùn vào những cái tên không ai biết, trong những xí nghiệp loại “hộp thư”, những xí nghiệp này được thành lập mà không công bố tên của ông. Vì thế, giới kinh doanh làm ăn với ông không ai biết hoàn cảnh nguy ngập của ông và ông không muốn ai biết. Ông bắt đầu cảm thấy như thể mùi hôi của sự thất bại đang bao quanh ông, giống như hương thơm chiến thắng đã phảng phất quanh ông trước đây. Không khí quanh ông bỗng đầy sự lo sợ, Fernanda âm thầm hoảng hốt, bà muốn động viên ông về mặt tình cảm, nhưng lại ngại chuyện không hay sẽ xảy ra cho họ và cho con cái họ. Khi ông rời nhà đi Mexico sau lễ Giáng sinh, bà giục ông bán ngôi nhà ở London, bán hợp tác xã ở New York và căn hộ nhiều phòng ở Hawaii, ông đến đấy để làm giao kèo với một nhóm người, ông nói với bà rằng nếu công việc làm ăn suôn sẻ, ông sẽ thu lại gần số tiền đã mất. Trước khi ông đi, bà đề nghị bán ngôi nhà ở thành phố và dọn về Palo Alto lại, ông nói bà rất kỳ cục, ông bảo đảm với bà rằng mọi việc sẽ trở lại như cũ rất nhanh và khuyên bà đừng sợ. Nhưng sự giao kèo làm ăn ở Mexico không xảy ra.
Ông đến đó được hai ngày thì bỗng một tai họa khác trong việc kinh doanh của ông xảy ra. Ba công ty chính sụp đổ như những chiếc lều tranh ọp ẹp trong vòng một tuần, mang theo hai số tiền đầu tư lớn nhất của Allan. Nói tóm lại họ bị phá sản. Một buổi tối vào lúc đêm khuya, ông từ khách sạn gọi về cho bà, giọng ông nghe khàn khàn. Ông đã thương lượng suốt nhiều giờ, nhưng không thành công. Ông không còn gì nữa để thương lượng, hay buôn bán. Bà nghe ông bắt đầu khóc, nên cam đoan với ông rằng bà không thay lòng đổi dạ vì chuyện này, mà vẫn yêu ông. Nhưng bà nói gì cũng không khuyên giải ông được. Đối với Allan, chỉ có sự thất bại và chiến thắng, leo lên đỉnh Everest và rơi xuống lại, rồi bắt đầu leo lại. Ông đã đúng bốn mươi tuổi vào tuần trước, sự thành công rực rỡ trong bốn năm qua của ông bỗng tan biến hết. Theo ông thì ông hoàn toàn thất bại. Bà nói gì cũng không an ủi được ông. Bà nói bà không quan tâm đến chuyện này, chuyện thất bại không thành vấn đề đối với bà. Bà nói rằng bà sẽ rất sung sướng khi được sống với ông trong túp lều tranh, miễn hai người có nhau và có con cái là được. Bên kia đầu dây, ông khóc ròng, ông nói cuộc đời bây giờ không đáng sống nữa. Ông nói ông sẽ là trò cười cho thiên hạ và bây giờ số tiền duy nhất ông có là tiền bảo hiểm nhân mạng. Bà nhắc ông nhớ rằng họ vẫn còn nhiều ngôi nhà để bán và nếu bán hết họ cũng sẽ có gần một trăm triệu đô-la.
- Em có biết chúng ta nợ như thế nào không? - Ông hỏi, giọng thổn thức và dĩ nhiên bà không biết, vì ông không nói cho bà biết - Chúng ta nợ đến hàng trăm triệu. Chúng ta bán hết cũng không đủ trả nợ, mà phải trả đến hai mươi năm nữa mới mong hết. Anh không biết có thoát ra khỏi việc này được không. Chúng ta nợ quá nhiều, em à. Hết thật rồi. - Bà không thấy nước mắt chảy xuống hai má ông, nhưng bà có thể nghe giọng ông đầy nước mắt. Bà không hiểu hết chuyện này, không biết ông đã đem tiền bạc đầu tư vào những nơi nguy hiểm, đã dùng hết tài sản của mình và vay mượn để đầu tư, bây giờ thì mất hết. Thực vậy, ông đã trắng tay và nợ lút đầu.
- Không, không hết - Bà cương quyết nói - Anh có thể tuyên bố phá sản. Em sẽ kiếm việc làm. Chúng ta bán hết để trả nợ. Có sao đâu! Em không cần những thứ này. Nếu phải đứng ở góc đường để bán bút chì em cũng chịu được, miễn là chúng ta có nhau. - Lời nói dịu dàng, thái độ đứng đắn, nhưng ông quá đờ đẫn không nghe được lời bà.
Khuya đêm đó bà gọi cho ông để nói cho ông an tâm, bà lo lắng cho ông. Bà không thích điều ông nói về việc bảo hiểm nhân mạng, bà hoảng sợ về bản thân ông hơn cả chuyện về tình hình tài chính của họ. Bà biết đàn ông thường làm những việc điên rồ vì tiền thua bạc lỗ, hay công việc làm ăn thất bại. Toàn bộ cái tôi của ông được gói gọn trong tài sản của ông. Và khi bà nghe ông trả lời trên điện thoại, bà biết ông đang uống rượu. Có vẻ uống rất nhiều. Lưỡi ông líu lại và ông cứ nói mãi rằng đời ông thế là hết. Bà rất lo, đến nỗi bà định hôm sau sẽ đáp máy bay đi Mexico để gặp ông trong khi ông đang thương thảo, nhưng sáng mai trước khi bà chuẩn bị đi thì một người ở đấy đã gọi về cho bà. Giọng ông ta ấp úng, nghẹn ngào. Ông ta chỉ biết chuyện Allan lấy chiếc thuyền hộ thuê để đi một mình sau khi tất cả mọi người đã đi ngủ. Thủy thủ đoàn đã lên bờ hết và ông tự mình lái thuyền đi vào lúc đêm khuya. Tất cả mọi người đều nghĩ rầng, chắc ông rơi ra khỏi thuyên vào lúc nào đó trước khi trời sáng. Khi thuyền trưởng báo cáo thuyền mất, đội tuần duyên tìm thấy chiếc du thuyền, nhưng không tìm thấy Allan ở đâu hết. Người ta đã mở cuộc tìm kiếm khắp nơi nhưng chẳng thấy gì.
Chuyện còn tệ hại hơn nữa là khi bà đến Mexico vào xế chiều hôm đó, cảnh sát đưa cho bà bức thư ông để lại. Họ đã photo lá thư để làm tài liệu. Bức thư nói rằng tình hình hoàn toàn vô vọng, ông không thể vươn lên được nữa, cuộc đời đối với ông đã hết, ông thà chết còn hơn đương đầu với sự khủng khiếp, sự nhục nhã khi mọi người nhận ra ông là điên rồ, ông đã làm chuyện hết sức bê bối. Bức thư thật tai hại, đọc bức thư bà nghĩ ngay là ông đã tự tử. Hay có thể ông say và rơi ra khỏi thuyền. Không có cách nào biết chắc được. Nhưng rất có khả năng là ông tự tử.
Cảnh sát đưa lá thư cho công ty bảo hiểm, vì họ phải làm như thế. Căn cứ vào lời lẽ trong thư, công ty từ chối không chịu trả tiền bảo hiểm cho thân chủ và luật sư của Fernanda nói rằng có lẽ bà không nhận được tiền này. Chứng cứ trong thư thật tai hại.
Khi họ tìm thấy xác Allan, họ nghĩ là ông bị chết đuối. Không có bằng chứng gì cho thấy ông bị hành hung, ông không tự bắn vào mình, hoặc là nhảy xuống nước hay té khỏi thuyền, nhưng xét cho kỹ tình hình của ông lúc ấy, thì chắc ông muốn chết căn cứ vào những gì ông đã nói với vợ trước đó và những lời ông viết trong thư để lại cho bà.
Fernanda ở lại Mexico trong thời gian người ta tìm xác ông. Xác được một cơn bão nhỏ đánh tấp vào bờ gần đấy. Cảnh tượng trông thật khủng khiếp và đau lòng, bà mừng là không có các con ở đó để chứng kiến cảnh này. Mặc cho chúng phản đối, bà để chúng ở lại California, đi một mình đến Mexico. Một tuần sau, sau những thủ tục giấy tờ rườm rà, bà trở về, thành góa phụ, với thi hài của Allan trong áo quan trên máy bay chở hàng.
Đám tang diễn ra rất đau đớn, báo chí nói rằng ông chết vì tai nạn khi đi thuyền ở Mexico và mọi người đều bằng lòng nói như thế. Những người làm ăn với ông không ai biết hoàn cảnh ông rất bi đát, còn cảnh sát thì giữ kín nội dung bức thư không cho báo chí biết. Không ai biết ông bị phá sản, không ai biết tinh thần ông xuống thấp đến độ quá bi quan như thế. Không ai ngoài bà và vị luật sư của ông biết rõ tình hình tài chính của ông đang lâm cảnh nguy ngập.
Ngoài chuyện bị phá sản, ông còn nợ nhiều nơi khiến bà phải mất nhiều năm mới thanh toán hết. Trong bốn tháng từ khi ông mất, bà bán hết của cải, ngoại trừ ngôi nhà ở thành phố, ngôi nhà cũng liên quan đến tài sản của ông. Nhưng khi nào người ta buộc bà trả nợ, bà cũng phải bán. Rất may là những tài sản khác của họ đều đứng tên bà như là quà ông tặng vợ, nên bà có thể bán chúng được. Bà còn thiếu tiền thuế rất nhiều, không chóng thì chầy cũng phải trả. Còn hai bức tranh ấn tượng đã gửi đi bán đấu giá ở New York vào tháng Sáu. Bà bán những thứ của riêng, hay có kế hoạch như thế. Jack Waterman, luật sư của họ, nói với bà rằng nếu bà thanh toán hết các thứ, kể cả việc bán nhà để trả nợ, thì bà sẽ không còn một đồng xu. Phần lớn nợ của Allan đều dính đến những hoạt động của xí nghiệp và Jack sẽ tuyên bố phá sản, nhưng không ai biết những phạm vi hoạt động khác của Allan bị suy sụp, bà cố giữ kín chuyện này vì kính trọng ông. Ngay cả các con họ cũng chưa biết hết chuyện xảy ra. Vào một buổi chiều trời nắng tháng Năm sau ngày ông mất đã bốn tháng, bà vẫn còn cố tìm hiểu chuyện này khi ngồi trong bếp cảm thấy tâm trí ngẩn ngơ, bàng hoàng.
Trong hai mươi phút nữa, bà sẽ đi đón Ashley và Sam ở trường, ngày nào bà cũng làm việc này. Will thường lái xe đi học, trước đây sáu tháng bố cậu đã cho cậu chiếc BMW nhân ngày sinh nhật thứ mười sáu của cậu. Sự thực thì với số tiền còn lại Fernanda không đủ để nuôi các con, bà rất nóng lòng muốn bán ngôi nhà để trả thêm nợ hay để có chút ít tiền chi tiêu. Bà nghĩ, chắc thế nào bà cũng tìm việc để làm trong thời gian gần đây, có lẽ xin làm trong viện bảo tàng. Toàn bộ cuộc sống của họ thay đổi hết, bà không biết nói sao với các con. Chúng biết công ty bảo hiểm không chịu trả tiền và bà nói tài sản của bố chúng hiện đang đợi tòa án chứng thực, nên tạm thời tình hình rất khó khăn. Nhưng cả ba đứa con không ai biết rằng trước khi bố chết, ông đã mất hết toàn bộ tài sản, chúng cũng không biết lý do công ty bảo hiếm không trả tiền là vì họ nghĩ ông tự tử. Mọi người đều được cho biết rằng đây là vụ tai nạn. Những người đã từng làm việc với ông, không biết về lá thư và hoàn cảnh của ông, đều tin đây là tai nạn. Chỉ có bà, luật sư của bà và nhà cầm quyền mới biết chuyện đã xảy ra như thế nào.
Đêm nào nằm ngủ bà cũng nghĩ đến câu chuyện cuối cùng họ đã nói với nhau, câu chuyện cứ tái diễn mãi trong đầu bà. Bà chỉ nghĩ đến câu chuyện ấy, bà nghĩ bà sẽ trách mình mãi vì đã không đi Mexico sớm hơn. Bà cứ trách cứ mình có tội mãi, rồi những tờ hóa đơn cứ ùn ùn kéo đến làm cho bà vô cùng lo sợ, nợ nần do ông tạo ra quá nhiều, bà không biết lấy đâu ra để trả. Bốn tháng qua, bà lo sợ không thể nào tả nổi.
Fernanda cảm thấy hoàn toàn cô lập vì những chuyện đã xảy ra cho bà, chỉ có một người duy nhất biết chuyện bà sắp gặp phải là luật sư của họ, Jack Waterman. Ông ta tốt bụng, hết lòng giúp đỡ bà và cư xử rất tuyệt vời, sáng đó họ thỏa thuận với nhau rằng ngôi nhà sẽ rao bán vào tháng Tám. Họ đã sống ở đây bốn năm rưỡi, bây giờ bọn trẻ thích ngôi nhà, nhưng bà không còn cách gì để khỏi bán nhà. Có lẽ bà phải yêu cầu ai đó giúp đỡ tài chính để cho con bà được tiếp tục học trong các trường tư tốt và bà chưa thể làm được việc đó. Bà vẫn còn cố giữ kín chuyện tài sản gia đình khánh kiệt. Bà cố làm thế vì thanh danh của Allan, để tránh mọi người khỏi kinh ngạc. Những người chủ nợ vẫn nghĩ là bà có tiền, nên họ để cho bà một thời gian rồi sẽ trả. Bà trách tòa án cứ kéo dài thời gian chứng thực di chúc và trách cơ quan thuế. Vì thời gian kéo dài, nên không ai biết chuyện này.
Báo chí đã nói đến một vài công ty ông đầu tư bị phá sản. Nhưng may thay, không ai tổng hợp các chuyện tai hại đã xảy ra với nhau, hầu hết là vì trong nhiều trường hợp, quần chúng không biết ông là nhà đầu tư chính. Nhiều chuyện khủng khiếp đã ám ảnh Fernanda suốt ngày lẫn đêm, trong khi bà quá sức đau đớn vì mất chồng, và cố làm sao cho các con nguôi ngoai được nỗi sầu muộn về bố chúng. Bà rất sửng sốt, kinh hãi khi thấy mình khó mà đón những chuyện sẽ xảy ra cho mình.
Tuần trước bà có đi khám bác sĩ, vì bà mất ngủ đã nhiều tháng rồi, bác sĩ đề nghị cho bà uống thuốc, nhưng bà không muốn. Fernanda muốn xem mình không uống thuốc có chịu đựng được không. Nhưng bà hoàn toàn kiệt sức và thất vọng khi cố kéo dài từng ngày để duy trì cuộc sống bình thường, chỉ để cho con thôi. Bà phải giải quyết những chuyện bê bối và cuối cùng tìm ra cách để nuôi con. Nhưng nhiều lúc, nhất là về đêm, bà quá lo sợ.
Fernanda đang ngồi trong nhà bếp lát đá granite trắng rất đẹp, đưa mắt nhìn đồng hồ khổng lồ, thấy còn năm phút nữa là tan học, bà phải vội vã đi đón con. Bà lấy sợi dây thun buộc quanh chồng hóa đơn rồi ném chúng vào cái thùng bà cất các thứ cần thiết. Bà nhớ nhiều lần đã nghe ai đấy nói rằng người ta tức giận người mình thương yêu khi họ chết, nhưng bà chưa cảm thấy như thế. Bà chỉ mới khóc thôi và ước chi ông không điên cuồng làm ăn thành công quá nhanh như thế, để rồi phải hủy hoại mình và lôi theo gia đình vào cảnh khốn đốn. Nhưng bà không giận ông, mà chỉ buồn và kinh hoàng.
Bà mặc quần jeans, áo thun tay cụt trắng, mang xăng-đan, thân hình nhỏ nhắn, yểu điệu. Bà vội đi ra cửa, cầm xách tay và chìa khóa xe. Mái tóc bà có màu vàng, dài, được bím lại thả sau lưng, mới nhìn qua, trông bà giống như con gái. Ashley mười hai tuổi, nhưng lớn nhanh, nên cô bé đã cao bằng mẹ.
Bà vội vã đi ra cửa và khi vừa đóng cửa thì Will đang bước lên thềm nhà. Cậu ta cao, tóc đen, có thân hình lực lưỡng. Trông cậu như người lớn chứ không còn bé bỏng gì. Và cậu cô làm việc gì có thể làm được để giúp mẹ. Lúc nào bà cũng hoặc là khóc hoặc là buồn rầu và cậu lo cho mẹ, nhưng không để lộ ra ngoài. Bà dừng lại trên thềm một phút, nhón chân để hôn con. Cậu ta mười sáu tuổi, nhưng trông như mười tám hay hai mươi.
- Mẹ khỏe chứ? - Cậu hỏi không hợp lúc. Đã bốn tháng nay bà không khỏe. Trong mắt bà lúc nào cũng có vẻ hoảng hốt, thất thần, cậu không thể làm gì cho hết được. Bà nhìn cậu và gật đầu.
- Khỏe - Bà đáp, tránh mắt cậu - Mẹ đi đón Ashley và Sam. Khi về mẹ sẽ làm cho con cái bánh xăng uých. - Bà hứa.
- Con có thể tự làm được rồi. - Cậu cười với mẹ - Tối nay con có trận đấu - Cậu chơi cả bóng lacrosse lẫn dã cầu, bà thích đi dự các trận đấu của cậu, thích đi xem cậu tập lẫn thi đấu. Nhưng gần đây khi đến trông bà có vẻ lơ đãng, cậu không biết bà có xem hay không.
- Mẹ có muốn con đi đón chúng không? - Cậu đề nghị. Bây giờ cậu là đàn ông trong nhà. Chuyện gì xảy ra khiến cho cậu và tất cả đều bàng hoàng sửng sốt và cậu cố gắng hết sức để đóng vai trò của mình. Bây giờ cậu vẫn khó tin chuyện bố cậu đi luôn không bao giờ trở về nữa. Tất cả phải gắng hết sức mới thích nghi được chuyện này. Nhưng bây giờ trông mẹ cậu như là người nào khác, đôi lúc cậu lo về việc bà lái xe. Bà lái xe ngoài đường trong tình trạng như vậy rất nguy hiểm.
- Me khỏe. - Bà cam đoan với cậu như mọi lần trước, không đủ sức thuyết phục cả cậu lẫn bà, nhưng bà vẫn đi đến chiếc xe có toa chở hàng của mình, mở cửa, vẫy tay chào con và bước vào. Một lát sau, bà lái xe đi, cậu đứng nhìn theo mẹ, thấy bà lái xe qua biển hiệu dừng lại ở ngã tư. Rồi với vẻ như người gánh hết mọi công việc nặng nhọc của cuộc sống lên vai, cậu lấy khóa mở cửa nhà, đi vào ngôi nhà yên lặng và đóng cửa lại. Vì một chuyến đi câu ngu ngốc ở Mexico, bố cậu đã làm cho cuộc sống của gia đình đảo lộn hết. Ông thường đi đây đi đó luôn, làm những công việc mà cậu cho là quan trọng. Trong vài năm vừa qua, ông không hề ở nhà, mà ở đâu đó, lo kiếm tiền. Từ ba năm nay ông không đến dự buổi chơi thể thao nào của Will hết. Mặc dù Fernanda không giận ông vì những việc ông đã gây nên cho gia đình khi ông chết, nhưng Will không như mẹ. Mỗi lần cậu thấy mẹ, thấy hoàn cảnh của mẹ đang lâm phải, cậu ghét bố vì ông đã gây nên lắm chuyện không tốt cho bà và cho anh em của cậu. Ông đã bỏ rơi họ. Will ghét ông vì thế, ngay cả khi cậu không biết hết toàn bộ câu chuyện.