If you have never said "Excuse me" to a parking meter or bashed your shins on a fireplug, you are probably wasting too much valuable reading time.

Sherri Chasin Calvo

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Nguyên tác: Terre Des Hommes
Dịch giả: Nguyễn Thành Long
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-03-26 22:18:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Bạn Bè
ài người bạn, trong đó có Mermoz, lập nên đường bay của Pháp từ Casablanca đến Dakar, qua sa mạc Sahara bất khuất. Do máy móc ngày ấy còn rất mỏng manh, một trường hợp hỏng đã trao Mermoz vào tay quân phiến loạn Moor5 người Moor ngần ngừ không giết Mermoz, giữ anh làm tù binh mười lăm ngày, rồi bán lại. Và Mermoz lại tiếp tục chở các chuyến thư vẫn qua những vùng đất ấy.
(5) Từ này giờ không dùng nữa, vốn chỉ người Ả Rập theo đạo Hồi ở Châu Phi.
Khi đường bay châu Mỹ được mở, Mermoz lúc nào cũng ở tuyến đầu, được giao nghiên cứu chặng từ Buenos Aires đi Santiago, và, sau cầu hàng không qua Sahara, xây dựng cầu hàng không bên trên Andes. Người ta giao cho anh một chiếc máy bay có thể bay cao đến năm nghìn hai trăm mét. Các đỉnh của dải Cordillère cao đến bảy nghìn mét. Thế là Mermoz cất cánh lên đường kiếm những khoảng trời xanh. Sau bão cát, anh phải đương đầu với núi, những tảng đá nhọn kia, trong gió, chúng tung phất những chiếc khăn quàng tuyết, chúng làm cho mọi vật nhòa đi hết trước cơn dông, ôi những vành sóng thật hết sức ngặt nghèo phải đối phó, giữa hai bức tường thành tua tủa đá tảng, chúng buộc người lái như phải rút dao trần ra mà đánh giáp lá cà. Mermoz lao vào những trận giáp lá cà như thế, mà chẳng biết gì về đối phương, chẳng biết ra khỏi các trận xung sát ấy mình còn sống hay không. Mermoz “đánh thử” cho người khác.
Một hôm, sau cùng, do “thử” hoài, anh bị dải Andes bất làm tù binh.
Bị lọt thỏm vào trong một cao nguyên vách thẳng đứng, ở độ cao bốn nghìn mét, người thợ máy và anh, hai ngày ròng, không biết làm sao thoát ra được. Họ bị sa Iưới rồi. Họ liền chơi trò chơi may rủi cuối cùng, lao chiếc máy bay vào khoảng không, bật lên trên nền đất mấp mô, lăn chuồi xuống vực. Trong khi rơi, chiếc máy bay vẫn được giữ ở tốc độ có thể lại điều khiển được. Mermoz liền bật dựng chiếc máy bay lên, cho nó đốì mặt với đỉnh núi, cho nó sờ vào đỉnh núi và, như vậy, sau bảy phút bay, lại đã hỏng máy rồi, nước bắn tung tóe ra ngoài các ống máy vỡ trong đêm vì băng giá, Mermoz khám phá ra đồng bằng Chile, như một miền Đất Hứa, ở dưới chân mình.
Hôm sau, anh làm lại.
Khi dải Andes đã được thám hiểm kỹ rồi, khi kỹ thuật vượt Andes được hoàn chỉnh rồi, Mermoz giao chặng đường bay ấy lại cho anh bạn anh là Guillaumet và đi thám hiểm bóng đêm.
Các trạm nghỉ lúc bấy giờ đèn đuốc còn chưa hoàn chỉnh. Trên các bãi đáp, người ta đặt, trước mặt Mermoz, trong bóng tối đen kịt, ba ngọn lửa leo lét đốt bằng dầu.
Mermnoz giải quyết được tình hình đó và mở đường.
Khi đêm tối đã được thuần hóa rồi, Mermoz bay thử Đại Tây Đương. Thế là từ 1931, chuyến thư đầu tiên từ Toulouse đến Buenos Aires được thực hiện trong bốn ngày. Vòng về, Mermoz bị tắc dầu ngay chính giữa Nam Đại Tây Đương, biển đang cồn sóng. Một chiếc tàu thủy may cứu được anh và chuyến thư cùng với đội phi hành.
Như thế đấy, Mermoz đã khai phá cát rộng, núi cao, đêm tối và biển lớn. Hơn một lần anh đã chìm nghỉm trong cát rộng, núi cao, đêm tối và biển lớn đó. Và khi trồi lên được, anh lại ra đi.
Cuối cùng, sau mười hai năm lao động, trong khi lại bay thêm một lần nữa trên Nam Đại Tây Dương, anh điện về mấy lời ngắn ngủi báo tin anh quyết định phải cắt cỗ máy sau ở bên phải. Rồi là im lặng.
Tin ấy có vẻ không đáng lo ngại, tuy vậy, sau mười phút lặng im, tất cả các đài vô tuyến trên đường bay, từ Paris đến Buenos Aires, bắt đầu trông chừng một cách lo lắng. Bởi vì nếu mười phút về chậm chẳng có nghĩa gì trong cuộc sống hằng ngày, thì trong hàng không bưu tín, chúng có một cắt nghĩa rất nặng nề. Giữa quãng thời gian chết ấy, có một sự kiện nào đó mà ta chưa biết. Vô nghĩa hay là rủi ro, sự kiện đó cũng đã xảy ra và xảy ra trọn vẹn rồi. Số phận đã nói lời phán xét của nó, và đối với lời phán xét đó, không thể kêu cầu gì nữa: một bàn tay sắt đã lái đội phi hành, buộc hoặc đậu giữa biển không hề hấn gì hoặc đã tan nát rồi. Song tuyên án thế nào, người đợi chờ còn chưa rõ.
Người nào trong bọn chúng tôi không hề trải qua những niềm hy vọng càng lúc càng mong manh ấy, cái im lặng mỗi phút một trở nên thoi thóp như trong một cơn bệnh hiểm nghèo ấy? Chúng tôi hy vọng, rồi thì giờ khắc trôi và dần dần, chúng tôi thấy chậm rồi. Chúng tôi buộc phải hiểu rằng những người bạn của chúng tôi không về nữa, các anh đã yên nghỉ giữa Nam Đại Tây Dương nơi vòm trời đã từng được các anh bao lần vạch những đường cày. Thôi, Mermoz đã nhất quyết nằm lại trong cái sự nghiệp của mình, giống như người thợ gặt sau khi bó chặt xong bó lúa, nằm xuống trên đồng ruộng của mình.
Khi một người bạn chết đi như vậy, cái chết của anh còn có vẻ như là một hành động nằm trong trình tự của nghề nghiệp, và trước hết, cái chết ấy có lẽ ít làm tổn thương người ta hơn một cái chết khác. Tất nhiên, người đó đã ra đi, sau chuyến chuyển trạm lần cuối, nhưng sâu thẳm trong lòng, chúng tôi chưa thấy thiếu anh sâu sắc, như có khi chúng tôi thiếu bánh mì.
Chúng tôi vẫn có thói quen chờ đợi rất lâu những cuộc gặp mặt. Bởi vì họ tản mát trên quả địa cầu, những bạn đường bay, từ Paris đến Saniago de Chiie, hơi cách biệt nhau cũng như những người lính canh có bao giờ trò chuyện với nhau. Phải có sự ngẫu nhiên của những chuyến đi mới tập hợp được đây đó những thành viên tản mát của cái gia đình lớn đồng nghề. Quây quần một tối nào đó quanh một chiếc bàn, ở Casablanca, ở Dakar, ở Buenos Aires, sau những năm tháng lặng im, người ta lại nối lại những câu chuyện còn bỏ dở, liên tưởng lại những kỷ niệm cũ. Rồi lại ra đi. Như vậy đó, Trái đất vừa vắng vẻ lại vừa giàu có, giàu những khu vườn đầy bí mật, ẩn khuất, khó lòng với tới, nhưng nghề chúng tôi, một ngày nào đó, vẫn đưa chúng tôi đến được đó. Bạn bè, cuộc sống có lẽ làm cho chúng tôi phải sống cách xa nhau, không cho chúng tôi nghĩ về nhau nhiều nhưng họ vẫn có mặt ở đâu đó, không biết rõ là nơi nào, lặng lẽ và bị lãng quên, nhưng mà họ chung thủy biết bao! Và nếu ta gặp họ giữa đường, thôi thì các anh ấy lay vai ta, vui mừng chừng như bốc lửa! Hẳn chứ, chúng tôi có thói quen chờ đợi…
Nhưng với tháng ngày, chúng tôi sực hiểu ra rằng tiếng cười lanh lảnh của bạn ấy, từ nay chúng tôi không còn được nghe nữa, chúng tôi sực biết rằng khu vườn ấy từ nay đối với chúng tôi là bãi cấm. Thế là bắt đầu cái tang thật sự của chúng tôi, nó không đau xé nhưng mà cay đắng.
Thật ra không bao giờ có cái gì thay thế được người bạn đồng hành đã mất. Những người bạn xưa cũ, ta có tạo lấy được đâu! Không gì sánh được với cái kho báu của bao nhiêu kỷ niệm sống chung, bao nhiêu khoảnh khắc tồi tệ cùng nhau trải qua, bao nhiêu giận hờn rồi lại làm lành, bao nhiêu nhịp đập tình cảm. Những tình bạn như thế có làm lại được đâu! Thật vẩn vơ khi người ta trồng một cây sến mà mong một sớm một chiều được nấp dưới bóng mát của nó.
Cuộc đời nó thế. Trước tiên, chúng ta làm giàu, chúng ta trồng trọt năm này sang năm khác nhưng đến những năm tháng thời gian tàn phá lao động của ta, đốn bỏ cây cối của ta đi. Bạn bè, từng người một, rút lùi cái bóng mát của họ khỏi mái đầu ta. Và cùng với tang tóc, từ nay chúng ta lởn vởn có sự nuối tiếc thầm kín rằng chúng ta già.
Ấy là cái đạo lý mà Mermoz và những bạn khác đã dạy tôi. Cái cao quý của một nghề, có lẽ, trước hết là chỗ kết đoàn lại những con người: chỉ có một điều xa xỉ chân chính thôi, và điều xa xỉ chân chính đó thuộc mối quan hệ giữa các con người.
Trong khi lao động duy nhất cho của cải vật chất, tự tay ta xây lấy nhà giam giam ta. Chúng ta tự giam mình cô độc, với đống tro tàn làm tiền tệ, cái thứ tiền tệ ấy không mua bán được gì đáng cho chúng ta sống.
Nếu tôi tìm kiếm trong trí nhớ tôi những kỷ niệm nào đã để cho tôi một hương vị lâu bền, nếu tôi tính những giờ khắc đáng giá, tôi chắc chắn là sẽ thấy lại những giờ khắc không dễ gì mua được mà số phận đã cho tôi. Người ta không thể mua được tình bạn của một Mermoz, một người bạn đường mà những thử thách cùng nhau sống qua đã dính chặt vào chúng tôi mãi mãi.
Cái đêm bay này với trăm nghìn vì sao ấy, với lòng thanh thản, quyền lực tối cao của mấy tiếng đồng hồ ấy, tiền không mua được.
Cái dáng mới của thế giới sau chặng đường khó khăn ấy, các cây ấy, các hoa ấy, các người đàn bà ấy, các nụ cười được cuộc sống tô điểm lại cho ấy, cuộc sống mà chúng tôi mới được trả lại lúc trời hừng sáng, cuộc hợp tấu đó của những điều bé nhỏ là các phần thương mến của chúng tôi, những cái đó tiền không mua được.
Tiền cũng không mua được cả cái đêm sống với nhau ở đất loạn mà bây giờ tôi nhớ lại.
Chúng tôi là ba đội phi hành của hãng Aéropostale, vào lúc mặt trời lặn, hạ cánh xuống ven biển Rio de Oro. Riguelie, bạn tôi, hạ cánh trước vì gãy cần; Bourgat, một bạn nữa, hạ sau để chở người của chiếc trước, nhưng một sự hỏng hóc nhẹ đã buộc chiếc máy bay nằm dán xuống đất. Sau cùng, tôi đậu xuống, chỉ vì tôi chợt thấy trời tối rồi. Chúng tôi quyết định cứu giúp cho chiếc máy bay của Bourgat, và nên đợi trời sáng mới sửa chữa tốt được.
Một năm trước, hai bạn chúng tôi, Gourp và Érable, hỏng máy ở đây, vừa vặn nơi này, đã bị quân phiến loạn giết. Chúng tôi biết, hiện nay cũng có một ổ chiến đấu gồm có ba trăm tay súng đang đóng đâu đó ở Bojador. Ba cuộc hạ cánh của chúng tôi, ở xa chắc là thấy rõ, dễ đã làm cho họ náo động và chúng tôi bắt đầu một cuộc thức canh có lẽ là cuộc thức canh cuối cùng.
Chúng tôi soạn sửa để sống qua đêm. Từ các ngăn để hành lý trên máy bay, chúng tôi khuân xuống năm sáu thùng hàng, chúng tôi lấy hết hàng ra, xếp các thùng thành hình tròn, và trong mỗi thùng, như trong mỗi cái trang thờ, chúng tôi thắp một cây nến, gió tạt lắc lư. Như vậy đấy, ngay giữa sa mạc, trên cái vỏ trần trụi của hành tinh, trong sự cô quạnh như sự cô quạnh của những năm tháng sơ khai của quả địa cầu, chúng tôi xây một cái làng cho con người.
Túm tụm lại với nhau để qua đêm trên cái quảng trường lớn của làng chúng tôi đây, cái trảng cát này nơi các thùng gỗ đổ xuống một ánh sáng lắt lay, chúng tôi đợi. Chúng tôi đợi hoặc là hừng đông đến cứu chúng tôi, hoặc là người Moor. Và tôi không biết cái gì đó đã mang lại cho đêm thức này cái vị của một đêm Noel. Chúng tôi kể với nhau các kỷ niệm, chúng tôi đùa với nhau và chúng tôi hát.
Chúng tôi lại cảm thấy cái lòng thành tâm nhè nhẹ mà người ta cảm thấy giữa một buổi lễ được chuẩn bị đàng hoàng. Thế nhưng, lúc bấy giờ, chúng tôi nghèo khó vô tận. Gió, cát, sao. Cách sống cam go dành cho các bậc khổ tu. Nhưng trên chiếc khăn bàn chỉ sáng lờ mờ này, sáu bảy con người, không sở hữu cái gì khác nữa ở trên đời ngoài các kỷ niệm của mình, chia cho nhau những giàu sang không thể nhìn mà thấy.
Thế mà sau cùng, chúng tôi gặp nhau. Người ta đi rất lâu cạnh nhau, mỗi người bị giam trong sự lặng im của bản thân mình, hoặc người ta trao đổi cho nhau những lời nói, bản thân chúng không chuyên chở điều gì hết. Nhưng bỗng giờ đây là lúc hiểm nghèo. Người ta liền kề vai nhau. Người ta nhận ra rằng mọi người đều chung một tập đoàn. Người ta cảm thấy mình rộng ra bởi mỗi người khám phá ra những lương tri khác. Người ta nhìn nhau với nụ cười rộng mở. Người ta giống như kẻ tù nhân được giải thoát đang mê mẩn trước cái bao la của biển.
o O o
Guillaumet, mình nói vài lời về cậu, và mình sẽ tuyệt không làm cho cậu lúng túng vì mình cứ nhắc đi nhắc lại một cách nặng nề về lòng dũng cảm hay giá trị nghề nghiệp của cậu đâu. Mình kể lại cuộc phiêu lưu đẹp nhất của cậu, là muốn tả cái khác kia.
Có một đức tính không có tên. Có lẽ là sự “nghiêm túc” chăng, nhưng từ đó không thỏa mãn. Vì cái đức tính ấy có thể kèm theo một niềm hân hoan tươi vui nhất. Ấy chính là cái đức tính của người thợ mộc, mặt đối mặt bình đẳng với phiến gỗ của mình, nắn sờ nó, đo nó, không đánh giá nó một cách nhẹ dạ mà tìm thấy mọi ưu điểm của nó.
Trước kia, Guillaumet ạ, mình có đọc một truyện trong đó người ta ca ngợi câu chuyện xảy ra với cậu, và mình vẫn giữ ý muốn cải chính cái hình ảnh không đúng ấy về cậu. Trong truyện đó, người đọc thấy cậu thích ném những lời chế giễu kiểu “gavroche”, như thể lòng can đảm là ở chỗ, giữa lúc hiểm nguy tồi tệ nhất và vào giờ chết, ta hạ mình buông ra những lời đùa cợt kiểu học trò. Thế là người ta không rõ cậu rồi, Guillaumet. Trước khi đương đầu với các địch thủ, cậu đâu có cảm thấy cần làm cho chúng trở nên buồn cườì. Trước một cơn dông tai ác, cậu nhận xét: “Đây là một cơn dông tai ác.” Cậu chấp nhận nó, và cậu đo lường nó.
Mình mang lại đây cho cậu, Guillaumet ạ, bằng chứng những kỷ niệm của mình.
Bấy giờ, cậu đã mất tích năm mươi tiếng đồng hồ rồi, lúc ấy là mùa đông, trong một chuyến bay vượt Andes. Từ tận cùng xứ Patagonia bay vè, mình gặp anh bạn lái Deley tại Mendoza. Mình và cậu ta, năm ngày ròng rã, chúng mình lục soát bằng máy bay cái đống núi non chồng chất đó nhưng không tìm thấy gì cả. Hai chiếc máy bay của chúng mình chẳng thấm vào đâu. Một trăm phi đội trong năm năm không chắc đã thám hiểm xong dải núi lớn với các đỉnh cao đến bảy nghìn mét này. Chúng mình đã hết hy vọng. Cả những kẻ buôn lậu, những người làm nghề trộm cướp từng dám hạ sát một mạng người với giá năm phơ răng cũng khước từ không cho các toán cứu trợ mon men trên các triền núi. “Mất mạng như chơi!” họ nói. “Dải Andes không bao giờ chịu trả người vào mùa đông.” Lúc Deley và mình hạ cánh xuống Santiago, các sĩ quan Chile, cả họ nữa, cũng khuyên chúng minh thôi tìm kiếm. “Mùa đông mà. Bạn các ông có rơi xuống mà không chết đi nữa, cũng chẳng sống nổi với đêm đông. Ở trên ấy, đêm tối chỉ lướt qua ta, nó cũng biến được ta thành nước đá.” Cho nên, khi mình lại luồn vào trong các vách, các thân trụ khổng lồ của dải Andes, mình có cảm giác như không phải đang tìm kiếm cậu, mà là đang canh xác cậu, lặng im, trong một nhà thờ bằng tuyết.
Sau cùng, vào ngày thứ bảy, trong một chuyến vượt tìm, mình dừng lại ăn trưa, trong một cái quán ở Mendoza, bỗng có một người đẩy cửa và kêu lên, chao ôi, ngắn ngủi thôi:
“Guillaumet… còn sống!”
Thế là tất cả những người không quen biết trong quán ôm chầm lấy nhau.
Mười phút sau, mình cất cánh, chờ theo hai người thợ máy, Lefebvre và Abri. Bốn mươi phút sau nữa, mình hạ xuống dọc một con đường, vì nhận ra, không nhớ do cái gì mà nhận ra, chiếc xe chở cậu, chẳng biết chở đi đâu, về hướng San Rafaël. Thật là cuộc gặp đẹp, tất cả chúng ta đều khóc, chúng mình ghì chặt cậu trong vòng tay, cậu còn sống, cậu đã hồi sinh, cậu là tác giả câu chuyện kỳ diệu của chính cậu. Chính lúc ấy, cậu bật lên nói, và là câu nói mạch lạc đầu tiên của cậu, một nỗi tự hào tuyệt vời của con người: “Cái mà mình đã làm, mình nói thật với cậu, không con vật nào làm được đâu.”
Về sau, cậu kể cho chúng mình nghe về vụ tai nạn.
Một cơn dông tố, trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, đã đổ một lớp tuyết dày năm mét lên triền núi Andes phía Chile, bịt kín toàn bộ không gian, những người Mỹ trong công ty Pan-Air đã quay trở lại. Vậy mà cậu vẫn cất cánh đi tìm một vết rách trên trời. Cậu tìm thấy nó quá một chút về phía Nam, cái bẫy ấy, và bấy giờ, vào quãng sáu nghìn năm trăm mét cao, chế ngự mây mù, đám cao nhất cũng chỉ sáu nghìn mét, từ đó nhô ra những chóp ngất nghểu nhất, cậu lái về hướng Argentina.
Các dòng đi xuống thường hay gây cho người lái một cảm giác khó chịu kỳ lạ. Cỗ máy xoay tròn, song người thì cảm thấy lún sâu xuống. Ta ghìm để giữ độ cao, chiếc máy bay mất tốc độ và như mềm ra: ta vẫn lao sâu xuống. Ta buông tay, giờ lại sợ là đã kìm lại quá, ta chao về phía phải hay phía trái để tựa vào một cái đỉnh thuận lợi nhất, cái đỉnh nào vốn tiếp các luồng gió như một cái ván nhún, song ta vẫn còn lao xuống. Toàn bộ vòm trời như cùng lao xuống. Ta có cảm giác lúc bấy giờ như bị kẹp trong một thứ tai nạn vũ trụ. Không có chỗ ẩn đậu nào cả. Ta thử quay vòng lại một cách vô ích, để trở lại phía sau những khu vực mà không khí nâng đỡ ta, chắc và đầy như một cây cột. Nhưng không có trụ cột nào nữa. Mọi cái đều tan vữa, và ta liền chuồi vào trong một sự đổ nát của trời đất, hướng về cái đám mây đang lên một cách ẻo lả kia, cái đám mây nó đang cố kiễng chân để ngang tầm với ta và nuốt chửng ta.
“Mình suýt bị tóm,” cậu nói với bọn mình, “nhưng mình vẫn chưa tin là thế. Người ta gặp những dòng đi xuống bên trên những đám mây có vẻ như ổn định, với cái lý do đơn giản là cùng một độ cao, các đám mây ấy luôn luôn cấu tạo lại. Mọi cái đều kỳ lạ thế đấy trên núi cao…”
Những đám mây kỳ quặc!…
“Vừa bị kẹt, mình liền buông cần, víu chặt vào ghế ngồi để khỏi bị đánh bật ra ngoài. Con tàu rung chuyển dữ dội đến nỗi các dây cua roa đánh giập vai mình, chúng suýt bật đứt. Thêm nữa, băng giá bám vào cửa kính của tàu đã hoàn toàn bịt mắt mình, không cho thấy bất cứ chân trời dụng cụ6 nào nữa, mình bị lăn tròn như một cái mũ, từ sáu nghìn xuống ba nghìn rưỡi.
(6) Chân trời dụng cụ: thuật ngữ hàng không chỉ việc dùng máy để xác định vị trí máy bay so với chân trời.
“Tới ba nghìn rưỡi, bỗng mình nhác thấy một mảnh đen, nằm ngang, nó giúp mình điều chỉnh lại máy bay. Mình nhận ra một cái đầm: Laguna Diamante. Trước mình vẫn biết có nó, dưới đáy một cái lòng chảo, mà một vách là núi lửa Maipu cao sáu nghìn chín trăm mét. Mặc dù thoát khỏi mây rồi, mình vẫn còn bị những cơn lốc tuyết dày đặc bưng lấy mắt, giờ biết rằng xuống chệch cái đầm là va vào một vách của lòng chảo. Thế là mình cứ bay quanh đầm, ở ba mươi mét độ cao, bay mãi cho đến cạn xăng. Sau hai tiếng thao diễn như vậy, mình đậu xuống và lộn máy bay lại. Khi mình chui ra khỏi máy bay, bão tố liền đánh mình ngã sấp. Mình vừa đứng lên được, nó lại đánh ngã nữa. Đành chui phía dưới chiếc máy bay, đào một chỗ ẩn trong tuyết, bao phủ quanh mình bằng bưu kiện và mình đợi, bốn mươi tám tiếng liền.
“Sau đó, dông tố tan, mình bắt đầu đi bộ. Mình đi suốt bốn đêm năm ngày.”
Thế thì còn gì là cậu nữa, hả Guillaumet? Chúng mình gặp lại đúng là cậu đây, nhưng ôi chao, đen sạm, khô đét, bé choắt lại như một bà cụ! Ngay tối hôm ấy, bằng máy bay, mình chở cậu về Mendoza, ở đây các loại chăn trắng muốt tuôn xuống người cậu như là nước thơm. Nhưng chúng đâu có chữa cậu khỏi được. Cái thân xác đau nhức của cậu, cậu cảm thấy vướng, cậu lăn mình qua, trở mình lại, mãi không sao đặt được cơ thể vào trong giấc ngủ. Thân thể của cậu không quên được các tảng đá, không quên được tuyết. Đá và tuyết khắc in vào nó. Mình nhìn kỹ khuôn mặt đen, sưng vù, tựa một cái quả đã nẫu lại còn bị roi lằn. Cậu xấu xí quá, và tiều tụy, không dùng thành thạo nữa các dụng cụ làm việc rất đẹp của cậu: hai tay cậu vẫn còn cóng buốt, và khi muốn gượng dậy nơi mép giường để thở, hai cẳng chân tê dại của cậu buông thõng như hai khúc gỗ. Cuộc đi của cậu như vẫn chưa xong, cậu vẫn còn thở hổn hển và mỗi lần trở đầu trên gối để mong tìm sự yên tĩnh, thì những hình ảnh dắt díu nhau đang sốt ruột ở hành lang bắt đầu xao động và diễu qua dưới cái sọ não của cậu, cậu không thể dừng được. Cuộc diễu hành không dứt, và không dứt được cuộc chiến đấu của cậu chống lại những kẻ thù sống lại từ những lớp tro.
Mình cho cậu uống thuốc, hết chén này lại chén khác.
– Uống đi, cậu!
– Cái làm mình kinh lạ nhất… cậu biết không…
Là võ sĩ thắng cuộc, nhưng lại bị tổn thương vì những cú trời giáng, cậu ôn lại câu chuyện kỳ lạ của cậu. Và câu chuyện ấy, cậu dốc ra, từng mảng một. Qua câu chuyện kể trong đêm, mình thấy cậu đi trên núi tuyết mà không có gậy nhọn, không có thừng, không có lương ăn, lúc bò trên những con đèo cao bốn nghìn năm trăm mét, lúc trèo những thành vách dài thẳng đứng, chân, tay, đầu gối máu me, trời rét bốn mươi độ dưới không. Dần dần mất hết máu, mất hết sức, mất hết trí, cậu vẫn đi tới, với cái ương ngạnh của một con kiến, gặp chướng ngại thì trở lui vòng lại, ngã thì cố đứng lên, dốc thoải có thể lăn chuồi xuống, vực thì leo ngược, không một giây ngừng nghỉ vì ngừng nghỉ thì không thể nào đứng lên được nữa trên dải băng tuyết này.
Và vì thế, khi cậu trượt ngã, cậu đứng lên nhanh, để khỏi biến thành đá. Cái rét từng giây một ướp cóng cậu, và vì sau cú ngã, cậu đã có thêm một phút được nghỉ ngơi nên cậu phải làm cho các cơ bắp như đã chết rồi của cậu vận động thì mới hòng mong trỗi dậy trở lại.
Cậu cưỡng lại các cám dỗ: “Trong tuyết, cậu nói với mình, ta mất hết mọi bản năng bảo tồn. Sau hai, ba, bốn ngày đi bộ, ta chỉ còn mong được ngủ. Mình cũng mong ngủ. Nhưng mình lại tự nói: Vợ mình, chắc là cô ấy tin mình cố sống, cố đi. Bạn bè tin là mình cố bước đi. Tất cả đều tin ở mình. Mình là một thằng tồi nếu mình không cố bước.”
Rồi cậu tiếp tục đi, và với cái mũi dao, mỗi ngày cậu khoét rộng ra một ít chỗ giày rách để hai chân cậu dù tê cóng và sưng to vẫn có thể đi giày.
Cậu thầm thì với mình một điều tâm sự kỳ lạ:
“Từ ngày thứ hai, cậu ạ, cố gắng nhiều nhất của mình là làm sao đừng suy nghĩ. Mình đau quá, mà tình thế thì tuyệt vọng quá. Muốn đủ dũng cảm để đi, không nên nghĩ gì đến tình thế. Không may, mình không làm chủ được trí óc mình, nó cứ làm việc như một cái tuốc bin. Nhưng mình còn có thể chọn lựa cho nó một số hình ảnh. Mình hướng nó vào một cuốn phim, một cuốn sách. Và cuốn phim hoặc cuốn sách quay hết tốc độ trong trí óc mình. Rồi nó lại đưa mình trở về với tình thế hiện tại. Không tránh được. Thế là mình lại phải ném trí nhớ của mình tới những kỷ niệm khác…”
Tuy vậy, có một lần, trượt ngã sấp trên mặt tuyết, cậu định thôi không dậy nữa. Cậu giống như người võ sĩ, bỗng thấy trống rỗng không ham muốn gì, nghe thời gian điểm từng giây một trong một thế giới hoàn toàn xa lạ, đợi đến giây thứ mười là lúc bất khả kháng.
“Có thể làm gì thì mình đã làm hết rồi, và mình tuyệt không còn hy vọng, cứ cố làm chi trong cái khổ nhục này?” Chỉ cần cậu nhắm mắt lại là có thể tìm thấy yên tĩnh trong thế giới này. Là có thể xóa khỏi thế giới này những núi đá, những băng lạnh và tuyết trắng. Mắt chỉ vừa nhắm lại, ôi các mi mắt kỳ diệu, thế là thôi, không bị roi đòn, vấp ngã, bắp rách, băng cóng, cũng thôi không còn cái sức trì kéo nặng nề đó của cuộc sống mà cậu phải kéo, cậu thì vất vả như một con bò mà cuộc sống thì nặng nề hơn cả chiếc Xe. Cái rét trở nên thuốc độc, nó cũng giống như là móoc phin. Giờ nó tràn ngập trong cậu một cảm giác dịu dàng, cậu đã được nếm cái dịu dàng đó. Tất cả cuộc sống của cậu giờ ẩn vào vùng quanh trái tim cậu. Một cái gì êm đềm và quý giá thu vào chính giữa bản thân cậu. Ý thức lần lần rút bỏ khỏi các vùng da thịt xa xôi của hình hài, cái hình hài vốn cho đến nay là một con thú đầy ứ niềm đau, giờ đã mang cái vô tri của đá.
Cả đến các lo toan cũng đều không còn. Những tiếng gọi của chúng mình không đạt đến cậu nữa, hay, nói cho đúng, đối với cậu chúng trở thành tiếng gọi trong chiêm bao. Cậu trả lời hưởng ứng bằng một bước đi chiêm bao, bằng những bước chân dài nhẹ nhàng chẳng cần cố gắng gì mà vẫn mở ra cho cậu những lạc thú của đồng bằng. Cậu trượt chuồi dễ chịu biết bao vào trong một thế giới đã trở nên dịu dàng đến thế đối với cậu! Guillaumet ạ, một cách ích kỷ, cậu định không cho chúng mình nhìn thấy ngày trở về của cậu.
Nhưng hối hận bỗng trào lên từ nơi sâu thẳm nhất của lương tri. Có những chi tiết xác thực chợt trộn vào trong cơn mê muội: “Mình nghĩ đến vợ mình. Tiền bảo hiểm của mình sẽ giúp cô ấy khỏi khốn đốn. Phải, nhưng mà tiền bảo hiểm…”
Trong trường hợp mất tích, bốn năm sau nữa người lái mới được pháp chế chứng thực là chết. Cái chi tiết ấy có vẻ rõ ràng, xóa nhòa mọi hình ảnh khác. Mà cậu thì đang ngã sấp trên một sườn tuyết dốc đứng. Thi thể cậu khi mùa hè đến, sẽ lăn đi với đống bùn này tới một cái vực nào đó trong nghìn vực sâu của dãy Andes. Cậu biết thế. Nhưng cậu cũng biết rằng trước mắt cậu, một tảng đá nhô ra, cách năm chục mét: “Mình nghĩ: nếu mình cố dậy, mình sẽ với được tảng đá đó… nếu mình cố chèn người vào khe đá, mùa hè tới, người ta sẽ tìm thấy xác mình.”
Đứng lên được, thế là cậu đi liền hai đêm và ba ngày.
Song cậu cũng không nghĩ sẽ đi xa được.
“Có nhiều dấu hiệu cho mình biết mình sắp chết. Đây là một: cứ quãng hai tiếng mình lại phải dừng để xé giày rộng thêm một tí, lấy tuyết xát hai bàn chân sưng vù hoặc chi đơn giản là cho tim mình nó nghỉ ngơi một tí. Nhưng vào những ngày cuối, mình mất trí nhớ. Mình đi lại đã lâu rồi, bỗng nhiên mình thấy sáng rõ một điều: mỗi lần dừng, mình lại quên một vật. Lần đầu là một chiếc găng, trời rét thế này, đó là việc nghiêm trọng. Mình đặt nó trước mặt và cứ thế đi, quên không cầm lên. Rồi quên đồng hồ. Rồi quên chiếc dao con. Rồi quên la bàn. Mỗi lần dừng, nghèo đi một ít.
“Cái cứu thoát mình là bước một bước. Một bước nữa. Cái bước mà người ta bước lại cũng chỉ là cái bước trước đó thôi…”
“Cái mà mình đã làm, mình nói thật, không một con vật nào làm được”. Câu nói ấy, câu nói cao quý nhất mà mình nghe biết, câu nói định vị cho con người, làm vinh dự cho con người, phục hồi những ngôi thứ chân chính, nó trở lại trí nhớ mình. Sau cùng cậu thiếp ngủ được, ý thức cậu bị hủy bỏ, nhưng từ cái hình hài rời rã, rách nát, cháy bỏng này cái ý thức ấy nó sẽ hồi sinh khi cậu thức dậy, và nó trở lại chế ngự hình hài. Thế thì thân xác chỉ còn là một đồ dùng tốt, thân xác chỉ còn là một kẻ phục vụ mà thôi. Và, với niềm tự hào ấy về cái đồ dùng tốt, Guillaumet, cậu cũng biết nói ra:
“Không có lương ăn, cậu cứ tưởng tượng đến ngày đi bộ thứ ba… trái tim mình, nó đập chẳng lấy gì làm mạnh nữa. Ôi chao! Dọc một triền thẳng đứng, mình đang lửng lơ, bên trên miệng hố, đào những lỗ trong vách tuyết để bíu và trườn tới, đang lúc như thế thì trái tim mình nó tắc. Nó ngắc ngứ, rồi nó lại chạy. Nó đập xiên vẹo. Mình cảm giác như nếu nó ngắc ngứ thêm một giây, mình sẽ buông tay. Mình không nhúc nhích nữa và lắng tai nghe bên trong mình. Chưa bao giờ, cậu hiểu không? Chưa bao giờ lái máy bay mà mình thấy mình bị treo móc vào cỗ máy của mình gần kề như hiện nay mình bị treo móc vào trái tim mình. Mình bảo trái tim mình: thôi đi, gắng lên một tí! Cố đập 'tí nữa'. Nó cũng là một trái tim vào loại tốt. Nó ngắc ngứ rồi lại chạy, nó vẫn chạy… Giá mà cậu biết được mình tự hào biết bao về trái tim đó!”
Trong căn buồng ở Mendoza nơi mình ngồi canh cho cậu, cuối cùng cậu cũng nhọc nhằn thiêm thiếp. Và mình nghĩ thầm: “Nếu ai nói với cậu ấy về lòng can đảm của cậu ấy, Guillaumet sẽ nhún vai. Nhưng ca ngợi sự khiêm tốn của cậu ấy cũng là không hiểu đúng con người thật của cậu ấy. Cậu ấy đứng cao hơn nhiều so với cái đức tính tầm thường này. Nếu cậu nhún vai, ấy là vì khôn ngoan. Cậu ấy biết rằng khi đã bị mắc kẹt vào sự kiện, con người không còn hoảng sợ sự kiện nữa. Chỉ có cái không biết mới làm cho con người kinh hãi. Nhưng cái không biết, đối với kẻ nào đương đầu với nó, không còn là cái không biết nữa. Nhất là khi ta quan sát nó với sự nghiêm túc sáng suốt đó. Lòng dũng cảm của Guillaumet, trước hết là kết quả của sự ngay thẳng ớ cậu ấy.”
Cái đức tính thật của cậu ấy tuyệt không phải ở đấy. Cái cao quý của cậu ấy là ở chỗ cảm thấy trách nhiệm. Trách nhiệm đối với mình, đối với chuyến thư, và đối với những bạn bè đang mong mỏi. Cậu ấy nắm trong tay mình nỗi khổ hay niềm vui của bạn. Trách nhiệm đối với cái gì là mới đang dựng xây, ở nơi kia, ở thế giới những người đang sống, cái thế giới mà cậu phải tham dự. Có trách nhiệm một ít về số phận những con người trong chừng mực công việc của mình.
Cậu ấy có mặt trong số những con người tầm vóc rộng lớn, chịu dùng tán che của mình để che cho những chân trời rộng. Làm người, chính là có trách nhiệm. Chính là biết xấu hổ mặt đối mặt với một sự khốn cùng có vẻ như chẳng phải tùy mình. Chính là tự hào về một chiến thắng mà các bạn hữu mang lại. Chính là, khi đặt viên đá của mình, mình có cảm giác rằng mình góp phần xây dựng thế giới.
Người ta muốn lẫn lộn những con người như vậy với những người đấu bò tót, với những nhà thể thao. Người ta ca ngợi sự coi thường cái chết của họ. Tôi thì tôi coi thường sự coi thường cái chết. Nếu như lòng khinh thường cái chết đó không có cội rễ trong một trách nhiệm được đảm nhận, nó chỉ là dấu hiệu nghèo nàn, hoặc sự thái quá của tuổi trẻ. Tôi có biết một người tự sát khi tuổi hãy còn trẻ. Không hiểu là mối thất tình nào đã xui anh ta đến chỗ bắn một viên đạn vào ngực. Không rõ chịu ảnh hưởng của ám ảnh có tính chất văn học nào mà anh đi găng trắng vào hai tay, song tôi nhớ khi đứng trước cuộc phô diễn buồn tẻ này, lòng tôi không có cái cảm giác rằng anh ta cao quý mà là anh ta khốn quẫn. Như vậy đấy, sau khuôn mặt đáng yêu ấy, dưới cái sọ não của người ấy, nào có gì đâu, tuyệt chẳng có gì. Nếu không phải là hình ảnh của một cô gái nhỏ gàn dở nào đó giống như bao cô gái khác.
Đối mặt với cái số phận còi cọc đó, tôi nhớ lại một cái chết khác xứng là cái chết của con người. Cái chết của một người làm vườn từng nói với tôi: “Anh biết chứ… đôi khi đang đào xới, tôi chảy tháo cả mồ hôi ra! Chân bị rút vì bệnh khớp, tôi nguyền rủa cái nghề đào xới. Thế mà nay tôi thích đào xới, đào xới đất. Được đào xới đất, thật thích. Khi ta đào xới, ta tự do biết bao! Và rồi, rồi đây, ai chăm các cây cối cho tôi nữa?” ông để lại một quả đất đang đào xới dở. Ông để lại một hành tinh đang đào xới dở. Bằng tình yêu, ông gắn bó với tất cả các vùng đất, với tất cả mọi cây cối trên Trái đất. Chính ông mới là con người hào phóng, là kẻ hoang phí, là ông chúa lớn.
Như Guillaumet, chính ông mới là con người can đảm, khi ông nhân danh sự Sáng tạo của mình mà phấn đấu chống lại cái chết.
Xứ Con Người Xứ Con Người - Antoine de Saint Exupéry Xứ Con Người