Nguyên tác: Safe Harbour
Số lần đọc/download: 0 / 12
Cập nhật: 2024-09-01 17:41:23 +0700
Chương 1
Đ
ó là một ngày hè ảm đạm, lạnh lẽo ở Bắc California. Những cơn gió thổi mạnh cuốn cát bay mù mịt trên không trung. Từ xa đến, một cô gái nhỏ mặc chiếc áo lạnh trắng ngắn tay và chiếc quần soóc màu đỏ bước đến gần bờ biển. Cô đứng đó, đương đầu với cơn gió lạnh. Chú chó đi theo cô bé đến gần miếng rong biển bị đánh dạt vào bờ và ngửi ngửi.
Cô gái nhỏ bé ấy có mái tóc xoăn đỏ, đôi mắt màu hổ phách dịu dàng, vài hạt bụi bám trên gương mặt. Cô bé khoảng chừng hơn 10 tuổi, rất duyên dáng. Chú chó có màu sôcôla. Cả hai đi từ nhà của mình đến bờ biển. Ngày hôm đó quá lạnh và không ai ra bãi biển cả. Tuy nhiên cô bé không sợ cái lạnh. Còn chú chó luôn sủa mỗi khi gió thổi làm cát tung bay trên không trung. Nó chạy ra sát mép nước. Khi thấy một con cua, nó lùi lại và sủa vài tiếng. Cô bé bật cười khi thấy cảnh đó. Trẻ con và chó thường là những người bạn tốt của nhau.
Bãi biển nắng và nóng, đặc biệt là vào tháng 7. Tuy nhiên đôi khi nó lại lạnh. Khi có sương mù vây quanh, nó trở nên lạnh và hiu quạnh như mùa đông. Bạn có thể thấy sương mù hòa cùng sóng biển hoặc vây quanh chiếc cầu Cổng Vàng. Lúc ấy đứng từ bờ biển, bạn có thể thấy chiếc cầu. Safe Harbour cách phía bắc San Francisco 35 dặm. Xa hơn nữa là khu dân cư. Ở đó, có những ngôi nhà được xây trên những cồn cát, dọc theo bờ biển. Không có phương tiện đi lại vì xung quanh bãi biển là nhà. Xa về phía bên kia là một bãi tắm công cộng. Hầu hết những ngôi nhà ở đó giống như những túp lều và họ có phương tiện đến bãi biển. Vào những ngày nắng nóng, bãi biển đông nghẹt người. Nhưng vào những ngày giá lạnh này, nó trống trải, hiếm thấy ai đến đó.
Đứa trẻ vẫn đi dọc theo bãi biển và thấy một người đàn ông đang ngồi đó với những dụng cụ vẽ. Anh nhúng cọ vào nước màu rồi vẽ, để rớt trên giá vẽ vài giọt sơn. Cô bé dừng lại phía xa và đứng nhìn. Chú chó nhảy lên đụn cát và đánh hơi cái gì đó. Cô gái bé nhỏ ngồi trên cát, cách người họa sĩ khá xa và vẫn nhìn anh vẽ. Cô cố giữ khoảng cách để anh không phát hiện, cô chỉ thích nhìn anh mà thôi.
Cô bé cảm nhận được có cái gì đó rắn rỏi và thân thuộc từ người họa sĩ khi gió thổi qua mái tóc đen của anh. Cô bé thích nhìn người khác và làm theo họ, như một người thợ mới chập chững bước vào nghề. Cô cứ ngồi ở đó, khá lâu. Trong khi đó, họa sĩ vẫn tiếp tục vẽ. Nhìn vào tranh, cô bé nhận ra anh đang vẽ một chiếc thuyền, dù nó không xuất hiện trước mặt họ. Lúc này cảnh vật thật yên tĩnh. Chú chó đã trở lại và ngồi xuống bên cạnh, cô bé đánh nhẹ ra hiệu cho nó phải ngồi im. Cô nhìn ra biển, rồi lại nhìn họa sĩ.
Sau đó cô bé đứng lên rồi tiến lại gần chút nữa, cuối cùng đứng sau lưng họa sĩ. Lúc này anh vẫn không nhận ra sự có mặt của cô bé. Tuy nhiên, cô bé đã thấy rõ những việc làm của họa sĩ và thích màu sắc mà anh thể hiện, thích cảnh hoàng hôn trong tranh. Con chó đã mệt, nó đến gần dường như đợi một mệnh lệnh. Sau đó cô bé tiến đến gần hơn nữa. Lần này họa sĩ đã nhận ra cô. Anh nhìn lên khi con chó chạy ngang qua làm cát bắn lên tung tóe. Sau đó anh nhìn ngang qua và thấy đứa trẻ. Anh không nói gì và vẫn tiếp tục vẽ. Nhưng sau đó anh vô cùng ngạc nhiên khi đứa trẻ vẫn đứng đó và nhìn mình vẽ. Anh quay đầu lại nhìn cô bé lần nữa và tiếp tục pha màu rồi vẽ thêm nửa tiếng.
Họ không nói gì. Cô bé vẫn nhìn anh, cuối cùng ngồi xuống bãi cát. Cát thật ấm và luôn cuốn theo làn gió. Cũng như cô bé, họa sĩ mặc chiếc áo lạnh ngắn tay, quần jeans và đi một đôi giày đã cũ.
Người họa sĩ này có gương mặt rám nắng và cử chỉ chậm rãi. Cô bé nhận ra họa sĩ có bàn tay tuyệt vời khi thấy anh vẽ tranh. Họa sĩ này cũng trạc tuổi cha của cô, khoảng 40. Khi anh quay lại nhìn xem đứa trẻ còn đứng đó không, ánh mắt họ đã gặp nhau. Nhưng không ai nói hay cười. Anh cũng không nói gì với cô bé.
Cuối cùng anh hỏi: “Cháu có thích vẽ không?”. Anh không thể tìm ra lý do nào khiến cô bé vẫn đứng đó ngoại trừ nó cũng có khiếu vẽ, nếu không sẽ không bao giờ mất cả tiếng đồng hồ để đứng nhìn anh vẽ. Nhưng thực tế, cô bé thích ở gần ai đó, dù cho đó là người lạ.
“Thỉnh thoảng”, cô bé có vẻ thận trọng đáp lại. Dù gì đi nữa thì anh vẫn là người lạ và mẹ của cô vẫn luôn nhắc nhở là con gái không được nói chuyện với người lạ.
Anh rửa sạch cọ vẽ rồi hỏi: “Cháu thích vẽ gì?”. Anh là một người khá điển trai, cao lớn, gương mặt cương nghị và một chiếc cằm chẻ. Có điều gì đó khá mạnh mẽ trong anh với bờ vai rộng và đôi chân dài.
“Cháu thích vẽ con chó của cháu. À, làm thế nào chú có thể vẽ được những chiếc thuyền mà không có chúng trước mặt?”.
Anh cười và quay về phía cô bé. Hai ánh mắt của họ gặp nhau. “Chú tưởng tượng ra ấy mà. Cháu muốn thử không?”. Anh đưa cho cô bé mẩu giấy và bút chì. Lúc đầu cô bé hơi bối rối, nhưng sau đó nó đứng lên đi về phía họa sĩ, rồi cầm lấy giấy và bút chì.
Cô bé hỏi một cách nghiêm túc: “Cháu có thể vẽ con chó của mình không?”. Cô bé cảm thấy rất thích thú khi nhận được giấy vẽ từ họa sĩ.
“Chắc chắn rồi. Cháu có thể vẽ bất cứ gì mình thích”. Họ không hỏi tên nhau mà chỉ ngồi gần nhau khi vẽ. Trông cô bé cứ như là một họa sĩ đang hoàn tất tác phẩm của mình vậy. “Tên con chó là gì?”. Người họa sĩ hỏi khi con chó đuổi theo con mòng biển và chạy ngang qua họ.
“Mousse (có nghĩa món kem mút)”. Cô bé nói nhưng mắt vẫn không rời khung vẽ.
“Nó không giống như moose (con nai) nhưng nghe có vẻ là cái tên hay đấy”. Anh nói khi vẫn tiếp tục hoàn thành tác phẩm của mình.
“Nó là món tráng miệng của Pháp và là món sôcôla”. “Hay đấy!”. Anh nói và có vẻ hài lòng. Dường như anh dành cả ngày để vẽ. Đã hơn 4 giờ chiều và anh đã ở đó từ trưa. Anh hỏi: “Cháu nói được tiếng Pháp à?” và anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy cô bé gật đầu. Từ lâu lắm rồi anh mới nói chuyện với một đứa trẻ nên anh không biết mình phải nói gì với cô bé. Nó quả là một đứa bé kiên trì khi đứng nhìn anh vẽ hàng tiếng đồng hồ. Anh nhận ra cô bé cũng có mái tóc đỏ như con gái của mình. Vanessa cũng trạc tuổi cô bé và cũng có mái tóc dài vàng hoe. Ngoài ra nó cũng có hành vi và đặc điểm tương tự như cô bé này. Nếu nhìn thoáng qua, anh cứ tưởng cô bé là con gái của mình.
Cô bé nói thêm: “Mẹ cháu là người Pháp”. Sau đó nó ngồi xuống và nhìn tác phẩm của mình. Cô bé cũng gặp vài khó khăn khi vẽ Mousse, chân sau của con chó không được vẽ đúng chỗ cho lắm...
Anh cầm tác phẩm của cô bé, nhìn kỹ rồi nói: “Để chú xem nào”.
Cô bé trao tờ giấy cho họa sĩ: “Cháu không thích vẽ mặt sau tờ giấy”. Trông họ giống như thầy giáo và học sinh.
Việc vẽ tranh đã giúp họ gần nhau hơn, cô bé hoàn toàn thoải mái khi ở bên cạnh anh.
“Chú sẽ cho cháu thấy... Được không?”. Cô bé gật đầu. Họa sĩ lấy cây bút chì và nhanh chóng sửa những khiếm khuyết trên bức tranh mà cô vẽ. Đó quả là một bức tranh vẽ con chó đáng khen ngợi, thậm chí cả trước khi anh điều chỉnh nó. Anh nhìn bức tranh và nói: “Cháu vẽ tốt lắm!”. Sau đó anh đưa bức tranh cho cô bé rồi cất bút chì và giấy vẽ vào túi dụng cụ.
“Cám ơn chú đã giúp cháu sửa bức tranh. Nếu không có chú, chắc cháu không bao giờ biết được cách sửa phần ấy”.
“Lần tới cháu sẽ biết nhiều hơn”. Anh nói rồi bắt đầu cất dụng cụ. Lúc ấy trời dần lạnh hơn nhưng dường như cả hai không quan tâm đến điều đó.
“Chú về bây giờ à?”, cô bé có vẻ thất vọng. Họa sĩ nhận ra ánh mắt cô độc của nó. Cô bé có điểm gì đó làm anh nhớ mãi.
“Đã trễ rồi cháu à”. Anh nhìn ra biển. Sương mù bắt đầu rơi dày hơn. “Cháu sống ở đây hay chỉ đến đây du lịch?”. Cả hai vẫn trò chuyện với nhau dù chưa ai biết tên ai.
“Cháu đến nghỉ hè”. Giọng cô bé không có vẻ gì là hào hứng và nó cũng ít khi cười. Tuy nhiên anh không thể giúp gì hơn cho cô bé. Cô bé đã nhìn anh vẽ từ trưa đến giờ. Giờ đây họ đã làm quen với nhau, nhưng hình như họ vẫn không xác định được mối quan hệ của mình.
“Cháu ở cuối đường à?”. Anh chỉ hỏi vì nhận thấy cô bé đến từ phía bắc bờ biển và không có gì ngạc nhiên khi cô bé gật đầu.
“Còn chú, chú sống ở đây à?”. Cô bé hỏi và anh xoay đầu nhìn về phía ngôi nhà gỗ thay cho câu trả lời. “Chú là họa sĩ?”.
“Chú nghĩ vậy và cháu hình như cũng thế”. Anh mỉm cười và nhìn vào bức tranh vẽ con Mousse mà cô bé đang nắm chặt. Dường như cả hai đều không muốn về, nhưng họ biết đã đến lúc phải về nhà rồi. Cô bé phải về nhà trước khi mẹ trở về, nếu không nó sẽ gặp phiền phức. Cô bé đã trốn khỏi cô giữ trẻ khi cô ta trò chuyện hàng giờ trên điện thoại với bạn trai. Cô ta sẽ không quan tâm đến việc nó có đi lang thang đâu đó hay không, trừ khi người mẹ về và hỏi thăm nó.
“Cha cháu đã từng vẽ”, cô bé nói. Họa sĩ chú ý đến từ “đã từng”, nhưng anh không chắc rằng cha cô bé lâu rồi không vẽ hay đã không vẽ nữa? Anh tỏ vẻ hoài nghi. Cô bé xuất thân từ một gia đình tan vỡ và thiếu vắng sự quan tâm của cha. Không ai nhận ra điều này, trừ họa sĩ.
“Cha cháu là họa sĩ à?”.
“Không! Cha cháu là một kỹ sư. Ông phát minh ra thứ gì đó”. Sau đó cô bé nhìn họa sĩ một cách buồn bã. “Cháu nghĩ tốt hơn hết mình nên về nhà ngay bây giờ”. Với một ám hiệu của cô, con Mousse đã đến ngay bên cạnh.
“Chú nghĩ chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa”. Đó là vào đầu tháng 7 và có khá nhiều gia đình chuyển nhà đi vào mùa này. Tuy nhiên, từ trước đến giờ anh chưa thấy cô bé và anh cho rằng nó đến đây không thường xuyên.
Cô bé mỉm cười và nói một cách lễ phép: “Cám ơn chú đã cho cháu vẽ cùng”. Bỗng dưng anh nhận ra sự nuối tiếc sâu sắc.
“Chú thích thế mà”. Anh nói một cách thẳng thắn rồi chìa tay ra. “Tên chú là Matthew Bowles”.
Cô bé bắt tay họa sĩ một cách trang trọng.
Anh khá ấn tượng về sự tự tin và tính cách của cô bé. Cô bé thật nổi bật và anh thấy vui khi gặp nó. “Cháu là Pip Mackenzie”.
“Cái tên khá ấn tượng. Pip? Đó là tên viết tắt phải không?”.
“Vâng. Nhưng cháu ghét nó!”, cô bé cười khúc khích, “Phillippa. Cháu được đặt theo tên của bà nội. Thật kinh khủng phải không?”. Cô bé cảm thấy hổ thẹn vì cái tên của mình. Tuy nhiên, cái tên đã làm họa sĩ mỉm cười. Cô bé là người mạnh mẽ, đặc biệt là mái tóc hung đỏ và xoăn của nó. Điều này làm anh thấy vui. Anh không chắc mình thích trẻ con hay không, vì anh thường tránh chúng, nhưng lần này thì khác. Có điều gì đó khác lạ ở cô bé.
“À, chú thích cái tên Phillippa. Tin chú đi, vào một ngày nào đó, cháu cũng sẽ thích nó”.
“Cháu không nghĩ thế. Đó là một cái tên lố bịch. Cháu thích cái tên Pip hơn”.
Anh nhìn cô bé, mỉm cười: “Chú sẽ gặp lại cháu sau”. Họ dường như muốn kéo dài thời gian và không muốn rời xa.
“Cháu sẽ quay lại khi mẹ cháu lên thành phố. Có lẽ là thứ năm”. Anh khá ấn tượng với những gì cô bé nói. Cô bé đã trốn ra ngoài mà không ai chú ý, nhưng ít ra cũng có chú chó đi cùng nó. Bỗng dưng, anh nhận ra không có lý do gì để mình nghĩ đến cô bé quá nhiều hay cảm thấy có trách nhiệm với nó.
Anh cho dụng cụ vào túi xách rồi mang trên người, còn một tay mang khung vẽ. Họ đứng nhìn nhau trong giây lát.
“Cảm ơn chú Bowles một lần nữa”.
Họa sĩ nói một cách buồn bã: “Cứ gọi chú là Matt. Cám ơn cháu đã đến đây. Tạm biệt Pip”.
Cô bé vẫy tay: “Tạm biệt!”. Sau đó nó nhảy chân sáo về nhà, tựa như chiếc lá trôi theo gió. Con Mousse vẫn luôn chạy bên cạnh cô bé.
Anh đứng nhìn cô bé hồi lâu, rồi tự hỏi liệu mình có gặp lại nó nữa không. Dù gì, cô bé cũng là một đứa trẻ. Anh quay đầu đi về phía ngôi nhà gỗ của mình. Anh chưa bao giờ khóa cửa. Khi vào nhà bếp, bỗng dưng anh cảm thấy đau nhói. Một cảm giác mà nhiều năm qua anh chưa gặp phải. Đó là vấn đề trẻ con. Anh tự nhủ khi rót rượu vào ly. Họ có cùng cảm giác đau đớn khi phải lìa xa nhau. Điều này cũng như mẩu thịt bên dưới móng tay, chúng ta sẽ cảm thấy đau đớn khi cắt phải mẩu thịt đó. Anh nghĩ đến cô bé khi nó nhìn chăm chú vào bức vẽ của anh cách đây vài năm. Đó là con gái anh, Vanessa. Lúc ấy con gái anh cũng trạc tuổi Pip. Rồi anh bước vào phòng khách, ngồi xuống ghế và nhìn sóng cuộn bên ngoài. Khi nhìn cảnh ấy, anh lại nhớ đến đôi mắt màu rượu cô-nhắc, mái tóc xoăn màu hung đỏ của cô bé.