Books are embalmed minds.

Bovee

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Buusan Nguyen
Upload bìa: Buusan Nguyen
Số chương: 31 - chưa đầy đủ
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4503 / 104
Cập nhật: 2020-03-02 09:37:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Bóng Ma Rùng Rợn
lg30 p. Đang ở hải phận quốc tế, chiếc U-99 vẫn chạy trên mặt biển.
Trong tàu, phòng chỉ huy chìm dưới ánh sáng màu đỏ. Hạm trưởng mở cổ áo cho khỏi nóng rồi dựa lưng vào ghế, cố chợp ngủ 5 phút. Hắn cần được thoải mái để điều khiển tiềm thủy đĩnh qua khu vực đầy mìn, và đổ bộ dọc bờ biển.
Hạm trưởng không biết người khách nằm trong ca-bin là ai, và tới Nam Việt làm gì, song lệnh công tác đã nói rõ rệt: toàn thể thủy thủ có bổn phận đưa y đến nơi, đến chốn, và được quyền thi hành mọi biện pháp bất thường - nếu cần – để bảo vệ bí mật.
5 phút trôi qua, hạm trưởng không tài nào ngủ được. Thở dài, hắn lục túi lấy viên thuốc nhức đầu. Mọi lần trước, hắn được mang ảnh vợ con theo, khi buồn có thể ngắm nghía. Lần nầy, hắn phải đi người không. Những âm thanh quen thuộc vẳng vào tai: tiếng rì rầm của động cơ, tiếng gót giày lê trên nền sắt, tiếng thủy thủ thì thầm, và sau cùng là tiếng sóng đập vào vỏ tàu. Mùi ma-dút, mùi khói, mùi ẩm ướt chẹn cổ họng hạm trưởng, hắn ho lên một tiếng.
Bỗng tiếng hô của sĩ quan phụ tá rền vang trong máy vi âm:
- Tất cả, vị trí chiến đấu.
Chuông báo động reng reng khắp tiềm thủy đĩnh. Hạm trưởng vụt đứng dậy, cầm ống nhòm đặt trên bàn, trèo cầu thang lên boong. Mặt biển động mạnh, trời vẫn tối om. Sĩ quan phụ tá quay lại:
- Thưa có tàu lạ bên trái.
Rồi ra lệnh cho phòng lái:
- Hướng đi zêrô. (1)
Nâng ống viễn kính hồng ngoai tuyến lên mặt, hạm trưởng quan sát giây lâu. Đoạn bỏ xuống, nói:
- Không sao. Tàu buôn.
Sĩ quan phụ tá báo cáo tiếp:
- Thưa, còn một hải lý nữa, vào hải phận Nam Việt.
Hạm trưởng khoát tay:
- Cho tàu lặn xuống.
Những thủy thủ có nhiệm vụ trên boong biến xuống dưới như làm trò quỷ thuật. Họ tuột xuống nhanh như chớp, mỗi người chỉ được 2 giây 2/10, đúng không sai một sao.
Động cơ chạy dầu cặn ngừng lại, nhường cho động cơ chạy điện. Cửa lên boong đã được đóng chặt. Viên kỹ sư cơ khí ra lệnh:
- Mở phòng nước 5. 4, 3, 2... (2)
Đèn đỏ báo hiệu an toàn được tự động mở ra hàng loạt. Phòng nước số 1 được mở sau cùng. 10 thước, 15 thước, con tàu từ từ chìm xuống. Hạm trưởng ngồi yên như pho tượng trong phòng chỉ huy, một giọt bồ hôi lăn trên vầng trán rộng.
Một lát sau, hạm trưởng ra lệnh:
- Cho tàu ngoi lên 20 thước.
20 thước là mức trung bình cho tàu ngầm dùng tiềm vọng kính. Quang cảnh trời nước phía trên hiện ra rõ rệt trước mắt hạm trưởng mặc dầu con tàu đang chạy dưới nước. Chân trời bắt đầu sáng. Sao mai nhấp nháy ở hướng đông. Mặt biển bàng bạc như có lân tinh. Gió mạnh và sóng dữ đã biến mất. Tất cả trở lại phẳng lặng.
Tiềm thủy đĩnh đã nhô lên khỏi mặt nước. Giây phút quan trọng nhất bắt đầu. Thủy thủ phải hành động thật nhanh để có thể lặn xuống ngay nếu bị lộ. Động cơ điện vẫn chạy hết tốc lực. Hơi ép đã tống nước trong phòng chứa ra ngoài.
Sĩ quan phụ tá cất tiếng:
- Báo cáo... một ca-nô nhỏ từ bên trái.
Hạm trưởng, giọng khô khan:
- Mật hiệu liên lạc.
Sĩ quan phụ trách chiếu đèn Aldis về phía chấm đen đang bập bềnh trên sóng. Nửa phút sau hiệu đèn từ ca-nô đáp lại. Hạm trưởng quay về, hướng một thủy thủ chờ sẵn:
- Mời ông khách lên ngay.
Hạm trưởng xoa tay vào nhau, vẻ mặt khoan khoái. Chấm đen to dần, to dần: thuyền máy của lão Thọ.
*
* *
Điếu Lucky đã cháy sát môi mà Tôkarin không biết. Mãi khi da miệng bị bỏng, hắn mới giật mình tỉnh mộng, búng mẩu thuốc rơi tung tóe trên sàn tàu ngầm, rồi lấy chân dẫm tắt. Tôkarin không thèm bận tâm đến nội lệ khe khắt, mà hải quân nước nào cũng áp dụng: giữ vệ sinh tuyệt đối dưới tàu ngầm.
Con tàu hơi nghiêng sang bên. Lọt qua khe cửa chưa đóng chặt, Tôkarin nghe những tiếng ồn ào vọng tới. Ca bin của hắn ở cạnh phòng chỉ huy nên chỉ cần lắng tai là hắn nghe rõ những khẩu lệnh ngắn ngủi và chắc nịch của hạm trưởng.
Chiếc tiềm thủy đĩnh chở Tôkarin vào bờ biển Vũng Tàu được sơn màu xanh nhạt để lẫn lộn với nước biển. Trên thân tàu, người ta không đọc thấy dấu hiệu nào. Đó là một trong những chiếc tàu ngầm xì gà được Nga Xô chế tạo sau Đại chiến Thứ hai, và được dùng vào mục đích gián điệp. Bên trong, mọi vật đều được thu nhỏ lại. Bốn động cơ đi-ê-den chạy rất êm cốt cho máy át- đích của đối phương không thể nghe thấy, mặt khác động cơ đi-ê-den này được chế tạo theo một công thức riêng, khiến tàu khỏi cần nhô lên luôn để lấy khí trời.
Thủy thủ đều mặc thường phục, không đeo cấp hiệu, không tỏ rõ là hải quân nước nào. Từ mảnh giấy dùng để viết đến máy thu thanh toàn là đồ Mỹ. Các tàu ngầm thông thường có chừng 10 ống phóng ngư lôi, trong con tàu do thám này người ta chỉ thấy 2 để bắn ngưòi lên mặt nước, không phải bắn ngư lôi. Ngay dưới boong tàu, cạnh phòng vô tuyến điện, có cái ca bin nhỏ đêm ngày khóa kín, và niêm phong ở ngoài. Trừ viên hạm trưởng, không ai biết ca bin này chứa những gì.
Trước giờ khởi hành, việc đầu tiên của hạm trưởng là vào ca bin tí hon ấy, kiểm điểm lại một bộ máy kỳ lạ, lớn bằng hai va li đựng quần áo bên trên gắn một cái đồng hồ tròn, reo lên tiếng tíc tắc đều đặn. Đó là phòng chất nổ. Gặp trường hợp không thể thoát thân, hạm trưởng được lệnh ấn vào một cái nút đỏ trong phòng chỉ huy. Tùy theo ý muốn của hạm trưởng, con tàu sẽ nổ tung lên trong thời gian đã định. Các chuyên viên gián điệp Xô Viết đã tính toán cho con tàu tan thành mảnh vụn, khiến đối phương không thể tìm ra manh mối.
Tôkarin lẳng lặng mặc bộ quân phục đại úy Mỹ vào người. Bộ quần áo được may rất khéo, thoạt ngắm Tôkarin đố ai dám bảo hắn không phải là quân nhân Mỹ chinh cống.
Đoạn, hắn cúi nhìn đồng hồ. Hắn thường dùng đồng hồ Đông Đức mạ vàng. Giờ đây, người ta đã đeo vào cổ tay hắn một cái Rô lếch 3 kim, có cả lịch đề ngày. Chỉ còn 5 phút nữa.
5 phút nữa, tàu sẽ nổi lên ở điểm GF. 186.
5 phút chờ đợi này đối vởi Tôkarin lại dài như 5 giờ đồng hồ. Như cuốn phim thời sự chiếu chậm, những việc xảy ra tại trụ sở trung ương Mạc Tư Khoa từ từ diễu qua mắt hắn. Hắn nhớ lại rõ mồn một căn phòng rộng mênh mông như hành lang khách sạn, ở giữa kê cái bàn sắt lớn hình bầu đục, và giọng nói sang sảng như chuông của người chỉ huy lạ mặt.
Khác với văn phòng các Bộ, ở đây Tôkarin không thấy treo chân dung các lãnh tụ của Điện Cẩm Linh. Bốn bức tường sơn màu xám ảm đạm cũng không có một tấm lịch coi ngày tháng hoặc tấm bản đồ địa cầu thường lệ. Chủ nhân đã giản dị hóa đến triệt để. Bàn giấy lót kính dày 10 li cũng không để hồ sơ cao ngất. Tôkarin chỉ thấy vẻn vẹn một cái đựng tàn xì gà to tướng, và hai cái máy điện thoại. Và rất nhiều nút bấm, xanh, trắng, đỏ la liệt, Tôkarin không hiểu dùng làm gì, có lẽ để liên lạc với thuộc viên, hoặc có lẽ để điều hành bộ máy báo động.
Đang đi đi, lại lại, ngươi lạ cúi nhìn đồng hồ rồi nói:
- Đến giờ rồi, Anh sẽ ra thẳng trường bay Vờnukôvô.
Ngoan ngoãn, Tôkarin theo người lạ ra ngoài. Quái lạ: hành lang vắng ngắt như nhà bỏ hoang. Không tiếng giày bước trên thảm nhung. Không tiếng máy chữ rào rào từ cửa phòng hé mở vọng lại. Phòng nào cũng đóng kín mít, bên ngoài không gắn bảng đồng. Người gác thang máy cũng lủi đâu mất. Tôkarin cảm thấy nghẹt thở: không khí trong tòa nhà như đượm vẻ ma quỷ thần bí.
Thang máy tụt nhanh xuống hầm. Một chiếc xe chở hàng kín mít đậu sẵn dưới cửa thang máy. Tôkarin không thấy ánh sáng mặt trời nên không biết đây là đâu. Người lạ mở cửa xe, trèo vào. Cửa đóng lại. Tôkarin có cảm tưởng bị nhốt trong nhà tù bằng sắt kiên cố.
Tuy xe không có cửa sổ, Tôkarin vẫn dễ chịu vì khí hậu được điều hòa mát rợi. Người lạ hít một hơi xì-gà rồi hỏi:
- Anh đọc hồ sơ Kulêsôva (3) chưa?
Câu hỏi bất thần làm Tôkarin bàng hoàng. Trong một cuộc mạn đàm tại trường, các huấn luyện viên đã thuyết trình tỉ mỉ về Kulêsôva, cô gái người Nga có biệt tài đọc chữ và nhìn hình bằng đầu ngón tay. Bịt mắt lại, nàng đặt ngón tay lên báo, đọc không sai một dấu phết. Trương hợp Kulêsôva đang được giới bác học Xô Viết nghiên cứu.
Tôkarin vội đáp:
- Thưa rồi. Kulêsôva là một hiện tượng về thần giao cách cảm (4).
Người lạ gật gù:
- Từ lâu rồi, thần giao cách cảm được coi là một bộ môn khoa học, tuy khoa học chỉ mới am hiểu lõm bõm, như đứa trẻ vỡ lòng đọc tiểu thuyết triết học vậy. Năm 1918, Lênin thiết lập một viện nghiên cứu thần giao cách cảm tại thành phố Lêningờrát. Sit ta lin cũng xúc tiến công cuộc nghiên cứu. Trong khi ấy, Tây phương đã dành hàng ngàn triệu đô la để tìm ra chìa khóa bí mật, Thật vậy, thần giao cách cảm như cánh cửa sắt, phải có chìa khóa mới mở vào được.
Hiện nay, người ta sắp tìm ra chìa khóa sau những cuộc thí nghiệm thần giao cách cảm bằng tàu ngầm nguyên tử (5), Thần giao cách cảm, nghĩa là người này đọc được ý nghĩ người khác, hoặc người này liên lạc với người khác, dầu xa hàng vạn, hàng triệu cây số. Các nhà bác học giải thích rằng mỗi khi suy nghĩ óc người phát ra những luồng sóng điện cực nhỏ. Làm cách nào thu và phát những vi-ba này là thần giao cách cảm.
Cái được gọi là thế giới vô hình thật ra chỉ là một hình thức cao của thần giao cách cảm. Con người chết đi, luồng điện óc bay lang thang trong không gian, và trở thành ma. Thế giới này sẽ ra sao một khi hàng triệu triệu hồn ma từ thời tiền sử được qui tụ lại? Đạo binh vô hình này còn mạnh hơn hàng trăm trái siêu bom và hỏa tiễn khổng lồ xuyên lục địa nữa.
Vì vậy, trung ương tình báo Xô Viết đã tập trung nỗ lực vào công cuộc tìm hiểu thế giới vô hình. Trước khi anh lên đường, tôi cho anh đọc một bản báo cáo quan trọng của tiểu ban nghiên cứu hỗn hợp KGB-GRU.
Người lạ rút trong cặp ra một tờ giấy đánh máy gập tư, đưa cho Tôkarin, rồi nói:
- Đúng ra, phúc trình đặc biệt này dầy non một ngàn trang giấy. Đây chỉ là bản toát yếu. Tôi muốn anh không còn thắc mắc nào nữa trước khi rời Mạc Tư Khoa.
Trên góc trái tờ giấy chễm chệ một ngôi sao đỏ 5 cánh nhỏ xíu. Bên dưới là dòng chữ, cũng nhỏ xíu: Chỉ in ra 10 bản. Giọng đều đều, Tôkarin đọc nhẩm, và khắc ghi vào trí nhớ, không quên một chữ hoặc một dấu chấm:
“Tuân lệnh Ủy ban Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ, một tiểu ban hỗn hợp KGB-GRU đã được thành lập dưới sự điều khiển của tướng Sêliganốp (6), để điều tra tường tận về những “sự kiện liên quan đến hiện tượng ma quỷ trong vòng nửa thế kỷ qua”.
Tiểu ban hỗn hợp đã tới kết quả sau đây:
1- Những vụ ma hữu danh, từ vụ đoàn kỵ mã cưỡi ngựa bạch ở Bê-tuyn đến bức hình ma chó, và hai bóng ma thủy thủ bơi theo tàu trên đường tới kênh đào Panama, đều là sự thật.
2- Trong vòng 10 năm nay, các giới khoa học từ Đông sang Tây đã gia tăng nghiên cứu và phát minh trong lãnh vực siêu hình, đặc biệt là thần giao cách cảm, khám phá vị lai, vân vân…
3- Các cơ quan điệp báo Tây phương, đặc biệt là Anh và Mỹ đã dành ngân khoản hết sức to tát cho việc áp dụng siêu hình học vào việc chiến thắng Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Riêng Trung ương Tình báo C. I. A. đã lập trong Viện Kỹ thuật học Massachusetts (MIT) một Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (7) với một số chương trình đào sâu vào thế giới siêu hình.
Tại tổng hành doanh C.I.A. ở Hoa Thịnh Đốn còn có một sở riêng phụ trách gián điệp và tình báo siêu hình. Tin tức được phối kiểm cho biết C.I.A. đang cố gắng đào luyện một số chuyên viên có khả năng đọc tư tưởng của người khác và đoán được vị lai…
Tại trung ương I.S. có một ban phụ trách Tiềm thức học. Ban này điều khiển các cuộc thí nghiệm bí mật về thần giao cách cảm và đoán mộng. Các nhà bác học Xô Viết được tiểu ban hỗn hợp tiếp xúc đều đồng thanh xác nhận là mộng mị có thể giúp loài người tiên đoán vị lai, và trở lại quá khứ không sai mảy may. Sở dĩ có mộng mị là do luồng điện vô hình chạm vào một bộ phận đặc biệt của tiềm thức. Hiện nay, tình báo Anh quốc đang tìm cách kiểm soát, hiện tượng siêu hình này.
Tiểu ban hỗn hợp xin trình sau đây một số dẫn chứng điển hình đã được các nhà bác học Xô Viết xác nhận là đúng sự thật.
a- nhìn thấy tương lai: đây không phải là tướng số theo thiên văn học, đẩu số, hoặc khoa bói toán Đông phương thần bí, mà là việc nhìn thấy những việc sẽ xảy ra trong giấc mộng. Một kỹ sư phục vụ trong quân đội Anh đã góp nhặt những kết quả do y thu lượm được sau nhiều năm nghiên cứu mộng mị trong một cuốn sách xuất bản năm 1927 (8). Trong tài liệu này, y thuật lại một kinh nghiệm bản thân quan trọng:
Năm 1902, y phục vụ trong một trung đoàn bộ binh đồn trú tại tỉnh Orange, thuộc nam bộ Phi châu. Một đêm kia, y nằm mơ thấy đảo Mác-ti-ních (9) bị tàn phá. Y bèn yêu cầu nhà cầm quyền Pháp tản cư dân chúng ra khỏi đảo này. Lời yêu cầu khẩn thiết của y không được xét tới. Nhiều ngày sau, núi Pơlê (10) trên đảo Mác-ti-ních đột nhiên phun lửa, hòn đảo bị tàn phá, mấy chục ngàn người thiệt mạng.
Vụ đắm tàu Titanic trong chuyến hành trình đầu tiên qua Đại Tây Dương đã mang lại một dẫn chứng khác: một hành khách (11) nằm mộng luôn hai đêm là tàu Titanic bị đắm nên trả vé không đi nữa. Và tai nạn đã xảy ra đúng như y thấy trong giấc mơ.
Năm 1885, một nhân viên khách sạn ở Anh quốc bị tòa kết tội tử hình về tội giết bà chủ (12). Tử tội nằm mơ là giây thòng lọng bị hỏng, y sẽ thoát chết. Sáng sớm, trước giờ thọ hình, y thuật lại giấc mơ cho giám ngục. Đúng như y nằm mơ, giây thòng lọng bị hỏng. Bộ trưởng Tư pháp bèn ân giảm tử tội còn chung thân khổ sai.
Nghiên cứu 3 dẫn chứng lịch sử trên đây, và hàng trăm dẫn chứng được kiểm nhận khác, tiểu ban hỗn hợp kết luận rằng chúng ta có thể áp dụng hiện tượng này vào tình báo, để đoán trước những biến cố lớn lao như đại chiến nguyên tử, ám sát nhân vật cao cấp, vân vân...
b- nhìn thấy quá khứ: nhờ phương pháp ghi âm, chụp hình và chép sử, chúng ta có thể nhìn thấy được quá khứ, song đối với quá khứ xa xăm thì chưa có phương pháp nào, ngoài khảo cổ học. Tiểu ban hỗn hợp xin đơn cử vụ công viên Vẹc-xay. Ngày 10-8-1901, hai người đàn bà đến thăm khu lâu đài Vẹc-xay ở Pháp. Đột nhiên, trước mắt họ, phong cảnh hiện tại mờ đi, nhường chỗ cho phong cảnh năm 1789, với đầy đủ cây cối, y phục, nhân vật đã có ở lâu đài này hồi xưa (13).
Các nhà bác học Xô Viết cho biết rằng hình ảnh của quá khứ được biến thành ánh sáng lơ lửng trong vũ trụ bao la, nếu phát minh được dụng cụ nào bắt lại những ánh sáng lang thang này, chúng ta có thể biết rõ được quá khứ như trong vô tuyến truyền hình.
4- Sau khi nghiên cứu các hiện tượng, và chương trình hoạt động của tình báo Tây phương, tiểu ban hỗn hợp trân trọng đề nghị thành lập một cơ quan riêng, phụ trách điệp báo siêu hình. Công việc này được xúc tiến càng sớm càng hay.”
Chờ Tôkarin đọc xong, người lạ vỗ vai hắn, giọng thân mật:
- Bây giờ, anh đã biết rõ. Tiếp theo báo cáo này GRU đã lập ra một Nha Điệp báo siêu hình. Anh là nhân viên đầu tiên của Nha xuất ngoại. Tôi hoàn toàn đặt hết tin lưởng vào anh. Thôi, đến phi trường rồi, chúc anh gặp nhiều may mắn.
Phi trường tối om. Tôkarin được đưa lên một chiếc phản lực cơ. Đến Hà Nội, Tôkarin chỉ được nghỉ xả hơi nửa giờ đồng hồ trước khi trèo lên xe hơi riêng ra Đồ Sơn xuống tàu ngầm.
Cùng đi ra Đồ Sơn với Tôkarin là một sĩ quan Hồng quân, trán hói, đeo kinh cận thị dày cộm, mặc thường phục. Dọc đường, người ấy ngồi yên như pho tượng, thỉnh thoảng lại vuốt những sợi râu lún phún trên cằm. Thái độ lạnh lùng của ngưòi ấy làm Tôkarin e sợ. Dựa lưng vào thành xe, Tôkarin hút hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác, có điều mới kéo được vài ba hơi thì ném qua cửa xe.
Người trán hói nghiêm sắc mặt:
- Trong vòng một giờ nữa, anh sẽ xuống tiềm thủy đĩnh. Tuân lệnh Trung ương, tôi báo cho anh biết những việc sẽ làm. Điều anh nên nhớ là màng lưới tình báo của ta ở phía nam vĩ tuyến 17 không có tính chất sâu rộng, kiên cố và hữu hiệu như được ghi trong một số phúc trình về trung ương. Nhân viên GRU ăn lương hàng tháng, hoặc ăn lương từng vụ ở đó rất ít. Mặt khác, họ lại ở trong tình trạng báo động thường trực, có thể bị lộ, bị bắt, bị giết không biết lúc nào.
Nguyên nhân không phải chúng ta tổ chức kém cỏi, mà chính vì đối phương hoạt động rất đắc lực. Cầm đầu cơ quan tình báo và phản giản ở Nam Việt là một ông già ốm yếu, tên là ông Hoàng. Ông Hoàng là lãnh tụ do thám nguy hiểm nhất đối với chúng ta. Nhất cử, nhất động xảy ra ở phía nam vĩ tuyến 17 đều lọt vào tai mắt của ông Hoàng. Vì vậy, Trung ương ra lệnh bảo vệ bí mật tuyệt đối công tác giao cho anh. Do tính chất bí mật tuyệt đối, anh không được phép tiếp xúc với nhân viên R.U. thường trực. Trừ phi, anh không còn lối thoát nào nữa.
Tôkarin mở rộng cặp mắt sáng quắc:
- Thưa, tôi phải hoạt động một mình ư?
Người hỏi trán gật đầu:
- Cũng gần như thế. Những công tác quan trọng, anh phải đích thân thực hiện. Nếu anh cần thuộc viên, anh sẽ tìm đến một số người mà tôi đã ghi sẵn tên, địa chỉ, tướng mạo và hồ sơ lý lịch trong tập giấy này. Đây, anh giữ lấy. Những kẻ này được ban Zapitki (14) ở Trung ương theo dõi từ nhiều năm nay, anh chỉ cần dọa nạt, mua chuộc bằng hứa hẹn, tung tiền ra là thu dụng được họ.
Theo chỉ thị, mỗi người chỉ được dùng cho một việc, và dùng xong là phải loại bỏ. Anh được toàn quyền định cách loại bỏ. Tiện nhất là thủ tiêu để giữ bí mật. Sở dĩ Trung ương cử anh phụ trách công tác này vì anh nổi tiếng là sĩ quan R.U có trái tim bằng sắt, không khi nào bị rung động vì tình cảm vụn vặt. Anh đã nghe rõ chưa?
- Thưa, nghe rõ rồi.
Xe hơi đã ra đến thương cảng. Dưới ánh sáng hoàng hôn lờ mờ, con tàu xì gà hiện ra, lặng lẽ và ảm đạm như bóng ma trên biển lạnh. Một cái bắt tay chặt chẽ. Một lời giới thiệu. Rồi cửa tàu ngầm đóng lại. Cuộc viễn du nguy hiểm bắt đầu.
*
* *
5 phút trôi qua. Tôkarin đã chuẩn bị sẵn sàng. Một thủy thủ cao lớn bước vào, nghiêm mình chào:
- Đến rồi, Xin mời ông lên boong.
Chẳng nói, chẳng rằng, Tôkarin ra hiệu cho người thủy thủ xách va-li hành lý. Từ ca-bin của hắn lên boong, hắn không gặp ai. Thủy thủ đoàn được lệnh nhường lối cho thượng khách Tôkarin. Suốt thời gian ở dưới tàu, ngoại trừ hạm trưởng và một thủy thủ hầu hạ, không nhân viên nào được léo hánh tới.
Gió lạnh bên ngoài lọt vào, Tôkarin cảm thấy dễ chiu. Khí trời bên ngoài bao giờ cũng dễ chịu hơn ở trong tiềm thủy đĩnh chật chội, phải thở bằng hơi ép. Cái lạnh thơ thới của gió mặn mơn man da thịt Tôkarin. Hắn ưa cái lạnh ngọt ngào và thi vị này hơn những bông tuyết trắng xóa, ảm đạm trên phi trường Mạc Tư Khoa.
Bất giác, hắn nhớ lại chuỗi ngày thần tiên ở Hắc Hải. Đêm đêm, hắn lái ca-nô ra khơi với người đẹp uống rượu và hưởng lạc tha hồ. Thời gian dưỡng sức đã hết. Hắn lại lao đầu vào cuộc sống hiểm nghèo.
Tôkarin dựa lan can, hít một hơi dài. Con tàu ngầm xì-gà lướt nhẹ trên mặt biên phẳng lặng. Tiếng nước bị bơm ra ngoài phòng chứa hòa với tiếng sóng vỗ thành một âm thanh quen thuộc và vui nhộn.
Hạm trưởng đã choàng lên bộ thường phục trắng cái áo tơi mưa cao su màu đen. Mắt hạm trưởng vẫn dán vào cái ống nhòm cực mạnh có tác dụng xuyên thủng màn tối.
Viên sĩ quan phụ tá nhấp nháy đèn hiệu một lần nữa. Trời tối om, sương mù bao phủ, Tôkarin không nhìn thấy được gì.
Con thuyền máy của lão Thọ đang lớn dần, lớn dần. Viên hạm trưởng tiến lại gần Tôkarin:
- Ông còn thiéu món hành lý nào nữa không?
Tôkarin lắc đầu:
- Đủ rồi, cám ơn hạm trưởng. Tôi sẽ nhớ mãi chuyến đi lý thú này.
Hạm trưởng cười:
- Nhờ may mắn, chúng ta không gặp trở ngại. Từ đây vào bờ, chỉ con 700 thước. Ông xuống ca nô xong, tôi sẽ cho tàu lặn xuống. Ra đến hải phận quốc tế, tàu nổi lên, tôi sẽ đánh điện báo cáo về Đồ Sơn. Trân trọng chúc ông vạn sự như ý. Đúng hẹn, tôi chờ ông ở địa điểm định trước.
Qua bóng tối mờ mờ, Tôkarin nhận thấy một con thuyền máy, loại hắn thường lái trên biển Hắc Hải. Tiềm thủy đĩnh chạy chậm hẳn, dường như đứng lại. Ca nô cặp vào hông tàu. Những tia đèn liên lạc đua nhau hấp háy.
Hạm trưởng thân chinh ném một sợi giây ni-lông xuống biển cho người đứng trên thuyền máy bắt lấy để lái sát vào tàu ngầm. Đợi hạm trưởng buộc kỹ đầu giây vào lan can, Tôkarin mới móc vào đó một cái thang gấp bằng nhom. Hắn giơ tay lên chào hạm trưởng và toán thủy thủ mặc đồ đen, rồi thoăn thoắt trèo xuống. Nhìn hắn xuống thang, ai cũng tưởng hắn là diễn viên trò xiếc, vì cử chỉ của hắn nhanh nhẹn lạ thường.
Tôkarin buông tay, nhảy xuống sàn thuyền. Hắn đặt chân xuống rất nhẹ mà thuyền máy vẫn tròng trành như muốn đắm. Tôkarin lấy tấn cho khỏi loạng choạng, trong khi ấy lão Thọ từ từ bẻ lái ra khỏi nơi tàu ngầm đậu. Lão có cử chỉ khoan thai như người điều khiển du thuyền trên mặt hồ êm ả.
Tôkarin thầm khen nghệ thuật đi biển của người chủ thuyền. Hắn đoán già chủ thuyền là cựu sĩ quan hàng hải, vì lái ca-nô lại gần tiềm thủy đĩnh là việc rất khó khăn. Chỉ yếu tay hoặc kém kinh nghiệm là bị sóng xô vào thân tàu bằng thép dầy, con thuyền mảnh khảnh sẽ vỡ nát, hoặc ít ra cũng hư hại nặng nề.
Tôkarin cảm thấy bâng khuâng khi con tàu xì-gà thân mật rẽ sóng phăng phăng chìm xuống, mặt biển mênh mông vội vàng khép lại. Giữa cảnh nước trời bàng, bạc, chiếc U-99 lùi lũi biến dạng như con ma khổng lồ. Thật vậy, con người của thế kỷ trước được thấy tàu ngầm sẽ tưởng là ma… Đối với con người của thế kỷ 20, tàu ngầm chỉ là một phát minh khoa học, như hàng trăm, hàng ngàn phát minh thường khác... Đột nhiên, giọng nói đanh thép của người chỉ huy R.U. sang sảng bên tai Tôkarin:
- Thiếu tá Tôkarin, trên đời không có cái gì là mê tín, dị đoan cả. Mê tín, dị đoan là một hình thức của khoa học, khoa học siêu hình. Chúng ta tưởng là mê tín, dị đoan vì chúng ta còn dốt. Từ nhiều năm nay, chúng ta ngụp lặn trong sự mê muội trong khi tình báo Tây phương tập trung nỗ lực vào gián điệp siêu hình. Chúng ta phải tìm cách theo kịp. Nếu không, chỉ 10, 15 năm nữa, Tây phương kiểm soát được các lực lượng bí mật trong vũ trụ, chúng ta sẽ bị loại trừ ra khỏi bản đồ trái đất...
Con thuyền lại tròng trành dưới một đợt sóng cao bằng tòa nhà 4 tầng, Tôkarin vịn lấy mạn thuyền trong khi lão Thọ xoạc chân trên sàn, trông oai vệ như thiên thần. Tôkarin nói:
- Chào anh bạn. Từ đây đến điểm 15 còn bao nhiêu hải lý?
Lão Thọ đáp lớn:
- 30 dặm.
15 và 30 là mật hiệu liên lạc. Trao hiệu mật xong, Tôkarin định phá lên cười. Làm nghề gián điệp, nhiều khi người ta trở nên lố bịch. Nếu không là nhân viên R.U. làm cách nào biết được điểm GF-186 giữa biển rộng mênh mông mà đem thuyền đến đón.
Manh áo hở ngực của lão Thọ bay phần phật trước gió. Làn chớp xẹt lên sáng quắc. Dưới làn chớp, Tôkarin nhìn rõ nét mặt và tia mắt của chủ thuyền. Tôkarin không dám cười nữa. Tuy nhiên, hắn vẫn giữ thái độ điềm tĩnh:
- Hân hạnh được gặp anh. Tên tôi làTôkarm.
Giọng lão Thọ ồm ồm:
- Tôi là Thọ. Tôi có nhiệm vụ chở anh vào bờ biển.
- Còn xa không?
- Chỉ độ một giờ là tới. Đó là gặp gió ngược. Thuận gió chỉ nhiều lắm là 20 phút.
Tôkarin nhìn cây kim lân tinh của đồng hồ Rôlếch:
- Đồng hồ anh mấy giờ rồi?
Lão Thọ lái vòng sang trái để tránh một đợt sóng lớn:
- 3 giờ 50 phút.
- Cám ơn anh. Anh chậm hơn tôi nửa giây. Thuận gió hay ngược gió?
- Gió thổi ngang. Bực mình lắm, ca-nô cứ chạy về phía bắc.
Tuy nhiên, tôi ráng sức đưa anh vào bờ trước 5 giờ sáng. 4 giờ đã hết giới nghiêm.
- Lúc này, họ gặp mình thì nguy.
- Khỏi lo. Hạm đội chỉ canh phòng ngoài hải phận quốc tế. Vào lọt đến đây là an toàn rồi. Đêm nay, trời lạnh như cắt ruột, không ai dám mò ra bãi biển đâu. Vả lại, tôi đã được phép đi trong giờ giới nghiêm.
- Giấy thật hay giả?
Lão Thọ cười:
- Dĩ nhiên là giả. Giả nhưng không kém gì thật. Vô phúc cho ai gặp anh và tôi. Vì nếu cần, tôi sẵn sàng giết người.
«Nếu cần, tôi sẵn sàng giết người», câu nói vô tình của lão Thọ làm Tôkarin rờn rợn. Nếu cần, Tôkarin cũng sẵn sàng giết người. Cặp mắt quắc sáng, hắn quan sát lão Thọ từ đầu xuống chân. Toàn thân lão như được làm bằng sắt. Trên cổ, ngực, lưng, người ta không tìm ra một li mỡ thừa. Bắp thịt thon, dài, nổi lên cuồn cuộn. Thoạt nhìn, Tôkarin biết lão Thọ là người có sức khoẻ phi thường.
Trong chỉ thị, trung ương R.U. không nói rõ lão Thọ giỏi võ đến đâu. Nhưng cảch điều khiển thuyền máy chậm chạp mà nhanh nhẹn, nặng nề mà nhẹ nhàng của lão chứng tỏ lão là võ sĩ cừ khôi.
Gió lạnh thổi vù vù. Lão Thọ nói:
- Anh rét không? Tôi có chai rượu mạc-ten mới khui.
Mạc-ten là một trong các thứ rượu Tây phương Tôkarin được uống và quen mùi vị trong trường gián điệp Kuchinô. Hắn thèm rượu lạ thường, có lẽ vì hắn vừa đặt chân đến một xứ lạ, giữa những nguy hiểm chết người. Song hắn không dám uống. Hắn bắt đầu gờm lão Thọ. Hắn phải lo công việc trước. Giọng đều đều, hắn hỏi:
- Có xe hơi cho tôi không?
Lão Thọ đáp cộc lốc:
- Có.
- Ở đâu?
- Trên bờ. Tôi chỉ đưa anh đển bãi cát, rồi anh lên bộ một mình. Xe tôi mang cho anh là chiếc díp sơn màu xám nhạt của Mỹ, đeo bảng số công đoàn ngoại giao.
- Số mấy?
- Thong thả. Anh nóng nảy quá.
- Tôi cần biết đầy đủ chi tiết. Anh có bổn phận tường trình lại với tôi.
- Đồng ý. Nhưng việc nào lúc ấy.
Đổi giọng thân mật, lão Thọ hỏi:
- À, anh có mang cái gì theo cho tôi không?
Tôkarin gật đầu:
- Có. Toàn bạc mới cho anh.
- Xin anh giao cho tôi.
- Chưa được. Việc nào, lúc ấy.
Tôkarin vừa nhắc lại một câu nói của lão Thọ. Vỏ quít dày, móng tay nhọn, thái độ của Tôkarin làm lão Thọ vùng phá lên cười.
Tôkarin nhăn mặt:
- Tôi không ưa nhân viên dưới quyền có thái độ ngạo mạn.
Lão Thọ hứ một tiếng rồi đáp:
- Tôi là nhân viên của Tổ chức, không phải của riêng anh.
- Tổ chức là tôi. Tổ chức cử tôi đến. Anh có bổn phận tuân lệnh tôi.
- Anh lầm rồi. Theo chỉ thị, tôi ra đón anh ngoài khơi và chở vào, kiếm sẵn xe hơi cho anh. Chỉ thị không dặn tôi phải khúm núm với anh. Lão Thọ này dọc ngang hàng chục năm chưa quỳ lạy ai cả. Xin anh hiểu cho.
Tôkarin nín lặng.
Hai người nín lặng hồi lâu. Trên mặt biển chỉ có tiếng gió rít và sóng vỗ. Thuận gió, con thuyền máy chạy thật nhanh về phía Bãi Sau. Rặng núi Vũng Tàu đã hiện ra sừng sững trước mặt. Dầu nhắm cả hai mắt, lão Thọ cũng vẫn không thể nào lạc đường. Qua màn khuya lờ mờ, hắn cảm thấy hàng cây phi lao cao vút đương thì thầm trên bãi cát rộng. Thành phố Vũng Tàu còn yên giấc ngủ say.
Đột nhiên, lão Thọ tê hẳn một bên vai, cảm giác bại xuội kỳ quặc này lão thường có mỗi khi sợ hãi vô căn cớ. Thật vậy, lão bỗng sợ hãi một cách khác thường, mặc dầu không hiểu tại sao mà sợ hãi. Trong đời lang bạt, ít khi lão sợ hãi, nhưng đến khi sợ hãi thì tay chân tê liệt, mặt tái mét, ngón tay run lẫy bẩy, tóc gáy dựng ngược.
Lão Thọ sợ hãi có lẽ vì vừa đọc thấy ý nghĩ của Tôkarin trong luồng mắt tóe lửa. Ánh chớp xẹt lên, lão nhận ra khuôn mặt khôi ngô nhưng lạnh lùng của người đàn ông lạ.
Bầu trời yên tĩnh được một lát lại nổi gió như cũ. Một đợt sóng lớn húc vào mạn thuyền máy. Lão Thọ giảm bớt tốc độ. Bờ biển hiện ra lớn dần. Dãy nhà lớn, nhìn ra biển, dựng lên sừng sững như vách núi. Cách một trăm thước, về bên hữu, nổi bật những hình thù đen sì, vuông vắn như cái hộp. Đó là các quán ăn ở Bãi Sau.
Lão Thọ cất tiếng:
- Đến rồi. Mời anh ngồi xuống. Và đội cái nón lá lên đầu. Sĩ quan cố vấn Mỹ không bao giờ ra biển lúc 4, 5 giờ sáng.
Lão Thọ tắt máy. Còn trớn, con thuyền lướt nhẹ vào bờ. Rồi dừng lại quay một vòng trên mặt nước sủi bọt, Tôkarin hỏi:
- Tôi xuống được chưa?
Lão Thọ nhìn quanh quất:
- Thong thả. Anh đề tôi dạo một vòng xem sao.
Bờ biển vắng tanh. Trận bão rét lạnh đã nhốt dân chúng Vũng Tàu trong nhà. Lão Thọ đưa tay ra hiệu. Tôkarin lại hỏi:
- Anh lên bộ với tôi không?
- Không. Tôi phải lái thuyền tới nơi khác, kẻo ở đây ngtrờị ta nghi.
- Thôi, tôi xin chào anh. Đâу, tiền thưởng của anh đây. Theo lời anh yêu cầu, tôi mang toàn đô la Mỹ, loại giấy bạc năm đồng.
Vừa nói, Tôkarin vừa ấn vào tay lão Thọ một cái gói dày cộm. Hắn nói tiếp:
- Anh đếm lại đi.
Không cần Tôkarin nhắc lại lần thứ hai, lão Thọ ghé răng cắn đứt sợi giây gài buộc ngoài, đoạn mở tung cái gói ra. Lão ngồi xây lưng lại phía bờ biển, lấy áo tơi mưa che bốn bên cho ánh đèn bấm khỏi lọt ra ngoài, rồi thoăn thoắt đếm tiền. Những tờ mỹ kim dày và kêu ròn tan gây cho lão một không khí ấm áp khoái cảm. Với đống tiền kếch sù này, lão sẽ giàu to. Lão sẽ lên chuyến xe đò sớm nhất để về Sàigòn. Mặc dầu lão giữ chức trú sứ R.U.. ở Cấp, lão vẫn không được R.U. tin cậy. Người ta dùng lão vì thấy lão là thủy thủ có tài, và là nhân viên dọ thám quyền biến, gan góc. Lão làm cho R.U. chẳng phải vì lý do chính trị, mà vì đồng tiền, vì không còn việc làm nào khác hợp khả năng.
Lão Thọ nuôi dự định rút lui từ lâu. Lão nhẫn tâm hạ sát Trần Độ là vì thế. Kế hoạch của lão rất giản dị: sau khi từ giã Tôkarin, lão sẽ lái thuyền vào cái hang đá bí mật chỉ mình lão biết, cách Núi Nhỏ một quãng, lão sẽ tháo gỡ động cơ ném xuống biển. Xong xuôi, lão về nhà, thu xếp hành trang đón xe đi Sài Gòn, Tại đó, lão sẽ đổi tên, lập lại cuộc đời mới.
Lão Thọ mỉm nụ cười kiêu ngạo. Tôkarin không thể ngờ hắn rắp tâm phản bội. Nói cho đúng, lão Thọ không phản bội. Lão chỉ bỏ nghề mà thôi. Lão bỏ nghề vì có linh tính sớm muộn, người ta sẽ thộp được lão, lôi ra tòa án quân sự. Nước nào cũng vậy, làm gián điệp cho ngoại bang đều bị trừng trị rất nặng. Nhất là làm gián diệp cho kẻ thù. Riêng tội gián điệp đã đủ mất mạng, phương chi còn tội giết người, tội kết bè vượt ngục Côn đảo nữa…
Ra trước vành móng ngựa, lão sẽ hết dường chối cãi. Quan tòa sẽ nhìn thẳng vào mặt lão, giọng lạnh lùng: tử hình. Tử hình! Bị vào phòng hơi ngạt, hoặc lên ghế điện, còn đỡ sợ phần nào, vì tử tù bước chân sang thế giới bèn kia một cách êm ái, chẳng cảm thấy đau đớn. Đằng này người ta lại mang lão ra pháp trường...
Một buổi sáng thê lương, sương mù bao phủ cảnh vật, tử tù được đưa lên xe bít bùng tới bãi rộng giữa vòng tròn binh sĩ cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc. Con dao máy hình tam giác sắc như nước sẽ rơi phập vào cái gáy được cạo trắng hếu, đầu lâu lăn long lóc vào cái sọt đựng gần đầy mạt cưa... Đầu lâu ấy, cái gáy ấy là của lão Thọ...
Lão Thọ còn ham sống lắm. Từ nhiều tháng nay, lão phải trốn chui, trốn nhủi, đội lốt một bác chài ngu dốt, không biết gì hết, ngoài việc cơm ngày hai bữa xuềnh xoàng, và lái thuyền ra khơi đánh cá. Thật ra lão Thọ là con người của Sài Gòn ban đêm, rượu sâm banh dầm đá lạnh uống thay nước lã, đốt tờ một trăm đô la để tìm cái tích kê của vũ nữ trong tiệm nhảy tối mờ mờ - giống như công tử Bạc Liêu ngày nọ - và khi cần, rút súng bắn tình địch như găng tơ màn ảnh… Lâu
lắm, lão Thọ chưa được về Sài gòn. Lâu lắm, chưa được nâng ly huýt-ky và bóc hộp xì-gà Ha van thượng hạng. Lâu lắm, chưa được nhảy một bài xi-lô dìu dịu với một cô gái có cái eo thon nhỏ và cái miệng thơm ngát. Lâu lắm, chưa được đặt tay lên nút điện một căn phòng khách sạn gắn máy điều hòa khí hậu, nệm cao su mút, mền ni-lông Hoa Kỳ, cạo râu bằng dao điện Phi -líp, khoác áo ngủ bằng hàng Bút-sắc chính hiệu của Pháp...
Lão Thọ se sẽ rùng mình. Tôkarin hỏi:
- Anh lạnh ư?
LãoThọ chột dạ:
- Không.
- Xe hơi của tôi, anh đậu ở đâu?
- Cách đậy hai trăm thước. Anh lên bờ, đi được năm chục thước, rồi rẽ sang trái. Đi một trăm thước nữa, quẹo vào con đường nhỏ bên phải. Xe díp này, tôi đậu dưới một lùm cây to. Chìa khóa công-tắc cất dưới đệm lót chân. Bình xăng đã được đổ đầy. Anh cứ thẳng đường là về đến Sàigòn
- Cám ơn anh, tôi đã biết đường rồi.
Lão Thọ cất gói tiền vào túi:
- Anh còn hỏi tôi điều gì nữa không?
Tôkarin nhếch mép:
- À có, tên thật của anh là gì nhỉ?
- Làm nghề này, khỏng nên biết tên thật của nhau thì tiện hơn. Người ta thường gọi tội là lão Thọ. Xin anh cũng cứ kêu tôi là Thọ cho tiện.
- Anh đa nghi quá. Tên thật của tôi là Tôkarin. Seéc-ghê-vích Tôkarin. Đấy anh xem, tôi có cần giấu anh đâu.
Lời nói của Tôkarin như thùng nước lạnh đội lên đầu lão Thọ. Không phải vì ngẫu nhiên mà Tôkarin cho lão biết tên thật. Như vậy, có nghĩa là...
Lão sực nhớ đến Trần Độ. Giờ này, hắn đang tắm mát dưới đáy biển, giữa đống trai sò ngơ ngác, và bầy cá lăn tăn. Lão giết Trần Độ để giữ bí mật. Và để khỏi trả tiền. Dầu sao Trần Độ cũng đòi một số tiền ít ỏi. Còn lão...
Tôkarin phải trả cho lão bằng đô la Mỹ. Trên thế giới, khắp hang cùng ngõ hẻm, ở đâu người ta cũng tiêu đô la. Xìa một nắm đô la ra là mua được chiếc xe hơi bóng loáng, hoặc hàng trăm người đàn bà... Tôkarin có thể giết lão để cướp lại tiền. Tôkarin lại có thể giết lão để bảo vệ bí mật. Dầu sao, lão đã biết nhiều quá.
Trong khoảnh khắc, lão cảm thấy dại. Biết vậy, lão bắn cho Tôkarin một phát, ngay sau khi tàu ngầm lặn xuống. Giờ đây, đối phương đã tới bờ, có thể chống trả mãnh liệt. Tôkarin có thân hình chắc nịch, cử chỉ nhanh nhẹn, chắc không phải là tay võ nghệ tầm thường. Ngoài ra, hắn còn khẩu súng to tướng cất trong bao da nữa. Chậm rồi... lão Thọ phải ra tay ngay. Thừa cơ Tôkarin ngoảnh ra nơi khác, lão Thọ đặt tay vào thắt lưng. Lão bắn rất khá, phát đầu có thể hạ thủ đối phương.
Song lão không thê ngờ rằng Tôkarin đã đề phòng cẩn mật. Thiếu tá R.U., thủ khoa trường điệp báo Kuchinô, điệp viên lừng lẫy ở Đông Âu, Tôkarin đã quen với thủ đoạn giết người trong chớp mắt. Hắn giả vờ nhìn ra biển, để dò la phản ứng lão Thọ. Và hắn đã đoán đúng. Lão Thọ rút súng ra để giết hắn.
Tiếng cười của viên thiếu tá Xô Viết vang lên. Thiết tưởng tiếng cười của ngưu đầu mã diện dưới âm ty cũng chỉ ghê rợn và gớm ghiếc đến thế là cùng:
- Hà, hà, mày định hạ thủ tao!
Lão Thọ chộp lấy khẩu súng thân mật. Lão không biết rằng Tôkarin hơn lão một trời, một vực về võ thuật, cũng như về tài tác xạ. Tôkarin đưa nhẹ bàn tay ra là đoạt được súng của đối phương. Bàn tay cầm súng của lão Thọ bị bẻ gãy kêu rắc một tiếng khô khan. Tuy đau thấu óc, lão Thọ không kêu van. Lão nghiến răng quạt tay trái vào mặt Tôkarin.
Vẫn cười như đùa cợt, Tôkarin nghiêng mình tránh. Miếng đòn trượt ra ngoài. Cánh tay bắng thép nguội của Tôkarin hoành lên, chém xuống như lưỡi dao phay chẻ củi.
Bị đánh trúng yết hầu, lão Thọ lảo đảo rồi nằm gục xuống sàn ca nô bập bềnh trên cát ướt. Tôkarin cúi xuống: mặt nạn nhân đã xám ngoẹt, hơi thở không còn nữa. Danh bất hư truyền, Tôkarin vừa giết người - một người lực lưỡng, am tường nhu đạo – bằng phát atémi tầm thường. Nếu hắn đánh mạnh hơn, cuống họng lão Thọ đã nát bấy.
Biết nạn nhân đã chết, Tôkarin хốс lên vai, nhảy xuống bãi cát, rồi đi thoăn thoắt lên bờ. Trông thái độ khoan thai của Tôkarin, người ta cho hắn là người quen thuộc với bãi biển Vũng Tàu. Thật ra, hắn mới tới đây lần đầu. Sở dĩ hắn quen thuộc vì đã học thuộc lòng trên nhiều bản đồ ở Mạc Tư Khoa.
Tôkarin nghiêng vai, ném thân thể nóng hổi của lão Thọ xuống. Lát nữa, hắn sẽ đào đất chôn lão Thọ ở một nơi vắng vẻ, xa thành phố. Tôkarin có cách giấu kín tử thi, nhà chức trách không thể nào tìm ra. Trừ phi công an thả chó bẹt-giê được huấn luyện riêng... Nhưng khi ấy Tôkarin đã nghênh ngang ngồi uống vốt ka ở Mạc Tư Khoa...
Lão Thọ bị giết vì R.U muốn tiết kiệm một số tiền lớn. Lão đòi nhiều quá, đòi tới mức mà R. U. phải bịt miệng lại. Tuy nhiên, nếu chỉ vì vấn đề tiền mà thôi có lẽ lão Thọ chưa chết. Lão Thọ đòi ngần ấy, chứ đòi nhiều hơn thế Tôkarin vẫn trả nổi. Trong thời Đại chiến Thứ hai, Đức quốc xã đã mua của điệp viên Cicéron, bồi phòng của ông đại sứ Anh, 5000 bảng Anh một tấm hình nhỏ mà không tiếc tiền, vì lẽ giản dị đó là tiền giả. Và gói đô la mà Tôkarin trao cho lão Thọ đêm nay cũng là tiền giả (15).
R.U. hạ thủ lão Thọ là để bảo vệ bí mật. Tôkarin được lệnh thi hành một công tác cực kỳ quan trọng, cần được giữ kín một cách tuyệt đối.
Nhanh nhẹn, Tôkarin trở lại thuyền máy. Lục soát một hồi, hắn tìm ra những vật mà hắn có bổn phận phải làm phi tang. Trong đó có cái điện đài nhỏ xíu lão Thọ vẫn dùng để liên lạc với tàu ngàm R. U.
Tôkarin bỏ các đồ lặt vặt vào trong áo tơi mưa của Lão Thọ rồi gói chặt lại. Đoạn hắn vặn công tắc, cho động cơ nổ ròn. Hắn kéo thẳng tay, gài số cho thuyền chạy. Trên bàn đạp ga xăng, hắn đặt một viên đá lớn. Rồi hắn xả thắng tay. Con thuyền máy chạy vụt ra khơi...
Đến khi hết xăng, ca-nô sẽ lởn vởn ngoài khơi, và chỉ cần một cơn gió lớn là nó lật úp. Giả sử ai tìm ra thì cũng tưởng chủ thuyền chết đuối.
Chờ cho thuyền máy khuất vào màn sương, Tôkarin mới quay lại chỗ ném xác lão Thọ.
Ngạc nhiên xiết bao, lão Thọ đã biến đâu mất.
Tôkarin chết lặng một phút đồng hồ trên nền cát ướt: Nếu lão Thọ còn sống, trốn thoát, thì công việc của hắn sẽ hỏng bét. Miếng đòn của hắn đánh vào cổ lão Thọ khá mạnh, dầu tỉnh dậy nạn nhân cũng khó lết được xa.
Nghĩ thế Tôkarin đảo mắt nhìn tử phía. Bầu trời vẫn phủ kín sương muối, bốn bề vắng ngắt và tối om. Tiếng sóng vỗ ì ầm tạo cho cảnh gần sáng ở Bãi Sau một vẻ hoang liêu rùng rợn.
Tôkarin định bấm đèn lên tìm thì phía sau nổi lên một tiếng quát. Tiếng quát không to lắm nhưng Tôkarin có cảm giác là nhĩ tai hắn bị rung lên:
- Đứng yên một chỗ, Tôkarin.
Tôkarin chỉ mất tinh thần trong vòng một vài giây đồng hồ. Nhờ được huấn luyện chu đáo và có nhiều kinh nghiệm công tác, hắn đã lấy lại bình tĩnh rất nhanh.
Tiếng quát của lão Thọ vẫn rền lên:
- Tôkarin? Không được cử động. Hễ cử động, buộc lòng tôi phải hạ thủ.
Câu nói vô tình của lão Thọ khiến Tôkarin mừng thầm. Hắn biết rõ là đối phương không định giết hắn. Hắn bèn dò hỏi:
- Vì lẽ gì bỗng dưng anh phản bội?
Tiếng nói của lão Thọ sắc như dao cạo:
- Đó là lỗi tại anh. Tại anh muốn thủ tiêu tôi.
Tòkarin cười ngọt ngào:
- Anh lầm rồi. Nếu tôi chủ trương hại anh tại sao tôi đặt anh nằm tử tế trên bãi cát. Bản tâm tôi là chờ anh tỉnh dậy. Hồi nãy, chúng mình hiểu lầm nhau nên sinh ra cớ chuyện.
Lão Thọ đã hoi siêu lòng. Lão đứng sau lưng Tôkarin, trên tay vắt vẻo con dao mỏng dính. Lão còn phân vân thi Tòkarin đã nói tiếp:
- Nào chúng mình bắt tay nhau để xử hòa đi nào! Tôi xin thề là không bao giờ có ý nghĩ xấu về anh. Trước khi tôi lên đường, thượng cấp đã dặn tôi nhiều về thành tích của anh. Xong vụ này, anh sẽ được đưa về một trung tâm dưỡng sức ở Liên Xô. Anh sẽ được đặc biệt ưu đãi.
Vừa nói, Tôkarin vừa quay mặt lại. Hai người chỉ đứng cách nhau ba thước. Trong tầm xa này lưỡi dao của lão Thọ có thể ném trúng điếu thuốc lá, dụi tắt cái đầu đang cháy dở.
Một cuộc xung đột tư tưởng diễn ra trong óc lão Thọ. Lão chỉ nghiêng người và giơ tay lên là lưỡi dao bay vào giữa tim Tôkarin. Tuy nhiên giết cá nhân Tôkarin thì dễ, đơn thương độc mã chống lại R U. là điều vưọt qua khả năng của lão. Tốt hơn là làm lành với Tôkarin.
Tồkarin đã tiến sát người lão Thọ.
Lão Thọ chìa tay ra:
- Thật đáng tiếc! Tôi thành thật xin lỗi anh.
Tôkarin mỉm cười nắm bàn tay của lão Thọ. Nhưng không phải để tỏ tình thân thiện, mà để sử dụng một thế võ tuyệt hiểm về nhu đạo. Lão Thọ bị Tôkarin kéo giật về đằng trước. Bị tấn công bất thần, lão Thọ ngã chúi như khúc gỗ bị đốn ngã. Sống bàn tay của Tôkarin giáng xuống.
Phát atémi rơi đúng vào sau gáy. Với miếng atémi này lão Thọ khỏe bằng voi cũng không chịu nổi. Lão rống lên một tiếng thảm thiết rồi gục mặt xuống cát không ngồi dậy nữa.
Nhún vai, Tôkarin lặng lẽ đi về thành phố.
Hắn tìm chiếc xe «díp» không lâu. Quả như lão Thọ nói, đó là một chiếc xe đeo bảng số ngoại giao đoàn. Tôkarin đặt cái va li nhỏ đựng quần áo và tài liệu trên băng sau. Hắn nhắp thử ga xăng, rồi ấn chìa khóa vào đề ma rơ. Động cợ xe “díp” nổ lên, nghe thật tròn trịa.
Tôkarin thử hộp số, rồi lái trở lại con đường xuống biển. Số một sang số hai êm như ru, không vướng víu như xe hơi hắn thường lái ở Nga Xô.
Thị trấn Vũng Tàu vẫn vắng tanh. Ánh đèn ngoài đường như thức đêm buồn ngủ đã chìm vào màn tối, một màn tôi dày đặc trước khi rạng đông vùng dậy. Tôkarin đậu xe trong bóng tối, kbiêng xốc lão Thọ bỏ lên phía sau, rồi phóng về Sài gòn.
Một lát sau, Tôkarin chạy qua cây xăng cuối cùng của thị trấn. Như ai nói nhỏ vào tai, hắn sực nhớ những điều học tập trong trường Kuchinô. Cách đây không lâu, trong một phút đãng tri, hắn suýt bại lộ ở Luân Đôn. Xe hơi bên Anh quốc chạy bên trái, Tôkarin quên chạy bên phải. Thắng không tốt thì hắn đã cán chết người, và... bại lộ. Sau chuyến công tác này, hắn thề quyết không đãng trí nữa.
Giảng sư về Nam Việt trong trường Kuchinô - một người Á đông, có cái bụng đầy mỡ và đôi chân vòng kiềng - dặn Tôkarin bằng giọng nói chậm rải và nghiêm trọng:
- Ở Liên Xô, muốn mua xăng phải xin phiếu của Cục Tiếp tế. Còn ở Sàigòn, cũng như ở các thị trấn Tây phương khác, anh cần bao nhiêu xăng cũng có. Anh chỉ cần lái vào, đưa chìa khóa cho người đổ xăng, rồi ngồi chờ trả tiền. Lệ thường, họ sẽ đổ nước vào bình điện, vào thùng nước, và bơm hơi vào bánh. Và trước khi đi, anh nên cho một ít tiền lẻ. Anh nhớ chưa?
Đáng tiếc là Trung ương không thể cử ai đón tiếp anh được ở Sàigòn. Vì công tác này, anh phải hoàn thành một mình, về chỗ ở, anh không sợ. Sàigòn có rất nhiều lữ quản và phòng trọ. Thấy anh là đại úy Mỹ, người ta sẽ không ngờ vực. Vả lại, điều cần thiết là anh trả tiền hậu hĩ. Sau hai ngày tập luyện, anh đã nhận diện được các loại bạc giấy Nam Việt. Trước khi trả tiền, anh hãy nhìn kỹ một lần nữa, vì anh là người ngoại quốc mới đến. Anh là người Mỹ, trước khi trả tiền, anh phải búng ngón tay vào tờ giấy cho kêu một tiếng lớn.
Ngừng một phút, giảng sư nói tiếp:
- Tới khách sạn, anh mặc cho bồi mang đồ lên phòng. Không như ở các nước xã hội chủ nghĩa, khách phải khệ nệ khiêng một mình. Đi dọc đường, nếu bị trẻ con chặn lại thì đừng ngại. Trẻ con ở Sàigòn không được huấn luyện như ở nước ta đâu. Phần nhiều, chúng chặn người ngoại quốc đế đánh giày, hoặc bán báo. Trong trường hợp này, anh phải đứng lại, kê chân lên cái hộp gỗ của trẻ đánh giày, hoặc rút tiền mua báo. Còn một chi tiết quan trọng nữa: người Mỹ mê kẹo cao su. Anh phải nhai kẹo cao su luôn miệng. Thế thôi...
Xe «díp» chạy qua những cánh đồng rộng mênh mông. Tôkarin dừng lại đi bộ vào trong. 10 phút sau, hắn đã chôn xong lão Thọ. Hắn phủi tay, mở công tắc, ấn lút ga, phóng như tên bắn trên con đường nhựa thẳng tắp. Trời bắt đầu hừng sáng. Cái bóp phơi dày cộm của hắn cọ vào ghế. Bên trong, người ta đã để sẵn cho hắn một món tiền kếch sù, và một xấp giấy tờ do cơ quan cố vấn quân sự Mỹ cấp.
Trong túi, Tôkarin còn một cái gói nhỏ bằng nửa gói thuốc. Bên trong là ba hột kim cương lấp lánh. Mỗi hột đúng sáu ca-ra. Thiếu tiền, hắn có thể tới đường Tự Do bán.
Đường Tự do! Tôkarin đã làm quen với con đường lớn nhất Sàigòn này trên những bưu thiếp nhiều màu rực rỡ. Người ta cho hắn biết rằng những cái gì quý phái nhất và tráng lệ nhất đều diễu qua đường Tự do, nhất là buổi chiều thứ Bảy. Tôkarin vũ phu với đàn bà, song lại thích đàn bà. Dầu sao hắn cũng là con người. Và là người đàn ông chưa vợ. Tòkarin khao khát gặp những người đàn bà mặc áo dài, bó chặt thân thể, kín đáo mà hở lộ, mảnh mai mà nảy nở. Dư luận thường khen đàn bà Sài gòn đẹp. Đẹp như bài thơ tình của nhũng thi sĩ Trung Hoa cổ xưa.
Tôkarin thè lưỡi liếm mép. Đột nhiên, hắn cảm thấy khát nước. Một cơn gió mát rạng đông từ cánh đồng xanh rờn chạy tít đến chân trời thổi qua cửa xe, mơn man da thịt và làm hất mớ tóc bồng của Tôkarin. Trông hắn, nhiều người lầm với diễn viên màn ảnh. Nhiều người còn lầm Tôkarin là gã ăn chơi đàng điếm, búng nhẹ là ngã. Hắn lẩm bẩm:
- Hừ, búng nhẹ là ngã!
Trong một tiệm nhảy ở Tây Bá Linh, một gã to lớn đã dại đột buông lời khỉnh rẻ hắn như vậy. Song Tôkarin đưa mặt ra, lãnh hai trái đấm kinh khủng mà không suy xuyển. Ngược lại, Tôkarin chỉ vuốt nhẹ một cái là khối thịt khổng lồ trên một tạ đã bổ chửng, làm bàn ghế đổ nát.
Sức mạnh không quật nổi Tôkarin, nhưng có lần đàn bà làm hắn thất điên bát đảo. Hắn mê một cô gái làm nghề chiêu đãi ở Mạc Tư Khoa. Nàng không thèm để ý đến cặp mắt đa tình và thân hình cường tráng của hắn. Có lẽ vì thất tình nên hắn gia nhập ngành do thám, và từ đấy hắn trở nên tàn nhẫn, nhất là với phụ nữ.
Một hòi còi ré lên làm Tôkarin tỉnh mộng.
Giật mình, Tôkarin hãm bớt tốc độ. Tiếng còi vẫn rúc liên hồi. Trống ngực Tôkarin đập mạnh, tuy hắn là điệp viên nổi tiếng bình tĩnh. Theo chỉ thị, hắn có thể lái thẳng từ Cấp về Sàigòn. Phải chăng đối phương đã biết? Tôkarin bàng hoàng nhớ đến lão Thọ. Có lẽ oan hồn của lão đã hiện về.
Một chiến xa sơn đen chùi chũi bò ra giữa đường. Con đường phía trước rất hẹp, hai bên là ruộng đầy nước, Tòkarin không còn cách nào hơn ngừng lại. Vả lại, hắn không có lý do bỏ chạy. Hắn chỉ bực mình vì trung ương R.U. đã sai lầm. Hoạt dộng ở ngoại quốc, người điệp viên đặt cuộc đời của mình vào kế hoạch của Trung ương. Đi sai một nước cờ, tính lầm một chi tiết là chết.
Bị thắng gấp, xe díp nghiến ken két. Trời đã sáng rõ. Ở chân trời, nổi lên một đảm mây hồng phơn phớt. Tuy nhiên, sương mù còn dầy đặc. Những tảng sương trắng xóa nổi bồng bềnh trên mặt ruộng, và bay từ từ trên đường nhựa, tạo cho cảnh vật một sắc thái độc đáo và lạ lùng.
Tôkarin chưa kịp xuống xe thì từ ngôi nhà nhỏ bên đường chạy vụt ra một quân nhân tay cầm súng mảy. Nhận ra sổ ngoại giao đoàn, người này đứng lại, đeo tiểu liên lên vai, rồi tiến tới trước mặt Tôkarin.
- Chào đại úy. Đại úy đi đâu vào giờ này?
Tôkarin bắt đầu hoàn hồn. Đeo súng vào vai, người lính đã coi hắn là bạn, là đại úy Mỹ thực thụ. Hẳn bèn đáp, bằng tiếng Mỹ trơn tru và đúng giọng học trong trường điệp báo Kuchinô:
- Về Sài gòn.
Người lính lắc đầu:
- Không được đâu. Xin đại úy chờ ở đày một lát rồi hãy đi. Phía trước có cuộc hành quân.
Người lính không hiểu tiếng Anh nhiều nên khi Tôkarin liến thoắug đáp lại, chie nhe răng cười. Tôkarin rồ máy, toan phóng đi, thì người lính xua tay. Tuy người lính vẫn giữ thái độ nhã nhặn, hầu như thân thiện, Tôkarin lại chột dạ. May thay một thiếu úy trẻ tuổi từ trong đồn canh bước ra. Viên thiếu úy này nói tiếng Anh khả lưu loát:
- Đại úy về Sài gòn về việc riêng hay công? Sở dĩ tôi tò mò vì cuộc hành quân lục soát cách đây 5 cây số chưa chấm dứt, mọi xe cộ đều bị chặn lại. Tôi sợ đạn lạc, gây nguy hiểm cho đại úy.
Tôkarin mỉm cười:
- Không hề gì. Dầu nguy hiểm, tôi cũng phải đi.
Nói đoạn, Tôkarin rút chứng minh thư ra. Trên tấm thẻ lát-tích, chức vụ của Tôkarin đã được ghi rõ: sĩ quan tình báo thuộc bộ tư lệnh cố vấn. Viên thiếu úy hỏi thêm:
- Đại úy đi công vụ?
Tôkarin nhún vai đáp:
- Vâng. Bộ tư lệnh gọi tôi về gấp. Lẽ ra, tôi đáp máy bay, nhưng không kịp.
- Tại sao đại úy không mang tài xế?
Câu hỏi bất ngờ làm Tôkarin choáng váng. Viên thiếu úy, chỉ huy đồn canh, đã có một trí nhận xét tinh tế. Quân nhân trung cấp ít khi lái xe một mình trên đường dài trên một trăm cây số. Phương chi lại đi công tác. Một lần nữa, Trung ương R. U. đã sơ hở: đúng lý lão Thọ phải giả làm tài xế, rồi dọc đường thủ tiêu cũng chưa muộn.
Tuy nhiên, Tôkarin không đổi sắc diện. Trong trận chiến tranh lạnh ở Âu châu, nhất là ở thành phố Bá Linh, nhiều nhân viên do thám đã mất mạng một cách oan uổng và thảm thương, vì tái mặt, tỏ vẻ sợ sệt trước một câu hỏi đột ngột. Tôkarin bèn đáp lại bằng nụ cười tươi tắn, nụ cười đã lôi cuốn hàng trăm đàn bà trong đời:
- Ô, tài xế uống rượu say mèm, chưa dậy. Vả lại, tôi thích lái xe một mình để hưởng khí trời mát mẻ, và nhìn ngắm phong cảnh dọc đường. Tôi mới qua đây, chưa có dịp về thăm vùng quê. Đường về Sài Gòn rất an ninh, theo tôi chẳng cỏ điều gì đáng ngại.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với đại úy. Tuy nhiên, tôi không muốn đại úy gặp trục trặc dọc đường. Dầu tôi để đại úy đi, lát nữa sẽ có người khác giữ lại. Là quân nhân, tôi có bổn phận thi hành lệnh trên. Nếu đại úy cần về gấp, tôi sẽ điện thoại ngay cho bộ tư lệnh. Đại úy thuộc phòng nào ở Sài Gòn?
Bồ hôi lấm tấm trên cổ Tôkarin. Hắn bèn tìm kế thối lui:
- Phòng 2, như thiếu úy đã biết. Nhưng thôi, giờ này văn phòng chưa làm việc.
Viên thiếu úy đon đả:
- Không sao. Tôi sẽ liên lạc với ban thường trực. Xin lỗi, quân số của đại úy bao nhiêu?
Như cái máy, Tôkarin móc chứng minh thư ra lần nữa. Dĩ nhiên, đó là chứng minh thư giả. Quân số của hắn cũng giả. Ban thường trực ở Sài gòn sẽ phăng ra trong vòng 5 phút. Song hắn không thể từ chối. Hắn chỉ còn một hy vọng mỏng manh: hạ sát viên thiếu úy.
Tôkarin xuống xe, chậm rải theo viên thiếu úy vào đồn gác. Trong đồn, cả thảy có 3 người. 3 người đối với Tôkarin chỉ là trò đùa. Nếu không gặp trở ngại, hắn có thể thanh toán trong vòng 60 giây đồng hồ ngắn ngủi.
Tiếng chuông điện thoại reo lanh lảnh. Cầm ống nghe, viên thiếu úy nhoẻn miệng cười với Tôkarin. Trong khi ấy, Tôkarin bật lửa châm thuốc lá. Câu nói của viên thiếu úy làm tim Tôkarin nóng lại, như ngọn lửa của cái quẹt máy Zíp-pô được dùng lần đầu tiên:
- Đại úy đi được rồi. Cuộc hành quân đã kết thúc.
Không đợi nhắc lại, Tôkarin cho máy nổ. Chiếc chiến xa kếch sù từ từ lái sang bên, khuất vào lùm cây rậm rạp. Tôkarin đạp lút ga xăng. Xe díp chồm lên phía trước.
Mặt trời bắt đầu ló dạng ở hướng đông. Cuộc phiêu lưu của Y-739, tinh hoa của sở Gián điệp R. U. Xô Viết bắt đầu.
*
* *
Trần Hinh lảo đảo ngồi dậy trong bóng tối.
Hắn ngồi yên như thể rất lâu. Bên cạnh hắn, người đàn bà trở mình, nói ú ớ. Những cái lò so nhão nhoét của cái giường cũ lại rên lên tiếng cọt kẹt não nùng.
Mùi ẩm mốc xông vào mũi Trần Hinh. Hắn đã quen với mùi khó tả này từ lâu. Nhắm mắt lại, hắn vẫn có thể hình dung ra đồ đạc trong phòng. Đó là một gian phòng tường ngăn bằng ván mỏng, dán giấy báo chi chít, mà người ta thường gặp trong những nhà ngủ rẻ tiền ở Chợ Lớn. Một cái tủ đứng vỡ gương, nằm ủ rủ trong góc, thỉnh thoảng lại bị đàn chuột nghênh ngang mở ra đóng lại giữa tiếng chin chít điếc tai. Kê sát tủ là cái bàn mộc ám khói. Trần Hinh vẫn ngồi viết trước cái bàn cáu bẩn ấy. Trên bàn, vứt la liệt nào bàn chải đánh răng, sà phòng thơm, thuốc hắc lào, dao cạo, khăn mặt đen đủi và rách từng mảng lớn…
Đối diện bàn viết, cái giường gỗ lò so của Trần Hinh nằm thưỡn ra trong dáng điệu kệch cỡm và đĩ thõa. Đời sống của Trần Hinh là cái giường này. Hễ về đến phòng chưa kịp cởi áo, hắn đã nằm vật lên giường.
Trần Hinh đằng hắng rồi nhổ bẹt bãi nước bọt lớn xuống sàn gác. Uể oải, hắn bật đèn lên.
Ngọn đèn một trăm nến không có chao chiếu xuống căn phòng nghèo nàn một màu vàng trơ trẽn và buồn rầu. Chói mắt, người đàn bà thức dậy, buông ra giọng khê nặc:
- Trời ơi, dậy gì sớm thế?
Trần Hinh văng tục xong rồi nói:
- Dậy sớm thì thây kệ người ta.
Thiếu phụ úp mặt vào tường, để lộ cái lưng trần ươn ướt bồ hôi:
- Nếu anh đi đâu sớm thì chịu khó tắt giùm cái đèn một tí. Tiền ăn hết rồi, Trưa nay, em đợi anh về rồi cùng đi ăn, nghe «cưng».
Trần Hinh muốn nhổ vào cái lưng phì nộn ấy để biểu lộ sự khinh miệt. Hắn chán đàn bà lắm rồi. Vì đàn bà chỉ làm hắn nghĩ đến tiền.
Vuôn vai, hắn tiến vào buồng tắm. Gian phòng thê lương này có cái tiện nghi đáng quý là gồm cả chỗ tắm rửa và nấu nướng, Mọi ngày, hắn dậy rất muộn. Có khi thiên hạ đã ăn cơm trưa mà hắn còn ngáy pho pho trên giường. Nhưng hôm nay thì khác.
Hắn phải dậy thật sớm vì sắp có tiền. Chưa bao giờ tờ giấy bạc đối với hắn lại thân thiết và quí giá bằng bây giờ. Đã lâu, hắn chưa kiếm được đồng nào. Con đường tải thuốc phiện lậu từ Ai Lao về đã bị chặn, bè bạn bị xộ khám, hoặc lần lượt bỏ nghề, Trần Hinh bị tuyệt đường làm ăn. Nghề tay phải của hắn là bảo tiêu hàng lậu. Vùng biên giới gồm toàn rừng rậm và núi cao đối với hắn chỉ nhỏ bằng cái mù soa hỉ mũi. Hắn nhớ từng hốc cây, từng giòng suối, khi bị săn bắt hắn có biệt tài trốn thoát như ma trơi. Song tình hình chiến tranh đã xô hắn vào cảnh thất nghiệp.
Hắn muổn đổi nghề, nhưng không biết chọn nghề nào, vì trên thực tế hắn chỉ quen cuộc sống đi khuya về tắt. Từ căn nhà sang trọng, trang hoàng toàn đồ gỗ đắt tiền, dao nĩa bằng bạc, và ly uống rượu pha lê thượng hạng, Trần Hinh phải dọn xuống gian phòng ọp ẹp này trong hẻm Trần Hưng Đạo.
Từ nhiều tháng nay, hắn thèm điếu á phỉện. Loại á phiện nguyên chất, nở phồng trên ngọn đèn dầu lạc, mùi thơm kỳ lạ tỏa đầy, quyện vào da thịt, giường chiểu. Hắn thèm một cốc huýt-ky pha sô-đa, bập bềnh một viên đá vuông vức. Màu rượu vàng hổ phách, uống vào ruột gan lâng lâng, thời gian như đọng lại. Hắn lại thèm ánh đèn đỏ nhạt của tiệm nhảy, ảnh đèn xanh dịu của những căn phòng gắn máy lạnh khách sạn ở đường Tự Do, với người đàn bà căng cứng, khêu gợi như đào chiếu bóng.
Hắn thèm mọi thứ. Vì hắn đã hết tiền. Ba tháng nay, hắn không có tiền trả tiền phòng. Cho đến cách đây hai hôm.
Trần Hinh vục mặt vào chậu nước lạnh cho được tỉnh hẳn. Hàng trăm con vật lăn tăn đùa nhảy trong nước. Hắn không nghĩ đến nước bẩn mà chỉ nghĩ đến sự mát rợi làm tinh thần hắn sảng khoái và lạc quan. Cách đây hai hôm, hắn đang nằm khàn trên giưừng, đọc đi đọc lại cuốn truyện kiếm hiệp rẻ tiền thì nghe tiếng gõ cửa. Như thường lệ, hắn cất giọng khàn khàn:
- Vào đi, còn gõ gì nữa.
Trần Hinh đinh ninh là ông chủ nhà đến réo tiền, hoặc một cô bạn gái vừa mất việc trong xóm yên hoa đến tâm tình vụn. Nhưng người đến thăm hắn lại hoàn toàn xa lạ. Đó là một thanh niên Tây phương, tóc hung hung, tròng mắt xanh biếc trông như người Mỹ.
Người lạ bước vào, cử chỉ thân mật như quen hắn từ lâu. Và không đợi hắn mời, người lạ lẳng lặng khóa cửa, ngồi xuống cái ghế gỗ sọc sạch, bắt đầu nói một hơi. Người lạ biết rõ về Trần Hinh không sai một li. Trần Hinh rùng mình khi nghe người lạ gợi lại quá khứ, khi hắn còn là một thanh niên lai Pháp cường tráng, phục vụ trong quân đội viễn chinh, và chuyên về ngành tình báo.
Tiếng cười của người lạ nổi lên trong căn phòng vắng:
- Tôi đã biết hết về anh. Trước khi đến đây, chúng tôi đã nghiên cứu, điều tra và phối kiểm kỹ càng. Nếu anh chưa tin, để tôi nói thêm một vài chi tiết nữa. Anh sinh tại Hưng Yên, cha anh là thượng sĩ Lê dương, tử trận bên Trung Hoa, mẹ anh đã theo người khác, khi anh được 3 tuổi. Anh được đưa vào viện mồ côi Hàng Bột ở Hà Nội. Đến năm 10 tuổi, anh trốn ra ngoài, kiếm ăn một mình. Hàng ngày, anh lang thang trong chợ Đồng Xuân, làm đủ nghề, bán báo, khuân hàng, ăn cắp, cướp giật. Cho đến ngày anh gặp một cặp vợ chồng người Pháp. Anh muốn tôi kể lại tên người ấy không?
Trần Hinh lắc đầu lia lịa:
- Thôi, đủ rồi. Bây giờ, ông muốn gì?
Người lạ lạnh lùng nói tiếp:
- Quá khứ định đoạt cho tương lai, trước khi nói chuyên tương lai với anh, tôi phải mổ xẻ quá khứ thật tường tận. Vợ chồng người Pháp này mang anh về nuôi, và đổi tên anh là Rờnê. Rờnê... cái tên này đã lừng lẫy một thời. Cha nuôi của anh là đại úy Phòng Nhì trong quân đội Pháp. Nối gót cha, anh trở thành nhân viên Phòng Nhì.
Về nghề nghiệp, anh khá giỏi. Song anh chuyên buôn lậu hơn là chuyên tình báo. Cha nuôi anh thiệt mạng phi cơ. Anh nghiễm nhiên được Phòng Nhì tin dùng. Nhưng họ không thể tin dùng anh mãi. Vì anh là người đàn ông bất trị, tiêu tiền như ông vua dầu hỏa. Phòng Nhì sẵn sàng làm ngơ cho anh trong thời gian chiến tranh, tình hình bất ổn, đang cần những nhân viên ham chơi mang hai giòng máu như anh.
Song chiến tranh chấm dứt, Phòng Nhì dành phải bỏ rơi anh. Nếu anh đúng đắn, họ đã đưa anh vào hoạt động bí mật. Họ bỏ rơi anh một cách tàn nhẫn. Mất việc ở Phòng Nhì, anh lao đầu vào nghề buôn lậu. Một năm sau, anh thất nghiệp. Bây giờ, anh đang cần tiền, anh đang cần rất nhiều tiền. Anh đang cần tiền như đất hạn cần mưa rào.
Lưỡi khô rát, Trần Hinh hỏi:
- Thưa, ông là sĩ quan Phòng Nhì vừa từ Ba Lê tới?
Người lạ cười ròn rã:
- Anh thấy tôi nói tiếng Pháp nên tưởng tôi là sĩ quan Phòng Nhì. Thong thả, đừng nóng ruột. Khi cần nói, tôi sẽ nói anh biết. Giờ đây, tôi đang nói về vấn đề tiền. Anh còn thiếu ba tháng tiền nhà. Anh còn nợ của ông chủ nhà trọ ba ngàn đồng nữa. Người yêu của anh lại muốn sắm một bộ cánh tươm tất để về quê thăm cha mẹ.
Trần Hinh nuốt nước bọt, nhìn người lạ bằng cặp mắt bán tín, bán nghi, thì người lạ thản nhiên nói tiếp:
- Nếu anh không kiếm đủ tiền trang trải cho ông chủ, anh sẽ bị tống cổ ra đường. Vậy anh muốn có tiền không?
Trần Hinh lắp bắp:
- Muốn.
Người lạ cười khảy:
- Bao nhiêu?
- Bao nhiêu, tôi cũng nhận. Tuy nhiên... tôi cần biết ông là ai, ông muốn tội làm gì...
- Hà, hà, anh tò mò quá. Tôi rất ghét những kẻ tò mò. Tôi chỉ ưa bọn người câm miệng như hến. Muốn kết giao với tôi, anh phải học tính câm miệng. Anh có tật xấu, bô lô ba la, có tiền thì rượu chè be bét, chuyện gì cũng phun ra hết. Sở dĩ tôi biết rõ về anh vì cái tính trống trải ấy.
- Vâng, từ nay tôi xin kín miệng.
- Như vậy thì được. Tôi thân chinh đến đây để giúp anh thanh toán công nợ. Không những thế, tôi còn có thể giúp anh thuê một căn nhà đàng hoàng, và sắm một chiếc xe hơi mui sập để chiều chiều đi hóng mát trên xa lộ với những cô nhân tình trẻ măng nữa. Thế nào, Rờnê anh chịu ký cả hai tay chưa?
Trần Hinh trố mắt trong thái độ kinh ngạc, sợ sệt và kính phục. Người lạ bèn nói, giọng ôn tồn:
- Tôi biết là anh bằng lòng. Vả lại, có kẻ nào sắp chết đuối lại không muốn được vớt lên, phải không anh? Tôi sẵn sàng giúp anh, song chẳng đòi anh phải làm gì khó khăn. Đây này...
Trần Hinh lắng tai nghe người lạ nói bằng giọng rất nhỏ. Mặt hắn nóng ran như ngồi gần bếp lửa.
Rồi hai ngày trôi qua.
Trần Hinh lấy nước vuốt lên mái tóc dài. Hắn chép miệng khi nhìn thấy trong gương treo trên la-va-bô khuôn mặt bầu bĩnh và đĩ trai của hắn. Trạc bốn mươi, Trần Hinh có một thân hình đồ sộ, và cái duyên dáng của những kẻ mang hai giòng máu trong người. Mặc dầu cuộc sống trác táng đã tàn phá hết hai phần ba, Trần Hinh vẫn chưa mất cái phong độ lạnh lùng của con người đã quen với nguy hiểm. Thỉnh thoảng trên bộ râu mép vểnh lên một cách ngạo nghễ, và cái mũi mềm nhũn của võ sĩ quyền Anh, người ta có thể bắt gặp một tia mắt sắc như đao, tưởng như Trần Hinh nhìn ai thì nhỡn tuyến của hắn đủ sức cứa da thịt người ấy chảy máu.
Trần Hinh nhoẻn miệng cười với mình trong gương. Tuy mặt gầy da sạm lại vì sống thiếu thốn, Trần Hinh còn giữ lại nụ cười thượng lưu và quyến rũ của thời kỳ hét ra lửa. Công việc trôi chảy, mai kia hắn sẽ hét ra lửa lại như cũ. Hắn sẽ nghênh ngang xô tấm cửa kính dầy của tiệm ăn sang trọng góc đường Lê Lợi, kéo ghế ngồi xuống, ngoắt tay gọi bồi mang cái mơ- nuy bọc da xinh xắn.
Trước hàng chục cặp mắt sửng sốt, nửa khâm phục, nửa thèm muốn, Trần Hinh sẽ uống một chai sâm banh Taittinger 1945, nghĩa là một trong các thứ sâm banh ngon nhất thế giới. Uống rượu xong, hắn khệnh khạng trèo lên chiếc xe đua nhỏ xíu, sơn trắng toát. Chiếc xe kỳ diệu của hãng Alfa-Roméo, loại du lịch 2.000 G.T. độc nhất ở Sàigòn đang trưng bày ở đại lộ Nguyễn Huệ. Trời, được vậy thì giết người Trần Hinh cũug không từ chối!
Hẳn lẩm bẩm một mình:
- Giết người, giết người!
Ngoài nghề buôn lậu, nghề không vốn mà được nhiều tiền nhất là nghề giết người. Giết người thuê. Gián điệp cũng là nghề giết người thuê. Lâu lắm không cầm khí giới, bàn tay Trần Hinh đã cứng lại. Tuy nhiên, hắn đang còn dáng dấp nhanh nhẹn và khoan thai của kẻ giết người thành thạo, giết người không thương tiếc. Hắn chép miệng:
- Hừ, làm gì cũng được, miễn hồ có tiền...
Trần Hinh cởi cái áo sơ mi nhàu nát và rách vai, vắt lên cái hoa sen trong buòng tắm, kiêm nhà bếp. Hôm nay hắn cần ăn mặc đỏm dáng. Người lạ đã căn dặn hắn chu đáo:
- Tôi không cần anh đóng cồ cồn, cà vạt và đi giày mũi nhọn, bóng, có thể soi gương. Mà chỉ muốn anh ăn mặc sạch sẽ và tươm tất. Làm nghề tình báo, không được lập dị. Chưng diện bảnh bao cũng như đeo quần áo rách sơ mướp đều là lập dị.
Ngẫm nghĩ một phút, hắn chọn cái sơ mi lành lặn nhất mặc vào người. Hắn chưa kịp gài nút thì ngoài giường ngủ có tiếng vọng vào, khô nặc:
- Khổ quá, Rờnê! Em đã bảo anh tắt đèn từ nãy.
Hai tiếng Rờnê như mũi kim đâm vào ngực Trần Hinh. Hồi mang tên Tây, hắn chỉ ho lên một tiếng khẽ là hàng chục ả đàn bà diêm dúa phủ phục dưới chân. Đến khi xuống nước, hắn hét rát cổ cũng chẳng thấy ai. Duy còn người đàn bà chung thủy này.
Tên nàng là Thanh Xuân. Bảo nàng là đẹp không đúng, vì nước da bánh mật, cằm nhọn, và khuôn mặt bầu bầu. Song nàng không xấu. Ở thủ đô Sàigòn văn vật, giai nhân đếm được hàng ngàn, ít ai tìm ra một thân hình cao ráo, đều đặn và căng cứng như Thanh Xuân. Nhưng đỏ là chuyện ngày xưa...
Ngày xưa, nàng còn là hoa khôi vũ trường, nổi tiếng về bộ ngực nguyên tử và cặp giò tuyệt mỹ, uốn éo như múa nhảy trên sàn si bóng loáng. Hàng ngày, nàng tắm nước suối Vít-ten (vì nàng sự nước máy nhiều vi trùng), pha nước hoa thượng hảo hạng, áo may bằng hàng Pháp mỏng dính, không bao giờ giặt (vì nàng chỉ mặc một lần rồi vứt), mỗi lần mở cửa lại thay mù soa mới (vì nàng sợ bụi). Mái tóc của nàng đẹp nhất Sài gòn nên nàng chăm nom một cách đặc biệt. Như minh tinh màn ảnh, nàng trả lương tháng cho hai người thợ giỏi, ngày đêm túc trực để chải tóc và dũa móng tay cho nàng.
Rồi nàng gặp Trần Hinh. Tiền nong, bộ mã, và quyền thế, hắn đều hơn người khác. Đêm đêm, hai người uống sâm-banh với nhau, uống xong đập vỡ hết ly pha lê và bát đĩa sứ, hôm sau lại sắm bộ khác. Trần Hinh bị khánh kiệt, không hiểu sao Thanh Xuân lại mủi lòng, theo hắn về nhà. Trong những tháng đầu tiên, Trần Hinh còn tiền, Thanh Xuân cũng đang kiếm tiền như nước.
Đột ngột, tai nạn xảy ra. Một đêm kia, vũ trường đông nghẹt, nàng vừa nhảy xong, lại bàn ngồi nghỉ, thì một người đàn ông sang trọng đến mời. Nàng lắc đầu. Cuộc ấu đả giữa bọn khách đa tình làm tiệm nhảy thiệt hại nặng nề. Riêng nàng bị thiệt hại nặng nề hơn cả. Nàng bị mảnh vỡ làm rách mi mắt. Đôi mắt lá răm đa tình không còn đa tình như trước nữa. Song, đau đớn nhất là nàng gẫy chân. Sau hai tháng nằm bệnh viện, nàng thành tàn tật, đi thọt một bên. Cặp giò bất hủ không được vương tôn, công tử đoái hoài đến nữa. Bông hoa rữa nhị dần dần. Ngày nay, Thanh Xuân vẫn tiếp tục cuộc đời vũ nử, nhưng là vũ nữ về chiều, vũ nữ xấu xí, vụng về, bị rơi vào quên lãng.
Trần Hinh rầu rầu nhìn nàng dưới ánh đèn vàng ệch. Tất cả kho tàng quí báu trên thân thể nàng đã mất. Chỉ còn lại làn da nhầy nhụa bồ hôi, đôi chân so le và bộ ngực tàn phá. Bất giác, hắn thở dài. Giọng Thanh Xuân vẫn nheo nhéo:
- Tắt đèn đi Rờnê!
Trần Hinh ưỡn ngực, như hồi còn thét ra lửa trong phòng giấy:
- Sáng toét mắt rồi, em còn ngủ gì nữa?
Tiếng người đàn bà gắt ngậu sị:
- Anh nhìn đồng hồ coi, mấy giờ rồi mà bảo là sáng toét mắt?
- Bây giờ là 7 rưỡi.
- Ừ, thì 7 rưỡi. Anh không biết là tôi phải ngủ để đi làm đêm sao?
Nghe tình nhân nói, Trần Hinh sực nhớ mỗi đêm con người đầu gối, tay ấp của hắn phải đi kiếm tiền dưới những bóng cây tối om. Thật vậy, Thanh Xuân đã biến thành gái điếm thật thụ. Thoạt đầu, Trần Hinh ghen tuông, giận dữ, nhưng sau dần hắn đành cúi đầu trước định mạng và sự thật phũ phàng. Có lần hắn nổi cơn điên, cầm dao định đâm nàng, song nàng mỉm cười, ngạo nghễ:
- À, anh định giết tôi!
Trần Hinh trợn mắt:
- Phải, tôi giết cô, vì tôi không muốn vợ tôi làm đĩ.
- Anh đừng tưởng tôi thích làm đĩ. Chẳng qua vì anh, vì anh mà ra cả. Vì anh nên tôi thành thân tàn, ma dại. Vì yêu anh, nên tôi hất hủi hàng chục người đàn ông giàu có, đúng đắn, muốn cưới tôi làm vợ. Từ nay, tôi sẽ ở nhà không làm gì nữa. Tôi không dám đòi xe hơi Hoa Kỳ, nước hoa Ba Lê, và rượu sâm banh uống thay nước trà như ngày xưa, mà chỉ xin ngày hai bữa, ăn cơm với rau muống luộc, và có tiền đi xe buýt. Từ nay, anh kiếm tiền đi. Từ nay, anh kiếm tiền nuôi tôi, và nuôi cơn nghiện kinh khủng của anh đi. Trời ơi, nếu tôi không hủy hoại cuộc đời thì làm sao anh đủ tiền hút thuốc và uống rượu như hũ chìm...
Nói xong, nàng khóc tấm tức một mình... Từ đó, Trần Hinh không dám ghen tuông, không dám giận dữ nữa. Nàng nói rất đúng. Vì hắn mà nàng xuống giốc. Và trong khi xuống giốc, nàng vẫn phải cung phụng thuốc phiện và rượu chè cho hắn. Trót đa mang rồi, hắn bỏ không được nữa.
Hôm nay, tự ái bị ngủ quên trong lòng, người đàn ông bùng dậy. Mặt đỏ gay, Trần Hinh dằn từng tiếng:
- Tôi sắp có tiền. Có thật nhiều tiền. Cô không phải đi làm nữa đâu.
Người đàn bà tung cái chăn đơn trên ngực ra:
.- Thôi, ông đừng nói dóc nữa. Tôi nghe ông khoe khoang như thế mãi rồi.
Trần Hinh đặt tay lên cái tắt đèn:
- Lát nữa em sẽ biết. Bây giờ anh đi nhé. Cử sửa soạn đi, chúng mình sẽ vào Chợ Lớn ăn cho sướng thần khẩu.
- Anh có bao nhiêu? Đừng đi ăn nữa. Để em lấy cái áo dài trên tiệm về. Ba má gửi thư giục mãi mà em chưa dám về thăm.
- Ồ, em lấy một chứ lấy mười cái áo cũng còn dư tiền.
- Này, anh đừng làm bậy. Em không muốn anh đi tù đâu.
- Dĩ nhiên. Ai lại thích ngồi tù bao giờ. Anh đi nhé!
Cánh cửa mở ra cọt kẹt rồi đóng sầm lại. Huýt sáo miệng, Trần Hinh bước xuống cầu thang.
Vừa đi được mấy bước, hắn gặp lão chủ - một người Tàu bụng đầy mỡ, đương tán tỉnh một ả xẩm chỉ bằng nửa tuổi. Lão chủ chặn Trần Hinh lại:
- Chào ông Rờnê. Ông đi đâu sớm thế?
Trần Hinh tránh sang bên:
- Chào ông. Tôi bận đi việc gấp,
- Thế nào, ông Rờnê? Ông đã có tiền phòng trả cho tôi chưa?
Tràn Hinh đứng lại, nhìn giữa mắt lão chủ phì nộn:
- Nội ngày nay tôi sẽ thanh toán hết cho ông,
- Còn tiền nợ nữa.
- Cũng thế. Đúng 12 giờ trưa, tôi sẽ trả ông không thiếu một xu.
Lão chủ đứng thừ người như phỗng đá. Trần Hinh vuốt má ả xẩm bằng dáng điệu thành thạo, rồi nhảy ba bước một xuống cầu thang.
Bên ngoài, thành phố Sàigòn đã thức dậy trong sự ồn ào náo nhiệt thường ngày.
*
* *
Nghe tiếng động, Văn Bình vội vàng nhắm mắt lại. Chàng đoán không sai, qua kẽ mắt chàng thấy cánh cửa mở ra nhè nhẹ rồi người nữ điều dưỡng quen thuộc rón rén bước vào.
Như mọi lần, nàng mặc áo bờ-lu hồ bột trắng toát, mặt trang điểm sơ sài bằng lớp phấn hồng phơn phớt và màu son vàng nhạt. Sự cẩu thả này làm nàng đẹp hơn lên. Mắt nàng đen và to, lông mi dài tha thướt, còn dài tha thướt hơn lông mi giả đặc chế tại Ba Lê, kinh đô sắc đẹp. Môi nàng hơi cong, để lộ hai cái răng chó dễ thương, và mỗi khi nàng cười, lúm đồng tiền quyến rũ lại hiện ra trên đôi má bầu bĩnh, và thơm ngon như trái dâu Đà Lạt ướp đường, đá vụn và rượu rom thượng hạng.
Gần đến giường Văn Bình, nàng đứng lại lặng lẽ ngắm chàng. Tưởng chàng ngủ say, nàng cúi xuống, kéo mền lên, đắp ngang ngực cho chàng. Hơi thở thơm ngào ngạt - thơm mùi trinh nữ, không phải thơm mùi kẹo bạc hà của một số phụ nữ cần giữ vệ sinh miệng - quạt vào mũi Văn Bình. Toàn thân chàng nóng ran.
Chàng nằm trong bệnh viện Z-005 của sở Mật vụ vừa đúng 4 tuần lễ. 4 tuần lễ dài giằng dặc trong một căn phòng riêng biệt, cửa đóng ngày đêm máy lạnh chạy rì rầm. Theo lệnh của y sĩ điều trị chàng không được ra ngoài, kể cả đi tản bộ trong khu vườn rộng rãi, cây trái xanh um, trồng toàn hoa hông, và hoa thược dược, sở dĩ y sĩ ra lệnh cấm phòng vì chàng mắc một chứng bệnh kỳ dị.
Hai bàn tay của chàng đột nhiên cương lên, rồi mụn đỏ mọc đầy. Y sĩ cho biết chàng phải tránh ánh sáng mặt trời cho đến ngày bình phục. Lát nữa, y sĩ sẽ mở băng cho chàng. Chàng sắp thoát khỏi nhà ngục, tiếp tục cuộc đời bay nhảy bên cạnh những người đàn bà tuyệt đẹp. Nhưng phút này, chàng phải thưởng thức làn da trắng nõn và êm mát cua cô y tá trẻ măng.
Nàng trạc hăm hai, cái tuổi căng phồng nhựa yêu của nữ giới. Thân thể cân đối của nàng như được đúc trong lò riêng của thần Vệ nữ, nên cái áo bờ-lu nghiêm trang và rộng thùng thình không đủ sức ngăn cản sự trỗi dậy của những đường cong bốc lửa. Hàng ngày, nàng vào thăm chàng ba lần, sáng, trưa, chiều, đúng giờ, đúng phút, như cái đồng hồ tốt. Nhiều đêm, nàng ngồi thức bên chàng, căn phòng vắng vẻ, chàng tha hồ hành động. Song lại nằm im vì y sĩ đã dặn dò kỹ lưỡng. Văn Bình không tài nào quên được vẻ mặt nghiêm nghị của ông thầy thuốc gần ngũ tuần, tóc hoa râm, đeo kính cận thị dày cộm - cũng như ông Hoàng - và giọng nói chậm rải:
- Bệnh này kỵ nhất là sự bộc phát tình cảm. Buồn nhiều cũng nguy, mà vui nhiều cũng nguy. Nguy nhất là uống rượu, thức đêm và đam mê hoa nguyệt. Trong thời gian chữa bệnh, ông bắt buộc phải sống như nhà tu. Cụ tổng giám đốc cho biết ông là người cứng đầu số một trên thế giới. Cứng đầu theo tôi là một đức tính, nhưng trong trường hợp này, cứng đầu sẽ làm ông thiệt mạng oan uổng.
Nếu ông cứng đầu, lén ra vườn hóng mát, lén uống rượu huýt-ky, lén gặp đàn bà, áp lực động mạch của ông sẽ tăng lên, nọc độc truyền vào máu, khi ấy chỉ có Hoa Đà tái sinh mới cứu ông được.
Bình sinh coi cái chết là trò đùa mà Văn Bình lại giật thon thót trước lời cảnh cáo của y sĩ. Thật ra, chàng không sợ chết bằng sợ ốm liệt giường, không được lên Đà Lạt hú hí với Thúy Liễu. Thúy Liễu nhiều tuổi hơn cô y tá ngây thơ đang cúi xuống mặt chàng, song lại chứa đựng nhiều quyến rũ hơn.
Khuôn mặt tươi như hoa vẫn cúi xuống, cúi xuống. Môi nàng - làn môi hơi dày, biểu lộ sự đa cảm say sưa - gần chạm mặt chàng. Đột nhiên, chàng vung tay ra, nắm lấy vai nàng. Nàng la lên:
- Trời ơi!
Nàng la lên, có lẽ vì hoảng hốt. Nhưng chỉ một phần mười giây đồng hồ sau, nàng im lặng. Nàng không cuõng lại cái hôn cháy bỏng của chàng điệp viên đa tình Z. 28. Có lẽ trong thâm tâm, nàng muốn xô chàng ra, song một mãnh lực thần diệu không biết từ đâu tới làm tứ chi nàng mềm nhũn như rút hết xương. Nàng từ từ rơi gọn vào tay chàng, mắt nhắm nghiền, hơi thở rồn rập.
Nhanh nhẹn, Văn Bình nhỏm dậy. Dáng điệu lo lắng, cô y tá hỏi:
- Khổ quá, ông mệt không?
Văn Bình nhoẻn miệng cười:
- Trái lại, tôi khoẻ hơn trước.
Nàng lắc đầu:
- Thưa ông, em sợ lắm... Bác sĩ đã ra lệnh…
Chàng gạt phắt:
- Tay tôi hoàn toàn bình phục rồi.
Vâng. Bác sĩ dặn em đến mở băng cho ông. Tuy nhiên, em đề nghị ông chích một mũi thuốc khỏe.
- Cô vừa chích rồi.
Mặt nàng đỏ ửng:
- Ông đùa quá, bác sĩ biết thì chết.
- Hừ, được chết trong tay của cô cũng đáng dời.
- Ông đừng nói gở.
Ngoan ngoãn như đứa trẻ, chàng chìa tay cho cô điều dưỡng tháo bông băng. Chàng suýt reo lên một tiếng khi thấy bàn tay hoàn toàn lành lặn. Những mụn lở nhầy nhụa đã biến mất. Cô y tá ném bông băng vào cái khay trắng sửa soạn bưng ra ngoài. Nàng đứng hơi nghiêng, cái lưng tròn của nàng nổi bật dưới làn vải mỏng. Văn Bình định ôm chầm lấy nàng, song cánh cửa lại mở rộng.
Người bước vào là Nguyên Hương, nữ bí thư của ông Hoàng. Trông thấy nàng, Văn Bình im thin thít. Chàng vẫn sợ tính ghen kinh khủng của Nguyên Hương, dầu nàng chưa đính hôn chính thức với chàng. Trong 4 tuần lễ điều trị, chàng gặp nàng hàng ngày. Nàng mang sách báo, hoa quả và thuốc men vào cho chàng, và lần nào cũng ngồi lại thật lâu. Sự chăm nom thường xuyên này làm chàng cảm động. Nhiều lần chàng thầm hứa với lương tâm sẽ tu tỉnh, không la cà như xưa, để trả ơn nàng. Nhưng không hiểu sao con ngựa gián điệp bất kham chỉ tu tỉnh được một buổi rồi chứng nào tật ấy.
Nguyên Hương thân mật nắm tay chàng:
- Em đến đón anh về.
Cô y tá khả ái đã lỏn ra ngoài. Văn Bình ôm choàng cái eo nhỏ xíu và rắn chắc của Nguyên Hương, định kéo vào lòng. Nguyên Hương hất chàng ra, giọng hờn dỗi:
- Anh nhớ đây là bệnh viện.
Văn Bình đáp:
- Bệnh viện không có quyền cấm anh hôn người yêu của anh.
- Ai dám cấm anh, vì cấm anh sao được. Còn em, em phải bảo vệ danh dự. Hơn ai hết, anh đã biết em là thiếu nữ trong trắng, từ nhỏ đến lớn chưa hề yêu ai, trừ anh, chưa hề hôn người đàn ông nào, trừ anh. Lẽ ra, em phải khe khắt với anh. Song nhiều lần em đã dễ dàng với anh. Em sẵn sàng bỏ qua nếu anh bừa bãi lén lút ở nơi nào khác. Em không muốn những việc xấu xa ấy diễn ra ngay trước mắt em.
-...?
- Lần sau, khi anh hôn đàn bà lạ, anh nên đề phòng son dính vào mặt và cổ áo. Hôn nữ y tá trong bệnh viện Z.005 của sở Mật vụ càng nên thận trọng hơn nữa. Em không ngờ một điệp viên thượng thặng, đa mưu túc kế, đầy rẫy kinh nghiệm như anh, lại bị đánh lừa dễ dàng đến thế.
Mặt hơi tái, Văn Bình nói:
- Xin lỗi em.
- Anh tài lắm. Nhất là tài xin lỗi. Anh đã xin lỗi em hàng chục lần. Và hàng chục lần, em đã làm lành lại với anh. Anh thừa hiểu em không tài nào giận anh được.
- Vậy em còn đợi gì mà chưa cho anh xử hòa.
- Thong thả. Nhân viên bệnh viện đang tụ họp đầy ngoài hành lang để ngắm vết son trên miệng anh.
Vội vàng, Văn Bình nhìn vào gương. Nguyên Hương nói đúng: môi chàng nhuộm màu đỏ vàng, màu son đàn bà. Chàng lấy khăn mặt ướt lau thật mạnh. Lạ lùng xiết bao, lớp son như bám chặt vào da, không chịu thấm vào khăn mặt. Chàng nhìn nàng, cầu khẩn:
.- Lần này nữa thôi, em cứu anh. Từ nay trở đi, anh không dám làm liều nữa. Hừ, anh khỏng ngờ cô gái ngây thơ kia lại xỏ anh.
- Anh đừng nghi oan nàng, tội nghiệp. Nàng chỉ vâng lệnh bác sĩ. Em tiên đoán anh sẽ làm bậy trước khi rời bệnh viện nên mang sẵn thuốc nước đặc biệt này vào cho anh. Loại son dính vào môi anh được chế bằng hóa chất riêng, không cách nào lau sạch, dầu lấy ét-xăng, cồn 90 độ, hoặc dao cạo.
Dáng điệu ngượng ngập, Văn Bình chìa miệng cho Nguyên Hương lau bằng bông tẩm thuốc. Lệ thường, được đứng gần nàng, Văn Bình đã hôn nàng. Song lần này chàng hiền lành và khờ khạo như chú mán mới xuống thành phố. Thương hại người yêu, Nguyên Hương tủm tỉm cười.
Hai người đi bên nhau ra hành lang. Bệnh viện của sở Mật vụ là một tòa biệt thự 3 tầng, kiến trúc kiểu mới, cửa lắp toàn kính, mái bằng, bao lơn trồng hoa rực rỡ, năm lọt giữa một khu vườn rộng bát ngát đầy kỳ hoa, dị thảo, ở đường Hồng Thập Tự. Phòng Văn Bình ở lầu trên cùng, nhìn xuống vườn Tao Đàn. Tường và cửa được chế bằng vật liệu hãm thanh nên tiếng động ồn ào dưới đường không lọt vào trong phòng.
Sau 4 tuần lễ cấm cung, Văn Bình cảm thấy thân thể khỏe khoắn và tâm hồn thơ thới. Trong đời gián điệp, chàng đã mất tự do nhiều lần, lần bị địch bắt, lần nằm dưỡng đường, song chưa lần nào chàng cảm thấy cay đắng bằng lần này. Chàng có ấn tượng là bị các bạn đồng nghiệp về hùa với nhau để cho chàng ăn ớt và bồ hòn. Z. 28 là đệ nhất điệp viên! Z. 28 chưa hề thua ai! Z. 28 không bao giờ bị lừa! Giờ đây, Z. 28 biến thành điệp viên hạng bét, bị thua một cách trào lộng. Chàng không bị thua vì kém võ thuật, kém mưu chước. Mà thua vì đàn bà. Đàn bà muôn thuở.
Trước khi sang số cho xe chạy, Nguyên Hương liếc chàng bằng đuôi mắt. Cái nhìn lạ lùng của nàng bắt Văn Bình nhớ lại quá khứ, một quá khứ rất gần, cách đây 4 tuần lễ, trước ngày chàng được nàng lái xe - cũng cái xe đưa quen thuộc này - vào dưỡng đường Z. 005.
Hôm ấy trời mưa tầm tã. Đang nằm trong mền, đánh phé với Mộng Kiều cho khuây khỏa, thì Lê Diệp xô cửa phòng. Như thường lệ, mỗi lần nghỉ xả hơi, Văn Bình tới căn gác thần tiên ở đường Võ Tánh, hú hí với Mộng Kiều.
Thấy bạn, chàng hơi cau mặt, song một giây đồng hồ sau, phải tươi cười. Chàng mời Lê Diệp ngồi xuống giường:
- Phải đi, hả?
Lê Diệp khoát tay, phân vua:
- Anh đừng mắng tôi vội. Hôm nay, không có việc làm, buồn như trấu cắn, tôi tạt qua thăm anh chị, chứ không dám phá đám đâu.
Biết ý hai người, Mộng Kiều choàng áo ngủ vào người - vì ở trong phòng nàng chỉ mặc bikini hai miếng nhỏ xíu - và tới góc nhà, cắm bếp điện pha cà phê. Văn Bình hỏi bạn:
- Có gì lạ không?
Lê Diệp lắc đầu:
- Không. Tôi vừa gặp ông Hoàng xong, ông Hoàng nhờ tôi dặn anh là đơn xin nghỉ thêm 4 tuần nữa được chấp thuận.
Văn Bình mừng rơn:
- May quá. Tôi cứ sợ Nguyên Hương ỉm đơn của tôi, không trình lên ông cụ, hoặc trình lên nhưng đề nghị bác.
- Anh mừng hơi sớm. Theo lệnh ông Hoàng, anh được nghỉ, song phải ở lại Sài gòn.
- Ở lại Sài gòn? Anh không biết là sáng mai tôi đi Nha Trang à? Tôi đã lấy phòng đàng hoàng rồi. Xin anh nói giùm với Nguyên Hương là tôi đi một mình để nàng khỏi phá.
- Tôi sẽ cố giúp anh. Tuy nhiên, tôi chưa dám bảo đảm. Ông Hoàng cho biết anh cần có mặt ở Sài gòn vì sắp có công việc quan trọng.
- Phiền anh nhận công việc thay tôi. Anh là nhân viên thượng thặng, còn tài ba hơn tôi nhiều.
- Anh cứ chế riễu.
- Tôi nói thật đấy.
- Tôi sẵn sàng giúp anh, song ông Hoàng vừa phải tôi ra Huế để điều tra về một vụ nhị trùng. À, anh để tôi nói nốt: trong thời gian nghỉ phép, hàng ngày anh phải liên lạc điện thoại với Trung ương. Mặt khác, địch đang cho người theo dõi anh để ám sát, anh cẩn thận trọng hơn trước.
- Không phải ngày nay địch mới theo dõi tôi, và tìm cách ám sát. Tôi có cảm tưởng là Nguyên Hương quan trọng hóa vấn đề để giữ tôi ở lại Sài gòn. Tôi nói thẳng anh biết là tôi quyết đi Nha Trang, ông Hoàng không bằng lòng thì tôi từ chức, thế thôi.
- Hà, hà, giấu đầu hở đuôi rồi, ông bạn Z. 28. Tôi không phải là cô gái thơ ngây, anh biết không? Từ xưa đến nay, không bao giờ anh đi nghỉ mát một mình.
- Khổ quá, tôi nói thật mà anh không chịu tin. Chẳng lẽ anh muốn tôi thề.
- Anh để dành lời thề cho phụ nữ, tiện lợi và hiệu nghiệm hơn. Còn tôi, tôi không tin vào lời thề. Nhất là lời thề cá trê chui ống của anh. Cho dẫu anh nói thật, tôi cũng không tin. Vì nếu anh đi Nha Trang một mình không lý nào anh nằng nặc đòi đi cho kỳ được, trong khi anh còn nhiều bạn gái thân thiết ở Sàigòn. Nhưng thôi, đào sâu vào đời tư của nhau làm gì, hả anh?
Lê Diệp nheo mắt nhìn bạn. Rồi cả hai phá lên cười. Như Lê Diệp nói, Văn Bình không thể nằng nặc đòi đi, nếu không có người đẹp đi theo. Văn Bình đã khôn ngoan nói là đi Nha Trang, kỳ thật chàng sửa soạn đi Đà Lạt. Và đi với giai nhân Thúy Liễu, nữ điệp viên phi thường của sở, phi thường về hai mặt tài nghệ và nhan sắc.
Sợ bị Nguyên Hương khám phá, Văn Bình áp dụng kỹ thuật liên lạc tình báo để thông tin với Thúy Liễu. Nàng vừa từ miền tây về, và được ông Hoàng cho nghỉ phép hai tháng.
Chân ướt, chân ráo, Thúy Liễu đã được đưa lên phi cơ riêng. Ông Hoàng dành máy bay riêng cho nàng đi nghỉ mát, song nàng phải đi một mình. Lên đường gấp rút, nàng không có thời giờ gặp Văn Bình. Lên tới nơi, nàng lập tức đánh điện về cho chàng. Bức điện gồm những chữ lạ lùng như sau:
“Vàng đôi hò
Tinh hiện lạc
Lễ ổn suy
Mai năm hoàng
Tinh mây cù
Lãm bồ”
Bức điện không đề tên người gửi, được gửi từ Nha Trang tới phòng Mộng Kiều. Mộng Kiều đã quen với nếp sống bí mật của chàng nên không hỏi gì. Vả lại, nếu nàng hỏi, chàng cũng không hé răng.
Bức điện được viết theo một mật mã giản dị, song người ngoài – kể cả chuyên viên mật mã - không hiểu nổi. (16) Nghĩa thật của nó như sau:
“Mười tám, hẹn anh tại Đà Lạt, cố nghỉ một tháng.
Hôn anh ngàn lần. Thúy Liễu”
Nhớ lại nội dung lý thú của bức điện hò hẹn, Văn Bình tiếp tục cười ngặt nghẽo. Mộng Kiều bưng cà-phê lại, giọng ngạc nhiên:
- Anh vừa đánh lừa cô nào phải không?
Lê Diệp đáp:
- Không. Thỉnh thoảng chúng tôi hay cười rũ rượi như vậy.
Mộng Kiều nguýt dài:
- Phải, các anh cười nữa đi. Để xem cười đến bao giờ.
Nàng nguây nguẩy vào buồng tắm, Văn Bình gọi giật lại:
- Anh có làm gì mà em giận.
Nàng đáp, giọng tấm tức:
- Còn không làm gì à? Em nói anh biết trước. Em không cho anh đi đâu.
- Trời ơi, hết vỏ dưa lại bị vỏ dừa. Tưởng trên cõi đất này chỉ có Nguyên Hương hay ghen, ngờ đâu Mộng Kiều còn ghen hơn nữa.
- Ớt nào ớt lại chẳng cay. Trước kia, em chưa ghen vì còn hy vọng anh hồi tâm. Giờ đây, anh lăng nhăng hàng đống, em không ghen sao được.
Ngoảnh sang Lê Diệp, nàng lên giọng:
- Yêu cầu anh làm việc này giùm em. Cái xe Giuletta S.S. sơn trắng đậu trước tòa báo Quyết Tiến, phiền anh xì hơi hai bánh trước. Đêm nay, em ở nhà, không đi làm. Anh Văn Bình cũng phải ở nhà với em.
Lê Diệp, chối đây đẩy:
- Tôi không dám.
Nghĩ ra kế, Văn Bình ôn tồn bảo Lê Diệp:
- Anh nghe lời nàng đi. Đêm naу, tôi ở nhà.
Lê Diệp trợn tròn mắt:
- Anh nói đùa hay nói thật?
Văn Bình nhún vai:
- Thật đấy. Đàn bà muốn là Trời muốn.
Lê Diệp đưa tay chào bạn, rồi mở cửa ra cầu thang. Văn Bình khui chai rượu huýt-ky rồi đặt lên bàn, nói với Mộng Kiều đang nhìn qua cửa sổ xuống đường, vẻ mặt hờn giận:
- Anh chịu nghe lời em rồi, em còn hờn giận gì nữa. Chóng ngoan, lại cụng ly với anh cho vui.
Bên ngoài trời vẫn mưa lớn. Trời mưa, uống huýt-ky là thú hảo hạng của tao nhân mặc khách. Mộng Kiều lại là tay thần tửu, uống rượu ít khi say. Văn Bình muốn nàng say mèm. Say không còn biết trời đất gì nữa.
Đến ly thứ ba, Văn Bình ôm nàng hôn say sưa. Nàng tê mê, đứng lặng một hồi, mắt lim dim. Nhanh như cắt, Văn Bình bỏ một viên thuốc nhỏ xíu vào ly nàng. Đó là thuốc ngủ cực mạnh. Mộng Kiều uống thêm ly nữa rồi ngồi phịch xuống đi văng. Song nàng còn đủ tỉnh táo để bấu vai chàng tóe máu. Nàng dựa đầu vào ghế, thở dài:
- Anh bắt em ngủ đến bao giờ?
Văn Bình vuốt tóc nàng:
- Em tha lỗi cho. Trưa mai, em mới tỉnh.
Văn Bình tiên đoán nàng sẽ đòi thuốc giải mê nếu không sẽ la hét om sòm. Trái lại, nàng vẫn giữ vẻ mặt bình tĩnh và tươi tắn. Hình như nàng biết rõ mưu kế của chàng. Trước khi nhắm nghiền mắt, ngủ li bì, Mộng Kiều cười một cách ngạo nghễ:
- Cao nhân tắt hữu cao nhân trị. Em…
Lưỡi nàng líu lại. Chưa nói hết câu, nàng đã ngủ vùi như đứa trẻ. Văn Bình hôn nhẹ vào trán nàng, rồi rón rén thay quần áo. Chàng phải hành động thật nhanh, sợ bị ông Hoàng bắt lại. Chàng ném đôi giày đế da vào góc, chọn loại giày ban đêm, êm như ru, khoác áo tơi mưa lên người, rồi mở cửa phòng.
Ngoài đường, mưa vẫn trút xuống ào ào. Nghĩ đến Thúy Liễu đang chờ chàng trên cao nguyên lạnh lẽo, Văn Bình quên cả mưa bắn vào mặt và làm nặng chĩu đôi giày vải thường ngày nhẹ như bấc.
Chiếc Giuletta ngoan ngoãn của chàng vẫn nằm trên lề đường.
Mở cửa, định trèo lên, chàng sực nhớ ra, nhìn xuống bánh xe. Lê Diệp không muốn bạn đi bộ nên chỉ xì hơi một vỏ lốp. Văn Bình nhăn mặt lấy đồ nghề ra thay. May Lê Diệp còn tình nhân đạo, nếu cả hai bánh trước đều bẹp dí thì Văn Bình chỉ còn nước ngồi bó gối trong xe chờ sáng, lết tới trạm xăng Ngã Sáu bơm lại.
Chàng loay hoay gần nửa giờ mới xong. Mặc trời mưa, đường sá bẩn thỉu, Văn Bình chui xuống gầm xe, mở đèn bấm quan sát. Chàng đoán không sai: một cái hộp hình chữ nhật, lớn bằng gói thuốc lá được gắn bên dưới, gần thùng xăng. Hộp này phát ra một tín hiệu đặc biệt, chỉ có nhân viên phòng thường trực của sở nghe được. Căn cứ vào tín hiệu tạch tè, họ có thể biết chàng lái xe đi đâu.
Văn Bình nhếch mép cười khoái trá. Phen này ông Hoàng sẽ gắt như mắm tôm! Chàng giấu cái hộp tín hiệu vào hốc cây. Từ giờ đến sáng mai, nó vẫn tiếp tục kêu tạch tè, nhân viên thường trực đinh ninh là Z. 28 vẫn nằm khàn trong tổ uyên ương ở Võ Tánh. Ngờ đâu, chàng đã cao bay xa chạy. Khi họ biết, Văn Bình đã lên tới Đà Lạt. Chàng sẽ kéo Thúy Liễu vào trong rừng, tới một xóm quen, ở lì một tháng. Dầu có hàng ngàn tai mắt ở cao nguyên, ông tổng giám đốc Mật vụ vẫn không thể tìm ra chàng ẩn náu ở đâu.
Đột nhiên, Văn Bình đau nhói ở bàn tay. Rồi như phép quỷ thuật, da tay của chàng sưng lên. Bực bội, chàng gãi thật mạnh, rồi chìa tay dưới mưa. Song chàng không bớt nhức nhối. Có lẽ chàng nhức nhối thêm lên. Dưới ánh đèn trong xe, Văn Bình giật mình: trong khoảnh khắc bàn tay chàng đã sưng lên gấp rưỡi.
Thoạt đầu, chàng tưởng bị sâu cắn, nhưng bây giờ chàng đã đến 1 kết luận rõ rệt: Chàng chạm phải chất độc. Chạm ở đâu, chạm chất độc nào, chàng cũng không biết. Dầu sao, chàng không thể lên Đà Lạt đêm nay. Chàng phải vào phòng khám bệnh riêng của Sở để tìm hiểu nguyên nhân. 8 giờ sáng, phòng mạch mới mở cửa, chàng không thể chờ được. Vì biết đâu địch đã lập mưu đầu độc chàng?
Thở dài, chàng gọi giây nói cho ban thường trực của Sở. Trong vòng 10 phút, một chiếc xe hơi đua xịch lại. Chàng được chở đến dưỡng đường Z.005. Chàng đinh ninh chỉ lưu lại Z.005 đến sáng ngờ đâu đúng 4 tuần lễ. 4 tuần lễ nhịn ăn, nhịn hút Salem, nhịn huýt-ky nguyên chất, nhịn du hí với người đẹp.
… Nguyên Hương vẫn mặc cái áo dài mỏng, bằng hàng suya-ra xanh nhạt, in những bông hoa lớn tròn trĩnh, cũng tròn trĩnh như bộ ngực nguyên tử của nàng. Nàng vẫn trẻ, vẫn đẹp, như dạo nào, nhan sắc siêu phàm của nàng không bị thời gian chi phối. Nàng vẫn có cái nhìn bằng đuôi mắt, cái nhìn hóm hĩnh làm mặt chàng nóng ran, như ngồi gần bếp lửa.
Đến trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ở Đakao, Nguyên Hương lái xe sát lề, đậu lại. Văn Bình hỏi:
- Chúng mình xuống đây à?
Nguyên Hương đáp:
- Không. Em chỉ có nhiệm vụ lái anh tới đây. Lê Diệp sẽ đưa anh sang Thủ Đức.
- Sang Thủ Đức làm gì?
Nàng đáp, giọng bí mật:
- Em không biết.
Văn Bình định hỏi thêm, song Lê Diệp đã ngừng xe phía sau. Nguyên Hương vẫn giữ nụ cười rí rỏm và lạnh lùng trên môi. Nàng không hôn từ biệt như thường lệ. Có thể trên đường phố đông đảo nàng không dám tỏ tình thân mật, song không ai cấm nàng nhìn chàng bằng cặp mắt đắm đuối và buông ra câu nói đằm thắm:
- Chào anh, em về.
Nguyên Hương thản nhiên cho máy nổ. Thái độ kỳ quặc của nàng làm Văn Bình sửng sốt. Chàng hỏi:
- Em chưa quên câu chuyên nhỏ nhặt ở bệnh viện ư?
Nàng thở dài:
- Em muốn quên mà không được. Vì chuyện ở Z.005 bắt em nhớ lại nhiều câu chuyện khác. Đàn bà chúng em có giác quan thứ sáu rất bén nhạy. Anh không giấu nổi em đâu.
Văn Bình bước xuống xe, như người vừa đánh mất một vật quý. Trời! Nàng đã biết sự thật. Nàng đã biết chàng cố hẹn với giai nhân ở Đà Lạt. Những việc xảy ra trong tháng qua đều do nàng bố trí. Bố trí để trị tội anh chàng sở khanh tham ăn.
Lê Diệp đon đả:
- Chào anh. Ở Z. 005 ra có khác. Người đẫy hẳn ra.
Văn Bình nhìn thẳng vào mắt bạn, giọng bực bội:
- Nguyên Hương bố trí đưa tôi vào bệnh viện phải không?
Lê Diệp phá lên cười:
- Dĩ nhiên. Buổi tối trời mưa tầm tả, tôi đến Võ Tánh tìm anh, thì nàng ngồi chơi trong xe dưới đường. Nàng liên kết với Mộng Kiều để xỏ anh một vố, hy vọng anh cạch đến già. Quả nấm cửa trong phòng Mộng Kiều được quét «hơi mù-tạt» (l7). Khi anh đóng cửa, bắt buộc anh phải cầm quả nấm. Ra xe, lấy đồ nghề thay lốp xì hơi, anh chạm hơi mù-tạt lần nữa. Như anh đã biết, hơi mù-tạt làm cho tay chân ghẻ lở và nhức nhối tức khắc. Sợ bị đầu độc, anh phải vào bệnh viện của sở xin thuốc. Và y sĩ tìm cớ giữ anh lại.
- Ông Hoàng biết vụ này không?
- Không. Nguyên Hương làm hết. Nàng được nữ nhân viên ban Biệt vụ giúp đỡ nên thành công dễ dàng. Chỉ tội nghiệp Thúy Liễu.
- Anh cũng biết tôi có hẹn với Thúy Liễu ư?
- Hừ, anh chỉ giỏi hơn điệp viên R. U. chứ không giỏi hơn đàn bà được đâu. Họ tài lắm. Mũi họ có thế đánh hơi trước một ngàn cây số. Anh bị đưa vào Z.005 xong, Nguyên Hương gửi điện lên Đà Lạt cho Thúy Liễu, nói là anh bị đau, xin hẹn tới lần khác.
- Bức điện giả tên tôi à?
- Không. Ký tên Nguyên Hương hẳn hoi.
- Trời ơi!
- Rốt cuộc, Thúy Liễu phải đáp phi cơ qua Hồng Kông.
Văn Bình ngồi lầm lì, nhìn Lê Diệp phóng như bay trên xa lộ Biên Hòa. Bỗng Văn Bình thở dài thườn thượt:
- Có lẽ tôi phải lập gia đình, anh ạ.
Lê Diệp reo lên:
- Ngày ấy, tôi sẽ uống một chai huýt-ky. Hẳn anh đã biết huýt-ky đối với tôi cũng như thuốc độc xi-a-nuya.
- Tôi nói thật đấy. Sau nhiều năm bông lông, tôi bắt đầu chán ngấy rồi. Nguyên Hương đã cho tôi vào xiếc không biết là lần thứ mấy. Lần nào tôi cũng thua sát ván. Lần này, Mộng Kiều lại tiếp tay nữa. Tôi không còn đồng minh nữa, cả anh là bạn thân nhất cũng về phe nàng.
Đến lượt Lê Diệp thở dài:
- Anh đừng tưởng tôi về phe với nàng. Chẳng qua tôi bị kẹt.
- Bị kẹt?
- Phải. Nàng đã nắm được thóp.
- Lạ thật. Lần đầu tiên, tôi nghe anh nói đến đàn bà.
- Thế mới khổ. Tôi muốn dứt mà không được. Nguyên Hương tóm được lá thư tôi gửi cho nàng. Sợ Nguyên Hương mang lá thư tình ra cho chị em trong Sở đọc, tôi đành phải chống anh. Lê Diệp, anh chàng sếu vườn, kẻ thù bất diệt của phụ nữ, giờ đây viết thư tỏ tình với phụ nữ… Ê mặt lắm, anh châm chước cho tôi.
Nghe bạn nói, Văn Bình cười rộ, quên hết âu sầu và hờn giận. Từ nay, chàng đã tìm được đồng chí. Xong công tác, chàng sẽ trả thù. Trả thù bằng cách hẹn Nguyên Hương đi Cấp rồi cho nàng «leo cây». Lại còn Mộng Kiều, chàng không thể sống một mình. Chàng nhún vai, lẩm bẩm:
- Thôi, hòa cả làng!
Xe hơi chạy qua công trường Nhà máy Xi măng Hà Tiên. Lê Diệp bớt tốc độ, rồi quẹo vào con đường nhỏ bên phải, chạy thẳng tới một cái trại lớn, cây cối um tùm.
Trời lối mịt, Văn Bình không nhận ra được gì, ngoại trừ cánh cổng đen chùi chui, và hàng rào kẽm gai trùng điệp. Trông ngoài, ai cũng tưởng đây là thửa đất nuôi gà vịt và trồng hoa quả, thường thấy dọc xa lộ Biên Hòa. Cả đến Văn Bình, nhân viên cao cấp của sở Mật vụ, kinh nghiệm dày dạn, cũng lầm.
Thật ra, đó là một trong các cơ sở bí mật nhất của ông Hoàng, Lê Diệp lái vòng một đường đê khá cao, rồi đậu trước cổng sắt. Như có phép màu, cánh cổng nặng nề mở ra, xe hơi chạy vào từ từ. Văn Bình biết là có người đợi sẵn sau cửa.
Lê Diệp vừa xuống xe, hai con bẹt-giê lông đen, lớn bằng con beo lao vút lại như gió. Cặp chó Đức đặc biệt này đã được huấn luyện về công tác canh phòng. Một con có thể đánh ngã ba tên gian phi biết võ. Dầu có dao găm hoặc súng lục, cũng khó triệt hạ được chúng.
Nhận ra Văn Bình, cả hai con bẹt-giê đều quẫy đuôi, miệng thở phì phò. Chúng thân với chàng từ lâu, vì chàng đã nuôi chúng sau khi lọt lòng mẹ. Đặc điểm của loại bẹt-giê kỳ lạ này là không bao giờ sủa. Ban đêm, chúng núp trong bụi rậm, và vồ vào cổ gian phi, cắn nát cuống họng. Văn Bình âu yếm xoa đầu từng con.
Không thấy ai ra đón, chàng hỏi Lê Diệp:
- Văn phòng ông Hoàng ở đâu?
Lê Diệp lắc đầu:
- Ông Hoàng không có ở đây.
Văn Bình gắt:
- Nếu không có ông Hoàng thì chúng mình đến làm gì.
Lê Diệp nói:
- Tôi không nói dối anh đâu. Thú thật là tôi mới đến trại này lần đầu. Hồi chiều, đang túc trực tại trụ sở Tân Sơn Nhất, tôi được ông Hoàng gọi điện thoại về, dặn tôi đến chờ anh trước trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng, và lái đến đây. Anh sẽ vào trại, ngồi chờ.
- Chờ ai?
- Tôi cũng không biết. Nhưng anh cứ vào đây. Theo lời ông Hoàng, trại này có đầy đủ tiện nghi.
- Hừ, có ba gian nhà gạch xiêu vẹo kia mà bảo là đầy đủ tiện nghi.
Lê Diệp không đáp, ra hiệu cho bạn bước qua một con đường đá sỏi trắng hếu, rồi trèo lên tam cấp. Gian nhà tối om, khiến Văn Bình có cảm tưởng đang lang thang ngoài nghĩa trang vắng vẻ. Gió lạnh thổi rào rào qua rặng cây cao lớn ngoài vườn. Bất giác, Văn Bình ớn lạnh.
Một ngọn đèn dột ngột bật lên. Lê Diệp chìa tay ra:
- Bây giờ, tôi về đây.
Văn Bình còn ngơ ngác thì một người đàn ông đeo kính cận thị, tóc bạc gần hết, vẻ mặt đạo mạo, từ trong nhà bước ra. Lê Diệp cung kính chào.
Ông già nói:
- Anh đến chậm 2 phút, 3 giây.
Văn Bình định phản đối, vì theo chàng không ai nghiệt ngã đến mức độ tính cả số giây, nhất là trong khi hoạt động trên đất nhà. Song Lê Diệp đã thản nhiên đáp:
- Thưa, đồng hồ ông sai. Tôi tới sớm 15 giây.
Văn Bình chợt hiểu. Hai người trao đổi mật hiệu, không phải bàn chuyện đồng hồ nhanh chậm. Ông già cười vui vẻ:
- Chào hai anh. Tôi tên là Bửu Tấn.
Bửu Tấn! Cái tên nay rất quen đối với Văn Bình. Trong quá khứ, chàng được nghe ông Hoàng nhắc tới nhiều lần.
Văn Bình chưa kịp thi lễ, Lê Diệp đã trèo lên xe, rồ máy như bị ma đuổi. Bửu Tấn giơ tay vẫy. Chiếc xe bon bon ra cổng. Đã quen vời những cảnh kỳ quặc trong nghề tình báo, Văn Bình đứng yên, không thốt nửa lời.
Gian nhà rộng thênh thang, được trang trí sơ sài, nếu không nói là quê mùa. Tường quét vôi trắng đã ngả màu nước dưa, giữa nhà lỏng chỏng cái phản ngựa đen bóng, và bốn cái ghế gỗ xiêu vẹo. Bầu không khí lạnh lùng làm tăng thêm vẻ mặt lì lợm và huyền bí của chủ nhân Bửu Tấn.
Bửu Tấn nói:
- Lê Diệp phải về, vì theo lệnh, chỉ có nhiệm vụ đưa anh tới trung tâm Z.003 này mà thôi.
Văn Bình ngạc nhiên:
- Trung tâm Z.003?
- Phải, đây là trung tâm Z.003. Có lẽ lần đầu anh nghe nói tới Z.003. Trước đây, anh chỉ biết bệnh viện Z.005, và trại huấn Z.003. Z.3 là tên nhà bác học hữu danh về khoa siêu hình học, đã giúp ông Hoàng nhiều việc đắc lực. Chẳng may Z.3 tử nạn phi cơ. Để tưởng niệm một cộng sự viên tài ba, ông Hoàng lấy tên Z.3 đặt cho trại này. Theo nội lệ của sở, tên nhân viên không có con số dêrô, chẳng hạn anh là Z.28. Còn tên cơ quan thì mang hai con số dêrô. Vì vậy, trung tâm này được gọi là Z. 003.
- Đáng tiếc, vì ông biết rõ về tôi mà tôi chưa được biết gì về ông. Ông có thể cho tôi biết ông là ai không?
- Tôi đã tự giới thiệu rồi. Dĩ nhiên, tên thật của tôi không phải là Bửu Tấn, nhưng anh gọi tôi là Bửu Tấn, tiện hơn. Còn số hiệu tôi là Z.456.
Tôi là giám đốc trung tâm Z.003. Nếu anh cần hiểu thêm, tôi xin nói rõ tôi là nhà bác học.
- Chuyên về vật lý.
Bửu Tấn khoát tay:
- Không. Tôi chuyên về siêu hình học. Nôm na, tôi chuyên về ma quỷ.
Tiếng nói lanh lảnh của Bửu Tấn dội nhè nhẹ lên bốn bức tường vôi trắng. Văn Bình tưởng như chung quanh vừa lóe lên những bóng ma trơi. Chàng bèn hỏi gặng:
- Ông nói, tôi chẳng hiểu gì hết. Ông mời tôi đến đây làm gì?
- Thật ra, tôi không mời anh. Tôi chỉ tuân theo chỉ thị của ông Hoàng. Tôi sống ở đây đã lâu, không dính dáng đến sự việc xảy ra ở ngoài. Có thể nói là tôi đang sống dưới âm ty, vì khu trại này gồm toàn nhà hầm. Đã lâu tôi làm bạn với ma quỷ.
- Lạ quá, đã là khoa học thì làm gì có ma. Trừ phi ông nói đùa, tôi không tin một nhân vật sáng suốt và tài giỏi như ông Hoàng lại phí tiền, phí nhân sự để lập ra một cái trại bí mật nghiên cứu về ma. Hay là ông định dùng ma quỷ để tiến hành công tác điệp báo?
Văn Bình cố nói bằng giọng chế riễu. Chàng đinh ninh ông Hoàng bầy ra mọi việc để thử tài chàng. Hồi nhỏ, chàng tin có ma, song lớn lên, cọ sát với khoa học, lòng tin này mỗi ngày một nhạt.
Bửu Tấn vẫn giữ vẻ mặt nghiêm trang:
- Anh nói đúng. Trên nguyên tắc, khoa học và ma quỷ là hai thái cực. Khoa học càng tiến, con người càng coi ma quỷ là huyễn hoặc. Trên thế giới, dân tộc kém mở mang nhất cũng là dân tộc tin ma quỷ nhất.. Tuy nhiên, nhiều nhà bác học lỗi lạc đã đưa ra một quan niệm mới, theo đó, ma quỷ được coi là huyễn hoặc chẳng qua vì loài người chưa học đến. Sau nhiều cuộc thí nghiệm, và sưu tầm, tôi có thể xác nhận rằng ngày nay ma quỷ không còn là sản phẩm của mê tín, dị đoan nữa. Ma quỷ đang biến thành một bộ phận trong đời sống khoa học tân tiến hiện tại. Và như anh nói, trung tâm Z.003 này được thành lập với mục đích dùng ma quỷ vào công tác điệp báo.
Văn Bình hỏi:
- Tôi đến đây để làm quen với ma quỷ phải không?
- Gần đúng như thế. Không riêng gì anh, các nhân viên cao cấp khác của sở sẽ được lần lượt đưa tới trung tâm này để tham dự những cuộc tìm tòi về ma quỷ. Các cơ quah tình báo Tây phương đã lưu tâm tới địa hạt siêu hình từ nhiều năm nay. Mãi đến bây giờ, ta mới đặt ma quỷ thành vấn đề nghiên cứu thực dụng cũng không còn sớm nữa.
- Thưa, trung tâm Z. 003 được thành lập khi nào?
- Cách đây 18 tháng. Tuy nhiên, nhờ sự cố gắng của ông Hoàng, trung tâm được trang bị nhiều máy móc.
Không đợi Văn Bình lên tiếng thêm, Bửn Tấn ấn cái nút nằm khuất dưới phản ngựa bóng loán. Mặt đất trước chỗ Văn Bình đứng kêu rè rè, rồi nứt ra, để lộ miệng hầm, phía dưới thấp thoáng ánh sáng.
- Nào, mời anh xuống hầm.
Văn Bình hỏi:
- Người lạ đứng ngoài nhìn thấy được không?
Bửu Tấn đáp:
- Không. Gian nhà này được hai rặng cây che kín. Tường ngoài cũng rất cao, lại được bẹt-giê canh gác ngày đêm. Tuần trước, một bọn cướp nhảy tường vào đã bị bẹt-giê cắn trọng thương. Ngoài đội bẹt-giê gồm 6 con còn đoàn vệ sĩ núp thường trực dưới hầm, quan sát những việc xảy ra bên trên bằng vô tuyến truyền hình. Ban đêm, họ nhìn thấy rõ ràng như bạn ngày, nhờ kính hồng ngoại tuyến. Kẻ nào bén mảng vào đây sẽ bị súng thuốc mê bắn ngã. Từ trước đến nay, chưa ai lọt được xuống hầm.
- Địch khám phá ra trung tâm Z.003 chưa?
- Tôi không rõ. Dầu khám phá ra, họ cũng không đột nhập nổi. Mời anh nhìn tay tôi.
Hai người đã trèo hết bực thang, và đặt chân xuống nền nhà lót đá vân. Đối diện cầu thang bê-tông là một cánh cửa sơn trắng. Bửu Tấn ấn một cái nút chìm trong tường. Cánh cửa hé ra, một tiếng rèn rẹt nổi lên, ba viên đạn đen sì từ trong bắn ra. Bửu Tấn nói:
- Đạn này chứa thuốc mê cực mạnh. Người nào trúng đạn sẽ ngất đi tức khắc. Ai táy máy đụng vào cửa, đạn sẽ bắn ra liền, cửa nào dưới hầm cũng gắn súng thuốc mê đặc biệt.
Cửa mở ra, Bửu Tấn nói:
- Anh chờ tôi tại đây. Lát nữa, tôi quay lại.
Văn Bình nhìn quanh phòng. Chàng có cảm tưởng như lạc trong phim trường của Hít-cốc, giữa lúc quay một cuốn phim toát bồ hôi lạnh. Quang cảnh dưới hầm có thể làm người cứng bóng vía nhất toát bồ hôi lạnh. Ánh đèn màu xanh bỗng chuyển ra màu tím, rồi bóng tối lan đến dần dần.
Bửu Tấn đi thẳng ra ngoài, cửa đóng chặt lại. Tiếng bản lề nghiến vào nhau giống hệt tiếng búa đập vào con cá sắt đậy nắp quan tài. Xa xa, một điệu nhạc ai oán vẳng lại. Giống hệt tiếng kèn bát âm đám ma ò e í e một cách não ruột.
Căn phòng chỉ có một cửa sổ duy nhất. Mở ra, chàng suýt reo lên. Ngoài kia là vườn, với những thân cây cành lá um tùm. Nếu vậy thì Bửu Tấn đã lừa chàng: căn phòng này không ăn sâu dưới đất. Văn Bình bước lại gần. Chàng nhắm mắt lại, dáng điệu xấu hỗ. Lúc chàng tới trung tâm Z.003, trời đã tối mịt. Chàng không thể nào nhìn rõ cây cối trong vườn. Cái chàng vừa thấy chỉ là hình ảnh vô tuyến truyền hình được một lăng kính riêng chiếu xuống như thật.
Tiếng kèn bát âm mỗi lúc một rõ. Hồi nhỏ, chàng đã bưng tai chạy trốn khi nghe tiếng đàn cắt tim, xé ruột này. Lớn lên, chàng thường tránh những đám ma thổi kèn ò e í e. Chàng muốn người chết được kính trọng bằng sự im lặng, một đoàn người mặc đồ đen bước sau cỗ xe ngựa phủ vải đen im lặng, và những tràng hoa cườm im lặng. Chàng rất ghét sự kể lể và than khóc ồn ào...
Ông Hoàng đã biết tính chàng, có lẽ ông Hoàng ra lệnh cho Bửu Tấn thử thách sự chịu đựng của chàng. Chàng phải cho ma quỷ của Bửu Tấn một bài học.
Bỗng rầm một tiếng. Kèn bát âm nín lặng. Rồi thanh la, não bạt nổi lên ầm ỹ, hỗn độn. Như được một bàn tay bí mật chạm vào, cánh cửa hành lang mở ra. Văn Bình xăm xăm bước ra hành lang.
Ánh điện le lói trong phòng không đủ soi rõ phía trước. Bóng tối buông xuống dày đặc như đêm ba mươi tết. Một luồng khi lạnh ghê gớm từ cuối hành lang thổi bạt tới, thoang thoảng mùi tanh tưởi lạ lùng. Không phải mùi tanh tưởi quen thuộc thường có trên bãi biển, mà mùi tanh tưởi đặc biệt chàng chưa ngửi thấy bao giờ. Hồi còn đi học, mê đọc truyện Phong thần, chàng biết mùi tanh tưởi này báo hiệu cho ma quỷ xuất hiện. Chàng không tin khu trại của sở Mật vụ là giang sơn của ma quỷ Phong thần.
Thanh la, não bạt lại im bặt. Bầu không khí chìm vào sự tẻ lạnh não nùng. Mùi tanh tưởi tăng lên, quyện lấy quần áo, da thịt chàng, và làm cổ họng chàng tắc nghẹn. Chàng có cảm tưởng mạch máu lên óc bị chặn đứng, chàng không thở được nữa.
Văn Bình vận nhỡn tuyến nhìn qua màn tối, song chàng chẳng thấy gì hết. Chàng nghe rõ tiếng chân đạp bì bõm trong vũng bùn. Tiếng người gánh hàng nặng kĩu kịt. Tiếng vó ngựa dẫm nặng nề trên đường đất lồi lõm. Tiếng bánh xe bò nghiến sào sào vào đá dăm. Nhiều âm thanh nổi lên, pha lẫn nhau, giữa lúc gió lạnh tràn tới.
Văn Bình nện giày xuống sàn nhà. Rõ ràng là bằng gạch hoa. Trong nhà không có bùn, đất và đá dăm, thế mà tiếng chân người, tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe bò lại nghe rất gần, nghe rõ mồn một như chỉ cách chàng độ một, hai thước.
Văn Bình định trở lại phòng thì cánh cửa bị một cơn gió mạnh đóng đánh sầm. Loại cửa này được gắn ổ khóa tự động, hễ đóng là phải dùng chìa mởi mở được.
Góc phòng nảy lên một vệt sáng xanh lè. Những tia sáng nhởn nhơ này thường lơ lửng trên mộ người chết trong đêm thanh vắng. Trái tim Văn Bình đập chậm lại. Phải là người nhiều can đảm như chàng mới không tỏ vẻ hoảng hốt.
Vì vệt sáng xanh lè kia đã tắt ngúm, nhường chỗ cho nhiều vệt sáng màu đỏ khác. Rồi một tiếng động kinh hoàng nổi lên. Chàng vội cúi đầu xuống. Trong bóng tối dường như có ai ném đá vào người chàng.
Chàng gọi to:
- Bửu Tấn? Sao lại đùa nghịch thế?
Tiếng kêu của chàng vội vào tường thành nhiều tiếng khác, vang rân như trong thạch động. Một viên gạch thật to táp vào mặt chàng. Mặc dầu trời tối, chàng vẫn nhận ra kịp thời, và nghiêng mình để tránh, tay trái thì đưa lên bắt. Kinh ngạc xiết bao, cái mà chàng tường là hòn gạch nặng chĩu chỉ là cái hộp giấy mỏng dính.
Chàng lại thét lên:
- Bửu Tấn?
Một tiếng “ơi” rùng rợn đáp lại. Những vệt sáng xanh đỏ biến mất. Cuối hành lang, đối diện với chàng, một bóng người vừa hiện ra.
Một con ma thì đúng hơn.
Con ma này được bọc ngoài bằng lớp khói xanh biếc. Liếc qua, Văn Bình biết đó không phải là người giả mạo. Chàng hơi chột dạ, nhứng không mất bình tĩnh
- Bửu Tấn, anh không thể mang trò này dọa tôi được đâu!
Một tràng cười lạnh toát xương sống cất lên. Con ma nhe hàm răng nhọn hoắt ra. Lưỡi hắn lè ra đỏ hỏn như miếng thịt dính máu, và to như cái mẹt. Chàng thấy rõ hai cánh tay đầy lông lá của con ma đang giơ cao với ý định bóp nghẹt chàng.
Mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Thiết tưởng xác người chết rữa cũng chỉ hôi thối đến thế này là cùng. Văn Bình trợn mắt nhìn thẳng về phía trước. Chàng tiến lên một bước. Con ma lùi một bước. Chàng bước tréo sang bên tả. Con ma cũng theo chàng sang bên tả. Chàng nhảy vụt sang hữu. Con ma nhảy vụt theo, hai chân nó rơi trên nền nhà nhẹ nhõm, còn nhẹ nhõm hơn lá rụng ngoài vườn.
Văn Bình quát:
- Mày là ai?
Âm thanh dội lại:
- Mày là ai?
Cáu tiết Văn Bình xông tới. Con ma lùi lại. Văn Bình phóng ngọn cước nhanh như chớp nhoáng. Không biết vì chàng tấn công quá nhanh, hay vì con ma không thèm né mà cái đá ghê gớm của chàng đã trúng đích. Tuy nhiên, chàng dùng sức vô ích. Chân chàng xuyên qua con ma, mà chàng có cảm giác đá vào khoảng không.
Chàng đổi thế vồ lấy con ma, kéo vào người. Con ma rú lên tiếng cười sằng sặc rồi nhảy ra sau lưng chàng. Tiếng cười vẫn kéo dài lanh lảnh trong đêm khuya rùng rợn.
Văn Bình quay ngoắt lại. Con ma biến đâu mất. Một ngọn đèn bật lên ở giữa hành lang, Văn Bình cười khảy:
- Hừ, Bửu Tấn thua rồi. Còn tấn trò nào nữa, cho coi nốt.
Một cánh cửa bí mật ở bên hữu Văn Bình đột ngột tung ra. Chàng tiến vào một căn phòng rộng thênh thang, một thạch động thì đúng hơn vì chung quanh chàng toàn là kim nhũ óng ánh, và nước chảy róc rách. Giữa động, một đống lửa âm ỷ cháy, củi reo lách tách.
Cạnh đống lửa, ba cái quan tài nằm song hàng, nắp mở sẵn. Văn Bình phải bịt mũi mới bớt được mùi hôi thối. Quan tài thứ nhất sơn đỏ đựng một người đàn ông, toàn thân liệm trong vải điều, chỉ chừa mắt và bàn tay. Đôi mắt xác chết mở rộng, thao láo nhìn chàng. Hai áo quan sau, sơn xanh, và tím, chứa xác đàn bà. Mắt xác chết nào cũng mở rộng. Chàng quay về hướng nào, mắt xác chết cũng quay về hướng nấy.
Người đàn bà mặc áo tím có một vẻ đẹp khác thường. Nàng đẹp theo lối xưa, thân thể mảnh khảnh, bàn tay tháp bút dài lê thê, mặt dài, lông mày lá liễu thanh tú, tóc dài luồn theo mình xuống đến chân. Thấy chàng nhìn chăm chú, xác chết nhoẻn miệng cười. Văn Bình cúi xuống đùa bỡn:
- Em ơi, đừng đóng kịch nữa. Bửu Tấn đặt em nằm trong áo quan này đã lâu, chắc em gần chết cóng. Để anh bế em ra ngoài. Nào, chóng ngoan, anh hôn em nhé. Anh không mách lại với Bửu Tấn đâu…
Văn Bình hôn vào môi nàng. Chàng đinh ninh xác chết là người thật đóng trò, ngờ đâu chàng chạm vào một làn da lạnh toát, ẩm ướt, làn da của xác chết. Giật mình, chàng đứng vụt dậy. Chàng bắt đầu thấy sợ. Song một giây đồng hồ sau chàng lại cúi xuống, ôm xốc người đàn bà lên vai. Như có sức khỏe phi thường, xác chết tuột khỏi vòng tay của chàng, rơi bịch xuống đất, kêu lên một tiếng khô khan.
Văn Bình nhảy lùi lại. Ba xác chết đều ngồi lên một lượt. Đều đứng lên một lượt. Đều múa nhảy một lượt, dưới ánh đuốc bập bùng. Chàng tiến về con ma đàn ông, giọng đe dọa:
- Đứng lại, nếu không tôi sẽ đánh trọng thương.
Con ma đứng lại, song thè lưỡi ra. Cải lưỡi dài hơn hai thước, quét vào không trung như một đám lửa. Bực bội, Văn Bình hoành tay đấm vào mặt con ma. Kỳ lạ xiết bao, con ma tránh được dễ dàng. Chàng đá dứ một cái, rồi giáng đòn tới tấp. Con ma tiếp tục né tránh, coi những miếng võ cực hiểm của chàng như trò chơi.
Rồi ba con ma vây lấy chàng. Chàng vung tay chân ra, đánh tứ phía, nhưng không trúng đòn nào. Chàng chưa nghĩ ra cách đối phó thì ở bốn góc thạch động hiện lên nhiều con ma khác mặc toàn trắng, xõa tóc, mắt lớn bằng hòn bi thủy tinh, lưỡi núc nác, tay chân dài ngoằng, và cất tiếng nỉ non.
Văn Bình không chịu được nữa. Chàng không sợ ma, chàng không sợ ai hết. Tuy vậy, chàng không chịu nổi phút rùng rợn trong thạch động âm u giữa những hồn ma gớm ghiếc, coi thường võ thuật, khóc than ai oán, làm tượng đá cũng nẫu ruột.
Chàng đành la lớn:
- Bửu Tấn! Chịu thua rồi.
Một tràng cười ròn rã cất lên. Tràng cười của người sống. Đèn điện bật lên sáng quắc. Đoàn ma trơi biến vào bóng tối.
Một người đàn ông tóc bạc đứng yên như tượng đá ở góc phòng. Quang cảnh thạch động, quan tài, kim nhũ, suối nước, đống lửa... tất cả đã trở thành ảo ảnh.
Văn Bình quay lại.
Người đàn ông vừa cất tiếng cười là bác sĩ Bửu Tấn, giám đốc trung tâm Z.003, nghiên cứu gián điệp siêu hình của sở Mật vụ Việt Nam.
------------------------
Chú thích:
(1) Trên thực tế, hải quân các nước còn dùng nhiều danh từ chuyên môn khác nữa. Tác giả cố gắng giản dị hóa đến mức tối thiểu, xin bạn đọc thông cảm.
(2) Tổng quát, tầu ngầm lặn xuống nước bằng cách mở những ngăn riêng cho nước tràn vào, muốn nhô lên thì xua nước ra.
(3) Rosa Koulechova.
(4) Tiếng Pháp là télépathie.
(5) Mùa hè 1959, tiềm thủy đĩnh nguyên tử Mỹ Nautilus lặn 16 ngày dưới Đại Tây Dương, và trong thời gian này một cuộc thí nghiệm thần giao được diễn ra giữa tàu ngầm và một trang tâm khoa học ở tiểu bang Maryland (Hoa Kỳ). Cuộc thí nghiệm này đã được các tiềm thủy đĩnh nguyên tử khác Skate và Skipjack tiếp tục, và kết qủa rất khả quan. Nga Xô cũng thí nghiệm thần giao với tàu ngầm nguyên tử Vityaz.
(6) Tướng Seliganov hiện là giám đốc sở Khoa học - Kỹ thuật Tình báo, thuộc Trung ương GRU.
(7) tức là Center of International Studies tợi Massachusetts Institute of technology. Trung tâm này là tổ chức bình phong của tình báo Mỹ C.I.A.
(8) Kỹ str người Anh này tên là J. Dunne. Cuốn sách nổi tiếng của ông tựa đề là Thí nghiệm với Thời gian (Experiment with Time), hiện được giới khoa học siêu hình coi là tài liệu giá trị.
(9) Martinique.
(10) núi Pelée, cao 1.397 thtcớc, ở phía bắc đảo Martinique, phun lửa năm 1902, tiêu hủy thành phố Saint Pierre. Sau thảm họa này, núi Pelée tiếp tục phun lửa nhiều lần nữa.
(11) Hành khách lạ lùng này là Cannon Middleton. Ngày 10-4-1912, tàu Titanic rời bến Southampton (Anh quốc) đi Nữu Ước. Gần 3.000 người lâm nạn, thiệt hại 250 triệu đô la.
(12) Tử tội gặp may này là John Lee, giam tại khám đường Exeter (Anh quốc).
(13) Hai thiếu phụ này là Charlotte Moberley và Eleonore Jourdain vốn là nhà giáo đúng đắn và được kính trọng. Sau khi chứng kiến cảnh lạ ở Vẹc-xay, 2 bà đã ghi lại những điều nhận xét, và đem nạp tại thư viện Bodleian Library ở đại học đường Oxford. Tất cả đều được mô tả, đúng như vào thời 1789, nghĩa là vào thời hai bà chưa ra đời. Năm 1911, việc này được in thành sách, nhan đề là An Advanture (Một cuộc phiêu lưu), và gây ra một xúc động lớn lao trong các giới khoa học. Mặc dầu một số người tỏ vẻ hoài nghi, như J. Stuge.Whiting, với một cuốn sách, mổ xẻ “vụ bí mật ở Vẹc-xay”, phần đông các nhà khoa học đều tin hiện tượng ngược giòng thời gian của 2 thiếu phụ kia là đúng, và nếu có người hoài nghi chẳng qua là vì chưa hiểu và chưa biết cách giải thích đấy thôi.
(14) Zapitki là bản tập phiếu ở trung ương R.U. Mạc Tư Khoa, ghi hồ sơ lý lịch của những người trên thế giới, có thể được kết nạp vào tổ chức gián điệp Cộng sản.
(15) Cicéron, tên thật là Elyesa Bazna xin làm bồi phòng cho viên đại sứ Anh tại Thổ để lén chụp tài liệu mật bán cho Moyzisch, chỉ huy tình báo Đức ở tòa đại sứ Đức tại Ankara. Trong vòng 5 tháng, làm việc với Moyzisch, Cicéron được thù lao tới 125.000 bảng Anh, tức là vào khoảng 30 triệu bạc V. N., bằng tiền giả. Hiện nay, R. U. Xô Viết cũng bắt chước Hitler in bạc giả để trả tiền cho một số gián điệp ngoại quốc.
(16) Mật mã này dựa trên chữ kép, hoặc những chữ thường đi đôi với nhau. Chẳng hạn, khi nói đến chữ “mười”, người ta liên tưởng đến “vàng mười”, «tám» là “đôi tám”. Do đó, “hò” là «hẹn», «tinh» là «anh», «hiện» là «tại», «lạc» là « đà», «lễ» là “lạt”, «ổn» là “cố”, “suy” là “nghĩ” (hoặc nghỉ), «mai» là “một”, «năm» là «tháng», «hoàng» là “hôn”, «tinh» là “anh”, “mây” là “ngàn”, “cù” là “lần”, “Lãm” là “Thúy” (hiên Lãm Thúy trong truyện Kiều), và “bồ” là “liễu”. Bởi vậy “vàng đôi hò, tinh hiện lạc, lễ ổn suy, mai năm hoàng, tinh mây cù, lãm bồ” tức là “mười tám, hẹn anh tại Đà Lạt, cố nghỉ một tháng, hôn anh ngàn lần, Thúy Liễu.
Mật mã này được dùng lần đầu trong trận đại chiến Nga-Nhật, đầu thế kỷ này. H. B. Calloway, thông tín viên báo Enterprise ở Nữu Ước, áp dụng thủ thuật này trong điện tín để sở Kiểm duyệt khỏi gạch bỏ. Nhờ vậy, ông đã loan được một tin quan trọng. Các sở điệp báo ngày nay coi phương pháp của ký giả Calloway là một dẫn chứng cổ điển về mật mã.
Tác giả sẽ trở lại vấn đề này trong cuốn «Cẩm nang Gián điệp».
(17) Tức là gaz moutarde, danh từ khoa học gọi là Sulfure de Dichloréthy. Một số người tình nghi hoạt động gián điệp thường nhóm họp trong một tòa biệt thự trên bờ biển phía tây Ái Nhĩ Lan. Phản gián bèn quét một lớp vẹt-ni pha hóa chất Sulfure de Dichloréthyl lên hàng rào và cửa. Người nào cũng dính hóa chất vào tay. Trong vòng một giờ, tự nhiên bàn tay sưng đỏ lên, ngứa ngáy và đau nhức lạ kỳ, từ 5 đến 6 tuần lễ mới khỏi mụt. Bằng phương pháp này, Phản gián đã tóm bắt những người phó hội dễ dàng.
Z.28 Gián Điệp Siêu Hình Z.28 Gián Điệp Siêu Hình - Người Thứ Tám Z.28 Gián Điệp Siêu Hình