Cầu Chúa ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những thứ con không thể thay đổi, sự caN đảm để thay đổi những thứ con có thể, và sự khôn khoan để phân biệt những cái có thể thay đổi và không thể.

Dr. Reinhold Niebuhr

 
 
 
 
 
Tác giả: Lauren Weisberger
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Devil Wears Prada
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2682 / 55
Cập nhật: 2015-09-19 10:34:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
ghe không có vẻ như em sẽ được nhận vào làm việc", Alex khẽ nối. Anh nghịch mấy lọn tóc của tôi trong khi tôi ngả cái đầu nhức như báu bổ lên lòng anh. Sau cuộc tra tấn ở nơi phỏng vấn tôi phi thẳng về nhà Alex ở Brooklyn. Tôi khong sung sướng gì phải ngủ thêm một đêm trên chiếc đivăng của Lily, và cũng muốn kể ngay cho Alex nghe những gì vừa xảy ra. thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ đến chuyện dọn đến ở cùng Alex, song tôi không muón bám nhằng nhẵng lấy anh. "Anh vẫn chưa hiểu tại sao em thích làm việc ấy". Nhưng sau một hồi im lặng thì Alex thay đổi ý kiến. "Nghe chẳng có vẻ như đây là cơ hội ngàn năm có một, nhưng tại sao không nhỉ. Ý anh định nói là nếu Allison bắt đầu ở vị trí trợ lí cho Miranda và bây giờ đã thành biên tập viên, thì còn mong gì hơn nữa? Em đừng để lỡ thời cơ."
Anh rất cố gắng tỏ ra vui mừng vì tôi. Chúng tôi đi với nhau từ năm dự bị Brown và tôi quá rành từng ẩn ý trong giọng anh, từng ánh mắt, từng cử chỉ. Trước đây mấy tuần anh vừa bắt đầu làm giáo viên tại trường tiểu học số 227 ở Bronx và đã chán nản đến mức ruồi đậu mép không thèm đuổi. Anh sốc thực sự khi thấy lũ trẻ ranh chín tuổi đã lì lợm và hư hỏng ra sao. Anh phẫn nộ thấy chúng ngang nhiên nói về các kiểu khiêu dâm, biết mười từ lóng ám chỉ cần sa và huênh hoang đã ăn trộm được những thứ gì hoặc anh họ đứa nào bị giam tại nhà tù khắc nghiệt hơn. Alex đặt tên cho bọn chúng là Thợ tù. "Chúng nó có thể viết cả một cuốn sách về sự khác biệt giữa các nhà tù Sing Sing và Rikers, nhưng chúng không đọc nổi một chữ tiếng Anh." Anh vật vã tìm cách tiếp cận chúng để cải thiện tình hình.
Tôi luồn tay xuống dưới T-shirt để gãi lưng anh. Trông anh tàn tậ đến tội nghiệp, khiến tôi hối hận đã làm anh bận tâm vì những chi tiết của buổi phỏng vấn, song tôi không để mãi trong lòng được. "Em biết là việc này không liên quan gì đến công tác biên tập, nhưng vài tháng nữa nhất định em sẽ được phép viết một bài." Tôi nói "Hay anh nghĩ là em bán rẻ mọi lý tưởng của mình khi đi làm cho một tạp chí thời trang?"
Alex nắm chặt cánh tay tôi và nằm xuống bên cạnh. "Em yêu, em là một cây bút cừ khôi, anh biết là ở đâu em cũng sẽ là người xuất sắc. Không có gì gọi là bán rẻ cả, hãy coi đó là thời gian học nghề. Em có nói là làm việc một năm cho Runway sẽ học được nhiều hơn ba năm điếu đóm ở một nơi nào khác?"
Tôi gật đầu. "Emily và Allison nói thế. Đó cũng là một kiểu có đi có lại. Hãy làm việc tử tế cho Runway một năm, rồi Miranda sẽ nhấc điện thoại và kiếm cho em một công việc ở nơi nào em muốn."
"Thế thì sao lại không làm? Nói nghiêm chỉnh đấy, Andy ạ. Em hãy làm việc ở đó một năm, rồi sẽ có việc ở The New Yorker. Em vẫn luôn mong muốn thế mà. Có lẽ làm việc ở Runway rồi thì em sẽ đạt mục đích nhanh hơn nhiều."
"Anh nói đúng. Rất đúng."
"Ngoài ra thì em nhất định phải chuyển đến New York, anh phải công nhận ý tưởng đó rất hấp dẫn." Anh hôn tôi, một cái hôn dài và nhẹ, một kiểu hôn cóc lẽ do hai chúng tôi sáng tạo ra. "Đừng suy nghĩ thêm nữa làm gì. Chính em đã tự nói chưa biết có được nhận việc hay không. Hãy đợi xem cái gì sẽ đến."
Chúng tôi nấu bữa tối đơn giản, nằm quay ra ngủ trong khi xem Letterman dẫn trò trên tivi. Tôi nằm mơ thấy những đứa trẻ con chín tuổi ghê rợn vừa làm tình ngoài sân trường vừa nốc rượu vừa quát tháo với Alex đáng yêu của tôi. Giữa lúc ấy thì điện thoại đổ chuông.
Alex nhấc máy, áp ống nghe vào tai nhưng chẳng thèm mở mắt ra hay nói alô. Anh chuyền luôn ống nghe cho tôi. Cố gắng lắm tôi mới đủ cầm lấy.
"Alô?" Tôi là nhè nói và ngó vào đồng hồ. 7giờ15. Ai gọ điện vào cái giờ quái quỷ này?
"Tớ đây" giọng Lily cáu kỉnh.
"Xin chào, mọi việc ổn cả chứ?"
" Cậu nghĩ mọi việc đều ổn mà tớ lại gọi điện sao? Tớ đang váng đầu muốn chết đaya, vừa xong cơn nôn mửa để ngủ thiếp đi thì một bà cô dựng tớ dậy và tươi tỉnh thông báo rằng bà ta làm việc ở phòng nhân sự của Elias Clark. Bà ấy tìm câu đấy! Vào lúc 7giờ15 còn tối mịt! Gọi lại cho bà ấy đi, và bảo bà ấy quẳng số điện thoại này của tớ đi."
"Tha lỗi cho tớ, Lily, tớ cho họ số của cậu vì tớ không có điện thoại di động. Ai ngờ bà ấy lại gọi sớm thế. Không biết tin lành hay dữ đây?" Tôi ôm điện thoại, rón rén ra khỏi phòng ngủ và khẽ tay đóng cửa lại.
"Lành hay dữ cũng được. Chúc cậu may mắn. Nhớ báo cho tớ kết quả ra sao nhé, nhưng không nhất thiết trong mấy tiếng đồng hồ tới, ok?"
"Nhất định rồi. Cảm ơn. Và đừng giận nhé."
Tôi nhìn lại đồng hồ và không tin là mình có thần kinh thép để bàn chuyện công vệc vào lúc này. Tôi đặt một ấm nước, pha xong cà phê và bưng tách ra đi văng. Đến lúc phải gọi điện thôi. Tôi không được phép lựa chọn nữa.
"A lô, tôi là Andrea Sachs", tôi nói chắc nịch, tuy nhiên nghe giọng khàn đục thì cahức biết là tôi vừa chui trên giường xuống.
"Andrea, chúc chị một buổi sớm mai tốt lành! Hy vọng là tôi không gọi quá sớm" giọng Sharon ngân tươi tỉnh như ánh mặt trời. "Tôi chắc là không quá sớm, đúng không, nhất là khi chị sắp phải khẩn trương làm quen với việc này đấy! Tôi có tin cực hay cho chị đây. Miranda có ấn tượng rất tốt về chị và dự kiến chắc chắn sẽ làm việc cùng với chị đấy. Có tuyệt không nào? Xin chúc mừng chị. Chị có cảm giác gì khi sắp là trợ lý mới của Miranda Priestly? Tôi tưởng tượng ra chị đang..."
Đầu óc tôi quay như chong chóng. Tôi toan nhỏm dậy khỏi đi văng để đi lấy thêm cafê, hay nước, gì cũng được, cốt để đầu óc minh mẫn trở lại, song tôi càng lún sâu xuống đệm. Bà ta vừa hỏi tôi có thích công việc ấy không, hay đó là một lời mời chính thức? Tôi không luận ra được gì từ lời bà vừa nói, ngoài một chuyện là tôi đã làm Miranda Priestly hài lòng.
"... phấn khởi sau khi nghe tin này. Ai lại không phấn khởi chứ? Giờ thì chúng ta hãy xem tình hình ra sao nào. Chị có thể bắt đầu vào thứ Hai chứ? Lúc đó Miranda đang nghỉ, nhưng thế thì càng tiện cho lúc khởi đầu, để chị từ từ làm que công việc với các nữ cộng tác viên khác. Ôi, toàn là các cô gái dễ thương làm sao!" Sao cơ? Làm quen với công việc? Thứ Hai bắt đầu? Các cô gái dễ thương? Đầu óc rối tung của tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi lọc ra đúng một cấu hỏi mà tôi hiểu rõ và trả lời luôn.
"Nhưng, tôi không tin là thứ Hai có thể bắt đầu được" tôi nói khẽ, hy vọng là đã phát ra một câu liền mạch. Vừa nói hết câu thì tôi chợt tỉnh hẳn. Hôm qua, lần đầu tiên ttôi đi qua ô cửa của Elias Clark, giờ thì tôi bị lôi khỏi cơn ngủ sâu để nghe một người báo tin là ba hôm nữa tôi bắt đầu làm việc. Hôm nay là thws Sáu - vào lúc 7giờ sáng tinh mơ - và họ muốn tôi thứ Hai bắt đầu làm việc? Mọi chuyện bắt đầu tuột khỏi vòng kiểm soát. Tại sao lại phải vội vàng một cách kì cục như vậy? Bà ta quan trọng đến mức phải cần tôi gấp đến thế sao? Và có lý do gì để giọng Sharon nhụt hẳn lại khi nhắc đến Miranda?
Tứ Hai thì không thể bắt đầu được. Tôi còn chưa có chõ trú chân. Phần lớn đồ đạc của tôi trong khi đi du lịch hồi mùa hè còn cất ở nhà bố mẹ ở Avon, nơi tôi miễn cưỡng chui về sau khi tốt nghiệp. Mấy bộ quần áo khả dĩ dễ coi để mặc khi đi phỏng vấn tìm việc còn nằm ngổn ngang trên đi văng nhà Lily. Tôi đã cố gắng dọn bát đĩa, đổ gạt tàn và mua hàng kilo kem Häagen-Dazs để lấy lòng cô bạn gái, nhưng cũng tính toán sao cho hợp lývà thỉnh thoảng biến đi cho khuất mắt Lily bằng cách cuối tuần đến ăn nhờ ở đậu chỗ Alex. Nghĩa là đồ diện đi chơi cuối tuần và son phấn thì ở chỗ Alex ở Brooklyn, laptop và quần áo linh tinh ở căn hộ một phòng của Lily ở Harlem, phần còn lại ở nhà bố mẹ ở Avon. Tôi không có nàh ở New York và càng không hiểu nổi những chuyện mà ai ai cũng biết là muốn tới đại lộ Mandison thì chạy lên phố trên, còn khu thương mại Broadway phải xuống phía dưới. Tôi còn chẳng biết phố trên là gì. Thế mà bà ta muốn tôi thứ Hai bắt đầu đi làm?
"Tôi e là thứ Hai chưa đi làm được, vì tôi chưa có nhà ở New York." Tôi vội giải thích và tóm chặt ống nghe. "Tôi cần vài hôm để kiếm nhà và mua đồ đạc."
"Chà, vậy thì tôi nghĩ là thứ Tư cũng kịp" giọng bà bực bội.
Sau vài phút đôi co, chúng tôi nhất trí ngày 17 tháng Mười một, thứ Hai tuần sau nữa. Có nghĩa là tôi còn hơn tám ngày đểe tìm ra và trang bị đồ đạc cho một căn hộ ở thị trường thuê nhàa thuộc hạng điên đỏa nhất thế giới.
Tôi đặt máy và thả phịch người xuống đi văng. Tay tôi run đến nỗi thả rơi điện thoại xuống đất. Một tuần. Tôi còn một tuần nữa, sau đó sẽ bắt đầu công việc làm trợ lý cho Miranda Priestly mà tôi vừa nhận. Nhưng khoan đã! Có gì đó chưa ổn thì phải... Tôi đã nhận việc đó đâu? Sharon có chính thức mời tôi làm đâu? Bà ta không hề nói dứt khoát "Chúng tôi mời chị" vì bà cầm chắc là bất cứ ai có chút trí khôn trong đầu cũng vồ ngay lấy. Cũng chưa ai nói ra chữ "lương" cả. Thiếu chút nữa thì tôi cười phá lên. Hay đó là một đòn chiến thuật mà học đã quá thạo? đợi cho đối thủ ngủ say ngủ say như chết sau một ngày căng thẳng rồi đánh vỗ mặt bằng một sự kiện có tính quyết định cả cuộc đời? Hay Sharon cho rằng chỉ phí hơi sức và thời gian để làm một việc vặt vãnh như hỏi xem ai đó có thích làm việc cho tạp chí Runway không? Bà ta tin là nhất định tôi sẽ sung sướng nhẩy cẫng lên khi nhận được cơ hội này. VÀ bà ta có lý, hệt như mọi người trong công ty Elias Clark luôn luôn có lý. Mọi việc xảy ra quá nhanh, quá áp đảo, không để tôi có thì giờ thong thả suy sét như tính tôi mọi khi vẫn thế. Tuy nhiên tôi có cảm giác đó chính là một cơ hội ngon lành, có mà điên mới bỏ lỡ nó. Biết đâu Runway là bước dài đầu đầu tiên trên con đường tiến tới The New Yorker. Tôi phải chộp lấy nó. Một dịp may như thế sẽ không trở lại.
Bừng bừng nhiệt huyết, tôi dốc nốt ngụm cà phê và rồi vặn nước thật nóng để tắm qua quýt. Lúc tôi pha một tách café mới đem vào phòng cho Alex thì anh đã dậy.
"Em đã mặc quần áo xong xuôi rồi đấy à?" Anh nói và lần mò tìm cặp kính nếu thiếu thì anh sẽ trở thành kẻ mù dở. "Sáng nay ai gọi điện đấy, hay anh nằm mơ?"
"Không phải mơ đâu" tôi nói và chui vào chăn, để nguyên quần bò và áo thun đã mặc, không ngại tóc chưa khô làm ướt gối. "Lily gọi điện. Bà phụ trách nhân sự của Elias Clark gọi đến đó vì em cho họ số điện thoại của Lily. Đố anh chuyện gì?"
"Em dược nhận vào làm?"
"Em được nhận vào rồi!"
"Lại đây với anh!" Anh ngồi bật dậy và ôm tôi. "Anh rất tự hào vì em! Thật là một tin mừng, thật tuyệt!"
"Anh có thực sự cho rằng đó là một cơ hội tốt? Mình đã bàn chuyện đó rồi, em biết, nhưng họ không cho em thì giờ suy nghĩ nữa. Họ chắc chắn là em nhận lời."
"Một cơ hội không ngờ. Thế giới này còn khối thứ tệ hơn thời trang - biết đâu em lại thích nó cũng nên."
Tôi xịu mặt.
"Okay, okay, anh không muốn đòi hỏi em quá nhiều. Nhưng với Runway trong lý lịch công tác và thư giới thiệu của cái bà Miranda này, hay thậm chí thêm vài bài viết nho nhỏ thì em sẽ đạp toang được mọi cửa. The New Yorker sẽ rộng tay đón em."
"Em mong nah nói đúng, thật đấy." Tôi nhảy khỏi giường và bắt đầu nhét quần áo vào balô. "Anh cho em mượn ôtô được chứ? Em về nhà càng sớm thì cũng sẽ quay lại sớm. Mặc dù về sớm hay về muộn cũng không quan trọng nữa, vì em đang chuyển nhà đến New York! Đó là tuyên bố chính thức."
Từ khi Alex mỗi tuần hai lần về nhà ở Westchester đeer trông thằng em nhỏ vì mẹ anh đi làm thêm giờ, anh được mẹ cho cái xe cũ. Nhưng anh không cần xe từ giờ đến thứ Ba, lúc đó thì tôi đã quay lại rồi. Đằng nào thì tôi cũng đã có kế hoạch về thăm bố mẹ cuối tuần này, và giờ còn đem theo một tin vui.
"Được, không vấn đề gì. Xe đậu ở Grand Street, gần ngã tư. Chìa khóa trên bàn bếp ấy. Khi nào về nhớ gọi điện cho anh, nhớ chưa?"
"Tất nhiên. Anh không muốn đi cùng à? Sẽ có đồ ăn ngon - anh biết đấy, mẹ em chỉ đặt những món tử tế nhất."
"Nghe rất hấp dẫn. Anh cũng muốn, nhưng ngày mai anh tổ chức một cuộc họp mặt mấy giáo viên trẻ, buổi tối cùng nhau đi uống chút gì đó. Có theer có lợi cho không khí làm việc tập thể, anh thực sự không muốn vắng mặt."
"Nhà từ tâm vĩ đại ơi, đến đâu cũng phải làm được việc thiện, đúng không? May mà em rất yêu anh, không thì em đã bỏ anh lâu rồi." Tôi rướn lên trao anh một nụ hôn chia tay.
Tôi tìm thấy ngay chiếc Jetta màu xanh lá cây của anh, chỉ sau hai mươi phút đã tìm ra đại lộ rộng mở dẫn lên cao tốc 95 về phía Bắc. Hôm nay là một ngày lạnh giá của tháng Mười một, trên đường có vài đoạn đóng băng, nhưng mặt trời chiếu sáng rực khiến tôi phải nheo mắt lại cho đỡ chói, gió lạnh trong trẻo lùa vào phổi. Suốt dọc đường tôi hạ cửa kính xuống, nghe đi nghe lại phần nhạc của phim Almost Famous. Tôi lấy một tay vuốt mái tóc ẩm sau gáy để khỏi bay vào mắt, và hà hơi vào tay cho ấm để nắm chặt được bánh lái. Mới rời ghế đại học được sáu tháng mà cuộc đời tôi đã lên bệ phóng. Mới hôm qua nữ đại gia Miranda Priestly còn là một người lạ đối với tôi, nhưng chính tay bà đã chọn tôi làm trợ lý. Giờ thì tôi có lý do cụ thể để rời Connecticut và đơn thương độc mã tiến tới Manhattan với tư cách là một người trưởng thành. Đến đoạn rẽ vào ngôi nhà thời thơ ấu, tôi không nén nổi niềm vui nữa. Má tôi ửng đỏ trong gương hậu vì gió đông, tóc tai bay rối tung, mặt không tí có tí phấn son nào, phần dưới ống quần bò dính bẩn lúc lội qua tuyết nhão nhoét ở thành phố. Nhưng trong lúc này tôi thấy mình đẹp và rất rạo rực trong người. Tôi mở toang cửa và gọi mẹ. Đó là lần cuối cùng trong đời tôi được hưởng cảm giác bay bổng như thế.
"Một tuần? Mẹ chỉ không thể tưởng tượng được con sẽ làm thế nào để bắt đầu công việc trong một tuần nữa, con gái yêu ạ." mẹ tôi nói trong khi lấy thìa quấy tách trà. Cả nhà ngồi ở vị trí quen thuộc quanh bàn bếp. Như mọi khi, mẹ tôi uống trà đã khử cafein với đường hóa học, còn tôi ngồi trước một cốc trà bữa sáng to tướng của Anh pha đường. Mặc dù đã bốn năm nay tôi khôngthường xuyên ở nhà nhưng chỉ cần một cốc trà đun trong lò vi sóng cùng mấy miếng bánh bơ lạc là đủ tao cảm giác như chưa chưa bao giờ đi khỏi nơi đây.
"Con không có sự lựa chọn nào, và thực sự là con vui mừng khi nhận được cơ hội này. Mọi người phải được nghe giọng bà ấy rắn như đinh trong điện thoại thì mới hiểu" tôi nói. Mẹ nhìn tôi đầy nghi ngại. "Dù sao thì cũng chẳng thay đổi được gì nữa. Con có việc làm ở một tạp cí rất danh tiếng, với một trong những phụ nữ có thế lực nhất trong công nghiệp báo chí. Để có việc này, hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết."
Cả nhà nhìn nhau cười, song nụ cười của mẹ tôi pha lẫn buồn rầu. "Mẹ rất vui cho con" mẹ nói "Mẹ có một đứa con gái trưởng thành như thế này, con gái yêu ạ, mẹ biết là cuộc đời con bắt đầu một chặng đường vô cùng tốt đẹp. Mẹ cứ nhớ lại hồi mới ra trường và chuyển đến New York. Một mình giữa cái thành phố khổng lồ và điên đảo. Khủng khiếp, nhưng cực kỳ hấp dẫn. Mẹ muốn con tận hưởng từng phút ở đó, sân khấu, phim ảnh, con người, cửa hiệu, sách báo. Đó sẽ là phần đời đẹp nhất của con - mẹ biết chắc sẽ như thế." Mẹ đặt tay lên tay tôi, một cử chỉ hiếm thấy. "Mẹ rất tự hào về con."
"Con cảm ơn mẹ. Liệu lòng tự hào có đủ để trả tiền cho một căn hộ, đồ gỗ nội thất và toàn bộ quần áo mới không?"
"Hiểu rồi" mẹ nói và lấy tờ báo đập lên đầu tôi lúc ra phía lò vi sóng làm thêm hai cốc trà mới. Mẹ không lắc đầu, nhưng cũng chẳng hào hứng rút ngay quyển séc.
Buổi tối tôi dành thời gian còn lại để viết email cho tất cả những ai quen biết,, hỏi xem có ai tìm người ở cùng hay quen ai có nhu cầu. Tôi bắn tin lên mạng và gọi điện cả cho những người mà tôi hàng tháng trời không bắt liên lạc. Không kết quả. Nếu không muốn vĩnh viễn nằm ườn trên đi văng của Lily và chắc chắn làm tiêu tan tình bạn giữa hai người hoặc bám chặt lấy Alex việc mà cả hai chúng tôi đều chưa sẵn sàng để làm, thì tôi phải quuyết định tạm thuê nhà ngắn hạn ở đâu đó, đợi đến khi tôi thông thạo hơn trong thành phố khổng lồ này. Lý tưởng nhất là tìm được một căn phòng riêng, tốt hơn nữa là có sẵn nội thất để tôi khỏi phải bận tâm mua sắm mấy thứ đó.
Qua nửa đêm một chút thì có chuông điện thoại. Tôi lao ra vớ lấy điện thoại, thiếu chút nữa thì ngã khỏi cái giường bé tíhồi trẻ con của mình. Chris Everst, người hùng thời niên thiếu của tôi đang mỉm cười trên một bức ảnh đóng khungcó chữ ký treo trên tường, phía dưới một tấm bảng găm đầy các bài báo về Kirk Cameron. Tôi bất giác mỉm cười.
"Chào bà tướng, Alex đây" giọng anh tiết lộ là có tin gì đó mới, chỉ có điều không nhận ra được đó là tin xấu hay tin tốt. "Anh vừa nhận được email của một cô gái tên là Claire McMillan đang tìm người ở cùng. Cựu sinh viên Princeton. Anh nhớ là có quen cô ấy ngày xưa. Cô ấy là bạn gái Andrew, hoàn toàn bình thường. Em nghĩ sao?"
"Tại sao không? Anh có số điện thoại của cô ấy không?"
"Không, chỉ có địa chỉ email. Nhưng anh chuyển tiếp thư của cô ấy đến em để liên lạc thẳng. Anh nghĩ cô này tốt đấy."
Tôi gửi email cho Claire McMillan trong khi vẫn tiếp tục truyện trò với Alex. Rồi rốt cuộc được ngủ một lần trên giường riêng của mình. Có thể, nếu may mắn, vần đề nhà ở đã giải quyết xong.
Tìm đến Claire McMillan cũng uổng công. Căn hộ của cô là một lỗ tối tăm và u ám, lại ở giữa một khu khá bất hảo. Lúc tôi đến xem nhà, một gã nghiện đang ngồi ngay bậu cửa. Phần còn laịi cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Có một phòng riêng trong căn hộ của một đôi trai gái muốn cho thuê, nhưng họ ý tứ nhắc trước là sinh hoạt giường chiếu của họ khá đều đặn và ồn ào. Một chủ nhà tiềm năng là nữ nghệ sĩ trên ba mươi tuổi, có bốn con mèo và đang tha thiết tậu thêm vài con nữa. Phòng tếp theo ở tận cuối một hành lang hun hút tối mò, không cửa sổ lẫn tủtường. Lại một chàng đồg tính hai mươi tư tuổi nữa, tự nhận là đang trong "giai đoạn nhếch nhác". Mỗi căn phòng tồi tàn mà tôi đến xem đều có giá trên 1000 dollar, trong khi lương lậu của tôi đạt mức hoành tráng là 32500 dollar (cả năm!). Ngay cả khi không có năng khiếu toán kiệt xuất thì tôi cũng dễ dàng tính ra aaf mỗi năm riêng tiền nhà đã ngốn mất trên 12000, và phần còn lại chỉ đủ đóng thuế. Đã thế, bố mẹ tôi còn tịch thu luôn chiếc thẻ tín dụng vốn chỉ để đề phòng các trường hợp khẩn cấp. Tôi trưởng thành rồi mà. Bó tay luôn!
Sau ba ngày đầy tuyệt vọng, Lily đã vào cầu. Do phần nào cũng quan tâm đến việc tôi cuốn xéo khỏi chiếc đi văng của mình, Lily viết email thông báo cho mọi bạn bè gần xa của cô. Một bạn học ngày xưa của Lily ở đại học Columbia có bạn là nhân viên của ông sếp có quen hai cô gái tìm người ở cùng. Tôi gọi điện ngay, nói chuyện với một cô gái dễ thương tên là Shanti. Cô kể là đang cùng bạn mình, Kendra, tìm người chia sẻ căn hộ ở Upper East Side. Căn phòng đó kì thực là một gian tí xíu, nhưng có cửa sổ và tủ tường, thậm chí một bức tường lát gạch rất đẹp. Mỗi tháng 800 dollar. Trong căn hộ có nhà tắm, bếp (đương nhiên không có bồn tắm nằm và máy rửa bát hay thang máy, nhưng lần đầu đi ở riêng thì cũng chẳng ai mong có cuộc sống xa xỉ cả). Được rồi. Shanti và Kendra là hai cô gái Ấn Độ rất đáng mến, vừa tốt nghiệp đại học Duke, hiện đang làm việc tối mắt tối mũi ở một ngân hàng tư vẫn đầu tư. Hôm đầu, và cả những ngày sau đó tôi không thể phân biệt được họ vì hai cô giống nhau như hai giọt nước. Thôi được. Thế là tôi đã có chỗ ở.
Cả khi đã ngủ ba hôm trong căn phòng mới, tôi vẫn cảm thấy mình là một người lạ trên một mảnh đất lạ. Căn phòng quả là bé. Chắc chỉ to hơn túp lều đựng dụng cụ làm vườn của bố mẹ tôi ở Avon một chút, nhưng cũng chỉ một chút thôi. Đã thế nó lại co lại chỉ còn một nửa sau khi tôi bày biện đồ đạc ra. Vốn ngớ ngẩn không có kinh nghiệm, tôi cho là nó rộng như một phòng bình thường và quyết định mua một chiếc giường đôi, một hòm đựng quần áo, một hoặc hai bàn con kê cạnh giường. Lily và tôi lấy ô tô của Alex đi đến cửa hàng Ikea, thiên đường của các sinh viên vừa tốt nghiệp, và mua một loạt đồ gỗ tuyệt đẹp sáng màu, cùng một tấm thảm dệt pha các màu lam nhạt, lam đậm, thanh thiên và chàm. Hệt như chuyện mốt, trang trí nội thất không thuộc về các mặt mạnh của tôi: tôi tin là Ikea đang trong "chu kỳ xanh lam". Chúng tôi sắm đồ trải giường có chấm xanh và cái chăn mềm nhất bán trong cửa hàng. Lily còn thuyết phục tôi mua một chiếc đèn ngủ bọc giấy dó của Trung Hoa. Tôi chọn thêm mấy tranh đen trắng đóng khung sẵn để bổ sung cho bức tường gạch đỏ sẫm còn trống. Lịch thiệp, thông dụng, pha một chút tư tưởng Thiền. Thế là căn phòng đầu tiên trong đời tôi tại thành phố lớn đã hoàn chỉnh.
Hoàn chỉnh nghĩa là...trước khi đồ gỗ được chở đến nhà. Ngắm nghía một căn phòng xem chừng không hẳn giống như lấy thước ra đo chiều dài chiều rộng của nó. Chẳng có gì vừa. Sau khi Alex lắp xong giường và đẩy nó sát vào bức tường gạch trống trơn (" Bức tường dang dở", gọi theo kiểu Manhattan) thì nó đã choán hết diện tích phòng. Tôi phải xua mấy ông thợ chở cái hòm quần áo sáu ngăn kéo, hai chiếc bàn con và cả chiếc gương to trở về cửa hàng. Họ và Alex bằng cách nào đó đã nâng được giường lên để tôi luồn tấm thảm ba màu xuống dưới, và mỗi bên lòi ra một gang tay thảm xanh dưới con quái vật gỗ khổng lồ đó. Do cái đèn giấy dó không còn chỗ trên hòm hay bàn con nữa nên tôi đặt bén xuống nền nhà, đúng vào cái rẻo 15 phân còn thừa ra giữa thành giường và cửa kéo của tủ tường. Khi thử treo mấy bức tranh đen trắng lên bức tường gạch còn trống thì tôi thất bại thảm hại, mặc dù đã dùng cả băng cách điện, đinh, dây thép, keo dán, băng dính hai mặt mà không sao gắn nổi chúng lên tường. Sau gần ba giờ đồng hồ vật lộn, tay chân trầy xước rớm máu, tôi đành đặt tranh lên bậu cửa sổ. Té ra đó là cách tối ưu, che luôn được một phần góc nhìn xuyên vào phòng tôi của bà hàng xóm đối diện, chỉ cách chừng hai thước từ bên kia sân trời. Vấn đề ở đây chẳng phải là sân trời thay cho đường chân trời của NewYork, là hòm quần áo không có chỗ hay tủ tường quá hẹp để nhét vào một cái áo khoác mùa đông - căn phòng này là của tôi, căn phòng đầu tiên do tôi tự trang trí nội thất theo ý mình, không bị bố mẹ hay người cùng phòng nói chọc vào. Yêu quá.
Tối Chủ nhật, trước ngày làm việc đầu tiên, tôi chỉ bận tâm mỗi chuyện duy nhất là ngày mai sẽ mặc đồ gì. Kendra, cô bạn mau chuyện hơn trong hai người ở cùng, thỉng thoảng ngó vào và nhẹ nhàng hỏi có giúp được tôi chuyện gì. Hai cô này thì ngày nào cũng mặc đồ công sở quá ư cổ hủ đến nơi làm việc, vì vậy tôi xin kiếu luôn những góp ý của họ về thời trang. Tôi chạy đi chạy lại trong phòng - nếu được phép thì dùng từ "chạy" trong phạm vi bốn bước chân - rồi ngồi phịch xuống mép giường sát màn hình tivi. Mặc gì khi đi làm hôm đầu tiên cho bà chủ bút ăn mặc đúng mốt nhất của tạp chí thời trang tiên phong nhất về mốt? Cố nhiên tôi đã nghe nói về Prada ( từ mấy cô bạn người Nhật du lịch balô ở Brown ) và Louis Vuitton ( vì bà tôi vẫn xách mấy cái túi in đầy kí tự ấy ra đường, không ngờ là chúng thuộc hạng sành điệu đến mức nào ) hay có thể cả Gucci nữa ( đố ai kiếm ra lấy một người không biết hiệu Gucci! ). Nhưng tôi không có lấy đến một thứ đồ hiệu nào cả, mà kể ra nếu có thì tôi cũng chẳng hiểu sẽ xoay xở đặt chúng vào đâu trong cái phòng tí tẹo của tôi. Tôi lại vào phòng - hay đúng hơn là cái đệm kẹp giữa hai bức tường - nằm lăn ra trên cái giường đôi xinh đẹp và thúc luôn mắt cá vào cạnh giường. Mắt tóe đom đóm.
Sau bao nhiêu khổ sở vật vã để chọn lựa, tôi quyết định sẽ mặc một chiếc áo pull xanh nhạt, váy đen dài đến đầu gối và ủng đen. Do đã biết là cái cặp sách hôm phỏng vấn bị ngược đãi ra sao nên tôi chọn một túi kẹp nách bằng vải thô màu đen. Hình ảnh cuối cùng còn nhớ lại tối hôm đó là tôi mặc váy và xỏ ủng cao gót, nhưng không khoát áo, liêu xiêu đi quanh chiếc giường đồ sộ, rồi ngồi thừ ra vì kiệt sức.
Chắc là tôi thiếp đi vì quá mệt mỏi, rồi không phải vì đồng hồ báo thức mà là chính sự bồn chồn đã dựng tôi dậy vào đúng năm giờ rưỡi. Tôi nhảy bổ khỏi giường. Đầu óc như muốn bung ra sau cả tuần căng thẳng. Bây giờ tôi còn đúng một tiếng rưỡi để tắm, mặc quần áo và đi phương tiện công cộng từ cái ký túc xá nửa mùa này vào đến nội thành - nỗi ám ảnh kinh hoàng cho đến bây giờ. Cũng có nghĩa là tôi mất một tiếng xe cộ và nửa tiếng để tô vẽ mặt mày.
Vòi tắm là một ác mộng, mỗi lần vặn nước nó huýt như còi và chỉ cho ra nước hơi âm ấm. Khi tắm xong và chuẩn bị bước ra ngoài phòng tắm lạnh như băng thì nước lại nóng như sôi. Mất đến ba ngày sau tôi mới rút ra kinh nghiệm: tôi nhảy khỏi giường, vặn nước, và chui lại vào chăn ngủ nướng thêm 15 phút trong khi đồng hồ báo thức réo ba lần, rồi quay trở lại phòng tắm để bắt đầu hai, khi gương đã mờ hết vì hơi ẩm và nước nóng tuyệt vời - tuy rằng chỉ chảy một dòng nhỏ ti tỉ.
Tôi chui vào bộ trang phục gò bó, chỉ hai mươi lăm phút từ khi tỉnh giấc là đã ra đến ngoài đường - kỷ lục cá nhân! Sau đó cũng chỉ cần có mười phút là tìm đến bến tàu điện ngầm gần nhất. Kể ra thì tối qua tôi nên đi thăm dò trước một lần quãng đường này, nhưng tôi ngoan cố không thèm nghe lời khuyên đó của mẹ, còn lần đi phỏng vấn tuần trước thì tôi đi taxi. Tôi cũng rất ngán đi xuống mạng lưới tàu điện ngầm chằng chịt. Nhưng may sao có một người ngồi sau quầy thông tin nói tiếng Anh, hướng dẫn tôi đi tuyến số 6 đến phố 59. Đến đó chỉ cần xuống bên phải đi bộ hai dãy nhà là đến Madison. Quá đơn giản. Tôi lên toa tàu lạnh ngắt và vắng người, giữa tháng Mười một ngoài tôi ra ít kẻ nào dở hơi ra đường vào cái giờ mọi người còn ngáy khò khò. Thôi thì đến đâu hay đó, chưa thấy gì trục trặc cả - cho đến khi tôi xuống tàu và đi lên mặt đất.
Tôi lên cầu thang gần nhất, trên phố là một bầu không khí lạnh ngắt mà nguồn sáng duy nhất hắt ra từ một hiệu ăn mở 24/24. Sau lưng tôi là cửa hiệu bách hóa Bloomingdale's, ngoài ra thứ gì cũng lạ lẫm cả. Elias Clark, Elias Clark, Elias Clark, mày trốn đâu rồi? Tôi quay một vòng 180 độ và phát hiện ra biển tên phố: 60. À ha, phố 59 không thể xa phố 60 lắm đâu. Vấn đề chỉ là đi về hướng nào bây giờ? Madison ở về phía nào của Lexington? Tôi không nhận ra nét gì quen thuộc từ lần đi phỏng vấn lần trước, vì hôm đó tôi xuống xe ngay trước cửa tòa nhà Elias Clark. May mà đã tính dôi thêm khối thời gian, tha hồ mà lạc đường. Tôi ngơ ngác đi lại mấy bước và chui vào một quầy bán đồ ăn để mua cà phê.
" Xin lỗi, tôi đi tìm tòa nhà Elias Clark, ông có thể chỉ cho tôi đi theo hướng nào được không?" Tôi hỏi một ông đang tíu tít ở bàn thu ngân. Tôi cố không mỉm cười một cách khả ái, thực hiện đúng theo lời khuyên của mọi người, rằng tôi chớ quên mình không còn ở chốn Avon nhà quê nữa. Dân ở đây vốn nghi ngại những cử chỉ thân thiện. Ông ta cau có nhìn tôi, tôi lúng túng không rõ có phải ông ta cho mình là khiếm nhã không, và mỉm cười thân thiện.
" Một dollar," ông chìa tay ra.
" Ông đòi tiền chỉ đường hay sao?"
"Một dollar, nâu hay đen, muốn gì?"
Tôi ngớ ra nhìn ông ta một lát mới hiểu ra là tiếng Anh của ông ta chỉ đủ để nói chuyện cà phê. " ông cho xin cà phê với sữa, cám ơn." Tôi đưa một dollar rồi ra ngoài. Ngơ ngác hơn cả lúc nãy, tôi hỏi người bán báo, người quét đường, cả một người đang đẩy xe bán dạo đồ ăn sáng. Không ai đủ hiểu tôi để chỉ hướng đi tới phố 59 và Madison. Tôi có cảm giác như bị đưa về Delhi với trầm cảm và kiết lị. Không! Tôi sẽ tìm ra đường!
Sau mấy phút ngược xuôi giữa các tòa nhà văn phòng giờ này đang dần dần tỉnh ngủ, đột nhiên tôi đứng ngay trước cửa ra vào của tòa nhà Elias Clark. Sau những tấm kính là tiền sảnh sáng choang trong khung cảnh ràng rạng sáng sớm, thoạt trông có vẻ ấm cúng và mời mọc. Nhưng khi tôi toan đẩy cánh cửa xoay bước vào thì nó đứng im. Tôi mắm môi đẩy mạnh hơn, và chỉ khi tôi lấy hết sức bình sinh tì cả người vào tấm kính thì nó mới hơi nhúc nhích, thoạt tiên rất chậm chạp, rồi thì đột ngột quay nhanh đến nỗi tôi bị tấm cửa phía sau dộng vào lưng, suýt đẩy tôi lao vào tiền sảnh. Tôi díu hai chân và may mà chưa ngã. Một gã ngồi sau quầy an ninh cười phá lên. " Cái cửa khốn nạn quá nhỉ? Cô không phải người đầu tiên bị, và cũng sẽ không phải là người cuối cùng đâu," hắn ta cười rung cặp má nung núc thịt. " Người ta đón tiếp cô hơi bị dở đấy."
Tôi thoáng nhìn gã và biết rằng không thể có cảm tình với loại người này, cũng như gã sẽ chẳng ưa mình, bất kể tôi nói gì hay làm gì. Vì vậy tôi cười cho qua chuyện.
" Tôi là Andrea," tôi nói, rút găng ra và đưa tay qua mặt quầy. " Hôm nay là ngày làm việc đầu tiên của tôi ở Runway. Tôi là trợ lý mới của Miranda Priestly."
Gã cười rống lên, gật cái đầu tròn ra sau đầy khoái trá. " Ha ha ha, này Eduardo, ra đây xem này, Miranda lại kiếm thêm được một nô lệ mới đây này! Cô ở đâu đến thế hả cô bé? Từ nhà quê ra đúng không? Bà ấy sẽ súc miệng cô trong chớp mắt, ha ha ha!"
Trước khi tôi tìm ra câu trả lời thì một người đàn ông khác trông bộ cảnh phục giống hệt gã này đi tới và nhìn tôi dò xét. Tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nghe vài câu giễu cợt khả ố, nhưng không phải, thay vào đó ông quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi.
" Tôi là Eduardo, còn thằng ngố này tên là Mickey," ông nói và chỉ tay vào gã kia đang tỏ vẻ bực mình vì sự nhã nhặn của ông làm tịt trò đùa. " Chị không cần để ý tới hắn làm gì, hắn chọc ghẹo chị ấy mà," ông nói giọng NewYork pha lẫn phương ngữ Tây Ban Nha và lôi cuốn sổ ghi tên ra. "Chị điền các thông tin vào phần này, tôi sẽ đưa chị một thẻ thông hành tạm thời để lên tầng trên. Nói với phòng nhân sự là chị cần một thẻ có dán ảnh."
Chắc là vẻ mặt tôi lúc đó lộ rõ vẻ hàm ơn, nên ông ta chợt lúng túng và đẩy cuốn sổ qua mặt bàn. "Đây, chị điền vào đi. Chúc chị nhiều may mắn - đó cũng là thứ chị rất cần đấy."
Lúc đó tôi quá bối rối và mệt mỏi nên không hỏi ông có ẩn ý gì, vả lại chẳng cần hỏi cũng đoán ra. Cả tuần qua, từ khi nhận làm việc cho đến hôm nay mặc dù bù đầu chuẩn bị tôi cũng đã hỏi dò chút ít về bà sếp mới của mình. Qua những thông tin trên Google tôi ngạc nhiên biết rằng Miranda Priestly ra đời ở East End, London, với tên khai sinh là Miriam Princhek. Gia đình bà không khác gì các gia đình theo Do Thái giáo chính thống ở thành phố: bần hàn nhưng mộ đạo. Cha bà thỉnh thoảng làm những công việc vặt vãnh, chủ yếu dành thời gian để nghiên cứu các bài kinh kệ Do Thái, vì vậy gia đình sống nhờ vào sự trợ giúp của địa phương. Bà mẹ mất khi sinh hạ Miriam nên các con bà được bà ngoại nuôi nấng. Cả thảy 11 anh chị em! Hầu hết theo gương ông bố, kiếm những công việc lao động chân tay và thì giờ còn lại để cầu nguyện; vài người tự lực leo lên được đại học, sớm thành hôn và sinh con đàn cháu đống. Miriam là người duy nhất đi chệch khỏi truyền thống gia đình.
Miriam tích cóp những đồng tiền thỉnh thoảng được anh chị dúi cho và bỏ học ba tháng trước khi hết phổ thông để đi làm trợ lý cho một nhà tạo mẫu trẻ mới nổi người Anh, giúp anh ta tổ chức các show thời trang theo mùa. Chỉ vài năm sau, Miriam đã tạo được tên tuổi riêng trong làng mốt London. Buổi tối bà học tiếng Pháp và tìm được việc làm trợ lý biên tập cho tạp chí Chic ở Paris. Ở thời điểm ấy bà đã không quan hệ gì với gia đình nữa: họ không hiểu nổi quan điểm sống của bà, còn bà thì mặc cảm về sự sùng tín cổ hủ và địa vị xã hội thấp kém của họ. Sợi dây nối với gia đình bị đứt hẳn sau khi bà nhận việc ở tờ Chic và và cô gái Miriam Princhek hai mươi tư tuổi biến thành Miranda Priestly, đổi cái tên lồ lộ vẻ quê kệch thành một danh tính điệu đà. Cách phát âm đặc London cũng nhanh chóng nhường chỗ cho giọng nói kiểu cách của kẻ có học vấn cao, và chưa đầy ba mươi tuổi sự biến hóa màu nhiệm từ con nhà lao động lên bậc vai vế trong xã hội đã hoàn tất. Cứ thế bà nhanh chóng và liên tục leo hết các thang bậc trong làng xuất bản tạp chí.
Mười năm liền bà cầm lái cho con tàu Runway Pháp, sau đó Elias Clark đưa bà lên ngôi chủ bút của số Runway phát hành trên thị trường Mỹ - đỉnh cao nhất của giấc mơ ngày. Bà cùng hai con gái và ông chồng hồi ấy - một ngôi sao nhạc rock lăm le kiếm cơ may thăng tiến ở Mỹ - chuyển đến một căn hộ penthouse ở đại lộ số 5 cắt phố 75 và khai trương một thời kỳ mới: kỷ nguyên Priestly đã kéo dài được gần 6 năm tính đến ngày đi làm đầu tiên của tôi.
Số tôi đúng là may hơn khôn: tôi sẽ làm việc gần một tháng trời trước khi Miranda quay trở lại văn phòng. Như mọi năm, Miranda nghỉ phép từ một tuần trước lễ Tạ ơn qua tận năm mới. Thông thường thì bà nghỉ mấy tuần ở căn hộ mà bà còn giữ lại ở London, nhưng năm nay tôi nghe nói là bà lôi chồng con sang trang trại của Frederic Marteau ở St Barth's ở hai tuần, sau đó họ về Paris vui lễ Noel và giao thừa ở khách sạn Ritz.
Tôi cũng được cảnh báo trước là bà chỉ nghỉ phép theo " danh chính ngôn thuận" chứ bất cứ lúc nào cũng có thể bắt liên lạc được và làm việc suốt ngày, và điều đó cũng đúng với mọi nhân viên của bà. Tôi được tập huấn và dạy bảo trong khi " bà lớn" không có mặt, tránh cho bà phải phiền muộn về những sai phạm khó tránh của tôi trong giai đoạn học nghề. Nghe có vẻ lợi cho tôi. Đúng bảy giờ, tôi ghi tên vào sổ đăng ký của Eduardo và lần đầu tiên đi qua hàng rào xoay. " Chú ý tư thế!" Eduardo gọi với sau lưng tôi trước khi cửa thang máy dập lại.
Emily đợi tôi ở khu lễ tân, nom mệt mỏi rõ rệt và lếch thếch trong chiếc T-shirt trắng bằng thun nhàu và quần túi bên rất thời thượng. Với cốc cà phê Starbucks trong tay, cô đang giở qua số Runway mới của tháng 12. Đôi giày cao gót của cô đặt chình ình lên mặt bàn kính. Nịt vú đăng ten màu đen hiện rõ qua lớp vải bông của T-shirt. Son của cô hơi bị lem ra quanh môi và miệng cốc cà phê, mái tóc đỏ uốn sóng bù xù rủ xuống tận vai, khiến trông cô như vừa chui từ giường ra sau khi ngủ bảy mươi hai tiếng liền.
" Xin chào," cô làu bàu, đưa mắt dò tôi từ đầu đến chân như một nhân viên an ninh. " Ủng đẹp đấy."
Tim tôi đập rộn. Cô ta khen thật, hay nói mỉa? Giọng cô khó đoán. Chân tôi đau nhừ, và các ngón chân như bị thắt lại, nhưng nếu tôi muốn được người của Runway khen đẹp thì phải cắn răng chịu đựng thôi.
Emily ngắm tôi thêm một lúc rồi rút cẳng khỏi mặt bàn, thở dài đầy kịch tính: " Nào, bắt đầu thôi. Cực may mắn cho chị là sếp không có mặt ở đây," cô nói. " Không có nghĩa là bà ấy không phải là sếp tốt, tất nhiên, mà vì bà ấy là sếp tốt," cô bồi thêm rất nhanh - một cú thụt vòi cổ điển đúng kiểu Runway. Cứ mỗi khi người nào đó lắm mồm để buột ra một câu mang tính tiêu cực về Miranda - kể cả khi có lý - là run như cầy sấy vì sợ đến tai Miranda, và vội lấp liếm ngay. Một trong những kiểu giết thời gian sướng nhất của tôi khi đi làm là quan sát các đồng nghiệp hớt hải cải chính những lời phạm thượng mà họ thốt ra.
Emily quét thẻ thông hành của mình qua máy kiểm tra điện tử và chúng tôi im lặng đi cạnh nhau dọc hành lang hun hút đến phòng Miranda nằm chính giữa tầng. Cô mở cánh cửa dẫn vào phòng trợ lý, quẳng túi và áo choàng lên một trong hai chiếc bàn kê ngay trước cửa vào cấm cung của Miranda." Kia là bàn của chị," cô chỉ sang chiếc bàn gỗ phía đối diện, mặt bàn hình chữ L lát formica trơn bóng. Trên đó là một chiếc máy tính iMac mới cứng màu ngọc lam, điện thoại, khay để đồ linh tinh. Trong ngăn kéo có sẵn bút, kẹp giấy và sổ ghi chép. " Tôi để lại mấy đồ cũ của tôi cho chị và đặt mua các dụng cụ văn phòng mới cho riêng tôi, như thế đơn giản hơn."
Emily vừa được lên chức biên tập viên chính và nhường lại ghế trợ lý biên tập cho tôi. Cô giải thích rằng sau hai năm làm biên tập viên chính cho Miranda cô sẽ trực tiếp nhảy lên ban biên tập thời trang của Runway. Ba năm thâm niên làm trợ lý là một cơ sở vững như bàn thạch để tiến chân trong làng thời trang. Riêng tôi thì vẫn thích níu lấy hy vọng rằng một năm hầu hạ này sẽ đủ để tiếp bước tới The New Yorker. Allison sau khi rời chân trợ lý cho Miranda cũng đã leo lên vị trí mới ở bộ phận thẩm mỹ, chịu trách nhiệm về thử nghiệm và viết bài về phấn da, kem dưỡng ẩm và mỹ phẩm tóc.
Yêu Nữ Thích Hàng Hiệu Yêu Nữ Thích Hàng Hiệu - Lauren Weisberger Yêu Nữ Thích Hàng Hiệu