Thất bại ư? Tôi chưa bao giờ gặp phải. Với tôi, chúng chỉ là những bước lùi tạm thời.

Dottie Walters

 
 
 
 
 
Tác giả: Azit Nêxin
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1573 / 42
Cập nhật: 2017-07-24 16:15:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thanh Tra Sắp Đến
ở chúng tôi có hai chín thầy phán và gần hai chục loong toong. Chắc hẳn các bạn có nghe nói “về hưu trí được hưởng nguyên lương”... Tất cả mọi người chúng tôi đều ra sức thực hiện câu châm ngôn đó. Không, chúng tôi không ai bỏ việc trong giờ chính quyền, mỗi người đàng hoàng một ghế... Có điều, thế có gọi là làm việc hay không thì chưa biết? Làm lụng quái gì! Tôi ở sở này chín năm mà không nhớ là có một việc gì hữu hiệu hay không. Xem chừng thượng cấp cũng quên chúng tôi. Có chúng tôi hay không chúng tôi điều ấy thượng quan cũng không cần biết. Đúng ra, cũng có một dạo, Sở tôi cũng làm việc. Một vị “tai to mặt lớn” có đến nhưng rồi biến ngay. Từ đấy không cần nhớ. Tất nhiên, đúng lề thói, thỉnh thoảng cũng thấy dội từ trên xuống mấy cái thông tri, vài cái trát đòi. Nhưng đến một hôm có trát đòi mà không có phúc tín. Quan đốc sở tôi, một người có đầu óc rất mực thực tế, đã không thèm nhìn nhận đến trát đòi của quan trên nữa. Còn quan trên cũng chẳng muốn quản ngại đến chỗ chúng tôi làm gì. Sở tôi muốn ra sao thì ra, các vị phủi tay hết. Người ta quên chúng tôi, tựa hồ chúng tôi không có mặt trên đời. Nhưng giải tán Sở này thì không ai nói đến nửa lời. Mà thực ra, làm sao giải tán được một công sở quốc gia to tát như thế chỉ vì nó không đáp ứng được mấy cái trát đòi của quan trên?...
Cuộc đời quan phán từng ấy năm dài đã mở mắt ra cho tôi nhìn ra được một chân lý. Tôi hiểu rằng, ai làm nhiều, kẻ ấy bị tống thêm việc. Hy vọng làm cho chóng xong, tên viên chức khốn khổ kia ra sức mà cố gắng, nhưng liền sau đó hắn bị giao ngay thêm việc mới. Ngược lại, càng lười, càng thờ ơ, người ta càng muốn ít giao việc. “Thằng ấy đù đờ bất tài lắm”. Còn anh nào cố gắng thì tất nhiên người ta cũng càng cố gắng giao cho thêm nhiều việc. Xoay xở hết việc này đến việc kia, thế nào chẳng có sai sót. Thế là anh chàng phát bực, tính tình sinh ra cáu bẳn... Ở đời bao giờ chả thế: làm nhiều thì dễ có sai sót và tất nhiên người ta càng công kích. Con người không làm gì thì lỗi lầm không có. Tâm hồn anh ta bao giờ cũng được thanh thản.
Các công sở cũng thế mà thôi. Chẳng hạn có hai cơ quan: Bệnh viện Thú y và Sở Thưong mại. Sở này làm ăn tấp nập, ngược lại bệnh viện thú y chẳng làm ăn gì hết. Thế thì sao? Cuối cùng sự nghiệp thú y nước nhà cũng chẳng đình chỉ vì cái bệnh viện ấy ăn không ngồi rồi. Các bạn hãy tin rằng, hoàn toàn không có chuyện gì xảy ra cả, chỉ có điều những công việc dành cho bệnh viện thú y sẽ chồng chát lên vai cái sở hợp đồng thương mại rất năng nổ và mẫn cán đó.
Có thể có người biết một công sở siêng năng nào đó đang phải làm những phần việc của chúng tôi chăng? Cũng có thể chẳng ai làm thay chúng tôi vì chẳng ai cần đến chúng tôi cả.
Cầu trời độ trì cho ngài quan đốc đã giúp cấp trên quên đi sự tồn tại của lũ chúng tôi.
- Thế được rồi, nhưng cấp trên vẫn không quên trả lương các anh đấy chứ?
- Khô...ông! Việc đó chúng tôi giải quyết đến mức xuất sắc. Người ta không thể quên chúng tôi được. Giá chúng tôi cứ bỏ lỡ đi một hai tháng thì có lẽ người ta cũng quên thật. Nhưng tháng nào chúng tôi chả đi lĩnh lương. Kế toán thì lên sổ sách, chúng tôi thì ký tên. Một đại diện đến sở tài chính lĩnh tiền về chia. Nhân đây xin nói rằng sở chúng tôi ký tên vào sổ đã được coi là công việc nặng nhọc nhất. Nếu không có cái khoản chức phận đó thì không thể cho rằng tiền lương ấy là tiền biếu không chúng tôi.
Các bạn có biết những ý nghĩ gì thường xảy ra trong đầu mỗi khi tôi nghĩ đến sở tôi, nơi tôi đã làm việc chín năm hay không? Tôi thường tự bảo, giá cấp trên không quên hẳn chúng tôi thì không hiểu công việc có nhích lên được chút nào hay không? Hay một trường hợp khác. Các bạn thử nghĩ liệu có gì thay đổi không, nếu cấp trên quên hẳn đi một vài sở nữa, như họ đã quên chúng tôi? Trật tự trên trái đất liệu có bị phá vỡ không? Hay mọi sự vẫn như xưa? Hay biết đâu công việc lại chạy hơn! Tôi rất khao khát biết những điều ấy.
Nhưng sự đời cái gì cũng chấm dứt. Cuộc sống dông dài của chúng tôi kết thúc khi quan đốc tôi về hưu và có ngài Xápphét về thay. Tôi chỉ băn khoăn một điều, làm sao người ta biết được có cái ghế bỏ trống khi quan đốc tôi về hưu? Không những người ta biết mà còn cử được ngài quan đốc khác đến ngồi cái ghế ấy! Thế mà trước đây, tôi cứ tưởng rằng viễn cảnh cuối cùng của sở tôi là lo chúng tôi lần lượt xếp bút về hưu, không còn ai đến thay chỗ chúng tôi nữa. Rồi cùng với thầy phán nào về hưu cuối cùng, cả sở này sẽ nhắm mắt yên giấc vĩnh hằng.
Bây giờ thì hóa ra quan trên không quên hẳn chúng tôi, một khi còn được cử về một quan đốc mới! Ngài Xápphép lập tức hăng hái bắt tay vào việc. Việc đầu tiên là ngài khiển trách bác làm vườn, anh thường trực, cậu loong toong và bác gác cổng.
Đúng chín giờ sáng ngài đến sở. Hiển nhiên là chưa ai đến. Không một bóng người. Các bạn nghĩ xem, mới chín giờ sáng!... Có ai làm giờ này? Tất nhiên, đến cũng được, nhưng đến làm gì? Giả thử có việc gì đó thì tôi xin lấy mạng sống tôi ra mà thề anh em chúng tôi có thể đến được từ tám giờ chứ không phải chín giờ đâu.
Lại nói, ông ta đến lúc chín giờ, cửa còn khóa. Quan đốc phải đứng ngoài đợi. Mười giờ, bác gác cổng Muxta mới đến, bác ta đang định mở cổng thì quan đốc hỏi:
- Bác là ai?
Cần phải nói rằng sở chúng tôi vẫn thường đảm bảo dân chủ tuyệt đối. Chẳng hạn, quan đốc cũng thế, nhân viên gác cổng cũng thế, ai cũng bình đẳng như ai. Vì vậy câu hỏi kia làm bác Muxta kinh ngạc. Vả lại, không kể những chuyện khác, đã nhiều năm nay trong sở cũng như gần sở, bác ta có gặp người lạ mặt bao giờ đâu. Vì thế bác ta cũng lại hỏi đúng cái câu ấy:
- Vậy bác là ai?
- Bác làm gì ở đây? - Quan đốc lên giọng.
- Việc gì chẳng được. Còn bác làm gì ở đây? - Bác gác cổng ngỡ là gần sở mới có một thằng ma cà bông lạ mặt, hoăc có thể là một gã mật thám, nên suýt nữa tóm cổ quan đốc mới vào đồn. Cũng may quan đốc kịp đoán ra.
- Trước mặt nhà bác là quan đốc mới sở này.
- Còn trước mặt ngài là người gác cổng với mười bốn năm nghiệp vụ thâm niên. Xin chào! - Bác Maxta đáp lại.
- Thế, ngoài bác ra ở đây không còn ai hay sao?
- Sao lại không? Tất nhiên là có chứ?
Sau này hỏi bác Muxta, chúng tôi mới biết là ngài Xápphép còn hỏi thêm bác một câu.
- Mỗi người có một chìa riêng. Ai đến sớm, người ấy tự mở. Ngài đừng lo, hôm nay tôi sẽ đặt làm riêng cho ngài một chìa.
Lúc tôi đến nơi, không khí toàn sở im lặng như trong huyệt mồ.
- Xin chào các người anh em, có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi mọi nguờì.
- Gay rồi. Người ta đặt lên đầu chúng ta một lão quan đốc mới tởm lợm.
Chúng tôi chưa kịp đôi hồi thì bác Muxta đã vào phòng tôi bảo:
- Quan đốc gọi anh.
Tôi lên phòng quan.
Trước mắt tôi là một người mặt dài ngoằng. Ông ta ngồi chống cùi tay lên tấm kính mặt bàn.
- Tôi lấy làm hân hạnh được gặp ngài! - Tôi nói và đưa tay trước.
Lưỡng lự giây lát ra chiều suy nghĩ có nên đưa tay ra không, cuối cùng ngài cũng bắt tay tôi.
- Công việc của ông là gì? - Ngài hỏi.
- Tôi ấy ạ, bẩm ngài?
- Phải.
- Dạ, nhân viên văn phòng.
- “Nhân viên” là thế nào?
Câu hỏi ngốc ơi là ngốc.
- Dạ, tức là phán chức.
- Tôi hiểu rồi, thưa ông, nhưng ông là phán chức gì? Ông đảm lãnh công việc gì?
- Dạ, lạy giời, anh em chúng tôi không có sự phân biệt. Vậy nên...
- Hàng ngày ông đến sở lúc mấy giờ?
- Tôi không dám nói chắc, nhưng bao giờ cũng trước bữa ăn trưa ạ.
- Thế các ông không phải đến lúc chín giờ à?
- Đến làm gì ạ, thưa ngài? Đến sớm thế tôi biết làm việc gì bây giờ?
- Nếu vậy ông cứ ngồi nhà. Đừng bao giờ đến nữa.
- Bẩm ngài xá cho, có thể nào người ta từ sáng đến tối chịu đựng được tiếng vợ con eo xèo! Ít lâu nữa ngài sẽ phải thừa nhận rằng khó có thể ngồi nhà được từ sáng đến tối. Thế nào ngài cũng phải mò đến sở làm việc.
Quan đốc không mời tôi ngồi, nhưng để ngài khỏi ngượng vì bất lịch sự, tôi bèn ngồi xuống ghế bành.
Rồi tôi rút thuốc bóc ra đưa mời.
Nhưng quan bảo:
- Ông về được rồi.
Lão ta tệ hại thật! Tôi đút thuốc vào túi, bước ra.
Lăo Xápphét không cho chúng tôi yên. Đầu tiên lão nghĩ ra (chết cha chúng tôi) một kiểu điểm danh mới. Ai cũng phải đến đúng chín giờ sáng và không ai được về trước năm giờ chiều. Phút đầu và phút cuối phải ghi sổ.
Lão tính rằng bằng cách đó lão sẽ tính được ai đi làm, ai đi chơi, ai đi đúng giờ, ai đến muộn. Nhưng sổ ấy lão Xápphét không đạt yêu cầu, chẳng ai buồn ghi vào cả.
- Quét mạng nhện đi.
- Lau cửa kính đi. - Thỉnh thoảng lại thấy vang lên tiếng quát lợm giọng của quan đốc. Ai quát nấy nghe. Chẳng ai để tai đến cả.
- Ghi phiếu công vụ đi.
- Phiếu công vụ là gì ạ?
- Tất cả nhân viên đều phải làm lý lịch và nộp cho tôi! Lý lịch? Bố ai biết được đã bao nhiêu lâu rồi tôi chẳng làm một thứ lý lịch nào cả. Bụi trong tủ dày đến đốt ngón tay.
Mỗi ngay lão nghĩ ra một trò làm khổ chúng tôi.
- Chúng ta sẽ lập một sổ đăng ký công văn!... Chúng ta sẽ lập một sổ kiểm tra hành chính.
- Lạy giời, sổ đăng ký là cái quái gì? Chúng ta làm gì có công văn. Có gì mà đăng với ký?
Ngày nào lão cũng có một tối kiến gì đó. Mặc xác lão! Chẳng ai để ý! Lão làm việc lão, chúng tôi làm việc chúng tôi. Một bữa, các bạn đồng sự yêu cầu tôi:
- Cậu đi giải thích cho lão ấy biết nội tình của chúng ta đi chứ.
Tôi đi luôn.
- Thưa ngài, - Tôi nói - ngài thật hoài công làm khổ chúng tôi. Sở này có như các sở khác đâu. Ở đây không có việc làm! Ngài bày việc ra làm gì?
- Các ông có ăn lương không đấy? - Lão hỏi.
- Có chứ ạ. - Tôi đáp.
- Vì sao các ông hưởng lương?
- Thưa ngài, chúng tôi phụng sự quốc gia thì tất nhiên phải được tiền chứ ạ. Chẳng lẽ mang tiếng là nhân viên nhà nước mà lại không lương à?
- Nếu vậy các ông phải làm việc.
- Chả lẽ có việc mà chúng tôi không làm hay sao? Cái sở này đã bị quên rồi, thậm chí chả còn ai biết đến nó nữa.
Quan đốc giận tím mặt. Ngài vung tay, gầm lên:
- Việc nước phải ra việc nước. Tôi bắt các ông phải phục tùng tôi.
Ông ấy cứ bắt đi mà xem! Có điều ông ấy phải lo thân trước đã.
- Tôi sẽ phê vào lý tịch ông...
Ông cứ phê đi mà xem...
- Tôi sẽ bẩm lên thượng cấp!
Ông cứ bẩm đi! Sợ gì?
Ông ấy có làm gì cũng chẳng ăn thua. Không sao xoay nổi chúng tôi. Mạng nhện trên trần không quét được, bụi trong tủ không lau được. Vẫn như xưa, chẳng ai nhớ phải đi làm mấy giờ, tan Sở mấy giờ, sổ kiểm danh cũng chẳng ai ghi. Rồi đến mức chúng tôi phải gửi giấy lên quan đốc:
- “Ông cứ kệ thây chúng tôi. Ông cứ ngồi đâu ngồi đấy. Nếu ông không nhượng bộ, chúng tôi sẽ đồng lình làm đơn khiếu ông”.
- Các ông muốn làm gì thì làm. Tôi sẽ không bao giờ thò mũi vào việc các ông nữa! - Cuối cùng ngài Xapphét khoát tay nói.
Chúng tôi lại trở lại cuộc sống xưa. Có quan đốc hay không, không ai cần biết. Thực ra, ngày nào ông cũng vẫn đến Sở đúng chín giờ sáng và ra về đúng năm giờ chiều. Cái lão khốn khổ ấy cứ ngồi từ sáng đến chiều thu lu trong văn phòng của mình. Lão làm gì chúng tôi không ai hay biết!
Một hôm người đưa thư mang đến sở một bì công văn màu vàng. Ala! Lạy thánh Ala! Ở đâu thế này? Chúng tôi bối rối không biết làm gì. Mọi người xúm lại bảo nhau: “Anh bóc ra xem!” Nhưng không ai dám bóc cả.
Ông Mucxin bảo bác Huyxammenttin:
- Nào, bác bóc ra đi!
Bác Huyxammenttin hoảng sợ, kêu lên:
- Sao ông không làm mà lại xui tôi?
- Trời ơi, nhưng bác là phần văn thư kia mà?
- Sao ông biết!
Để khỏi cãi nhau, tôi cầm lấy phong bì bảo:
- Chúng ta bóc làm gì? Chỉ tổ mang thêm trách nhiệm. Cứ để cho quan đốc bóc lấy.
Chúng tôi kéo nhau đến, tôi đi trước, anh em đi sau.
- Thưa quan đốc, - Tôi nói - ngài cố thư ạ.
Quan đốc dùng dao cắt giấy mở phong bì trước mắt chúng tôi. Cái gì bên trong thế nhỉ? Quỷ thật! Mọi người chúng tôi đều hồi hộp chờ đợi một con thỏ nhảy chồm ra hay một con bồ câu bay vụt lên. Và lão quan nào là người nghĩ ra cái trò gửi công văn về Sở chúng tôi thế nhỉ? Cuối cùng, quan đốc lôi được trong phong bì ra một tờ công văn, liếc mắt rồi đọc:
- Sở chúng ta xếp vào khu thanh tra thứ ba. Trong tháng tư sẽ có kiểm tra công việc.
- Trời ơi! - Ông Mucxin kêu lên.
- Kiểm tra? Thanh tra sắp đến! - Bác Huyxammenttin không tin lỗ tai mình, lắp bắp - Cơ khổ!
- Chẳng lẽ tháng lư đã về?
- Làm sao bây giờ, các người anh em?
Chỉ riêng quan đốc còn giữ được vẻ bình thản:
- Thanh tra chứ có phải thánh Ala đâu. Hắn chẳng làm gì chúng ta được.
- Trời ơi, ngài Xápphét, ngài nói gì vậy, hay là trong đời ngài chưa thấy thanh tra lần nào? Ngày xưa đã có lần thanh tra đến đây...
- Thì lão ấy cũng không phải là Thần Chết... Sao, lâo ấy cắt cổ chúng ta à?
- Chao ôi, nếu thế thì đã phúc tôi... đằng này lão ấy hành hạ còn chán. Lão ấy sẽ đuổi cổ chúng ta đi xa, sẽ ném chúng ta đi mỗi người một xứ như xua chim non vậy.
- Tôi đã sắp đến kỳ tăng lương. Nếu phải đi tỉnh khác thì hỏng bét cả.
- Tôi cũng vậy. Thằng cháu trai đang học trung học, con cháu gái học đại học!
- Cái bọn thanh tra có bao giờ chịu hiểu hoàn cảnh người khác, chúng chỉ biết thải người cho gọn tay!
Nhưng còn quan đốc thì sao? Tựa hồ lão ta chả can hệ gì.
- Thanh tra thì mặc thanh tra! Họ chẳng làm gì được đâu. Nghĩ đến làm gì...
Không, các bạn thử nhìn mặt thanh tra mà xem. Mỗi người chúng tôi đều còn nhớ những chuyện ngày xưa rắc rối vì cái lão thanh tra ấy.
- Ngày xưa có một lão thanh tra đến Sở mình. Các bạn nhớ lại xem. Lão đuổi thẳng cánh ngay một thầy phán, cầu trời cho thầy Xulâyman ấy được mạnh giỏi chỉ vì thầy ấy có pha cà phê trong giờ làm việc.
- Bọn thanh tra ấy có biết thương ai bao giờ. Có một lần chúng đến chỗ bọn mình...
Nhưng lão quan đốc vẫn cứ bình chân như vại. Làm sao bây giờ? Chúng tôi đành xắn tay lên làm vệ sinh, Ala, lạy thánh Ala, bẩn ơi là bẩn. Rác rưởi chở đi hết xe này đến xe khác. Bụi bặm lưu cữu trong tủ thành một lớp đày đến nỗi người đến kẻ đi, không ai đừng được, ai cũng phải lấy ngón tay viết một dòng lưu niệm hay ít ra cũng vạch loằng ngoằng mấy nét rồng rắn.
Một nhân viên nhìn thấy trên giường tủ, nơi vứt lỏng chỏng mấy thứ văn phòng phẩm, dòng chữ:
- “Saban, con của Khuđuxi, sinh năm 1330 [1], làng Buylemgìu, tổng Xivát”, nhưng anh ta cũng chẳng buồn lau.
- Đây là bút tích bạn cũ của tôi, xóa đi sao đành! - Anh khuyên chúng tôi.
Bụi hết, rác sạch. Tường quét vôi khang trang. Mọi người chung tay sơn cửa to, cửa nhỏ, anh nọ trách anh kia lơ là. Thế là có cái cầu thang ai cũng tranh nhau quét. Văn phòng trông khác hẳn. Đồ đạc bóng láng. Sạch sẽ cũng thích thật. Có người nói lão thanh tra đến một huyện ly nọ. Lão kiểm tra một công sở. Lão rờ ngón tay vào một máy chữ và bảo: “Bụi này mấy chục năm rồi đây?” Tất nhiên, thế là sự nghiệp một quan phán nào đó đi tong.
Bác làm vườn của chúng tôi đã cắt hết rau để trồng hoa. Đi đâu chúng tôi cũng kháo nhau về thanh tra. Toàn những tin đồn sấm sét. Đến công sở nào thấy ai bỏ giờ hành chính là đuổi ngay. Ai chểnh mảng công việc là có ngay tờ trình thượng cấp! Chúng tôi bèn đi làm không phải chín giờ, mà là tám giờ sáng.
- Các người anh em ạ, vì Chúa, mỗi người anh em phải tìm lấy cho mình một việc làm. Có phải ngày xưa tháng nào chúng ta cũng làm một bản lập bô, phải không nhĩ?
- Rút các tờ phiếu ra!
- Chuẩn bị các bản thông báo đi!
Chúng tôi triển khai hoạt động như điên. Cả guồng máy đã quay tít. Ngày nào chúng tôi cũng trình quan đốc mấy tờ để ký. Ai cũng bận rộn công việc. Mọi thanh tra được chia thành các ban bệ, tổ nhóm. Chúng tôi vừa đệ báo cáo lên trên, đã thấy trên gửi trát xuống. Tha hồ các máy chữ lách cách, ngòi bút soàn soạt, các bản thảo được viết đi sửa lại. Văn phòng đã được khách làm ăn để mắt đến. Nhan nhản trên các mặt bàn là dấu tem thư, chữ ký, bản in, quyết định...
- Mang cái này sang phòng bên! Đưa sang bàn kia lấy chữ ký!
- Trả cho tiền lệ phí!
- Nộp 12 ảnh làm giấy chứng nhận!
- Ông trưởng phòng hai có duyệt không ạ?
- Cần một con tem 270 xu.
Tin đồn vẻ lão thanh tra ngày càng sấm sét hơn. Lão bước chân đến văn phòng nào thì ở đó rơi lông rụng cánh.
Mỗi ngày chúng tôi không phải chỉ làm tám giờ, mà làm đến mười giờ, thậm chí chủ nhật cũng không bò ra khỏi công sở. Thế mà việc vẫn không hết.
Rồi bỗng có tin báo là quan thanh tra sẽ đến vào ngày thứ tư. Cả văn phòng sôi lên. Để chờ ký giấy, các thầy xếp thành hàng dài. Điều này nếu không cho thêm biên chế chúng tôi đến chết bẹp dưới đống giấy tờ tồn lại này mất.
Chỉ riêng quan đốc biết quan thanh tra sắp đến mà không mất bình tĩnh.
- Đến thì đến chứ sao! - Ông lạnh lùng nói.
- Bẩm ngài Xápphét, đến thì đến là thế nào ạ? Với lão ấy thì không đùa được đâu. Có những nguồn tin đáng tin cậy cho chúng tôi biết rằng thứ tư này lão ta sẽ đến.
- Lão ấy không ăn thịt được ta! Đến thì cứ đến!
- Ngài chắc chưa bao giờ làm việc với thanh tra?
- Các bạn thân mến, vậy theo các bạn chúng ta phải làm gì đây?
- Dọn buồng riêng này, mớ tiệc chiêu đãi này. Chẳng lẽ những việc ấy lại không cần hay sao?
- Chả... ả... a cần - Ngài Xápphét nói - Sở ta chẳng có xu nào để làm việc ấy cả.
Từ xưa tới nay các bạn đã thấy người nào gần như thế chưa? Vì lão thanh tra đến, suốt hai tháng rưỡi nay chúng tôi đã phải đổ mồ hỏi nước mắt. Chúng tôi làm việc cật lực bởi vì rằng không nay thì mai lão ta sẽ đến. Mà ngày đó chúng tôi lại không tổ chức nổi một bữa tiệc hay sao. Bê bối không thể tưởng tượng được. Nếu không cho lão ta được một bữa chén thì công lao chúng tôi đều xuống biển hết.
Thế là anh em đồng sự chúng tôi gom tiền nhau lại đặt một bữa tiệc vào thứ tư tại câu lạc bộ thương mại.
Đêm thứ ba tôi không sao nhắm mắt được. Tôi dậy sớm rửa mặt, cạo râu rồi đi làm từ lúc bảy rưỡi. Thế mà vẫn là người cuối cùng. Tôi thấy ai nấy đều mặc quần áo mới cứng, người nào chỗ nấy đoàng hoàng.
Như thường lệ, quan đốc vẫn đến lúc chín giờ và vào phòng riêng làm việc. Cả sở tôi sôi động công việc. Ai cũng muốn làm tốt hơn, nhanh hơn. Mãi đến trưa cũng chẳng thấy tăm hơi thanh tra đâu cả.
Hay là mai lão ấy mới đến? Chúng tôi bèn đến câu lạc bộ thương mại xin chuyển bữa tiệc sang ngày mai. Để một ngày thức ăn cũng có hỏng đâu mà sợ?
Có tiếng chuông điện thoại, rồi có tin điện đến, mọi người nhớn nhác chờ tin thanh tra. Nhưng rõ ràng là không ai nghe được gì về lão, không ai nhìn thấy mặt lao.
- Chính bác là người tung tin ra phải không?
- Chết, bác nhớ lại xem, đấy có phải là chuyện đùa đâu?
Tối hôm đó chúng tôi tự khao mình một bữa. Mọi chuyện đều xoay quanh lão thanh tra:
- Này, sao lão ta không đến nhỉ?
- Bao giờ lão ấy mới đến?
- Rồi xem, bao giờ lão ta cũng đến chộp chúng ta bất thình lình.
Đến cuối bữa, không kìm được nữa, quan đốc mới cười phá lên:
- Thưa các ngài! Chẳng có thanh tra triếc gì cả. Tin ấy chính là tôi tung ra đấy. Cái thư báo tin lão ấy đến cũng là tôi gởi.
Ái chà, đồ lừa đảo, khiếp quá, đồ đểu!
- Thì tôi biết làm thế nào khác nữa? Mọi biện pháp của tôi đều không có kết quả gì! Tôi không sao đưa các ông vào nề nếp được. Chính các ông buộc tôi phải lừa dối, phải bịa ra chuyện quan thanh tra đến. Bây giờ các ông thấy không, công việc đã chạy răm rắp!
Bữa tiệc chẳng làm chúng tôi vui lên tí nào. Những ngày sau dù chúng tôi có cố gắng bao nhiêu cũng không làm cho công sở trở lại trạng thái mấy hôm trước được, không khí nó cứ thế nào ấy.
Nhưng bộ máy đã khởi động. Các cấp trên cũng đã biết đến chúng tôi và bắt đầu dội xuống trăm thứ giấy tờ lục vấn. Khách làm việc bắt đầu ra vào. Dù chúng tôi có cố tránh cũng không tránh được họ. Hơn nữa, họ còn quát tháo chúng tôi:
- Cái nhà ông này, chúng tôi đến nộp thuế chứ làm gì. Chính tiền lương của các ông cũng nằm trong này cả đấy. Làm đi, làm việc đi chứ, chúng tôi lại bẩm quan trên bây giờ!
Từ độ đó chúng tôi không chây lười được nữa. Sợ thay, công việc mỗi ngày lại nhiều hơn, không sức đâu mà làm xuể được. Sở tôi đã nhận thêm mười người mà việc vẫn không giảm. Tội vạ ấy chính là do cái lão già Xápphép lừa đảo kia mà ra cả.
Thế đấy, chúng tôi chẳng thấy mặt mũi quan thanh tra đâu, nhưng đầu óc không lúc nào rời được lão. Bao giờ chúng tôi ngồi làm việc cũng dường như có con mắt cú vọ của lão theo dõi.
Tối nào cầu nguyện, chúng tôi cũng chỉ xin một điều:
- Lạy thánh Ala vĩ đại, xin người ban cho chúng tôi một viên giám đốc ngày xưa. Cầu cho lão ấy nhổ toẹt vào công việc trong sở và cấp trên quên hẳn chúng tôi!
Chú thích:
[1] Theo lịch Hồi giáo.
Xứ Sở Của Những Người Ngáp Xứ Sở Của Những Người Ngáp - Azit Nêxin Xứ Sở Của Những Người Ngáp