Người ta sẽ học được nhiều hơn từ lỗi lầm của mình, nếu như họ không quá bận rộn chối bỏ lỗi lầm của mình.

J. Harold Smith

 
 
 
 
 
Tác giả: Doris Lessing
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Nguyen Vu
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1550 / 28
Cập nhật: 2016-02-22 10:53:26 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chuyện Kể Về Hai Con Chó
húng tôi chẳng thể ngờ rằng việc kiếm một con chó thứ hai để nuôi lại phức tạp đến thế, mà lỗi của cái sự phức tạp ấy lại là những điểm khá đặc biệt trong quan hệ giữa các thành viên ở gia đình tôi.
Ban đầu quả là chẳng có gì đơn giản hơn - cái việc kiếm thêm một chú chó ấy - khi mà cả nhà đã quyết rồi: "Joke chẳng có bạn chơi, rất cần có thêm một cún con nữa, không thì Joke hoặc là sẽ mất tăm tích ở chỗ mấy anh nhọ (người da đen) ở làng hoặc là sẽ lông nhông cùng lũ chó ghẻ của họ". Tất thảy những người hàng xóm quanh chỗ chúng tôi ở đều nuôi chó trong trang trại nên có thể xin một chú cún con thuần chủng được. Mỗi một người làm da đen thường có một vật nuôi gày nhom ốm đói mà họ vẫn hay đem chúng đi săn hòng đôi khi kiếm cho mình được chút thịt còm. Thảng hoặc, những chú cún của những con người tội nghiệp này rơi vào khu điền trang của các ông chủ, mà ở đó thì người ta không thể khoái các chú được. Biết tin chúng tôi muốn kiếm thêm một con chó mới, bác thợ mộc Jakob dẫn đến cho một cậu chàng, cậu ta vui vẻ nhảy cẫng lên bên thềm, cổ vẫn bị buộc dây. Song bố mẹ tôi lịch sự từ chối, mẹ bảo cái ổ rận di động ấy không thể cùng hội cùng thuyền với chú cún Joke của chúng tôi được, mặc dù lũ trẻ chúng tôi thì lại rất khoái cậu chàng nọ.
Joke cũng là giống lai giữa chó béc-giê với giống chó săn Rhodesia và hình như với cả giống terrier nữa thì phải. Nó được thừa hưởng của mấy loài tiên tổ ấy cái lườn và mảng lưng sẫm màu, cái mõm dài buồn bã và đôi tai bé trông rất lấc cấc. Nói gì thì nói, về cái khoản thuần chủng thì Joke cũng chẳng thể tự hào được. Nhưng ưu điểm của nó là rất cao quý, mà quả là đặc điểm này có trong nó như một bản chất cố hữu.
Nhưng điểm tốt này lại còn được mẹ tôi phóng đại lên nữa. Bà trút trọn tình yêu của mình lên chú chó này khi anh tôi đi học xa. Về lý thuyết thì anh ấy là chủ của Joke. Có điều không hiểu có ý nghĩa gì nhỉ cái việc tặng một cậu trai một chú chó khi chỉ sau đó vài ngày cậu trai ấy sẽ lên tỉnh học và sống ở trên ấy cả mùa Thu, cả mùa Đông lẫn cả mùa Xuân? À... ra là để lấp chỗ trống, cái khoảng trống chắc chắn sẽ hiện ra sau khi anh chàng đã đi rồi. Khổ thân mẹ tôi, bọn trẻ luôn luôn xa dần bà - bởi lũ trẻ con nhà nông không tránh khỏi việc phải lên tỉnh khi đến tuổi tới trường.
Vuốt vuốt đôi tai nhạy của Joke, mẹ nựng: "Joke của mẹ! Chú cún tuyệt diệu của mẹ! Joke, cún con thật là đáng yêu, thật là khôn, đúng rồi... rất rất khôn... "
Bố tôi không kìm được, bảo:
- Vì Chúa, mẹ nó đừng làm hỏng chó nhà mình! Đây có phải là chó cảnh đâu, chẳng phải chó bông xù vớ vẩn nhé, mà là chó giữ nhà, chỗ của nó là ở ngoài sân ấy!
Mẹ không đáp lời bố, trên gương mặt bà lại xuất hiện nét quen thuộc của một nỗi niềm đau đớn khó hiểu. Bà càng cúi xuống thấp hơn về phía Joke, má áp sát vào cái lưỡi nhỏ hồng hồng nhanh nhẹn của nó và tiếp tục than vãn:
- Tội nghiệp Joke, ừ, ừ... tội nghiệp chó con! Ai bảo mình là chó giữ nhà, nhỉ? Ai bảo chỗ của mình là ngoài sân, nhỉ? Chó con đáng yêu, chó con bé bỏng, chó con ngốc nghếch...
Cảnh đó khiến anh tôi giận dữ, bố giận dữ, tôi cũng giận dữ. Hồi còn bé chúng tôi cũng chưa từng muốn là những đứa trẻ "bé bỏng ngốc nghếch", mỗi đứa đều nổi loạn theo kiểu của mình và cố vùng ra khỏi vòng chăm bẵm của mẹ. Giờ thì chúng tôi thấy khó chịu đến buồn nôn khi một con chó khỏe mạnh bị biến thành một thứ ẻo lả quặt quẹo như chúng tôi cũng từng suýt bị như thế. Tuy nhiên, sâu xa, chúng tôi thấy rất hài lòng, nhận thức rõ sự hài lòng ấy cùng với đôi chút dằn vặt lương tâm rằng mọi chăm bẵm của mẹ giờ đã trút hết sang Joke. Mẹ vốn lúc nào cũng có nhu cầu bao bọc đến mức quá đáng, nâng niu những đứa nhỏ "bé bỏng và ngốc nghếch".
Lúc nào chúng tôi cũng cảm nhận được vẻ trách cứ của mẹ. Khi bà cúi gương mặt buồn bã xuống phía con vật và vuốt ve nó bằng những ngón tay trắng mảnh đeo đầy nhẫn của mình, những chiếc nhẫn chỉ chực tuột ra khỏi tay bà, và âu yếm: "Joke, cún yêu, con thật là đẹp, thật cao quý"... thì bố con tôi bắt đầu ngạt thở vì bực mình, những muốn giằng lấy Joke khỏi tay mẹ để thả nó đi lang bang khắp điền trang như một con thú non, khỏe mạnh vui đời cần phải như thế, hoặc giả, nếu được, chúng tôi những muốn chạy đi ngay lập tức đến đâu thì đến để không bao giờ phải nghe thấy những trách móc đau buồn trong giọng nói của mẹ. Mà ngay trong cái sự giọng của mẹ tôi bao giờ cũng có đôi chút trách móc ấy chỉ có chúng tôi là có lỗi: giá kể chúng tôi đồng ý cho bà được cưng nựng mình, giá kể chúng tôi thuận theo sự giáo dục của mẹ hoặc chí ít cũng biết nghe lời thì có lẽ Joke đã không phải suốt ngày ngồi cạnh chân mẹ tôi, đặt cái đầu kiêu hãnh, trung thành của mình lên đầu gối bà, và mẹ cũng chẳng phải vuốt ve nó, buồn bã và dằn vặt đến vậy.
Và thế là bố đã quyết sẽ phải kiếm thêm một chú chó nữa, chẳng rồi Joke sẽ bị biến thành một thứ "ẻo lả dãi dớt" mất. Nghe những lời như tiếng vang của những trận chiến gia đình thường diễn ra vô số kể, anh trai vùng dậy, sưng mặt lên và vênh vang đi ra khỏi phòng. Nhưng mẹ lại chẳng muốn nghe về chú chó mới, cho đến khi một lần, Joke lén chạy vào làng tìm mấy anh làm công người da đen mà nô giỡn cùng hội chó của họ.
- Con không xấu hổ sao, Joke! - mẹ đau buồn nói. - Con chạy chơi cùng cái lũ chó bẩn thỉu, hạ tiện ấy làm gì?
Trong cơn ân hận cùng cực, Joke nhảy loạn lên trước mặt mẹ, liếm mặt bà, còn bà thì vươn về phía nó với vẻ thất vọng của một người đang sầu não, người đã từng bị dối lừa và phản bội nhiều lần, và lại mắng mỏ:
- Trời, để làm gì vậy, Joke, tại sao vậy?
Vậy đó, thế là đã quyết xong: chúng tôi cần một con chó nữa. Và nếu Joke, không tính cái lần phản trắc tạm thời này, là một chú chó cao quý, đại lượng và, có giáo dục, thì chú cún con mới này chắc chắn cũng phải có được những phẩm chất ấy. Nhưng kiếm đâu ra một con chó như vậy, dù có đi cùng trời cuối đất? Mẹ đã thoái thác đến hơn chục ứng viên rồi, mà Joke thì vẫn cứ sổng ra là chạy đến với bọn chó nhà da đen, để rồi sau đó lai gian giảo lủi về nhà, nhìn vào mắt mẹ với vẻ trung thành. Tôi tuyên bố rằng con chó thứ hai này phải là của tôi. Anh tôi đã có một con, thì tôi cũng phải có chứ. Nhưng tôi tuyên bố về quyền lợi của mình không được hùng hồn cho lắm vì những đòi hỏi về công bằng của tôi hiện tại vẫn rất trừu tượng. Bởi lẽ, tôi hoàn toàn không muốn có một con chó tốt, cao quý và có giáo dục. Tôi muốn một chú cún thế nào tôi cũng chẳng giải thích được, nhưng ý nghĩ về sự có giáo dục của loài chó khiến tôi thấy lợm giọng. Bởi vậy tôi không phản đối mạnh cho lắm khi mẹ cứ từ chối hết chú cún này đến chú cún kia, kệ cho mẹ muốn làm gì thì làm, miễn là nguồn trữ lượng dồi dào kinh dị của tình yêu mẹ cứ tiếp tục trút lên đầu Joke mà đừng có là mối đe dọa cho tôi là được.
Đúng vào dạo đó, chúng tôi lên đường đi một chuyến du lịch có hành trình dài và xa - bố mẹ thi thoảng đi thăm các bạn bè đông đúc của mình; với một số người, chúng tôi ở chơi một ngày, rồi lại ngủ qua đêm ở nhà một vài người khác, với dăm người nữa thì chỉ đáo qua vài ba tiếng, ăn bữa trưa rồi vội vã đi tiếp.
Cuối cùng thì chúng tôi đến thăm người anh họ xa của bố, bác ấy mời chúng tôi qua chơi vào hai ngày cuối tuần. "Người gốc Norfolk" này (bố hay gọi bác ấy như vậy, mà chính bố cũng quê Essex) thời trẻ lấy một cô gái hồi chiến tranh - Đại chiến thứ Nhất ấy - từng đối với mẹ tôi như chị em kết nghĩa. Giờ hai vợ chồng sống trong một trang trại nằm giữa những ngọn núi thấp vươn đỉnh đá của mình lên phía trên những khoảng rừng trùng điệp, cách ga xe lửa gần nhất tám mươi dặm. Bố kể rằng họ "không sống được với nhau"; mà quả đúng thật, suốt cả thứ Bảy và Chủ nhật, họ lúc cãi nhau, lúc sưng sỉa mà chẳng nói năng gì. Nhưng cái bi kịch của đôi vợ chồng bất hạnh sống giữa bầy núi đá với đồng lương hưu còm của mình chỉ một thời gian sau tôi mới hiểu được, - những ngày ấy tôi chẳng có tâm trí nào để ý tới họ, tôi đang yêu.
Chúng tôi đến chỗ hai người khi chiều đã buông, và phía trên khối đá hoa cương lạnh cóng của đỉnh núi xa, một mặt trăng vàng và gần như tròn vành vạnh chậm rãi ló lên. Những thân cây đen ẩn mình trong im lặng, chỉ có tiếng ve rền rĩ không ngừng. Ôtô dừng sát ngôi nhà gạch hình hộp có mái sắt sáng lấp lánh lên dưới trăng. Ào vào chúng tôi là tiếng ồn của máy nổ, tiếng kêu của lũ ve, vẻ tươi mới của đêm trăng và một tiếng sủa đầy kích động và tuyệt vọng.
Từ góc nhà, một cuộn len đen tròn lăn ra, lao về phía xe, đến tận bánh xe, nhảy lùi lại rồi chạy biến đi, nghẹn ngào trong họng những tiếng sủa thanh thanh... và rồi tiếng sủa dịu đi, nhưng chúng tôi - ít nhất là tôi - căng tai ra vẫn còn bắt được tiếng kêu dại cuồng lanh lảnh.
- Cả nhà đừng có để ý đến nó, - ông Barnes, chủ nhà, "người gốc Norfolk", nói, - con cún ngốc bị ánh trăng làm mụ mẫm cả người, cả tuần nay hành bọn tôi.
Chúng tôi được dẫn vào nhà, được mời ăn, được nghỉ ngơi yên ấm, rồi tôi bị điệu đi ngủ để người lớn có thể nói chuyện thoải mái. Tiếng sủa lanh lảnh đầy kích động vẫn không ngừng lấy một phút. Chiếc sân phía dưới ô cửa sổ phòng tôi đang nghỉ chạy dài đến những kho chứa cỏ, ánh lên cả một mảng trăng hình chữ nhật bằng phẳng, và trên mảnh sân ấy có bóng nhỏ loăng quăng của một chú cún con ngốc nghếch cuồng lên vì hân hoan - hay vì ánh trăng. Như một mũi tên, nó bay về phía nhà, vút đến nhà kho rồi lại trở về phía nhà, đoạn, bắt đầu quay vòng vòng, lăn xả vào cái bóng đen của mình, lết lết một cách tức cười trên những cẳng chân mập mạp vụng về, trông nó giống như một con bướm say khổng lồ xoắn xuýt quanh ngọn nến và còn giống... không biết giống cái gì nữa, tôi trong đời chưa bao giờ nhìn thấy cảnh tượng như vậy.
Mặt trăng lớn đằng xa treo trên những ngọn cây, phía trên hình chữ nhật màu trắng trống trải của khoảng sân không có lấy một ngọn cỏ, phía trên tổ ấm của những con người cô độc bất hạnh, phía trên chú chó say cuồng vì vui sướng - chú chó nhỏ của tôi, tôi đã hiểu ngay ra điều ấy. Ông Barnes bước ra sân, nói: "Thôi đủ rồi, đủ rồi, im đi nào, con vật ngốc nghếch", - rồi bắt đầu cố tóm lấy sinh vật bé nhỏ cuồng loạn ấy, nhưng không sao bắt được, rút cục, ông gần như ngã đè lên con chó nhỏ, ông tóm lấy nó đưa lên cao, còn chú chó cứ sủa mãi, rền rĩ và quật người trong tay ông như một con cá. Ông này vứt cún con vào cái thùng có để chiếc cũi. Tôi thầm thì trong hoảng sợ, y như mẹ mỗi khi có người lạ bế đứa con của bà lên: "Xin cẩn thận cho, cẩn thận cho, đây là con chó của tôi đấy".
Buổi sáng, sau bữa ăn, tôi đi vòng ra sau nhà đến chỗ cái cũi. Thoảng lên mùi nhựa thông ngọt ngào bốc ra từ những thớt gỗ trắng của chiếc hòm trong ngày nóng nực; mảnh gỗ bên sườn đã được tháo ra, phía trong cái thùng có ít rơm vàng mềm mại. Trên lớp rơm, một con chó cái đen tuyền đẹp tuyệt đang nằm, gác mõm lên đôi cẳng chân duỗi dài. Phía sau nó, một chú cún tròn quay có bộ lông sáng màu nằm sượt, uể oải, khoan khoái xoạc cẳng, nhắm nghiền mắt trong niềm đê mê của sự bình yên no đủ và lười nhác. Trên túm lông đen bóng loáng cạnh mũi còn vương vệt cháo ngô đã khô, trong mõm nó ánh lên những chiếc răng sữa trắng muốt xinh xắn. Chó mẹ không rời ánh mắt kiêu hãnh của mình khỏi cún con cho dù nóng nực và mệt mỏi cũng làm nó lử lả đi rồi.
Tôi đi vào và và tuyên bố rằng tôi muốn có chú cún con. Tất cả bấy giờ đã ngồi vào bàn. "Người gốc Norfolk" và bố tôi đang đắm chìm trong ký ức ấu thơ (trong đó chỉ có những kỷ niệm trùng nhau về địa điểm chứ về thời điểm thì không!). Bà vợ của ông - đôi mắt còn đang đỏ hoe vì nước mắt sau trận cãi nhau với chồng - thì đang buôn với mẹ tôi về những khách sạn London, nơi thời chiến, họ từng có mặt để làm dịu đi những đau đớn của những người bị thương, và bây giờ họ cảm thấy dễ chịu khi hồi tưởng về điều ấy.
Ngay tức thời, mẹ tôi phản đối:
- Con sao vậy, không bao giờ, không thể được! Con không thấy tối qua nó làm cái quái quỷ gì à? Con nghĩ có thể dạy dỗ nó điều gì sao?
"Người gốc Norfolk" nói xin cứ tự nhiên, ông sẵn lòng cho tôi chú cún.
Bố bảo rằng theo ý bố, con cún cũng chỉ là con cún, chẳng thấy có gì kinh khủng trong con cún ấy cả, cái chính là con chó phải khỏe mạnh, còn mọi cái khác đều là chuyện nhỏ! Mẹ hạ mắt xuống với dáng điệu một người u sầu chẳng được ai thấu hiểu và im bặt.
Phu nhân của "người gốc Norfolk" thì nói rằng sẽ không thể chia tay nổi với chú ngốc bé bỏng ấy - có Chúa chứng giám, trong đời bà vốn cũng đã có quá ít niềm vui.
Tôi đã quá quen với những cuộc cãi vã gia đình và biết rằng chẳng đáng tốn thời gian cố hiểu tại sao, cớ gì mọi người hiện giờ lại tranh cãi và họ còn sắp nói những gì quá đáng với nhau vì con chó nhỏ của tôi. Tôi chỉ biết rằng, cuối cùng thì logic của cuộc sống vẫn sẽ thắng cuộc, cún con sẽ là của tôi.
Tôi bỏ lại đó khúc nhạc tứ tấu đang muốn làm sáng tỏ mọi bất đồng ý kiến chỉ vì cún con, chạy ra ngoài ngắm cu cậu. Cậu chàng ngồi trong quầng bóng của chiếc thùng thơm mùi gỗ thông, bộ lông sặc sỡ bóng láng lên, chó mẹ đang liếm chó con, những mảng lông ướt vẫn còn chưa khô hết. Chiếc lưỡi hồng của cậu chàng thò ra trông đến ngộ từ dưới hàm răng trắng, tuồng như cái lưỡi ấy lười nhác hoặc chẳng khoái giấu mình vào cái mõm hồng hồng. Hai con mắt như hai cái cúc áo bé xinh màu nâu tuyệt đẹp..., tóm lại, trước mắt tôi là một cún con tạp chủng bình thường nhất!
Đợi đôi chút rồi tôi lại ngó vào phòng khách để coi tương quan lực lượng chênh lệch đến đâu rồi. Mẹ rõ ràng là đang chiếm lại ưu thế. Bố nói rằng, ừ, có nhẽ cũng chẳng nên lấy con chó: "Nói gì thì nói, cái gien xấu chẳng chóng thì chầy cũng lộ ra, nòi nào giống nấy mà".
"Cái gien xấu" ấy nó được cha nó truyền cho, mà câu chuyện về con chó cha lại làm mê mệt trí tưởng tượng tuổi mười bốn của tôi. Vùng này là vùng hoang sơ, dân quanh vùng chẳng có mấy ai, còn trong những cánh rừng thì đầy thú hoang: có cả sư tử và báo, thế nên đội cảnh sát khu vực gồm bốn người làm nhiệm vụ ở đây vất vả hơn nhiều so với vùng ven thành phố.
Bởi vậy, họ mua đến nửa tá các con chó to với mục đích, thứ nhất là khiến cho bọn cướp khiếp đảm (nếu có bọn người thế thật lang bang xứ này), thứ hai, để có một vòng quây những kẻ dũng mãnh bao quanh, những kẻ có thể quản được lũ thú rừng khát máu bằng cơn giận dữ của mình - những chú chó được huấn luyện có thể cắn cổ con vật theo lệnh chủ. Một con trong số đó, to lớn và gần như đen tuyền, giống chó săn Rhodesia mà như người ta nói, đã bị "lại giống". Nó giằng khỏi xích, chạy vào rừng và sống ở đó, hàng ngày đi săn hươu, sơn dương, thỏ, chim và thậm chí còn tha gà của mấy trang trại ngoại vi. Và chính con chó to lớn ấy, kiêu hãnh và cô độc, con thú đã chối bỏ tình bạn và tình êm ấm con người, thi thoảng xuất hiện trước mặt những điền chủ trong đêm sáng trăng hoặc dưới bóng mờ xam xám của buổi sớm mai, chính nó đã rủ Stella, mẹ của chú chó nhỏ của tôi một lần nọ đi tuốt vào rừng.
Cô nàng ra đi với chàng buổi sớm ngay trước mắt ông bà Barnes, họ đã gọi nó lại. Nhưng Stella làm như không nghe thấy tiếng. Một tuần sau, nó trở về. Tinh sương hôm ấy, hai vợ chồng Barnes bị đánh thức bởi tiếng rít nhè nhẹ, ai oán: "Tôi đã về đây, cho tôi vào", và ngó qua cửa sổ, họ thấy cô chó Stella từng trốn chạy của mình trong ánh sáng trăng đã mờ nhạt: rướn thẳng người lên, Stella nhìn về phía một con chó khổng lồ tuyệt đẹp đang đứng bên bìa rừng, và trước khi khuất hẳn sau những thân cây, chàng vẫy đuôi như từ biệt nàng.
Ông Barnes gửi theo bước con vật một vài viên đạn muộn mằn. Hai vợ chồng quở mắng Stella rất lâu, còn Stella thì sau một thời gian mang bầu đã đưa về bảy chú cún con lẫn lộn màu lông: đen- hạt dẻ - vàng óng ánh. Chính Stella cũng là chó lai, cho dù chủ nó đương nhiên vẫn coi nó là giống thuần chủng - chứ gì nữa, chó của nhà họ cơ mà. Vào cái đêm những chú cún con ra đời, "người gốc Norfolk" và bà vợ nghe thấy một tiếng tru rầu rĩ tựa như tiếng khóc, đến gần cửa sổ, họ thấy bên chiếc cũi, con chó săn cảnh sát đi hoang đang gắng sức thò đầu vào cũi.
Cánh rừng rực lên trong ráng hồng chói lòa của rạng đông, và tuồng như có một vầng hào quang bao bọc chung quanh con thú. Stella rít lên khe khẽ, dần dần tiếng rít chuyển thành tiếng gầm gừ, - như mừng vui trước sự xuất hiện của con thú uy quyền to lớn đang dùng mõm ngửi ngửi lũ trẻ của cô nàng, như xua đuổi nó, như hãi sợ nó... Nhà Barnes kêu lên, kẻ bị chối bỏ ấy quay về phía cửa sổ, nơi hai vợ chồng đang đứng - người đàn ông mặc áo pigiama kẻ sọc, người đàn bà mặc áo lụa thêu, - rồi ngẩng mõm lên và rống lên. Như họ kể lại, nghe tiếng tru hoang dại tuyệt vọng ấy, hai vợ chồng rởn hết gai ốc.
Mãi một vài năm sau tôi mới thực sự hiểu họ khi Bill - chú chó nhỏ của tôi ấy - cũng trở về hoang dại và tôi được một lần nghe thấy nó tru lên trên một gò mối. Tiếng gọi cuồng dại của nó bay vào thẳm xa một thế giới trống trải, cái thế giới chỉ nghe theo một mình nó mà thôi...
Cha của những đứa con của Stella không bao giờ còn xuất hiện bên cạnh cô nàng nữa. Một tháng sau đó, một người láng giềng của nhà Barnes, sống cách họ năm mươi dặm, đã bắn nó khi con thú từ dãy chuồng gà chui ra, ngậm giữa hai hàm răng một con gà trắng tuyệt đẹp.
Độ ấy Stella chỉ còn giữ lại được có một cún con, những con khác bị nhà Barnes nhận chìm ngoài sông hết cả: dòng giống xấu, họ bảo vậy, ai mà tự hào được về cái lũ ấy, và chỉ vì thương hại mà họ để lại cho Stella một đứa nhóc.
Khi hai người kể câu chuyện mang tính giáo huấn này, tôi nghe không bỏ sót một từ, cố giữ một vẻ bình thản rắn rỏi của một người biết rất rõ rằng cuối cùng thì cũng sẽ đạt được điều mình muốn. Quyền thuộc về tôi à? Đúng, về tôi. Bố mẹ có hứa kiếm cho tôi một con chó không? Có hứa. Vậy thì, chẳng nhẽ có ai khác mà không phải là tôi được quyền lựa chọn chó cho tôi? Không... Nhưng... Không có "nhưng" gì sất, tôi đã chọn xong. Tôi đã chọn chính cái con chó mà tôi thích, tôi không cần một con nào khác nữa. Phản đối và tranh luận đều vô ích, tôi đã quyết rồi.
Chúng tôi lưu lại nhà ông bà Barnes ba ngày đêm. Ba ngày ấy kéo dài dằng dặc đầy mệt mỏi, nóng nực và trống rỗng. Lũ chó ngủ suốt trong cũi. Những buổi tối, người lớn lại tập trung ở phòng khách bé tẹo, căn phòng bị nung nóng bởi ngọn đèn dầu cháy rực thật không chịu nổi. Hàng bầy muỗi tép lao vào ngọn lửa dầu vàng khè và xoay chung quanh nó trong một vũ điệu quay vòng bất tận. Người lớn cứ trò chuyện, còn tôi thì lắng nghe tiếng sủa vui cuồng vẳng từ ngoài sân vào. Rồi tôi chuồn ra khỏi nhà lao vào vùng trăng lạnh lẽo. Đêm cuối ở nhà Barnes là đêm trăng tròn. Phía trên cánh rừng đen thẫm vang rộn tiếng ve, một vầng trăng lớn trắng sáng toàn bích trôi lững lờ, một khối tròn vành vạnh - mặt trăng xưa cổ in dấu của hàng triệu năm tồn tại trên đời Còn phía dưới này, trên mặt đất, một chú chó nhỏ mê mụ đang chạy nhảy cuống quít trên cát trắng thanh sạch, sủa những tiếng gâu gâu liên hồi vui sướng. Mẹ của nó, con vật to lớn đẹp đẽ, ngồi cách đó một quãng và đưa đôi mắt màu vàng thông tuệ của mình lo lắng theo dõi vũ điệu điên cuồng của đứa con, máu mủ của người tình đến từ rừng sâu đã bị người ta giết hại. Tôi rón rén bước lại gần Stella, ngồi xuống một tảng đá vẫn còn âm ấm, ôm lấy cái cổ lông xù của nó và áp má vào cái hàm vẫn đang hướng về đứa con một cách âu yếm. Tựa người vào vồng ngực săn chắc ấm áp của chó mẹ, tôi gắng hòa nhịp thở đều cùng nó, và cả người và chó cùng ngước mắt lên phía vầng trăng lớn cũng đang chăm chắm nhìn lại chúng tôi, rồi sau đó cùng hướng xuống phía cuộn len nhỏ tròn đen bay vèo về phía chúng tôi như một tia chớp và đã kịp cuộn tròn lại dưới chân chúng tôi nhanh một cách lạ thường. Tôi và Stella không rời mắt khỏi cún con, mà ánh trăng tươi mới vẫn không ngừng cô đặc lại trên bộ lông xù của Stella, trên da dẻ của tôi. Rồi, cuối cùng thì "Người gốc Norfolk" cũng đã bước ra, gọi chó con, lấy hết sức mà gào lên mắng nó, đoạn, nhảy bổ vào chú chó ngơ ngẩn cuồng trí kia, nhét nó vào chiếc thùng gỗ, nơi có những vệt trăng vàng đang náu mình trong bóng đen đẫm mùi nồng tỏa ra từ lũ chó.
- Vào đi, nào, vào với nó đi. - "người gốc Norfolk" xoa đầu Stella và nói. Stella ngoan ngoãn bò vào ổ. Nó lấy mũi nhẹ nhàng lật chó con lại. Chó con kiệt sức đến nỗi chỉ còn nằm ngửa ra đờ đẫn, dạng bốn chân đang co giật như trong cơn giãy chết, thở những tiếng khò khè, đứt quãng. Rút cục, tôi cũng rời Stella và đứa con của nó, trở vào căn nhà gạch nhỏ, nơi mọi thứ đã bị nung bỏng lên bởi sự thù ghét lẫn nhau. Tôi thiếp đi, vẫn còn tưởng tượng trong đầu cảnh chó con đang ngủ, chân duỗi đơ ra vì mệt nhọc và chúi mũi vào cái mạng sườn đen đen thở phập phồng của chó mẹ, chú cún con bé tẹo, những vệt trăng chảy qua khe vào chiếc thùng gỗ thông, lén tràn lên bộ lông sặc sỡ của nó.
Sáng hôm sau, chúng tôi mang chó con theo, còn Stella thì bị chủ khóa chặt trong nhà từ trước để chó mẹ không nhìn thấy chúng tôi ra đi.
Suốt ba trăm dặm đường dài chúng tôi đi qua, con Billy, như một chú ngốc nhất đời, nằm chềnh ềnh ngửa bụng ra trên đầu gối tôi hoặc của mẹ tôi, sủa lên ăng ẳng, rồi thở hồng hộc, phì phò, ngáp dài, đoạn, nhắm nghiền mắt và khoan khoái duỗi người ra. Chẳng ai được lấy một phút yên thân với nó: cả tôi, cả mẹ tôi, cả anh trai tôi mà khi về đến thành phố chúng tôi đã đón cùng về vì ở trường đã bắt đầu kỳ nghỉ. Vừa mới nhìn thấy con chó mới, anh tôi đã tỏ ngay ra là chủ của con cún Joke mà gạt bỏ con cún của tôi ra như gạt bỏ một vật thể nằm dưới bậc thang tận cùng của sự tiến hóa vậy. Mẹ, người đến thời điểm ấy đã kịp bị Billy chinh phục hoàn toàn, cũng đồng tình với anh, nhưng vẫn nói rằng giá anh nhìn xem trên trán chó con có những nếp nhăn xinh xắn làm sao... Bố giận dữ bảo phải dạy dỗ hai con chó đúng kiểu mới được.
Chúng tôi càng đi gần đến nhà, chuẩn bị kết thúc cuộc hành trình không nhẹ nhõm chút nào, thì mẹ càng nói đến Joke với vẻ có lỗi ngày càng tăng lên:
- Ôi, con Joke nhỏ bé tội nghiệp của chúng ta, nó sẽ có ý kiến gì không nhỉ?
"Con Joke nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi" dẫu sao thì từ lâu cũng đã lớn bổng thành một con chó vạm vỡ, khỏe đẹp: thân người nó to lớn, rướn cao, bộ lông ấm áp màu vàng rực có những sọc sẫm trên lưng - hoàn toàn là một con bec-giê Đức, chỉ có điều phía trước, nom nó hơi giống chó sói hay là cáo do có đôi tai nhọn luôn luôn dỏng lên cảnh giác. Và đương nhiên, chẳng ai lại có ý nghĩ gọi nó là "nhỏ bé" cả. Con chó ấy có một phẩm chất là trầm tĩnh kiềm chế và phẩm chất ấy không phản bội nó ngay cả khi bị mẹ tôi quở mắng vì tội hay đến thăm thú lũ chó nhà da đen.
Cuộc gặp mặt mà chúng tôi chuẩn bị với bao hồi hộp xốn xang như thế hóa ra lại là niềm đắc thắc của hai kẻ dự phần, nhất là Joke, một lần nữa lại khiến mẹ tôi mềm lòng yêu mến. Chú cún con bị kéo ra khỏi xe và đặt xuống không xa bậu cửa, nơi Joke đang ngồi, vẫn như mọi ngày, rất kiềm chế, điềm đạm, kiêu hãnh chờ đợi chủ để ý đến mình.
Billy lao qua cái sân lát đá trước nhà cùng tiếng rít. Rồi nó nhìn thấy Joke, chạy bổ đến Joke, còn hai bước nữa thì dừng lại, ngồi xuống đất trên đôi mông mập mạp của mình và sủa váng lên những tiếng lanh lảnh lo lắng. Joke hơi há mõm, không ra ngáp, không ra nhe răng, - cụp một bên tai xuống, rồi cụp nốt tai kia, và không ra gầm gừ, cũng không ra nhếch mép cười khinh bỉ, còn chú cún thì lúc ấy đã bò rất gần đến Joke, nhảy thẳng vào cái mõm đang nhe ra của nó. Joke không nhảy lùi lại - nó thấy rõ là chúng tôi đang theo dõi nên tự ép mình phải ngồi bình thản. Cuối cùng, nó đưa chân trước lên, lật ngửa Billy ra, đè cún con xuống đất và ngắm nghía Billy tứ phía, hít hít rồi bắt đầu liếm. Joke đã chấp nhận Billy, còn Billy đã tìm được một sinh vật thay thế cho mẹ của nó mà chắc hẳn giờ này đang rất đau khổ thương xót đứa con mất tích. Giờ thì đã có thể giao "thằng nhỏ" - mẹ tôi toàn gọi Billy như thế - cho con Joke nhẫn nại khôn cùng này chăm sóc.
- Con thật là thông minh, thật là một chú chó hiền hậu, Joke à! - mẹ nói, mủi lòng trước cảnh vừa chứng kiến và những cảnh tượng xúc động tiếp theo, khi Joke thể hiện lòng khoan dung khó hiểu đối với một con chó con, ngay cả tôi cũng phải thừa nhận, rất nhí nhố và khó chịu này.
Cần phải huấn luyện bọn chó gấp. Nhưng đó cũng là một việc chẳng dễ dàng gì - giống y như việc đi chọn lựa một con chó mới, - lại một lần nữa do ảnh hưởng của mối quan hệ đặc thù trong gia đình chúng tôi.
Nhá, ví dụ như phân tích một vấn đề cỏn con thế này thôi: chủ con chó cần phải tự mình luyện nó, nó phải nghe lời duy nhất một người, thế thì con Joke phải nghe lời ai? Billy thì nghe ai? Tôi được coi là chủ của Billy, nhưng thực tế ra, chủ của Billy lại là Joke. Thế nghĩa là, Joke phải trao lại quyền hạn ấy cho tôi? Mà nói chung thì ngớ ngẩn quá đi: tôi khoái là khoái con chó nhỏ vụng về tức cười chứ tôi cần gì con chó đã được huấn luyện? Dạy dỗ cái gì? Dạy nó canh nhà á? Tất cả những con chó của chúng tôi đều là chó canh nhà cả. Dân bản xứ ở đây đều có nỗi sợ lũ chó ăn sâu vào máu rồi (chúng tôi đều tin chắc vào điều đó). Chí ít thì xung quanh toàn thấy nói về chuyện chỗ nọ chỗ kia bọn trộm đánh bả những con chó dữ hoặc tìm cách làm thân với chúng. Tựu trung, mọi người đều hiểu rằng có lắm chó canh nhà cũng chẳng ích lợi gì mấy, mặc dù trang trại nào cũng nuôi chúng.
Tôi còn nhớ những đêm thơ ấu của mình; tôi nằm trong nhà tối, chung quanh bốn bề là rừng, và tôi nghe tiếng cú rúc, tiếng chim ác kêu, tiếng à uôm của bọn ếch nhái, tiếng ri ri của ve sầu, tiếng trống cơm bì bùng vọng lại từ những căn lều của những người da đen. Bó lau sậy mới cắt từ thung đem về trải trên mái nhà cất tiếng xạc xào bí ẩn. - Màn đêm đã buông xuống vùng cao nguyên châu Phi ngập tràn vô số những âm thanh, và lũ chó của chúng tôi cũng lắng nghe tất cả những âm thanh ấy: chúng bật ra khỏi chỗ nằm, cuống cuồng hít ngửi để truy tìm kẻ phá vỡ màn tịch mịch. Bọn chúng đồng thanh sủa hoặc tru lên hướng vào mọi vật - cả ánh sao chạm vào mặt trơn láng của chiếc lá, cả vầng trăng đang lên sau dãy núi, cả tiếng cành cây sau nhà gãy rắc, cả cái vệt đỏ thắm ửng lên nơi chân trời. Lũ chó canh nhà, tôi còn nhớ, chẳng bao giờ ngủ, nhưng người ta nuôi chúng chưa hẳn với mục đích hù dọa bọn trộm (trong ký ức của tôi chưa bao giờ bọn này xuất hiện ở chỗ chúng tôi cả), mà đúng hơn là để không bỏ qua một tiếng thở nào, không bỏ qua một tiếng xào xạc nào của đêm châu Phi, màn đêm đang sống một cuộc sống của riêng mình tràn căng, bao trùm, thẩm thấu đến tận chân tơ kẽ tóc của vạn vật và nó sẽ vô nghĩa nếu thiếu đi tiếng rít của con heo rừng hoang dã, tiếng sột soạt của lá bắp trên cánh đồng lúc gió về, tiếng đá lở trên sườn dốc ầm ầm và những vệt sao bay lên trên dải Ngân Hà xa lắc. Bởi lẽ đá lở, sao lên, heo rừng kêu rít và tiếng lá bắp sột soạt trên đồng cùng gió... tất cả đã làm nên sự sống trường tồn của cái đêm thăm thẳm này.
Vậy thì còn phải dạy bọn chó canh nhà những gì kia chứ? Phải chăng là dạy chúng chỉ phản ứng với tiếng chân trộm đang tới gần, kẻ trộm có thể là người da đen hay da trắng - điều đó không quan trọng, nếu không thì chó giữ nhà còn có ý nghĩa gì nữa? Trong những hình ảnh về thời niên thiếu của mình, giờ, tôi thậm chí nhớ rõ hơn cả cảnh tôi nằm buổi đêm trong giường, không thể nào ngủ được và lắng nghe tiếng tru thổn thức của con chó hướng về phía vầng trăng vàng kỳ bí, cảnh tôi nhón chân đến gần cửa sổ và nhìn cái mõm chó đen dài hếch lên vòm trời sao. Với lũ chó của mình chúng tôi không cần tính lịch Mặt trăng. Bọn chó cũng tương tự như tiếng ồn của đường phố London vậy - để có thể ngủ ban đêm, anh cần phải học cách hoàn toàn không nghe thấy chúng. Mà nếu đã học được cách không nghe thấy tiếng chó sủa thì tiếng gầm gừ nghèn nghẹn dữ tợn thông báo về một kẻ trộm đang tới gần cũng không thể đánh thức anh được.
Ban đầu, Joke và Billy bị khóa trái trong phòng ăn vào ban đêm. Nhưng rồi ở đó, bọn chúng làm om cả lên, nào sủa, nào chạy từ cửa sổ này đến cửa sổ kia mỗi lần trăng hoặc mặt trời ló ra hay chỉ đơn giản là cái bóng đen đen của cành cây chạm vào tường trắng, đến nỗi chẳng bao lâu phải thả chúng ra sân vì đêm đêm chúng không cho ai ngủ, và khiến cả nhà khó lòng đứng vững nổi vào ban ngày. Đi kèm với việc đuổi chó ra sân là rất nhiều những hình thức xử phạt mà mẹ đưa ra, rằng phải "thông minh và ngoan ngoãn"; mẹ tràn đầy hy vọng có thể bắt bọn chó đi ngược lại với bản năng tự nhiên của nòi giống là phải ngủ từ chập choạng tối cho đến bình mình. Nhưng khi Billy bắt đầu lớn dần lên thì hai đứa Billy và Joke thường xuyên không có mặt ở nhà. Rồi cứ trước bữa sáng, với vẻ hối lỗi, chúng lại xuất hiện trên con đường mòn chạy dài về phía những cánh đồng; lông chúng dính đầy những quả ké gai: chúng tôi hiểu rằng, bọn chó mải đuổi theo một con cú hoặc con hươu nào đó và bất thần thấy mình đã ở cách xa nhà trong một thế giới ban đêm xa lạ, rồi chúng ngửi hít thám thính thế giới ấy, chuẩn bị cho mình một cuộc sống tự do và phóng khoáng, niềm phóng khoáng vẫn từng chờ đợi chúng bấy lâu.
Phải rồi, Joke và Billy không thể trở thành chó giữ nhà được. Hay là chúng tôi sẽ biến chúng thành chó săn nhỉ? Anh tôi giành phần huấn luyện chúng; trong sân nhà từ sáng đến tận đêm vang lên những mệnh lệnh ngu ngốc: "Nằm xuống, Joke!", "Bò lại gần chân, Billy!", và vài cục đường đại mạch run rẩy trên những cái mũi của lũ chó, những cái cẳng chân của chúng vươn ra để bắt lấy. Joke kiên nhẫn chịu đựng "sự học", bằng dáng vẻ của mình, nó thể hiện rằng sẵn sàng nhẫn nhịn bao nhiêu cũng được miễn là có thể khiến mẹ tôi hài lòng. Trong khi anh tôi dạy dỗ bọn chúng, Joke hướng đến mẹ với ánh mắt khi thì hân hoan đầy tế nhị, khi thì như hối lỗi, và rồi nửa tiếng sau, anh tôi phải lùi bước, nói rằng trong cái nóng như thế này thì chẳng thể tập luyện gì được, rằng anh cũng mệt lử như một con chó và Joke ngay lập tức phóng đến chỗ mẹ, đặt đầu mình lên gối mẹ. Còn Billy thì vẫn chẳng bao giờ học được cái gì cả. Nó không thuộc được cách ngồi bình tĩnh với miếng đường vàng óng đặt trên mũi - nó đợp miếng đường ngay lập tức. Chẳng học được cách đi bên cạnh chân người, chẳng nhớ phải làm gì với cái cẳng chân trước khi mà ai đó trong chúng tôi đưa tay cho nó. Mọi điều có thể giải thích được đơn giản lắm, tôi hiểu điều ấy khi theo dõi các buổi "huấn luyện": Billy là một con chó ngốc. Tôi đương nhiên đã gắng mô tả sự việc rằng chú chó khinh miệt cái trò học hành và cảm thấy phải hạ thấp mình khi tuân theo lệnh của ai đó; thế còn cái sự Joke sẵn sàng nhập tâm những thứ nhảm nhí ấy chỉ nói lên khiếm khuyết trong tính cách của Joke. Song, than ôi, chẳng bao lâu tôi cũng không thể giấu nổi một sự thật đau buồn là Billy của tôi không hề sáng dạ!
Dạo ấy Billy từ một chú cún con mập mạp xinh xắn đã biến thành một con chó non đẹp đẽ, cân đối với bộ lông sẫm có đốm sáng và cái đầu to xù của loài chó Newfoundland 1. Những dẫu sao nó vẫn giữ được những điệu bộ buồn cười của chó con - nếu như Joke dường như sinh ra đã là chó lớn đường bệ, lông gần như ánh bạc, thì trong Billy dường như luôn có cái gì đó non nớt, và nó non nớt mãi như vậy cho đến tận ngày cuối của cuộc đời.
Việc dạy dỗ kéo dài không được lâu: anh tôi bảo đã đến lúc phải chuyển tiếp từ lý thuyết đến thực hành, điều này chắc hẳn sẽ khiến bố yêm tâm hơn, vì bố thường quả quyết rằng anh em tôi nuôi không phải hai con chó mà quỷ mới biết được là con gì.
Anh em tôi cùng hai con chó của chúng tôi bắt đầu có một chặng mới của cuộc đời. Mỗi sáng, chúng tôi cất bước lên đường. Anh tôi sải bước phía trước với cây súng trong tay, vẻ nghiêm trọng vì cảm nhận trách nhiệm đầy mình, lũ chó chạy theo anh, và khép lại cái đội hình chiến đấu đã được thử thách qua thời gian ấy là tôi, một con bé mười bốn tuổi, lẽ thường đương nhiên chẳng được dúng mũi vào các việc lớn của đàn ông, nhưng với vai trò một khán giả nhiệt thành khâm phục thì con bé ấy lại là người rất cần thiết ở đây. Cái vai này tôi phải đóng đã lâu rồi - vai một cô bé con trầm trồ ngắm nghía những gì đang diễn ra trên sân khấu và thèm muốn đến chết đi được việc tham gia vở kịch, song lại biết rằng cái ước mong này chẳng bao giờ thành hiện thực chẳng phải chỉ bởi vì cô bé ấy có trái tim rắn rỏi và quyết liệt mà còn bởi cô ta, lặng người vì những buồn khổ và day dứt đang dày vò, mãi chờ đợi người ta gọi đến mình, âu yếm dịu dàng với mình để rồi bung ra mở lòng mình đáp lại những mến thương của con người. Ngay từ những năm ấy tôi đã hiểu rằng những người có mặc cảm như thế sẽ chẳng dễ dàng gì sống được trong cuộc đời này. Vâng, cảnh tượng kia đúng là chẳng hay ho gì: anh tôi sải bước, vẻ nghiêm trọng, tập trung, trung thành chạy bên cạnh anh con Joke "thông minh và giỏi giang", "chú ngốc" Billy lúc thì lon ton chạy theo họ, lúc lại biến đâu mất để nghiên cứu lối mòn bên cạnh; còn đằng sau thì tôi lê bước ì ạch, cười khẩy khinh mạn, bằng mọi cách cố tỏ ra rằng cái trò này chẳng làm tôi ham hố mấy.
Đường đi thì tôi thuộc, nhắm mắt cũng đi được: để đến được khu rừng rậm tối tăm, nơi những con thú săn lớn đang đùa giỡn, cần phải đi vòng quanh một quả đồi xuyên qua những bụi cây paw-paw 2 rậm rạp, cắt ngang cánh đồng khoai lang với những dây lá loằng ngoằng bám bíu lấy chân người, sau đó đi ngang qua một bãi rác nơi hàng vô số lũ ruồi đen lấp loáng đang kêu vo ve, bay đến đây theo cái mùi ngọt ngào của đống thối rữa, đó, và rốt cục thì cánh rừng cũng mở ra trước mắt - những thân cây còi cọc có tầng lá trăng trắng, màu tàn tro mọc lên lại sau khi bị đốn phá (xưa kia có một dạo rừng ở đây bị đốn sạch và đốt hết trong lò của nhà máy), chúng trải dài nhiều dặm, mọc lúp xúp, ủ dột và tiều tụy. Và phía bên trên cánh rừng u sầu ấy là một khoảng trời rộng xanh ngắt.
Lũ chúng tôi đi kiếm mồi, ít nhất thì hai đứa cũng tuyên bố vậy. Tất cả những gì chúng tôi có thể bắn được thì chúng tôi cũng đã chén sạch từ lâu rồi, hoặc là những người làm, hoặc những người da đen trong làng chén hết. Song, điều đẩy chúng tôi đến với cuộc săn không phải là cái quy luật kiếm ăn xưa cổ, chúng tôi hiểu rõ điều đó. Bởi vậy mà cả hội lên đường đi thám hiểm với đôi chút cảm giác có lỗi và thường trở về nhà tay không. Chúng tôi đi săn chỉ vì anh tôi được tặng một khẩu súng mới rất tốt, có thể dùng nó mà bắn giết được - nhất là nếu anh ấy bắn - thì sẽ giết được những con chim to, chim nhỏ, những con thú bé, và thảng hoặc có thể cả những con vật khá lớn nữa như sơn dương chẳng hạn. Thế đấy, chúng tôi đi săn vì chúng tôi có súng. Mà đã có súng thì tất nhiên phải có chó săn, có chúng đi bên cạnh có cảm giác đội hình cũng không đến nỗi xấu mặt lắm.
Cả bọn đi vào Lũng Đại Khê Thủy. Còn có Lũng Lũ Lớn nữa cơ, nhưng cái lũng ấy nằm cách điền trang quãng độ năm dặm và theo hướng khác.
Nơi ấy, mặt đất bị thiêu đến trụi trần rỉ sét, những ao hồ thì thường cạn khô rất sớm. Chúng tôi chẳng khoái đến đó. Nhưng muốn tới được Lũng Đại Khê Thủy tuyệt đẹp thì phải cắt ngang những bụi cây gớm ghiếc "phía sau sườn đồi kia". Đối với lũ tôi, những cái tên này vang lên như tên của những vương quốc khác. Cuộc chu du đến Lũng Đại Khê Thủy giống như cổ tích bởi lẽ thoạt tiên phải luồn qua những bụi cây hoang gở, hình thù cổ quái. Không hiểu sao chúng thường khiến cả bọn sợ hãi, như thể trong những bụi rậm ấy đang ẩn náu một thế lực thù địch, oán ghét chúng tôi và cả bọn cố gắng đi qua chúng thật nhanh, hiểu rõ rằng chiến thắng được hiểm nguy này, chúng tôi sẽ được một phần thưởng là màn tĩnh lặng có tiếng róc rách của Lũng Đại Khê Thủy. Nhà tôi được sở hữu một nửa cái lũng ấy, đường biên giới vô hình giữa phần đất của chúng tôi và xóm giềng chạy qua chính giữa lũng - từ vỉa đá hoa cương lộ ra cho đến một thân cây cao và chạy tiếp qua cái hồ với quả đồi mối xông. Khăp lũng mọc đầy cỏ rậm, những thân cây cao ráo rợp mát đứng hai bên bờ dòng suối nước cạn khô về mùa hè - giờ thì lòng suối biến thành một vệt xanh rực, rộng đến nửa dặm với những khoảng nước xám nằm giữa đám lau lách, nơi bầu trời phản chiếu, sáng lên lấp lánh. Rừng quanh đó là rừng cổ, chưa từng bị đốn, và tất tần tật mọi thứ ở lũng từ ngọn cỏ, cái gai đều sơ khai nguyên thủy mang vẻ hoang dã, nguyên lành và có một không hai trên đời.
Những hồ nước nơi đây chẳng bao giờ bị khô cạn. Dưới đáy bùn của chúng, qua làn nước trong sẫm màu, thấy có những con vật bé xíu ngọ ngoạy, còn phía trên mặt nước chao sóng thấp thoáng những con chim dẻ cùi xanh biếc, lũ chim ruồi óng ánh nhiều màu và lũ chim gì không rõ nữa lông màu sặc sỡ - chúng tôi chẳng biết tên gọi của bọn chúng, - bên rìa hồ, cạnh những bụi cỏ lác um tùm, những bông huệ nước hai màu trắng hồng nhè nhẹ đung đưa trên tán lá tròn trong ánh long lanh của những giọt nước trong veo.
Chúng tôi lại phải huấn luyện dạy dỗ bọn chó ở nơi thiên đường này đây.
Suốt một tháng rưỡi của kỳ nghỉ đầu tiên, anh trai tôi tỏ ra không mệt mỏi. Mỗi sáng sau bữa ăn, chúng tôi lại lên đường. Trong Lũng, tôi ngồi ghé bên bờ hồ dưới bóng một bụi mận gai và, khua khoắng chân dưới nước, thả hồn vào mơ mộng theo tiếng nước ì oạp, còn anh trai thì trang bị súng săn, đeo gậy gộc đủ loại dài ngắn khác nhau, mang theo những mẩu đường và miếng thịt sấy, mặt đầm đìa mồ hôi, anh dạy bọn chó đủ thứ bí hiểm. Thảng hoặc, tôi choàng tỉnh khỏi cơn mơ màng vì mặt trời xuyên qua tán lá mận gai bắt đầu hun đốt đôi vai tôi, ngoảnh lại cố nhìn xem bộ ba kia khó nhọc thế nào trên bãi cát dưới nắng nung thiêu đốt. Joke thường nằm dài khi nghe lệnh "Chết!" hoặc, đặt mõm lên đôi chân duỗi dài, chăm chú nhìn vào mắt anh tôi. Hay là nó ngồi bất động như chó đá, - cái sự nghe lời ấy... quả là không phải chó nữa mà là vàng ròng! Billy thì vẫn cứ ườn oại nằm ngửa, chổng bốn chân lên và rướn cổ, xoài ra dưới nắng nóng, chường hết bộ lông lốm đốm của mình ra cho những tia nắng mặt trời rọi vào. Cắt ngang dòng suy tưởng lơ mơ ngái ngủ của tôi là những câu:
- Giỏi lắm, Joke, rất giỏi! Billy, đồ ngốc, sao mà mày chẳng muốn lao động chút nào vậy, đồ ngốc kia! Hãy nhìn Joke mà học tập kìa!
Cả người đẫm mồ hôi và đỏ au lên, anh tôi ngồi phịch xuống cạnh tôi và càu nhàu:
- Con Billy hư quá, toàn làm gương xấu. Con Joke hẳn sẽ nghĩ nó cần gì phải gắng sức trong khi con Billy thì toàn làm trò dớ dẩn!
Nhưng chắc là tôi có lỗi trong mọi chuyện khi mà chuyện học hành của bọn chó chẳng nên cơm cháo gì. Giá mà tôi để ý đến thật nghiêm túc và chăm chú việc anh tôi và lũ chó luyện tập, - mà tôi thì quá rõ rằng người ta chỉ muốn tôi như vậy thôi, - thì rất có thể rốt cục thì chúng tôi cũng sẽ có được đôi chó biết nghe lời, được huấn luyện tử tế, lúc nào cũng sẵn sàng nằm ịch ra đất mà "chết" hoặc đi kè kè cạnh chân và mang đồ giữa hai hàm răng. Rất có thể là sẽ có được thành quả như vậy, ai mà biết được?
Trong quãng sau của kỳ nghỉ thì xảy ra chuyện bất đồng quan điểm. Bố kêu ca là chẳng có cái luật lệ nào áp dụng với lũ chó cả và ông đòi hỏi phải dạy dỗ bọn chúng một cách nghiêm túc, không được nương tay tí nào. Thấy cảnh mẹ âu yếm Joke và quở mắng Billy, tôi và anh tôi cùng giữ một hiệp ước im lặng. Sáng sáng, chúng tôi vẫn lên đường đến Lũng Đại Khê Thủy như trước nhưng khi đến được đó, cả ngày chỉ loăng quăng nhàn rỗi bên dòng nước, mặc cho bọn chó hưởng niềm vui sướng của tự do.
Đấy, chẳng hạn, dòng nước mang lại cho chúng bao nhiêu là thú vui. Con Joke đạo mạo ban đầu chỉ thử đứng trên bờ thò chân chạm vào nước, tiếp đó chậm rãi đi xuống hồ ngập tới ngực, chỉ độc cái mõm của nó vẫn thò lên trên những xoáy nước, nó vui sướng thè lưỡi tóm lấy những vòng xoáy ấy, sủa vang thân thiện. Thế rồi nó cẩn thận thả ngập mình và bắt đầu bơi trong làn nước ấm, dưới bóng xanh ngắt của bụi mận gai. Billy bấy giờ vẫn say sưa những trò vui của mình. Phát hiện được một hồ nước bé, nó chạy ra xa cách rìa hồ độ 20 ác-đơ 3 và lao về phía hồ bằng cách lộn tùng phèo trên cỏ, kêu ăng ẳng đinh tai nhức óc một cách hân hoan; nó nhảy trên mặt nước sang các hướng thì đúng hơn là nó bơi lội - lúc thì nó đã ở tận cùng của cánh đồng cỏ, lúc lại chạy ào đến chúng tôi, rẽ ngang, bay vút đi, rồi lại quay lại... Cứ như thế không ngơi nghỉ. Bụi nước từ chân nó bắn lên tung tóe thành từng luồng rơi xuống trở lại rào rào, còn nó thì phóng biến đi, tung ra những tiếng sủa hoan hỉ phấn chấn. Bọn chó còn có trò đuổi bắt nhau nữa, hệt như hai địch thủ chạy trên lũng, từ đầu này đến đầu kia của lũng dài độ bốn dặm, và, khi con nọ bắt được con kia thì chúng gầm lên đến phát cuồng, gừ gừ một lúc rồi phóng trên mặt đất, khiến cái trận chiến này rất dễ đùa thành thật.
Đôi khi chúng tôi tách bọn chó ra, và chúng cũng không chống cự lại can thiệp của tụi tôi nhưng chỉ cần thả ra một cái là trong nháy mắt thằng nọ giằng ra khỏi chỗ mà bay là là trên mặt đất, thằng kia thì lẳng lặng và hung tợn đuổi theo ngay. Chúng có thể chạy như thế cả dặm, hai dặm, cho đến khi thằng nọ tóm cổ được thằng kia và ép dí xuống mặt đất. Trò chơi này chúng tôi phải chứng kiến nhiều lần đến nỗi, sau này, khi bọn chó hoàn toàn trở về hoang dã, chúng tôi cũng hình dung được chúng giết lợn lòi và hươu để ăn thịt thế nào.
Khi đôi chó chỉ muốn nô giỡn đôi chút, chúng thường đuổi bắt bướm và anh em tôi cùng ngồi thả chân xuống làn nước, mắt dõi theo chúng. Một lần, Joke dường như muốn giễu cái sự thử dạy dỗ nó mà rất may đã bị bỏ bễ, đã cắn giữa hàm răng một con bướm lớn màu cam pha đen mang về cho chúng tôi với một vẻ nghiêm trang nhất đời. Đôi cánh mỏng của con bướm bị gãy, lớp bụi phấn vàng óng phủ trên mõm Joke, nó đặt con bướm cạnh chúng tôi, lấy chân ép con vật hoảng hốt vẫn còn giãy dụa xuống đất rồi ngồi xuống bên, hất mũi chỉ vào con bướm. Con thú ác này vờ vĩnh giương đôi mắt nâu lên, trên mặt nó rõ ràng có dòng chữ: "Các người thấy chưa - một con bướm! Giỏi lắm, Joke, giỏi lắm!". Còn Billy bấy giờ thì vẫn nhảy, vẫn sủa và bật tưng tưng trong không gian theo bóng những cái cánh nhỏ thấp thoáng - một cục bông nhỏ màu hạt dẻ trên nền trời xanh biếc bao la. Con bướm tù binh của Joke dường như Billy không nhìn thấy, song hai anh em chúng tôi cảm thấy rằng cái trò láo toét này có lẽ không phải của Joke mà là của Billy. Anh tôi một lần còn nói:
- Biết không, chính Billy đã làm hư Joke. Không có thằng Billy thì con Joke chẳng bao giờ tự dưng cứng đầu như thế này đâu, anh tin chắc. Gien nòi giống cũng ảnh hưởng đấy.
Than ôi, dạo ấy chúng tôi còn chưa lường được thế nào là "cứng đầu cứng cổ", và trong vòng một hai năm sau đó những thủ đoạn của bọn chó vẫn còn tạm coi được là ngây thơ vô tội.
Chẳng hạn, một lần Billy chui vào nhà kho qua một thanh gỗ cửa đóng ẩu và xực hết mọi thứ: trứng, bánh ngọt, bánh mỳ, cái đùi bê, gà hun khói và cả đùi dăm bông nữa. Chui ra thì đương nhiên là nó không chui được. Đến gần sáng, nó phình ra, căng tròn và chỉ còn biết lăn lông lốc trên sàn, rên ư ử vì những hậu quả kinh hãi của sự thiếu kiềm chế của mình.
- Đấy, mày thật là ngu ngốc, Billy ạ! Joke thì chẳng bao giờ lại làm thế, nó sẽ lường được ngay là sẽ vỡ bụng nếu mà chén lắm như thế!
Sau đấy thì Billy quay ra tha trứng ngay từ trên ổ, mà hành vi này đã bị coi là phạm tội rồi, người ta vẫn giết lũ chó ở các trang trại vì tội ấy. Còn Billy thì tránh được cái kết cục đó. Một vài lần người ta thấy Billy chui vào chuồng gà, - mõm dính đầy lông gà, mũi thì nhoe nhoét lòng đỏ trứng. Còn trên các ổ gà, giữa nệm rơm có lòng đỏ lòng trắng dính dớp, sền sệt. Billy vừa mới lọ mọ đến gần, bọn gà đã kêu thất thanh và lông cánh dựng đứng hết cả lên. Ban đầu, bà bếp đánh cho Billy một trận khủng khiếp đến nỗi Billy làm kinh động cả điền trang bằng tiếng rít tru tréo ăng ẳng của mình. Sau rồi mẹ nhồi đầy mù tạc vào những cái vỏ trứng và đặt vào ổ. Sáng hôm sau, cả nhà bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu gào thống thiết: trận đòn khủng khiếp hôm qua ấy chẳng dạy được Billy điều gì cả. Chạy ra khỏi nhà, chúng tôi thấy con chó màu hạt dẻ với cái lưỡi thè lè đang chạy điên lên trong sân và một mặt trời đỏ nằm trên rặng núi đen thẫm - một phông trang trí tuyệt diệu dành cho cái cảnh thô bỉ đang diễn ra trước mắt chúng tôi. Mẹ rửa cái mõm đang đau đớn của nó bằng nước ấm và nói:
- Đấy, Billy. Nhìn xem, nhận lấy bài học nhé, không có là xong đời rồi con ạ.
Còn Billy thì lĩnh hội bài học ấy quả là muôn phần khó nhọc. Vài lần tôi cùng anh tôi bước ra bậc thềm để chuẩn bị đi săn, dừng lại trong cảnh tĩnh mịch của rạng đông dưới bầu trời xám cao vòi vọi. Những ngọn núi bắt đầu hồng ửng lên, chung quanh đó, những cánh rừng bất tận im phắc, trong những cánh rừng này vẫn đang ẩn chứa màn đêm, hơi lạnh sương mai tươi mới ngập vào hồn; hương rừng đêm mơ màng làm quay cuồng đầu óc, không gian có mùi ngai ngái của ngải đắng làm đôi má tê cóng. Chúng tôi khẽ huýt sáo gọi bọn chó. Con Joke dù đang ở đâu cũng chạy đến ngay tức thời, ngáp và vẫy đuôi. Còn Billy thì chúng tôi phát hiện ra đang đứng gần chuồng gà. Thò mũi qua bờ giậu thép, mắt nhắm nghiền, nó đang tơ tưởng đến cái dịu ngọt ấm nồng của những quả trứng gà vừa xuất ổ. Chúng tôi đến nghẹt thở vì một trận cười khoái trá nhẫn tâm, hai đứa dúm dó cả lại và cố lấy tay bịt miệng để khỏi đánh thức bố mẹ.
Bắt đầu cuộc săn, chúng tôi biết rõ rằng chỉ cần đi độ nửa dặm là một trong hai con sẽ sủa nhặng lên mà lao vào bụi rậm, rồi thằng kia cũng lao theo, để lại những dấu vết mà chính nó sau đó lại tự dí mũi vào đánh hơi; tiếng sủa điên cuồng của hai đứa sẽ nhỏ dần, nhỏ dần, chỉ còn vẳng lại tiếng răng rắc sột soạt của những cành cây con mà bọn chó làm gãy hoặc bị một con vật nào đó đang hoảng hồn làm gãy, một con vật trước đó một phút còn đương ngủ hay an lành gặm cỏ, hoặc đang ẩn mình đợi cho chúng tôi đi qua. Giờ, bọn tôi đã có thể bắt đầu nhìn thấy những con mồi mà chắc chẳng bao giờ thấy được nếu có lũ chó kè kè bên cạnh. Lắm khi chúng tôi đứng hàng giờ rình xem một con sơn dương hoặc đôi hươu, rón rén đến gần chúng từ mọi phía. Quên bẵng hết thảy mọi thứ trên đời, hai anh em tôi mê mải ngắm chúng, nằm sấp xuống đất, chỉ lo mỗi điều là Billy và Joke chạy về và đặt dấu chấm hết cho cái trò vui tuyệt vời này. Tôi còn nhớ, một lần, trước khi mặt trời lên, chúng tôi nhìn thấy bên rìa cánh đồng của nông trại bên cạnh một con sơn dương với cặp sừng cồng kềnh. Hai anh em nằm bẹp xuống và trườn qua đám cỏ cao, thậm chí chẳng còn để ý là con sơn dương còn đó không nữa.
Trước mắt chúng tôi dần hiện ra một cánh đồng với những mảng đất đen dựng đứng. Thận trọng ngẩng đầu lên và trên bờ thửa ruộng cày vỡ ấy, chúng tôi thấy gần như ngay cạnh mình ba con sơn dương non. Nghênh đầu về hướng mặt trời sắp mọc, chúng đứng hoàn toàn bất động - ba dáng hình màu đen nhẹ bỗng. Những tảng đất ở phía rìa xa của cánh đồng bắt đầu ửng lên thấy rõ. Mặt đất đón chào mặt trời mau lẹ đến nỗi ánh sáng chạy trượt trên đồng, nhảy từ tảng đất này sang tảng đất kia như thể một ngọn lửa bị gió đuổi qua những ngọn cờ lau của đám cỏ xước. Và rồi ánh sáng chạy đến bên bọn sơn dương, dịu dàng phủ lên đường nét thân thể chúng một viền vàng chói lọi. Những tia nắng hẳn đang sắp rót xuống ba bức tượng vàng rực kia thì bỗng những chú sơn dương đẩy nhau nhảy bật đi, tung hai vó sau, gõ móng lọc cọc tuồng như đang nhảy một điệu vũ kỳ lạ.
Chúng hất những cặp sừng nhọn hoắt ra phía sau, không ra đùa giỡn, không ra giận dữ, chúng xô đẩy lẫn nhau. Trong lúc bọn sơn dương đang nhảy múa bên rìa cánh đồng cạnh khu rừng tối, nơi chúng tôi đang nấp, thì mặt trời đã ló ra, ánh sáng thanh dịu nhảy nhót trên những cặp mông sơn dương. Mặt trời tách ra khỏi đường gấp khúc của dãy núi và trở nên to tròn, điềm tĩnh, vàng rực; ánh sáng vàng ấm sưởi cho mặt đất. Lũ sơn dương ngừng nhảy múa và chậm rãi đi vào rừng, ngoe nguẩy những cái đuôi trắng nhỏ, nghênh nghênh đầu một cách duyên dáng.
Bọn chó mà không chạy xa độ vài dặm như thế thì hẳn chúng tôi cũng chẳng có dịp nhìn được những con vật đẹp lộng lẫy như vậy. Thú thực, phẩm chất duy nhất của lũ chó mang lại chút ít lợi lộc cho chúng tôi đó chính là cái sự không nghe lời. Nếu hôm nào chúng tôi muốn bắn con mồi nào đó cho bữa chén ở nhà thì hai anh em buộc dây vào cái cổ dề của chúng và nấp đợi nghe tiếng chân chạy lóc tóc khe khẽ của lũ gà hoang. Tức thì chúng tôi thả dây chó. Bọn chó lao vào lũ gà chim, bọn này thì vụng về bay lên như những chiếc khăn san bị quăng vào không gian và bay là là sát mặt đất, ngay cạnh những cái hàm chó đang nghiến kèn kẹt.
Lũ gà tội nghiệp rất muốn hạ cánh xuống đâu đó trong đám cỏ lác cao cao, nhưng bọn chó đã khiến chúng phải ì ạch đậu trên cây với những đôi cánh yếu ớt như thế. Thảng hoặc, khi chúng tôi tấn công một bầy gà lớn thì bọn gà đậu kín có dễ đến chục cái cây thành những dấu chấm đen sống động trên nền trời chiều hoặc rạng đông. Bầy gà dõi theo hai con chó đang sủa chứ chẳng hề chú ý gì tới chúng tôi. Dạng chân đứng tấn, anh trai và tôi - vâng, lúc bấy thì cả tôi cũng khó mà bỏ qua - lựa chọn các chú gà, ngắm và bắn. Con gà hoang rơi đúng vào cái mõm đang háo hức há hoác ra. Lúc ấy, chúng tôi lại ngắm và một con nữa lại rơi. Hãnh diện vung vẩy hai con gà bị trói chân và vác khẩu súng đã chứng minh được ích lợi không còn gì phải nghi ngờ nữa của mình, chúng tôi lững thững về nhà đâm qua cánh rừng thần kỳ của tuổi ấu thơ có ánh nắng mặt trời xuyên qua rực rỡ. Hai con chó vì lịch sự mà tiễn chân chúng tôi một quãng, rồi sau thì chạy đi tự săn mồi. Săn đuổi lũ gà hoang dạo ấy đối với chúng là một thú vui thơ trẻ.
Kết cục là nếu chúng tôi ra khỏi nhà với ý định đi săn đôi chút hoặc ngắm nhìn các con thú hay chỉ đơn giản là thả bước lang thang trong rừng, nơi lãnh địa của thú hoang trải dài mười dặm - những con thú hoang chưa từng nhìn thấy con người, thì trước khi đi, chúng tôi phải nhốt bọn chó lại, bất chấp sự phản đối hay những tiếng càu nhàu ầm ĩ của chúng.
Nếu thả chúng ra sớm thì rồi hai đứa cũng đuổi kịp bọn tôi. Một bữa, chúng tôi đi đã được độ sáu dặm về hướng núi, thong thả tận hưởng cuộc dạo chơi buổi sớm không vội vã thì bỗng hai con chó xuất hiện, thở hổn hển, phấn khởi, những cái lưỡi hồng hồng ấm nóng ấn vào tay và đầu gối chúng tôi đầy phấn khích rằng đã tìm ra hai anh em. Sau vài phút vui sướng vẫy đuôi loạn lên và nhảy tưng tưng vào mặt anh em tôi, chúng lại chạy biến đi cũng bất ngờ y như khi xuất hiện, và chỉ trở về nhà khi chiều buông.
Điều này khiến chúng tôi rất lo lắng, chúng tôi không ngờ là hai đứa nó chạy một mình khỏi nhà xa đến thế. Lỡ ra chúng lui tới nhà hàng xóm hoặc bắt đầu tấn công các chuồng gà của họ thì sao? Nhưng chúng tôi cũng đã bỏ qua mất thời điểm rồi, bọn chó đã lớn hẳn, dạy dỗ chúng bây giờ đã quá muộn. Hoặc là phải xích chúng cả ngày trong sân - mà cái lũ ấy thà chết còn hơn, - hoặc là phải cho chúng trọn vẹn tự do, và mặc kệ cho bất kỳ điều gì xảy ra đi chăng nữa.
Trong những bức thư nhà gửi cho hai đứa chúng tôi thường thông báo về tình hình hai con chó, và dần dà, tin tức càng ngày càng căng thẳng hơn. Anh em tôi ngồi đọc thư mỗi đứa mỗi trường, nơi mà người ta kỳ vọng đưa chúng tôi vào khuôn phép, dạy chúng tôi biết yêu sự ngăn nắp và rèn cho chúng tôi những phẩm chất tâm hồn cao đẹp: "Bọn chó biến mất tăm cả đêm ở đâu đó, và trở về vào lúc giữa trưa... "; "Joke và Billy ở tịt trong rừng ba ngày đêm. Bọn chúng vừa mới chạy về nhà, mệt lử lả!"; "Lần này lũ chó nhà mình chắc là đuổi bắt được con thú nào đó và chén thịt, y như những con chó hoang vậy, vì ở nhà chúng hoàn toàn chẳng ăn gì, chỉ uống và uống thùng bất chi thình, rồi sau đó thì lăn ra ngủ như bọn cún con... "; "Hôm qua ông Dally gọi đến bảo là nhìn thấy hai đứa Joke và Billy ở đồi sau nhà ông ấy, hai đứa này đuổi đàn bò nhà ông. Có lẽ phải dứt hai đứa cẩu tặc này ra khi nào bọn chúng trở về nhà, chứ không thì tình hình cứ thế này, rồi sẽ có ai bắn chết chúng vào ban đêm mất thôi... "
Khi chúng tôi từ thành phố về nghỉ hè, bọn chó gần như cả tuần không ló mặt ở nhà. Nhưng chúng linh cảm được là chúng tôi về - chí ít thì chúng tôi cũng tự huyễn hoặc mình như thế,- và hai đứa chạy về nhà: trong ánh trăng, trên sườn đồi hiện ra hai thân hình đen dài chạy bên nhau, cạnh chúng, hai cái bóng trượt dài trên mặt đất, trong ánh đèn bão, mắt chúng ánh lên như những đốm lửa. Hai đứa chào chúng tôi khá ồn ào, nhưng rồi lại đi ngủ ngay lập tức. Anh em tôi tự nhủ rằng bọn chúng coi chúng tôi như những con vật cùng loài bởi chúng tôi cũng thường thực hiện những chuyến dạo chơi dài bí ẩn trong rừng, nhưng cả anh và tôi đều hiểu đó chỉ là điều đa cảm nhảm nhí mà chúng tôi muốn vin vào để làm dịu bớt sự bực bội vì bọn chó, chó của hai anh em tôi, lại ít để ý đến chủ của chúng vậy. Đêm, đúng hơn là rạng sáng - hai đứa lại biến mất và chỉ một tuần sau mới trở lại. Chúng bốc mùi tởm lợm, có lẽ là chúng đã đi săn chồn hôi hay mèo rừng, - bộ lông dính đầy quả ké gai rối tung, trên da thì có hàng chục con bọ ve bám vào. Chúng uống nước ừng ực, nhưng không thèm ăn, mõm thì bốc mùi thịt nằng nặng.
Hai đứa nó ngủ thiếp đi, nằm sóng sượt trong bóng râm, còn hai anh em tôi đặt hai cái đầu mềm oặt nặng nề của chúng lên đùi mình, bắt ve bọ, gỡ các quả ké và gai cho chúng. Chân trước của Billy có một vết sẹo lồi, tôi nghĩ đó là một vết sẹo cũ đã lành, nhưng khi tôi chạm vào đó, Billy rên rẩm trong mơ. Tôi ghé xuống thấp hơn thì nhìn thấy một cái dây thòng lọng tết bằng cỏ được lấy từ một cái bẫy mà những người da đen thường dùng bẫy chim. May mà Billy thoát được khỏi cái bẫy ấy.
- Ừ, - bố nói, - đấy, bọn này rồi kết cục sẽ như vậy, cả hai đứa, rơi vào bẫy của người ta, bọn chó ngốc nghếch, mà rút cục thì cứ phải thế cho chúng biết, tôi thì tôi chẳng thấy thương hại chút nào.
Hai anh em tôi có một thói quen là phá hết những cái bẫy mà chúng tôi phát hiện được. Để săn những con thú lớn hơn, ví dụ như sơn dương chẳng hạn, những người da đen thường uốn cong một cái cây non ép xuống mặt đất, buộc bằng cái dây nhỏ mảnh và gài bẫy bằng thứ thép mà họ rút từ bờ giậu. Để kiếm thú bé hơn, họ đặt những cái bẫy con ngay trên đất - những cái dây thòng lọng làm bằng thép mảnh hoặc được bện xoắn bằng xơ vỏ cây. Còn trong bãi cỏ mọc chung quanh những thửa ruộng gieo hạt và những cái ao tù, nơi có một cái mạng chằng chịt những lối đi về của bọn chim và thỏ, thì trên mỗi lối đi ấy lại lủng lẳng cái thòng lọng tết bằng cỏ. Chúng tôi từng bỏ biết bao ngày để phá những cái bẫy ấy của họ.
Những mong có thể mua vui cho bọn chó chút ít, chúng tôi ngày nào cũng đi hàng bao nhiêu dặm trong rừng. Hai anh em tự hành mình đến kiệt sức, mà bọn chó thì vẫn cứ hàng đêm chạy hút vào rừng như trước, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi bèn cưỡi xe đạp, phóng điên cuồng trên đường làng, còn lũ chó thì lon ton khoái chí chạy bên. Hai anh em tôi vắt kiệt lực để chiều Joke và Billy, còn bọn chúng, chúng tôi ngờ rằng, hiểu hết mọi sự và cũng hạ cố chiều chuộng lại chúng tôi. Song chúng tôi quyết định không lùi bước. Lần nọ, chúng tôi nhìn thấy ở bìa rừng có một bộ xương của con vật gì rất to treo lủng lẳng trong dây lọng của cái bẫy trên cây - rõ ràng là cãu bẫy này được đặt và bị quên bẵng. Anh em tôi chỉ cho Billy và Joke thấy bộ xương, giảng giải cho chúng về sự thể xảy ra, dọa dẫm chúng, rồi van xin chúng, tí nữa thì khóc, cũng bởi là chúng tôi nói tiếng người, chứ đâu phải tiếng bọn chó đâu. Bọn này thì ngửi ngửi mấy khúc xương, sủa lên vài tiếng, nhìn vào mắt chúng tôi rõ là vì đôi chút lịch sự, và lại chạy biến vào rừng.
Khi đã ở trường, chẳng bao lâu, chúng tôi được biết rằng lũ chó đã đi hoang hẳn rồi. Đôi khi chúng chạy về điền trang vào ban ngày để ăn uống qua loa rồi ngủ. "Bọn này đâu cần nhà, chúng chỉ cần chỗ trọ", mẹ than vãn.
Và cuối cùng thì số phận hiện thân qua một cái bẫy hươu cũng đã ra tay rình bắt hai con chó.
Đêm vắng lặng, chúng tôi bừng tỉnh vì tiếng tru đau đớn, vội chạy ra sân đến chỗ lũ chó. Chúng lết bụng đến bậc thềm - da lẫn xương, lông dựng đứng, mắt vằn những tia cuồng nộ. Chúng được cho ăn, và ăn lấy ăn để - chân đứng không vững. Khi Joke đang sục mõm vào cái chậu ăn thì chúng tôi nhìn thấy lời giải đáp cho câu chuyện ngay trên cổ của nó - một cái dây chão bằng thép dày hự được tết bằng chục múi bện riêng rẽ bị cắn đứt ngay sát chỗ cổ dề. Chúng tôi soi lại mõm Billy thì thấy một vết thương đầy máu, thay cho hàm răng là bọt mép sùi ra, như một con chó già lụ khụ. Để mà nghiến đứt được cái dây ấy cần nhiều thời gian lắm, có lẽ là nhiều ngày giời. Nếu như là thép dày thì chắc Joke đã chết ngạt trong bẫy rồi. Nó thoát chết nhưng bị giập phổi và đổ bệnh - cái dây tí tẹo nữa là thắt cổ nó. Còn Billy thì không ăn được như trước nữa, giờ nó nhai khó nhọc như một con chó già. Bọn chó sống ở nhà vài tuần, dường như ai đã tráo hai con chó khác vào ấy, chúng chạy trong sân vào ban đêm và sủa nếu cần thiết.
Thế rồi chúng lại bắt đầu chạy đi xa, nhưng không biến mất lâu như trước nữa. Joke vẫn đau phổi, nó thường nằm dưới nắng, thở phì phò nặng nhọc như thể muốn cho lá phổi được nghỉ ngơi. Còn Billy giờ chỉ ăn đồ mềm được thôi. Thế thì chúng làm sao mà đi săn được chứ?
Một buổi chiều muộn, anh em tôi gặp chúng ở một nơi cách nhà vài dặm. Thoạt tiên, chúng tôi nghe thấy từ xa có tiếng sủa quen quen tuyệt vọng, tiếng sủa càng đến gần. Một làn sóng nhấp nhô lên xuống đều đặn chạy dọc trên những ngọn cỏ màu tro cao cao, đó là một con sơn dương đang chạy, nhưng chúng tôi chỉ nhìn thấy rõ khi nó đã đến rất gần vì con sơn dương màu vàng nâu, mà Lũng thì mọc đầy ngập loài lúa dại màu hồng đang phản chiếu màu đỏ thắm dưới ánh sáng mạnh và sắc. Trong ánh mặt trời đang xuống núi, thảm cỏ bạc màu bên bìa rừng bỗng trở nên vô hình như những tia sáng trắng, cây lúa dại phát sáng leo lét rồi rực lên, còn con sơn dương bé nhỏ toàn thân cháy bùng bởi những đốm đỏ trên người. Bỗng, nó lao gấp đột ngột về hướng khác, có lẽ nào nó phát hiện ra chúng tôi? Không, ra là Joke từ chỗ nằm phục kích trong đám cỏ hồng, bằng một động tác có tính toán đã lanh lẹ đón đầu con mồi. Billy thì đuổi sát sơn dương, nó bay, bốn chân gần như chỉ chạm khẽ xuống đất. Joke, giờ đã không còn chạy nhanh nổi nữa, ép con thú phải đâm sầm đúng vào mõm Billy. Ngay trước mắt chúng tôi, Billy bay thẳng vào cổ con vật, đẩy vật nó ngã xuống đất và kìm giữ nó, đợi Joke chạy tới kết liễu đời sơn dương, - bởi, bằng hàm răng của mình, nó chẳng còn cắn được con gì nữa rồi.
Hai chúng tôi thận trọng bước ra chỗ bọn chó, gọi chúng, nhưng hai con thú đang gầm gữ hung tợn đó dường như không nhận ra chúng tôi, những đôi mắt biết nói sáng ánh lên giận dữ, chúng tiếp tục xâu xé con mồi. Đúng hơn là Joke xé thịt con mồi, mà không chỉ xé thịt, nó còn dùng mũi đẩy những tảng thịt nóng hổi bốc khói cho Billy không thì con này phải cam chịu đói.
Phải rồi, bây giờ chúng chỉ có thể đi săn cùng nhau, thành đôi, chúng không thể sống thiếu nhau được nữa.
Nhưng, qua một thời gian thì Joke bỗng thường trở về sau cuộc săn sớm hơn, độ một hai ngày nó đã về, còn Billy thì ở lại rừng một tuần hoặc thậm chí lâu hơn. Ở nhà, Joke nằm trong sân hàng mấy ngày liền và nhìn về cánh rừng, còn khi Billy chạy về, nó liếm láp tai và mõm của Billy như thể một lần nữa lại nhận về mình vai trò làm mẹ.
Một hôm, tôi nghe tiếng sủa của Billy và bước ra thềm. Phía sau đồi, một đường điện thoại chạy ngang nhà chúng tôi băng qua trang trại nhà hàng xóm. Những đường dây ngân lên hát như những dây đàn, còn phía dưới Billy đang nhảy và sủa mấy đường dây ấy - nó đang nô như hồi nào nó nô giỡn khi còn là con cún nhỏ bởi trong nó đang đầy ắp niềm vui sống. Nhưng giờ đây tôi bỗng thấy buồn: con chó lớn to khỏe chơi đùa một mình, còn bạn nó thì nằm điềm tĩnh sưởi nắng, thở phì phò bằng lá phổi đau ốm.
Nhưng mà khi ở rừng Billy ăn gì nhỉ? Chuột, trứng chim, loài bò sát hay món gì đó đủ mềm? Và nghĩ cả về điều này nữa cũng thật buồn, nhất là khi tưởng lại những ngày vinh quang xưa cũ của hai con chó săn dũng mãnh không biết sợ.
Hàng xóm bắt đầu thường gọi điện cho chúng tôi: "Con Billy của ông bà chạy vào trang trại nhà này, chén tuốt đồ ăn trong chậu của chó nhà chúng tôi... "; "Có cảm tưởng là Billy của ông bà bị bỏ đói, chúng tôi đã cho nó ăn... "; "Chó nhà ông bà, con Billy ấy, gầy rạc đi, ông bà không cảm thấy thế à?"; "Người ta thấy Billy nhà ông bà gần chỗ chuồng gà vịt nhà tôi, tôi bực lắm, mà nếu nó khều trứng thì chắc là sẽ phải... "
Một con chó cái thuần chủng nhà hàng xóm sống cách chúng tôi mười lăm dặm đã có con với Billy. Nhà chủ họ bực mình khủng khiếp: thứ nhất vì Billy là giống chó vô nòi, rồi là vì cái "gien xấu" của nó nữa. Họ giết các con chó con, từng con một. Billy nhớn nhác chạy quanh, bám riết lấy ngôi nhà bất chấp những trận đòn và những phát súng chỉ thiên mà người ta bắn để xua đuổi nó đi. Họ gọi điện và đề nghị chúng tôi vì Chúa hãy làm điều gì đó khiến cho Billy ngồi nhà, họ đã ngán cái việc xích chó cái nhà họ lại mãi rồi.
Nhưng chúng tôi không làm gì được với nó. Đúng hơn là, chẳng muốn làm gì. Dĩ nhiên, khi Billy từ rừng chạy về, tợp nước ừng ực từ cái bát của Joke rồi nằm xuống cạnh Joke, áp mũi vào mũi Joke, lẽ ra có thể bắt nó và xích lại, nhưng chúng tôi chẳng động đến nó. "Dù sao thì chẳng chóng thì chầy người ta cũng giết nó thôi", bố bảo. Và mẹ lại kể lể chuyện Joke khôn và cao quý thế nào, như thể chẳng từng có những năm dài hạnh phúc nó được sổng tự do, mẹ lại khen nó hiền hậu và biết nghe lời.
Tôi ghé thăm nhà hàng xóm, nơi có cô bạn của Billy đang sống. Người ta cột nó dưới mái hiên. Cả đêm, tiếng tru hoang dã từ rừng vọng ra không cho ai được yên, và con chó cái thì kêu ăng ẳng, giằng giật cái xích. Sáng ra, tôi đi vào khoảng lặng im tĩnh mịch đầy nóng nực của cánh rừng và gọi:
- Billy! Chị đây, Billy!
Không có một âm thanh nào đáp lại. Tôi ngồi xuống sườn đồi, trong bóng râm, và chờ đợi. Chẳng bao lâu, sau những thân cây, Billy hiện ra, gầy gò, phờ phạc, tỏ ra xa lạ cảnh giác, một con chó lang thang không nhà ngờ vực cảm thấy cạm bẫy ở khắp nơi. Nó nhìn thấy tôi nhưng dừng lại cách tôi độ hai chục ác-đơ, bò lên đụn mối xông gần đó, ngồi xuống đúng chỗ nắng gay gắt nhất, và tôi thấy dễ chịu khi nhìn rõ những vết đốm thẫm trên bộ lông của nó. Chúng tôi cứ ngồi vậy, im lặng, người và chó nhìn nhau. Thốt nhiên, nó ngửa đầu và tru lên như những con chó thường hướng về vầng ttrăng tròn mà tru lên vậy, những tiếng tru dài, dễ sợ và căng thẳng của nỗi cô độc. Nhưng bấy giờ mặt trời đang rực rỡ, buổi sáng trong lành và yên tĩnh, mà rừng cũng chẳng ôm giữ điều gì bí ẩn, thế mà Billy lại đắm mình trong nỗi buồn đau khôn nguôi, hướng mặt về phía cô bạn đang bị trói giữ. Chúng tôi cùng nghe thấy tiếng kêu ăng ẳng của chó cái, tiếng nó xô cái bát sắt loảng xoảng, lê cái bát trên thềm nhà. Tôi bỗng cảm thấy nặng nề không chịu được, da nổi gai ốc và những sợi lông trên cánh tay cũng dựng đứng hết cả lên. Tôi đến gần Billy, ngồi xuống đất bên cạnh nó và ôm lấy cổ nó, như năm nào tôi đã từng ôm chó mẹ Stella của nó trong đêm trăng, con chó mẹ đã bị tôi lấy mất đứa con. Billy đặt mõm lên vai tôi, rên ư ử, mà đúng hơn là, nó khóc... rồi một lần nữa lại ngẩng đầu lên, tru dài...
- Billy, đừng thế, Billy thân yêu, xin em, giờ mình chẳng làm gì được đâu, chẳng làm gì được, chú chó thân yêu của chị...
Nhưng nó vẫn cứ tru hoài, tru mãi, sau đó bỗng nhiên nhảy phắt dậy như thể nỗi đau đã giằng nó ra khỏi chỗ ngồi, hướng cái mũi về phía tôi, như nói: "Tất cả là do chị, thôi, vĩnh biệt", - nó quay cái mõm của một con thú già cô độc về phía cánh rừng và bỏ chạy.
Một vài ngày sau, nó bị giết - sáng sớm, khi nó từ chuồng gia cầm mò ra với một quả trứng ngậm trong mõm.
Joke giờ đây còn lại một mình. Nó nằm sưởi nắng hàng ngày trời, nhìn về phía bìa rừng, cánh rừng chạy dài đến tận rặng núi, nơi những năm xưa nó từng săn thú cùng Billy. Nó già xọm đi, bốn chân gập xuống, lông xơ xác, thở nặng nề, khó nhọc.
Ban đêm, khi mặt trăng tròn chiếu sáng, nó đi ra sân và tru lên, khi ấy chúng tôi lại nói: "Nó nhớ Billy". Joke lại gần mẹ, ngồi cạnh bà và đặt mõm lên đầu gối bà, mẹ lại vuốt ve nó và bảo:
- Ôi con Joke già nua tội nghiệp của tôi, mày vẫn buồn nhớ cái con Billy hư ngu ngốc ấy ư?
Trong giấc ngủ, nó thường thốt nhiên nhảy dựng lên và chạy khắp các phòng trên bốn chân già nua của mình, chạy quanh các nhà ngang và nhà kho trong sân, hít ngửi từng góc nhỏ và kêu ăng ẳng đầy bất an. Đoạn, bỗng lặng đờ ra cảnh giác, giơ chân trước lên giống y thời trẻ, rồi nhìn, nhìn mãi về phía rừng và tru lên khe khẽ. Chúng tôi lại nói với nhau:
- Hẳn là nó mơ thấy cảnh đi săn cùng Billy.
Nó cứ yếu dần đi, gần như bị ngạt hơi. Chúng tôi bế nó mang vào rừng, phía sau ngọn đồi, và, trong khi mẹ vẫn vuốt ve, vuốt ve nó mãi, bố tôi đặt súng vào sau ót nó, rồi bóp cò.
Thụy Anh
Dịch từ bản tiếng Nga của Iu. Zhukova
Nguyên bản Anh ngữ: "The story of two dogs", trích trong cuốn African Stories, 1965, NXB Simon and Schuster
--------------------------------
1 Một loài chó gốc Canada.
2 Một loài cây có tên khoa học Asimina triloba, mọc ở vùng rừng hoang châu Mỹ và châu Phi, một dạng cây ăn quả, có vị nửa giống xoài, nửa giống chuối.
3 Đơn vị đo độ dài của Anh trước năm 1975: 1 ác-đơ = 91,44 cm.
Tuyển Tập Truyện Ngắn Doris Lessing Tuyển Tập Truyện Ngắn Doris Lessing - Doris Lessing Tuyển Tập Truyện Ngắn Doris Lessing