You practice mindfulness, on the one hand, to be calm and peaceful. On the other hand, as you practice mindfulness and live a life of peace, you inspire hope for a future of peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 31
ình ảnh Tiffany Martin và hai cô con gái rơi nước mắt vì đau buồn, hối tiếc nhưng cũng xen lẫn mừng vui là hình ảnh mà Tracy sẽ khó lòng quên được. Cô nghĩ có thể ngay cả khi cô chưa từng xuất hiện trong cuộc đời họ, ba người phụ nữ ấy cũng đã có những đêm trằn trọc khó ngủ vì không hiểu tại sao chồng và cha họ lại chọn cách từ giã cõi đời. Bằng kinh nghiệm của chính bản thân mình, cô biết rằng khi câu trả lời không tự mình xuất hiện, trí óc người ta có thể tưởng tượng ra những điều khủng khiếp, như chính cô đã mường tượng ra biết bao điều khủng khiếp đã đổ xuống đầu Sarah trong suốt hai mươi năm sau khi cô bé mất tích.
Tracy muốn tới thẳng chỗ Eric Reynolds và cho ông ta biết rằng cô đã biết, một cách chắc chắn, chuyện gì đã xảy ra với Kimi. Cô muốn xé toạc cái vẻ khinh khỉnh và nụ cười ngạo nghễ kia khỏi mặt ông ta, muốn hỏi ông ta tại sao vẫn có thể tận hưởng cuộc sống đầy đặc ân khi đã hủy hoại cuộc sống của quá nhiều người đến vậy. Đó là trò đùa của việc sát nhân. Không bao giờ chỉ giới hạn trong một mạng sống. Nó hủy hoại nhiều cuộc đời. Nhưng Tracy cũng biết việc cô có được bằng chứng cho thấy Reynolds phạm tội không giống với việc công tố viên chứng minh điều đó trước tòa. Phải, Tracy có bằng chứng cụ thể là những bức ảnh của Buzz Almond và phân tích của Kaylee Wright và Kelly Rosa, nhưng những thứ đó chỉ có thể đưa ra quan điểm chứ không thể đưa ra dữ kiện. Cả hai đều không thể đảm bảo chắc chắn về chuyện đã xảy ra.
Giờ đây, trên đường về nhà, cô xem xét tập hồ sơ tư vấn tâm lý của Darren Gallentine. Ngay cả khi đưa nó ra làm bằng chứng, mà không biết có được không nữa, thì một luật sư bào chữa giỏi cũng sẽ cãi lại ngay. Bất kỳ lý lẽ nào cũng có thể được đưa ra – ký ức sai lạc của một người đàn ông có vấn đề đang nhớ lại những gì xảy ra theo cách ông ta có thể chấp nhận nhưng lại khác xa với sự thật. Chứng cứ cũng chỉ là truyền miệng. Những gì Darren nói với bác sĩ tâm lý – người mà Tracy có thể tìm được hoặc không – là một lời khai ngoài tòa mà họ coi như sự thật. Người bào chữa sẽ phản bác là nó không đáng tin cậy, không qua kiểm tra chéo và vì thế không được công nhận. Tracy bắt đầu tự vấn bản thân liệu cuộc điều tra này có trở thành công cốc và liệu đó có phải là kết luận cuối cùng mà Buzz Almond rút ra được hay không?
Thứ Ba, ngày 23 tháng 11 năm 1976
Buzz Almond lái xe về nhà ở Central Grove nhưng anh không xuống xe ngay. Anh ngồi ngắm ngôi nhà bé nhỏ anh thuê cho cả gia đình. Họ sẽ phải chuyển đi. Khi đứa bé chào đời, căn nhà không còn đủ rộng nữa. Giờ thì anh biết chắc Kimi Kanasket không tự tử. Anh chắc chắn rằng Eric Reynolds, và có lẽ cả ba thành viên còn lại của nhóm Tứ Thiết Nhân, đã gặp Kimi khi cô đi dọc đường 141 về nhà và chắc chắn đã có chuyện gì đó xảy ra – chính xác là gì thì anh không biết – nhưng chắc chắn họ đã nói chuyện, có lẽ là vài lời chòng ghẹo qua lại, rồi chuyện nọ xọ chuyện kia và dẫn tới một điều khủng khiếp khác. Họ đã đâm Kimi bằng chiếc Bronco, chạy đè lên người cô trên trảng đất trống. Vì thế mặt đất mới bị cày nát. Buzz đã so sánh vết bánh xe trên cỏ và bùn với gân lốp chiếc Bronco của Eric Reynolds. Theo quan điểm của anh thì chúng khớp nhau. Thế nên mới có các vết giày tỏa đi khắp các hướng. Không liên quan gì đến lũ trẻ tiệc tùng vào cuối tuần hết. Cuối tuần đó, không có đứa trẻ nào ở trong thị trấn để mà mở tiệc. Chẳng có ai ở trong thị trấn. Mọi người đều đi xem trận đấu trọng đại. Mặt đất đã bị cày lên từ đêm thứ Sáu. Nhìn địa hình, anh nghi ngờ chúng không hề có ý định làm hại Kimi. Có lẽ chúng chỉ muốn dọa cô bé, nhưng rồi chúng phóng lên đỉnh đồi và chiếc Bronco lao vào không trung, và tình huống vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng. Quyền kiểm soát nằm trong tay vật lý học. Cái gì đi lên thì sẽ đi xuống, trong trường hợp này, nó đi xuống nhanh và mạnh, và lao thẳng vào Kimi Kanasket – ngay gần vị trí nơi thị trấn Stoneridge đã treo cổ một người đàn ông vô tội vào một trăm năm trước. Buzz có thể tha thứ cho bốn thằng nhóc vì đã đâm vào Kimi, nhưng những gì xảy ra sau đó thì không thể tha thứ được. Những gì xảy ra sau đó là một hành động cố ý và có chủ định. Chúng đã ném xác cô bé xuống sông như ném một bao rác.
Buzz cũng biết bốn đứa nhóc sẽ không bao giờ bị kết án, và điều đó khiến anh day dứt. Nó khiến anh phải đặt câu hỏi về việc tại sao lúc đầu anh lại trở thành cảnh sát. Nó khiến anh thấy buồn nôn.
Nếu tiếp tục theo đuổi vụ này, anh sẽ qua mặt Jerry Ostertag, mà điều đó chẳng mang lại lợi lộc gì cho sự nghiệp của anh. Anh đã mang mọi thông tin tới nói chuyện với sếp của mình. Anh đã ngồi xuống, và bằng tất cả sự chân thành, anh kể hết mọi chuyện, cho ông ta xem những bức ảnh, nhưng ngay cả khi đang trình bày, anh cũng thấy được nụ cười không giấu vào đâu được trên mặt ông ta. Nó như muốn nói anh chỉ đang kể chuyện đùa. “Cậu vào ngành được bao lâu rồi?” là những từ đầu tiên thoát ra khỏi miệng viên trung úy.
“Đáng khen đấy, Buzz Almond, đúng là đầy nhiệt huyết, nhưng cậu là lính mới và sự non nớt của cậu đang thể hiện ra như gái trinh trong đêm tân hôn ấy.”
Cũng như Jerry Ostertag, sếp của anh sẽ không làm gì hết. Pháp y đã kết luận là cô gái tự tử. Chứng cứ gián tiếp cũng kết luận cô gái tự tử và họ hài lòng, lười nhác hoặc mặc xác chả thèm quan tâm điều tra sâu thêm. Buzz đã đâm đầu vào ngõ cụt. Anh đã định đưa cho trung úy tập hồ sơ anh thu thập được, nhưng khi ngồi trong văn phòng, anh hình dung ra cảnh nó bị nhồi vào thùng rồi xếp xó trong những kho lưu trữ đầy bụi, bị vứt bỏ và quên lãng, cũng giống như Kimi Kanasket. Vậy nên anh quyết định sẽ tự mình lưu hồ sơ, như một vụ điều tra thực sự. Nếu có bao giờ lựa chọn xem xét lại, anh sẽ biết chính xác cần phải tìm nó ở đâu.
Jerry Ostertag không vừa lòng với anh. Ông ta đã ra sức gây khó dễ cho Buzz khi anh hết ca trực và quay lại tòa nhà để xác nhận giờ về. Không thèm vòng vo, ông ta hỏi Buzz anh tưởng anh là cái thá gì và chính xác thì anh nghĩ anh đang làm cái quái gì? Ông ta xổ toẹt vào mặt anh rằng những gì anh đang làm chẳng hay ho gì cho việc kết bạn, rằng cảnh sát phải nhìn nhau mà sống, rằng Buzz có thể cần ngẫm lại xem anh có muốn lập nghiệp trong ngành hành pháp hay không, nhất là ở quận Klickitat này. Tất cả những gì Buzz có thể làm là cố nhịn không đấm vỡ mồm Jerry Ostertag. Nếu anh làm thế thì chắc chắn sự nghiệp sẽ đi tong. Chuyện này không chỉ là việc của riêng Buzz mà còn liên quan đến Anne, Maria và Sophia, và cả đứa bé trong bụng nữa. Anh cần mang tới cho họ một cuộc sống tốt đẹp. Anh sẽ không hy sinh điều đó chỉ để thỏa mãn cơn thèm khát được quật ngã Jerry Ostertag.
Buzz ra khỏi xe, lười nhác nhấc chân về phía thềm nhà. Chân anh nặng như chì, tim anh trĩu xuống vì tình thế ngán ngẩm của mình. Khi anh bước qua cửa, Maria và Sophia ào ra từ trong bếp, váy ngủ vẫn mặc trên người, chân trần, tóc tai rối bù. Buzz sẽ chải lại tóc cho hai cô nhóc sau khi chúng ăn sáng xong.
“Bố ơi, bố ơi, bố ơi!” Hai cô nhóc reo lên, giọng ngọt tới nỗi có thể làm tan chảy trái tim của bất cứ thiên thần nào.
Mỗi tay anh nhấc một đứa lên. Hai cô bé ôm choàng lấy cổ anh, rúc vào đó, thơm chíu chít lên mặt anh. Chỉ nghĩ tới thôi cũng đã thấy khủng khiếp, nhưng quả thật vào giây phút đó, trong đầu anh nhoáng lên suy nghĩ Kimi Kanasket đã chết rồi, anh không thể làm gì hơn cho cô ấy. Hai cô nàng bé bỏng yêu thương anh vô điều kiện trong vòng tay anh đây, và đứa bé thứ ba sắp chào đời, cần được ưu tiên hơn cả.
Anne theo các con vào trong phòng. Trong bộ đồng phục y tá, cô xinh đẹp và quyến rũ hệt như ngày đầu tiên Buzz nhìn thấy cô. Cô là liều thuốc bổ mà anh cần cho buổi sáng hôm đó. Mày là một gã may mắn, Buzz Almond, anh tự thuyết phục bản thân. Mày quá ư là may mắn!
“Nào các con, mau ăn sáng cho xong kẻo đồ ăn nguội hết nào.” Anne nói.
Buzz đặt hai cô bé chân trần xuống đất và chúng rón rén nhón chân đi. “Em làm yến mạch…” Anne nói và lấy chìa khóa để ra ngoài. “Với việt quất.”
“Cảm ơn em.” Anh nói.
Cô dừng lại ngắm anh. “Mọi việc ổn cả chứ?”
“Một ngày vất vả.” Anh nói và quay đi chỗ khác, dù anh biết cô đã nhìn thấy nước mắt trong mắt anh.
“Có gì có thể thay đổi được không?”
Buzz lại nghĩ tới Kimi, Earl và Nettie Kanasket. Giờ đây anh biết họ là phần khó khăn nhất trong công việc của anh. Họ – và nhiều gia đình khác giống như họ, những gia đình bị tổn thương và chịu nhiều đau đớn – sẽ còn theo anh về nhà rất lâu sau khi anh rời khỏi văn phòng.
“Anh không nghĩ vậy.” Anh nói. “Không phải lần này.”
Tracy quay về Tây Seattle, dỡ hồ sơ của Buzz Almond ra, rải lên cái bàn trong phòng khách. Cô phải xua Roger đi hai lần, cuối cùng phải lôi thức ăn để dụ cu cậu tránh xa cái bàn.
Các vụ án khó đã giúp cô nhận ra đôi khi tập hợp tất cả bằng chứng lại một chỗ để xem xét cũng hữu ích ra trò. Ngoài việc biết chắc những gì đã xảy vào ngày 5 tháng 11 năm 1976, cô cảm thấy mình vẫn chưa nắm được bức tranh hoàn chỉnh, vẫn còn thiếu sót điều gì đó. Đó thường không phải điều gì kịch tính – không phải những manh mối ẩn giấu mà chỉ đầu óc Sherlock Holmes mới giải được. Đó thường là những thứ đơn giản hơn rất nhiều, những thứ đúng theo lôgic nhưng trí óc cô đã không dừng lại để cân nhắc – giống như chúng ta đâu có dừng lại xem xét ý nghĩa của biển hiệu báo dừng. Ta cứ thể nhả chân gas và đạp chân phanh thôi.
Cô cầm báo cáo lên, lướt qua một lượt. Rồi cô chuyển sang những bức ảnh kế tiếp. Có phải có điều gì đang nhìn chằm chằm vào cô mà cô không hay biết? Có lẽ, nhưng không lẽ nào Kaylee Wright lại bỏ sót điều gì hiển nhiên như vậy. Với Kelly Rosa và những phân tích về biên bản pháp y của bà, cô cũng đi đến kết luận tương tự. Vậy nên cô bỏ qua hai báo cáo này.
Cô chuyển sang những chứng cứ chưa ghép khớp vào bức tranh. Cô cầm hóa đơn sửa thân xe và kính chắn gió ở hai cửa tiệm của Hastey Devoe lên: sáu mươi tám đô trả cho tiệm Kính chắn gió và Kính Columbia, sáu trăm năm mươi chín đô cho tiệm sửa chữa xe hơi Columbia. Buzz lưu hóa đơn này trong hồ sơ vì đó là nơi sửa chiếc Bronco, thanh toán bằng tiền mặt. Cô ngạc nhiên vì một tờ hóa đơn tiền mặt như thế lại tồn tại, ngạc nhiên vì Eric Reynolds lại đòi hóa đơn và còn ngạc nhiên hơn vì Buzz đã tìm ra chúng. Nhưng câu trả lời không phải bằng cách nào, mà là tại sao? Tại sao Buzz lại tìm kiếm những hóa đơn đó? Cô nhớ tới lời khai của Eric Reynolds rang Buzz Almond đã tới nhà hỏi xem Eric có ra ngoài vào đêm thứ Sáu không? Tại sao Buzz lại nghi ngờ Eric? Lẽ ra ông đâu có điều gì để nghi ngờ Eric, trừ khi ngay từ đầu ông đã nghi ngờ vết bánh xe để lại có thể là từ lốp của chiếc Bronco. Nhiều khả năng là nếu Buzz tới thì không phải là để nói chuyện với Eric mà là để xem xét chiếc xe, để xác nhận nó có bị hư hại gì không. Nếu chiếc xe vẫn bị hư hại thì Buzz sẽ không bao giờ lần ra hóa đơn, vì ông sẽ không biết được chiếc xe đã được sửa chữa. Việc ông có hóa đơn trong tay đồng nghĩa với việc chiếc Bronco đã được sửa lại. Và chính lúc đó, những điều vẫn day dứt trong tiềm thức của Tracy – không chỉ một, mà là vài điều, tất cả đều liên quan tới nhau – bắt đầu trở nên rõ ràng. Và Tracy nhận ra sai lầm chí mạng của mình.
Kaylee Wright khom người trên bàn, săm soi từng milimét những tấm ảnh qua chiếc kính lúp có đèn gắn ở tay cầm. Tracy đứng cạnh Wright trong văn phòng của cô, cố gắng không thúc giục hay làm phiền Wright. Cô đã gọi điện để nói với Wright những gì cô nghi ngờ và nhờ Wright xem lại những bức ảnh một lần nữa. Wright bảo Tracy mang ảnh tới nhà cô. Sau gần mười phút xem xét nhiều bức ảnh, Wright đứng thẳng dậy và gạt chiếc kính lúp sang một bên. Tracy cảm thấy như đang đứng trước tòa, chờ đợi lời tuyên án của thẩm phán.
Wright nhìn cô, thở dài. “Cô nói đúng. Tôi bị sót.”
Người Tracy như sôi lên vì hưng phấn. “Cô chắc chắn tới mức nào?”
“Cực kỳ chắc chắn. Tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi phải nhìn thầy điều đó.”
“Đừng xin lỗi. Cô còn chưa phân tích xong mà.”
“Lẽ ra tôi phải thấy từ trước.”
“Chuyện này xảy ra lâu quá rồi mà, Kaylee.”
“Chiếc xe tạo nên những dấu vết đó đã vào và ra hai lần.”
Tracy tự ép bản thân chỉ hỏi từng câu một, không được gấp gáp, để đảm bảo rằng họ có được bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết của cô.
“Hãy giải thích cho tôi nghe tại sao cô lại kết luận như thế?”
Wright nhặt vài bức ảnh trên bàn lên cho tới khi tìm được bức cần tìm. Cô điều chỉnh vị trí chiếc kính lúp trên bức ảnh. “Hãy nhìn xem!” Cô nói và bước sang một bên.
Tracy nhìn vào tấm hình được phóng to trong lúc Wright nói: “Đây là bức ảnh chụp vết lốp xe rõ nét nhất. Cô có thể thấy rõ hai đường vào và hai đường ra. Các vết có những chỗ chồng lên nhau nhất định, nhưng cũng giống con người, ô tô không di chuyển theo một đường thẳng hoàn hảo. Cô có thể thấy rõ nơi chúng tách nhau ra.”
“Liệu có thể có hai chiếc xe riêng biệt, chiếc này đi theo sau chiếc kia không?” Tracy hỏi, cô muốn loại bỏ khả năng đó.
“Không. Cả hai dấu vết đều được tạo ra bởi cùng một lốp và trong một khoảng thời gian ngắn.”
“Sao cô biết đó là một khoảng thời gian ngắn? Sao không thể là một tuần hay một tháng?” Tracy biết tình huống không thể diễn ra như thế, bởi vì theo báo cáo của Buzz Almond, ông đã chụp bức ảnh vào ngày thứ Hai sau khi Kimi Kanasket mất tích.
“Vậy thì cô lại phải nhìn vào dấu vết một lần nữa. Nếu chiếc xe thứ hai tới vào một thời điểm cách xa chiếc thứ nhất thì bức ảnh đã chụp được những vụn đất. Hãy nhớ tôi từng nói theo quan điểm cá nhân tôi, để có những dấu vết rõ như thế này thì mặt đất phải ướt, rồi sau đó đóng băng trong một khoảng thời gian ngắn. Những dấu vết trên mặt đất này đã đông đặc lại như trong một khuôn đúc. Nếu chiếc xe thứ hai tới vào một ngày muộn hơn thì nó đã làm vỡ và xóa sạch dấu vết của chiếc xe thứ nhất. Nếu thế, chúng ta sẽ thấy có những đám đất bị vỡ ra. Nhưng trong những bức ảnh này, tôi không thấy thứ gì như thế.”
“Vậy là chính cái xe đó đã quay lại trước khi mặt đất đóng băng.”
“Theo tôi là trong vòng một hoặc hai tiếng. Tôi không chắc chúng ta có thể xác định thời gian tốt hơn không. Có thể những dữ liệu về thời tiết tại thời điểm đó sẽ cho cô biết nhiệt độ của đêm đó.”
Tracy đổi đề tài. “Thôi được, hãy chuyển sang các vết ủng. Chúng đi từ chỗ cơ thể Kimi nằm tới nơi vết xe đi vào lần thứ hai dừng lại. Đúng chứ?”
Wright gật đầu. “Tôi đồng ý, đúng vậy. Giữa hai điểm này có một tập hợp dấu giày có chủ đích.”
“Vậy là lúc đó người quay lại đang đi ủng và chính người đó đã mang cái xác lên xe.”
“Phải. Người đó đi theo đường thẳng tới chỗ cô gái và sau khi giữ cô ta thăng bằng, đã quay về chỗ cái xe.”
Tracy tiếp tục nói to suy nghĩ của mình: “Vì người đó đã nhấc cô gái lên và lảo đảo vì sức nặng của cô ấy, đồng thời chỉ có dấu ủng đi về phía cái xe, cho thấy người đó hành động một mình, không có ai khác giúp đỡ.”
“Tôi cũng đồng ý với điều đó.” Wright nói. Cô như chợt nhớ ra điều gì.
“Có chuyện gì vậy?” Tracy hỏi.
“Có lẽ là không có gì, nhưng cô còn nhớ tôi từng nói loại ủng này được sản xuât cho quân đội và công ty đó đã ngừng hoạt động chứ?”
“Vâng.”
“Công ty đó không bao giờ sản xuất ủng nữa… Điều đó có thể hữu ích cho cuộc điều tra của cô.”
“Tại sao?”
“Thứ nhất là vì chúng hiếm. Bây giờ cô không thể tìm được chúng ngoại trừ trên mấy trang bán quần áo kiểu cổ và sẽ đắt hơn giá ban đầu rất nhiều. Ai từng sở hữu một đôi sẽ giữ nó lại.”
“Ý cô là người từng có đôi ủng đó hiện giờ có thể vẫn giữ nó?”
“Loại ủng này được săn lùng nhiều vì chúng rất bền. Một người có thể đi đôi ủng này từ hai lăm đến năm mươi ngày trong suốt một năm. Có thể. Ai từng sở hữu đôi này thì chẳng có lý do gì để sắm đôi mới. Tôi chỉ nói rằng đây không phải loại ủng để vứt đi hay quyên cho từ thiện nếu không nhất thiết phải làm thế.”
Tracy ngẫm nghĩ về điều đó nhưng cô không trả lời. Wright nói: “Cô có định cho tôi biết cô nghĩ tất cả những điều này có nghĩa là gì không?
“Cô còn nhớ cô đã nói những gì xảy ra ở trảng đất trống đêm đó thật sự kinh hoàng không?”
“Có.”
“Tôi nghĩ còn hơn cả kinh hoàng. Tôi nghĩ những chuyện xảy ra ở nơi đó là tội ác.”
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống