Phần thưởng cho sự chịu đựng gian khổ chính là những kinh nghiệm bạn thu được.

Aeschylus

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 27
oay hoay mãi mà Tracy không tìm được chỗ đỗ xe trong bãi đỗ đã chật cứng của sân golf Husum Hills, cuối cùng cô đành phải chen vào khoảng trống giữa hai chiếc xe đỗ dọc ở một khu vực rất đáng ngờ có vài cái xe đang đậu. Cô đoán cô sẽ sớm rời đi trước khi các golf thủ quay về. Mặt trời bắt đầu xuyên qua các lóp mây, và dù trời vẫn còn lạnh nhưng lớp tuyết đọng từ buổi sáng đã tan hết. Khi bước tới tòa nhà câu lạc bộ, cô thấy một tấm băng rôn thả từ trên mái xuống giải thích cho sự đông đúc nơi đây – giải thi đấu golf Ross Reynolds.
Qua cuộc điện thoại ngắn gọn, Eric Reynolds nói ông ta đã đặt lịch tập lúc 11 giờ 10, nhưng Tracy có thể gặp ông ta ở sân tập sớm hơn một tiếng, và ông ta rất vui lòng được tiếp chuyện cô. Nghe như thể ông ta đang lên lịch cho một bữa trưa bàn chuyện làm ăn chứ chẳng liên quan gì tới việc bị một điều tra viên chuyên xử lý các vụ án mạng từ Seattle đến để tra hỏi về cái chết của một cô gái trẻ cách đây bốn mươi năm. Hẳn là sẽ rất khác cuộc thẩm vấn Archibald Coe hay Hastey Devoe.
Khi ghé vào cửa hàng bán đồ thể thao hỏi đường tới sân tập, Tracy thấy các golf thủ từ già đến trẻ, từ cụ già bát tuần da mồi tóc bạc cho tới lũ sinh viên mới ra trường miệng còn hôi sữa đang đứng chật cửa hàng. Thanh niên nam nữ mặc áo khoác thể thao trường Trung học Stoneridge và đồng phục cổ vũ lượn vè vè xung quanh, lái xe điện của sân golf hay cố tỏ vẻ bận rộn.
Tracy có bản sao bằng lái xe gần nhất của Eric Reynolds nhưng không cần dùng tới nó. Rất dễ để nhận ra ông ta. Ông ta đứng ở cuối sân tập, vừa liên tục đánh bóng vào một tấm lưới cách đó chừng hai trăm năm mươi mét vừa cười nói với một nhóm người hâm hộ đang xúm xít sau lưng, lắng nghe như nuốt lấy từng lời ông ta nói. Trông ông ta vẫn có thể lọt vào đội hình trong mơ của trường Stoneridge, dù mái tóc vàng đã rụng gần hết, chỉ còn loe hoe vài sợi chạy hình vòng cung quanh đầu. Ông ta không quá cao, có lẽ khoảng một mét tám lăm hay hơn một chút, nhưng cơ bắp vẫn săn chắc như vận động viên. Chủ đề của ngày hôm nay là Stoneridge. Reynolds đang hãnh diện khoác lên mình màu áo của trường – quần đỏ với áo gi lê len, sơ mi trắng và giày đánh golf.
Tracy ngừng lại, quan sát Reynolds trong tiếng gậy golf quật vun vút vào bóng. Vài phút sau, Reynolds nhìn thấy cô đang đứng ngoài rìa sân cỏ. Rõ ràng ông ta biết cô là ai, nhưng nếu sự hiện diện của cô khiến ông ta không thoải mái thì ông ta cũng không để lộ ra ngoài. Ông ta gật đầu và giơ tay vẫy cô, cứ như họ là bạn cũ lâu ngày và ông ta sẽ ra với cô ngay bây giờ. Reynolds nói thêm vài lời với đám đông, nhét gậy vào túi rồi vừa bước tới chỗ cô vừa tháo chiếc găng tay màu trắng ra.
“Điều tra viên Crosswhite.” Ông ta chìa tay ra. “Hy vọng tôi không khiến cô phải đợi lâu.”
“Không có gì.” Tracy đáp.
Reynolds nhìn lên bầu trời xanh nhợt nhạt tầng tầng mây trắng. “May mà thời tiết có vẻ tốt.” Ông ta nói. “Tôi đã bảo với ban tổ chức là việc tổ chức giải golf vào tháng Mười một chẳng khác nào đánh cược với sự may rủi. Bọn tôi thường tổ chức giải vào cuối mùa xuân, nhưng năm nay họ cứ khăng khăng đòi tổ chức trùng với dịp họp khóa và lễ hiến tặng sân vận động.”
“Vậy ra đây là sự kiện thường niên?”
“Đúng vậy. Chúng tôi tổ chức giải này để gây quỹ cho Quỹ học bổng trường Stoneridge.” Ông ta chỉ về hướng tòa nhà câu lạc bộ. “Tôi đã dành một phòng để chúng ta nói chuyện.”
Họ đi cạnh nhau, khe khẽ trao đổi. Dọc đường đi, có sáu người gọi tên Reynolds và ông ta chào hỏi từng người bằng tên của họ. Tới tòa nhà câu lạc bộ, ông ta giữ cửa cho Tracy, cả hai cùng bước vào. Đại sảnh trải thảm, trang hoàng nào biển hiệu, tranh ảnh và một bệ đựng cúp, nhưng so về độ phô trương thì còn kém xa những câu lạc bộ ở Seattle.
Reynolds đưa Tracy vào một phòng tiệc nhỏ đã được sắp đặt để chuẩn bị cho một bữa trưa trang trọng: mười hai chiếc bàn tròn phủ khăn trắng và bày đĩa tách đầy đủ, phía trước có bục đứng và micro. Ông ta dẫn cô tới một chiếc bàn có bình đựng trà đá và hai cái ly.
“Tôi rót cho cô một ly nhé?” Ông ta hỏi.
“Vâng, phiền ông.” Cô nói.
“Nó không ngọt đâu.”
“Không sao.” Cô đáp rồi ngồi xuống ghế, hài lòng tận hưởng giây phút để cho Reynolds đóng vai chủ nhân.
Reynolds ngồi xuống cùng cô, đầu gối đưa xa khỏi bàn, hai chân vắt vào nhau và nhấp một ngụm trà. “Tôi được biết cô muốn hỏi tôi về cái đêm Kimi Kanasket mất tích.”
“Ai nói với ông là tôi muốn hỏi ông?”
Reynolds mỉm cười. “Cả hai chúng ta đều biết câu trả lời.” Ông ta nói. “Giám đốc sở Devoe hơi căng thẳng về chuyện này. Ông ta nghĩ nó sẽ phá hỏng không khí cuối tuần.”
“Ông Devoe còn nói gì nữa không?”
“Ông ấy nói cô đã tới thị trấn và đang điều tra cái chết của Kimi Kanasket. Cô nghi ngờ việc Kimi tự tử và cho rằng tôi cùng với Hastey, và có thể là Archibald Coe và Darren Gallentine nữa, có thể có liên quan.”
“Ông có biết tin Archibald Coe đã treo cổ chết sáng nay không?”
Reynolds đặt kính xuống, vẻ ngỡ ngàng trên mặt ông ta trông rất thật. “Không. Tôi không hề hay biết.”
“Lần cuối cùng ông gặp hay nói chuyện với ông Coe là khi nào?”
Reynolds nhắm mắt lại, thở hắt ra. Trông hết sức thật lòng. Một lúc sau, ông ta lắc đầu và mở mắt. “Phù!” Ông ta ngừng lại một lúc trước khi nói tiếp. “Đã lâu lắm rồi. Hàng năm trời.”
“Các ông không liên lạc với nhau ư?”
“Không.”
“Ông ta không tới dự buổi họp lớp nào?”
Reynolds ngổi thẳng dậy, buông chân ra, hơi rướn về phía Tracy. “Không, không tham dự. Tôi nghe nói Archie gặp vài rắc rối khi giải ngũ.”
“Rắc rối như thế nào?”
“Nghe nói Archie có vấn đề về tâm lý – suy nhược thần kinh, nhưng tôi không biết cụ thể.”
“Ông có nhớ ai là người báo cho ông tin đó không?” Reynolds lắc đầu.
“Không. Chuyện lâu quá rồi.”
“Ông không tìm cách liên lạc với ông ta sao?”
“Tôi đi học đại học, vì phải tập bóng hằng ngày nên tôi hiếm khi về nhà.” Reynolds đặt hai tay lên gần môi, như một đứa trẻ chuẩn bị cầu nguyện. “Thị trấn đã ghép bốn người chúng tôi lại với nhau, điều tra viên ạ. Tứ Thiết Nhân.” Ông ta lại ngồi thẳng lưng, hai tay tách ra. “Sự thật là ở ngoài sân cỏ, chúng tôi không thân thiết tới mức đó. Chúng tôi là bạn, nhưng Archie và Darren chơi với một nhóm khác chứ không thân với tôi và Hastey.”
“Lần cuối cùng ông nói chuyện với Darren Gallentine là khi nào?”
“Cậu ta vào đại học khi tôi còn học ở đó. Tôi gặp cậu ta trong trường, thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại nói chuyện vài phút, nhưng không đi chơi với nhau.”
“Ông biết việc ông ấy tự tử?”
“Có. Nhiều năm rồi, tôi tin là thế.”
“Nhưng ông và Hastey vẫn thân thiết?”
Reynolds nhún vai như muốn nói, cô định làm gì đây? “Hastey và tôi cùng nhau lớn lên, sống cách nhau chỉ vài căn nhà. Khi bọn tôi lên cấp ba, cậu ấy hơi bị mất phương hướng. Tôi thuyết phục cậu ấy chơi bóng. Thực ra là bố tôi nhìn thấy vóc dáng của cậu ấy và chỉ định cậu ấy chơi bóng.” Reynolds mỉm cười. “Ông nghĩ như thế sẽ tốt hơn cho Hastey và khiến cậu ấy tự tin hơn. Ông bảo Hastey ông sẽ biến cậu ấy thành một ngôi sao và ông đã làm được. Nếu điểm số tốt thì lẽ ra Hastey đã được chơi bóng ở đại học, nhưng vì không có nền móng nên cậu ta thất bại. Hastey lúc nào cũng cần có người đưa đường chỉ lối. Ở nhà thì không phải lúc nào cũng có người như thế.”
“Tại sao?”
“Bố cậu ấy rất nghiêm khắc với cậu ấy. Nghiêm khắc với tất cả anh em họ. Ông ta cho rằng họ không đạt được tiêu chuẩn ông ta đề ra, có lẽ chỉ trừ Nathaniel, nhưng anh ta chết mất rồi còn đâu – tai nạn săn bắn. Chuyện đó chỉ khiến mọi thứ khó khăn hơn cho Lionel và Hastey. Hastey bố chẳng ngại ngần gì mà không nói thẳng vào mặt các con là ông ta thất vọng về họ. Một ông già khó chịu.”
“Vậy là ông và bố ông đã che chở cho Hastey?”
“Theo một góc độ nào đó thì cô có thể nói như vậy. Chỉ tôi và bố tôi thôi. Mẹ tôi mất vì ung thư khi tôi lên tám. Hastey ngủ lại ở nhà tôi nhiều đêm. Chúng tôi thân với nhau.”
“Có phải ông ấy cũng dễ gây rắc rối không?”
Reynolds cười, miệng mím lại. “Thế nên chúng tôi mới không cho cậu ấy lái xe nữa mà chuyển sang làm bàn giấy.” Ông ta ngồi thẳng lên. “Nghe này, ngoài những khuyết điểm đó thì cậu ấy tử tế và hòa nhã với mọi người. Cậu ấy khiêm nhường và không ép người ta mua hàng bằng được. Khách hàng thích cậu ấy, tôi cũng vậy.”
“Ông biết là ông ấy đã bị bắt vì lái xe khi uống rượu chứ?”
“Có, tôi có biết.”
“Vậy là ông không chỉ cho ông ấy vào biên chế chỉ vì tình bằng hữu?”
“Đó cũng là một lý do, hẳn rồi.” Reynolds tì khuỷu tay lên bàn. “Cậu ấy không phải người xấu, điều tra viên ạ. Cậu ấy cần được giúp đỡ. Lionel quá bảo bọc và khiến mọi thứ dễ dàng với cậu ấy quá. Có thể lần bắt giữ này sẽ thay đổi điều đó.”
“Tôi ngạc nhiên khi thấy Lionel không nghe theo lời ông, vì ông là người ủng hộ lớn cho chiến dịch chạy đua cho chức Giám đốc sở cảnh sát của ông ta.”
Lại thêm một nụ cười. “Thứ nhất, Lionel là anh trai của Hastey, và Hastey thì đã trưởng thành. Thứ hai, tôi e là từ ủng hộ lớn không có nghĩa giống như người Seattle thường dùng đâu. Vài ngàn đô để mua áp phích, bảng hiệu và đề can dán lên xe hơi chẳng phải là món tiền nhiều nhặn gì. Cuộc sống của tôi khá suôn sẻ. Nếu tôi có thể chia sẻ sự suôn sẻ đó để giúp đỡ bạn bè hay những người cần tới nó thì tôi sẽ cố gắng. Tôi không phải là thánh, nhưng tôi sẽ nỗ lực.”
“Giống như giải golf này?”
“Chính xác là giống như giải golf này. Gây quỹ cho trường học. Một số gia đình gặp khó khăn về kinh tế, tiền thu được sẽ giúp trang trải tiền sách vở, lương giáo viên, đại khái thế.”
“Và một sân vận động bóng chày được đặt tên theo tên của cha ông?”
“Không. Tiền gây quỹ không dùng cho việc đó.”
“Tiền túi của ông sao?”
“Tiền của công ty.”
“Thời trung học, ông lái một chiếc xe Ford Bronco.”
Reynolds thoáng ngạc nhiên khi đề tài đột ngột thay đổi. “Đúng là một chuyến du hành về ký ức. Đã lâu lắm rồi. Phải, tôi đã lái một chiếc Ford Bronco trước khi chúng nổi danh sau vụ OJ.” Ông ta mỉm cười, có lẽ vì đang nhớ lại quá khứ. “Cái xe màu vàng nhạt, dàn đèn chạy ngang trên nóc, thùng xe màu đen với thanh giằng chống lắc, bánh xe ngoại cỡ, một cái tời gá vào lưới tản nhiệt và đèn hiệu sương mù. Nếu người ta không nhìn thấy bọn tôi thì cũng nghe thấy tiếng bọn tôi từ cách xa cả cây số. Tôi nghĩ nó hẳn đạt đến đỉnh điểm về sự khó chịu rồi. Sau các trận đấu, bọn tôi sẽ chui vào đó, lái vòng quanh thị trấn và Hastey bóp còi inh ỏi. Mọi người thích mê.”
“Ông có đi săn không?”
“Bố tôi thì có. Tôi không thích giết hại mấy con vật lắm. Tôi thích đi lượn bằng xe hơi hơn, nhất là sau khi trời mưa lớn. Cái xe sẽ đóng bùn dày tới nỗi chẳng thể biết được nó màu gì.”
“Ông có bao giờ đi xe ở trảng đất trống không?”
“Trảng đất trống từ đường 141 rẽ vào sao?”
“Phải.”
Reynolds ra chiều suy nghĩ. “Có lẽ một, hai lần gì đó, nhưng nơi đó giống địa điểm cho tiệc cuối tuần hơn. Bọn tôi sẽ đi sáu hay bảy cái xe ra đó, mở đèn pha, bật nhạc và uống bia.” Ông ta nhún vai. “Những trò vô hại.”
“Ông biết chuyện của Kimi Kanasket như thế nào?”
Reynolds ngả ghế ra sau rồi móc đầu ngón tay vào dưới khóa thắt lưng. Mắt liếc lên trần nhà, ông ta thận trọng trả lời, như thể đang cố nhớ lại: “Tôi nhớ là bọn tôi nghe tin vào một lúc nào đó ngày Chủ nhật. Bọn tôi chơi trận tranh chức vô địch vào tối thứ Bảy và sau trận đấu, tất cả mọi người – cầu thủ, huấn luyện viên, phụ huynh – đều ra ngoài. Chúng tôi qua đêm ở Yakima. Vào Chủ nhật, chúng tôi lên xe buýt và rồng rắn về nhà. Tôi nghĩ có ai đó đã nói về chuyện đó trên xe buýt. Tôi nhớ mình đã bị sốc. Nhưng cũng có thể là một bài báo… có lẽ là thứ Hai, nhưng đừng trích lại lời tôi. Phần này tôi hơi lơ mơ.”
“Ông phản ứng thế nào?”
Reynolds nhún một bên vai. “Như mọi người thôi. Sốc. Bàng hoàng. Đây là một cộng đồng nhỏ mà, thậm chí hồi đó còn nhỏ hơn. Mọi người biết nhau hết. Ta nghĩ ở tuổi đó ta không thể bị tổn thương, thế rồi lại nghe được một tin như thế. Một cú sốc. Đó là một cú sốc.”
“Vậy là ông có biết Kimi?”
“Dĩ nhiên rồi. Tất cả chúng tôi đều biết nhau.”
“Mối quan hệ của ông với cô ấy là như thế nào?”
“Thân thiện. Kimi thông minh và khỏe mạnh. Cô ấy sẽ tham gia giải điền kinh của bang và tôi nghĩ cô ấy cũng sẽ vào đại học. Bọn tôi không thân lắm nhưng tôi biết cô ấy.”
“Hai người không có quan hệ tình cảm gì chứ?” Tracy hỏi hú họa. Reynolds đang quá thoải mái. Cô muốn khiêu khích ông ta.
Reynolds tặc lưỡi. “Tôi và Kimi ư? Không. Trước hết, chẳng ai dám bén mảng lại gần Kimi.”
“Tại sao?”
“Vì cô ấy có một ông anh trai và một gã bạn trai – tôi quên tên hắn rồi, nhưng tôi nhớ hắn là võ sĩ quyền anh Găng Tay Vàng và hắn rất nóng tính.”
“Tommy Moore ư?”
“Chính là hắn. Tommy Moore.”
“Sao ông biết ông ta nóng tính?” Tracy hỏi.
“Hắn và ông anh trai bị đuổi học vì tội đánh nhau.”
“Ông có biết vì sao họ đánh nhau không?”
“Hồi đó, người ta phản đối việc nhà trường dùng cái tên Xung Kích Đỏ. Họ nói từ đó nhạy cảm đối với người Mỹ gốc Da Đỏ. Tôi cũng nghĩ vậy, dù không thể nhạy cảm bằng hình ảnh một thằng nhóc da trắng vẽ người vằn vện cắm mũi lao xuống đất.” Reynolds hạ thấp ghế xuống. “Thời đó mọi thứ khác lắm. Người già trong thị trấn buồn lòng vì cuộc biểu tình và cứ khư khư ôm lấy ý kiến của họ. Còn tôi hả? Tôi mặc xác họ gọi chúng tôi là gì. Với tôi, chiến thắng là quan trọng nhất. Tôi chỉ muốn giữ nguyên thành tích bất bại và rinh chiếc cúp vô địch bang ra khỏi sân đấu vào cuối mùa giải.”
“Ông nói ông lên xe buýt và tới Yakima vào sáng thứ Bảy và quay lại vào sáng Chủ nhật đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Vậy ông làm gì vào tối thứ Sáu?”
“Dễ thôi. Tôi ở nhà. Người ta không ra ngoài vào buổi tối trước trận đấu, nhất là lại chơi cho Ross Reynolds. Bố chẳng thèm quan tâm tôi là con trai ông hay là tiền vệ. Ông sẽ xích mông tôi vào ghế dự bị mất.”
“Vậy là ông không hề ra ngoài?”
“Không. Tôi ở nhà.”
“Vậy thì ông sẽ ngạc nhiên khi nghe tôi nói rằng hôm qua Archibald Coe đã khai với tôi là cả nhóm bọn ông đã cùng nhau ra ngoài vào tối thứ Sáu.” Một lần nữa, Tracy muốn làm Reynolds bối rối và lôi ông ta ra khỏi vùng an toàn của mình.
“Rất ngạc nhiên.” Ông ta lắc đầu. “Hôm qua cô đã nói chuyện với cậu ta à?”
“Phải.”
“Cô trông cậu ta như thế nào?”
“Yếu ớt.”
Một lần nữa, Reynolds lại tỏ vẻ ngẫm nghĩ. “Có thể Archie không suy nghĩ được bình thường hoặc tâm trí cậu ta đang rối loạn. Tình trạng đầu óc của cậu ta là thế mà.”
Tracy nghiền ngẫm câu trả lời của Reynolds. Bản năng của một điều tra viên trong cô một lần nữa nghĩ rằng thời điểm cái chết của Coe quá ư thuận tiện, nhất là sau chừng ấy năm ông ta chung sống với nỗi ám ảnh kinh hoàng nào đó. “Có ai có thể làm chứng cho ông không, thưa ông Reynolds?”
“Về việc gì?”
“Về buổi tối thứ Sáu mà Kimi qua đời.”
“Có chứ. Bố tôi.”
“Bố ông sẽ nói là ông ở nhà ư?”
“Đó là những gì ông đã nói với viên cảnh sát tới nhà chúng tôi vào tuần sau đó.”
Câu trả lời khiến cô ngạc nhiên. “Một viên cảnh sát đã tới nói chuyện với bố ông ư?”
“Phải. Theo những gì tôi nhớ. Ông ta tới và muốn biết tôi có biết Kimi không. Ông ta nói đang tìm hiểu vài điều. Ông ta hỏi tôi có ra ngoài vào tối thứ Sáu hay có nhìn thấy Kimi không. Tôi nói với ông ta những gì vừa nói với cô – tôi ở nhà và đi ngủ sớm. Như tôi đã nói, giành được chức vô địch là điều quan trọng nhất đối với tôi. Tôi nghĩ ông ta sẽ ghi vào báo cáo hay biên bản gì đó chứ hả?”
“Người ta sẽ nghĩ thế.” Tracy đáp.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống