The pure and simple truth is rarely pure and never simple.

Oscar Wilde

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
áng hôm sau, Tracy tỉnh giấc trong tiếng gà gáy dai dẳng từ phía xa vẳng lại. Không ngủ lại được, cô tròng vào người bộ đồ thể thao mùa đông và chạy men theo đỉnh đồi. Cái lạnh ban đầu như nhấn chìm cô vào một bồn tắm bằng băng lạnh thấu xương, nhưng cô bắt đầu chạy chầm chậm để xương khớp dãn ra cho tới khi người ấm dần lên, sau đó cô tăng tốc và kết thúc trong vòng bốn mươi lăm phút. Sau khi tắm ào một cái rồi ăn sáng, cô chui vào xe và lên đường đi tìm Earl Kanasket để có được sự cho phép của ông ta hoặc bị ông ta đuổi cổ, nếu ông ta vẫn còn sống và đang ngụ tại địa chỉ cuối cùng mà cô có được.
Sau hơn một tiếng rưỡi lái xe dọc đường 97, Tracy tới thị trấn Toppenish nằm trong khu bảo tồn Yakama rộng hơn ba nghìn cây số vuông. Cô ra khỏi đường cao tốc và chạy xuyên qua một khu phố chính với những căn nhà một hay hai tầng xây bằng gạch và đá mang hơi hướng của một cộng đồng nông nghiệp cổ xưa của miền Tây. Bên hông nhiều ngôi nhà là những bức bích họa lớn – những bức tranh kỳ công miêu tả đời sống từ thế kỷ mười chín: những người Da Đỏ trên lưng những chú ngựa không thắng yên vẽ sơn vằn vện, nông dân đánh ngựa đi cày trên những cánh đồng, một động cơ hơi nước nhả khói lên bầu trời xanh nhợt nhạt.
Hệ thống định vị GPS dẫn Tracy qua những dãy phố với những căn nhà khiêm nhường nhưng được giữ gìn tốt tới một giao lộ hình chữ T và một cánh đồng màu xanh thẫm trải dài ngút ngàn tới tận chân trời. Cải xoăn đang là mốt trong ẩm thực hiện nay.
Địa chỉ của Earl Kanasket là căn nhà cuối cùng bên tay trái – một tòa kiến trúc một tầng màu xám xanh. Một chiếc xe tải Chevy đời cũ và một chiếc Toyota bốn chỗ đang đỗ trong nhà để xe. Đây là một tín hiệu tốt, ít nhất thì cũng có ai đó đang ở nhà. Căn nhà hơi nghiêng về bên trái, giống như bị cái nhà để xe kéo lệch về một bên.
Tracy đỗ xe sát vỉa hè rồi bước ra ngoài, đi tới dãy hàng rào dây xích cao ngang eo. Cô chạm vào then cổng, nhưng hơi chần chừ khi nhìn thấy hai tấm biển, một tấm cảnh báo Có chó dữ dán kèm ảnh một con chó chăn cừu Đức. Tấm thứ hai vẽ một bàn tay cầm khẩu súng lục cỡ lớn và dòng chữ: ‘Chúng tôi không gọi 911’. Tracy dừng lại quan sát một khoanh cỏ dại ở phía bên kia hàng rào, nhung không thấy dấu vết nào của một con quái vật khổng lồ. Nhưng điều đó cũng không ngăn cô thận trọng để mắt quan sát góc nhà trong lúc đẩy cổng bước vào và đi theo lối vào trát xi măng. Với chó lạ, cô đối xử cùng cung cách với biển cả. Đối với cả hai, cô đều có một sự kính trọng phải phép, nhưng cũng không phớt lờ sự tồn tại của chúng. Hiên nhà đã được cải tạo để xe lăn có thể lên xuống. Cô coi đó là một tín hiệu tốt. Earl Kanasket giờ đã phải ngoại bát tuần.
Cửa lưới mở toang đẩy sát vào hông nhà, bản lề chỏng chơ gỉ sét. Mà nó cũng chẳng giúp gì được cho đời – mắt lưới đã tả tơi từng mảng. Tracy lại nghĩ tới con chó gác nhà. Cô gõ cửa rồi lùi lại một bước, dịch sang một bên, tay đặt sẵn trên báng khẩu Glock. Cô chẳng thích thú gì với việc hứng hậu quả trong trường hợp biển cảnh báo là chính xác. Tấm nào cũng thế. Trong nhà vang lên tiếng chó sủa, nhưng chẳng có gì là hung hăng dữ tợn mà khàn đặc và rã rời thì đúng hơn. Tay nắm cửa long lên sòng sọc. Ngay sau đó, cánh cửa rùng rùng bật mở. Một ông lão ngồi xe lăn ngước lên nhìn cô, gương mặt già nua in đậm dấu ấn thời gian. Bên cạnh ông ta là một con vật xù xì lông lá, mặt trắng, mắt rỉ nước toét nhèm, ánh mắt đờ đẫn. Lưỡi nó thè lè vắt sang một bên, như thể nỗ lực đi tới cánh cửa đã rút cạn sức lực của nó.
“Xin chào.” Tracy nở nụ cười cầu tài. Một lợi thế của cô so với những đồng nghiệp nam là người ta thường ít hoảng hốt hơn trước một người phụ nữ lạ gõ cửa nhà họ. “Tôi hy vọng ông là Earl Kanasket.”
“Tôi đây.” Giọng Earl nghe cũng khản đặc như tiếng sủa của con chó, nhưng mắt ông ta sáng và đen thẫm như mắt quạ. “Còn cô là ai?”
“Tôi là Tracy Crosswhite. Điều tra viên tới từ Seattle.”
“Điều tra viên ư?”
“Vâng, thưa ông.”
“Điều tra viên ở Seattle thì chạy tới tận khu bảo tồn làm gì?”
Đó là một câu hỏi đúng luật, Tracy không thấy có sự thù địch hay lo lắng nào trong giọng nói của Earl Kanasket. Cô đồ rằng khi đã ở tuổi bát tuần thì chẳng có mấy việc khiến ông ta phải bận tâm nữa.
“Tôi muốn có cơ hội nói chuyện.” Tracy nói. “Về con gái ông, Kimi.”
“Kimi?” Earl dựa lưng vào ghế như thể bị một luồng gió mạnh quật thẳng vào người. “Kimi qua đời bốn mươi năm nay rồi.”
“Tôi biết.” Tracy nói. “Và tôi biết có thể ông sẽ sốc khi thấy tôi tới đây đường đột thế này.” Cô ngừng lại. Đây chính là lúc Earl hoặc sẽ nổi giận và tống cổ cô ra ngoài, hoặc sẽ trở nên tò mò.
“Được, cô cứ nói.” Mái tóc bạc lơ thơ của ông ta được buộc túm lại và thả lủng lẳng phía sau lưng. “Có chuyện gì?”
“Đó là cả một câu chuyện dài, thưa ông Kanasket. Không biết tôi có thể vào nhà để ngồi xuống và kể cho ông nghe không?”
Earl quan sát cô hồi lâu. Rồi ông ta gật đầu, cằm chỉ khẽ hất xuống. “Như thế thì hơn.” Ông ta nói rồi kéo bánh xe trượt về phía sau. Con chó cũng nhọc nhằn lùi lại. Tracy đóng cửa rồi theo Earl bước vào một căn phòng cũ kỹ nhưng sạch sẽ ngay bên phải lối vào. Không gian thoảng mùi lưu cữu và có mùi lửa mới nhóm trong lò sưởi. Đồ đạc rất thiết thực – một ghế sofa và hai chiếc ghế tựa để ngồi, một tấm thảm hình oval trải trên sàn gỗ để giữ ấm, một chiếc ti-vi màn hình phẳng để giải trí và một ngọn đèn để lấy ánh sáng. Trong lúc Earl xoay xe lăn sao cho lưng ông ta quay về cánh cửa sổ nhìn ra cánh đồng cải xoăn, Tracy bước tới chiếc ghế cạnh lò sưởi. Đây hẳn là chỗ nằm ưa thích của con chó, vì tay và mặt ghế đều dính lông chó đã bạc màu, nhưng giờ con chó đang mãn nguyện ngồi cạnh ông chủ. Tracy ngồi xuống. Trên đường tới đây cô đã nghĩ xem nên mở đầu câu chuyện như thế nào. “Tôi tốt nghiệp Học viện Cảnh sát cùng một phụ nữ tên Jenni Almond. Bố cô ấy là Buzz Almond, Cảnh sát trưởng quận Klickitat.”
“Tôi biết cái tên đó.” Earl nói. “Nhưng khi đó ông ta không phải cảnh sát trưởng. Chưa phải. Ông ta mới là cảnh sát viên. Ông ta đã tới khi Kimi mất tích.”
Theo dữ liệu từ Accurint, chẳng bao lâu sau khi thi thể của Kimi được phát hiện dưới lòng sông Cá Hồi Trắng, gia đình Kanasket đã chuyển tới khu bảo tồn Yakama.
“Đúng vậy.” Cô nói. “Ông ấy nói sẽ tìm ra Kimi. Tôi nghĩ ông ấy thực sự muốn làm điều đó.”
“Ông ta có nói với cô chuyện gì đã xảy ra với Kimi không?”
Earl ngừng lại như đang cân nhắc từng câu hỏi. Có lẽ tuổi tác và trí tuệ đã dạy ông ta cách uốn lưỡi bảy lần trước khi mở miệng. “Họ nói con bé tự gieo mình xuống sông.”
“Đó là những gì Buzz Almond nói với ông ư?”
“Tôi không nhớ ai đã nói, chỉ nhớ là có người nói thế. Nhưng khi đó tôi không tin. Tới giờ tôi vẫn không tin.”
“Chà.” Tracy nói. “Tôi cũng không chắc Buzz Almond có tin điều đó không. Ông ấy đã giữ một tập hồ sơ, thưa ông Kanasket.” Cô với lấy cái ca táp, rút tập hồ sơ ra rồi đứng dậy đưa nó cho Earl Kanasket. Ông già ngần ngại cầm lấy, không biết chắc mình có muốn giữ nó hay không. Cũng chẳng thể trách ông ta được. Tập hồ sơ đó ghi lại những giây phút tồi tệ nhất trong cuộc đời ông ta, những giây phút mà cô biết chắc ông ta sẽ mang theo xuống tận dưới mồ.
“Có vẻ như Buzz Almond đã tiếp tục điều tra vụ việc của con gái ông, điều này không giống với lệ thường ở đồn cảnh sát. Theo lệ thường, ông ấy phải giao hồ sơ cho một điều tra viên. Vì thế, việc ông ấy giữ lại hồ sơ cho thấy có lẽ ông ấy không đồng ý với kết luận do những người khác đưa ra.”
“Ông ta nói sao về việc này?”
“Ông ấy mất rồi. Mất vì bệnh ung thư vài tuần trước. Con gái ông ấy tìm thấy tập hồ sơ trong bàn làm việc ở nhà và đề nghị tôi xem xét. Tôi tới đây để báo cho ông biết, hy vọng sẽ được ông đồng ý.”
Mắt Earl nheo lại, ánh mắt gườm gườm dữ dội tới mức cô cảm thấy chắc chắn đây chính là lúc ông ta đuổi cô ra ngoài. “Tôi đồng ý ư?”
“Vâng, để xem xét cặn kẽ hơn những gì Buzz Almond đã điều tra.”
Earl quay đầu ngắm bức ảnh duy nhất được lồng khung trong căn phòng, bức ảnh Kimi chụp cùng một người phụ nữ mà Tracy đoán là vợ ông ta. Một lúc sau, ông ta quay sang nhìn Tracy và nói: “Hãy nói cho tôi nghe về tập hồ sơ.”
Tracy ngồi lại xuống ghế và giải thích nội dung. Cô nói cô đang nhờ kiểm tra lại báo cáo pháp y ở Seattle và cũng đã gửi vài tấm ảnh tới cho một chuyên gia nghiên cứu. Trong lúc cô nói, Earl Kanasket ngồi bất động, tay đặt trên tập hồ sơ để trên đùi. Những ngón tay xương xẩu của ông ta không nhúc nhích lấy một lần để mở nó ra.
“Ảnh gì?”
Một con đường trong rừng dẫn tới một trảng đất trống.
“Tôi biết chỗ đó.”
“Ông biết ư?”
Earl gật đầu, vẫn chỉ là một cái gật mơ hồ khó nhận biết. “Nó nhốt những linh hồn xấu.”
“Linh hồn xấu ư?”
“Những kẻ chết nhưng không siêu thoát.”
Khi Sarah qua đời và bố cô tự sát, Tracy đã mất hết chút niềm tin còn lại. Cô không bao giờ tin vào những thứ như thiên đường hay cuộc sống sau khi chết. Nhưng cô không tài nào chối bỏ được khoảnh khắc trong hầm mỏ ở Cedar Grove, khi cô cảm nhận sự hiện diện của Sarah mãnh liệt tới mức giống như cô bé đang thực sự có mặt ở đó. Sau việc đó, Tracy không còn bài xích các cuộc trao đổi mang tính tâm linh. “Tại sao lại là nơi đó?” Cô hỏi.
“Cô biết gì về nó?”
“Không gì hết.”
Earl nhắm mắt lại và hít một hơi dài trước khi mở mắt ra. “Nhiều năm trước, người ta đã treo cổ một người đàn ông vô tội ở trảng đất trống ấy. Họ nói anh ta phạm tội sát nhân và đưa anh ta tới một cây sồi già để tất cả mọi người trong thị trấn có thể chứng kiến việc treo cổ. Khi họ cho phép anh ta nói lời trăng trối, anh ta nói anh ta vô tội, và nếu họ treo cổ anh ta thì anh ta sẽ đội mồ sống dậy và thiêu rụi thị trấn thành tro bụi. Một tháng sau buổi treo cổ đó, một vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi phần lớn các tòa nhà ở trung tâm Stoneridge, nhưng người ta không bao giờ tìm được nguyên nhân. Cuối cùng, họ quật mộ của người đàn ông kia lên. Nó trống rỗng. Chẳng bao lâu sau những sự kiện đó, cây sồi chết. Kể từ đó trở đi, không có gì mọc nổi trên trảng đất trống ấy.”
Con chó ngồi dậy và cất tiếng sủa khiến Tracy giật mình. Earl Kanasket không nhúc nhích, ánh mắt như vẫn đóng đinh trên mặt cô. Vài giây sau, cô nghe thấy tiếng giày nặng nế bước lên hiên trước, rồi căn nhà như rung lên khi cánh cửa bị xô bật vào trong.
“Bố? Xe của ai ở…”
Một người đàn ông xách chiếc túi đựng thực phẩm màu nâu bước vào phòng. Ông ta đảo mắt nhìn Tracy rồi lại nhìn Earl Kanasket trước khi ánh mắt dừng hẳn lại ở chỗ Tracy. “Cô là ai?”
Élan có nét hơi giống bố. Tóc ông ta đã ngả xám, dài quá vai. Ông ta cũng có đôi mắt màu thẫm dữ dội, nhưng trong khi mắt Earl gợi mở thì mắt Élan lại toát lên sự thù địch, một ánh mắt dữ dội và thách thức.
Tracy đứng dậy. “Tôi là Tracy Crosswhite, điều tra viên tới từ Seattle.”
“Cô muốn gì? Tại sao lại nói chuyện với bố tôi?”
“Cô ta tới đây về việc của Kimi.” Earl nói.
“Kimi?” Élan cười khẩy. Ông ta đặt túi thực phẩm lên cái bàn nhỏ và bước hẳn vào trong phòng. “Đang bày trò đùa đó hả?”
“Không.” Tracy đáp. “Không phải trò đùa.”
“Cô có gì cần biết về Kimi chứ?”
“Cô ta không tin Kimi tự tử.” Earl đáp.
Élan liếc nhìn cha mình rồi nhìn sang Tracy. Tracy nói: “Cảnh sát trưởng trước đây có lưu hồ sơ về cái chết của em gái ông…”
Cô càng giải thích, Élan lại càng trở nên kích động, giống như có hàng ngàn con bọ đang bò lúc nhúc trên lưng ông ta. Ông ta ngắt lời cô: “Cô nghĩ chuyện này đem lại điều gì hay ho, hả? Cô có khiến Kimi sống lại được không?”
“Không.” Tracy nói. “Nhưng nếu em gái ông không tự tử…”
“Sao? Cô định làm gì? Bắt bớ ai? Hồi trước chúng chẳng bắt ai hết, và không bắt ai suốt bốn mươi năm rồi. Chúng… không thèm… quan tâm. Kimi chỉ là một đứa Da Đỏ nữa chết mà thôi.”
“Hiện giờ chúng tôi có những kỹ thuật mà năm 1976 không có, những kỹ thuật có thể tiết lộ bằng chứng rằng cái chết của em gái ông không phải là tự tử.”
“Có thể?” Élan tiến lại gần hơn, không đủ gần để khiến Tracy cảm thấy bị đe dọa, nhưng ông ta muốn khiến cô hoảng sợ. “Có thể? Cô tới đây để nói với chúng tôi rằng cô có thể tìm ra điều gì đó? Nghĩa là cô còn chưa biết được cái quái gì hết?”
“Tôi tới để xin phép bố ông và để thông báo rằng cảnh sát trưởng đã mở lại hồ sơ.”
“Cô muốn bố tôi đồng ý? Tới tận khi nằm xuống, mẹ tôi vẫn ôm nỗi đau về cái chết của Kimi. Bố tôi đã mất con gái bốn mươi năm rồi. Và cô tới đây nói với chúng tôi rằng cô có thể có… gì nhỉ? Cô có thể có cái gì?
“Báo cáo pháp y. Lời khai nhân chứng. Ảnh.”
“Ảnh gì?”
“Trảng đất trống.” Earl lên tiếng.
Élan lại đảo mắt nhìn bố và Tracy. “Trảng đất trống? Trảng đất trống thì liên quan gì?”
“Viên cảnh sát đã chụp hình trảng đất trống.” Tracy nói. “Tôi đang đưa những bức ảnh đi phân tích.”
“Tại sao? Cô nghĩ Kimi bị ma giết ư?” Élan mỉm cười, nhưng nụ cười thật u ám. “Chắc là Henry Timmerman quay lại để báo thù đấy.”
Tracy chẳng thể trách Élan vì thái độ hoài nghi của ông ta. Mỗi một năm trôi qua mà không làm sáng tỏ được cái chết của Sarah, cô càng trở nên hoài nghi. Sau hai mươi năm, cô đã từ bỏ mọi hy vọng.
“Em gái ông không bao giờ về tới nhà. Ông không muốn biết tại sao ư?”
“Chúng tôi biết tại sao. Nó nhảy xuống sông tự vẫn.”
“Ông có tin điều đó không?”
“Tin hay không thì khác quái gì? Đó là những gì người ta nói với chúng tôi.”
“Nếu họ sai thì sao?”
“Nếu họ không sai thì sao? Cô định gợi lên hy vọng cho bố tôi giống như gã cảnh sát đã hứa sẽ tìm thấy Kimi đấy ư? Gã tìm thấy nó thật. Dưới cái dòng sông khốn nạn đó. Tôi nghĩ cô nên về đi thì hơn.” Élan lùi lại và chỉ ra cửa. “Tôi nghĩ cô nên cút ngay đi!”
“Ngừng lại.” Earl lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và bình tĩnh. Élan hạ tay xuống, nhìn sang chỗ khác, như một đứa bé bị phạt không định đối đầu với bố mình nhưng cũng chẳng định lắng nghe. Élan đẩy xe lăn tới chỗ Tracy. Con chó ì ạch bên cạnh ông. Ông ta vươn tay nắm lấy tay Tracy. Da ông ta lạnh ngắt, tay thì gầy trơ xương. “Hồi ấy, viên cảnh sát đó còn trẻ.” Ông ta nói. “Ông ta mới vào nghề, và ông ta phải lo cho cả một gia đình. Cô thì không phải người mới. Cô cũng không có gia đình.”
“Đúng.” Tracy nói, không rõ ông ta định nói gì. “Tôi không có gia đình.”
Earl buông tay cô ra rồi đưa lại tập hồ sơ. “Hãy kết thúc những gì Buzz Almond đã bắt đầu.”
“Tôi sẽ cố gắng.” Tracy cầm tập hồ sơ, liếc nhìn Élan một cái rồi rời khỏi căn phòng. Élan trừng mắt nhìn cô khi cô bước qua ông ta để mở cửa ra ngoài. Cô không bất ngờ khi ông ta bắt kịp và đi theo cô từ hàng hiên xuống sân. Không định cư xử như chạy trốn, cô quay lại nhìn thẳng vào mặt ông ta.
“Có thể bố tôi tin cô, nhưng tôi thì không.”
“Sao lại thế hả Élan? Tại sao ông không tin tôi?”
“Niềm tin không phải được ban phát. Mà cần được gây dựng.”
“Vậy tại sao không cho tôi một cơ hội để gây dựng niềm tin nơi ông?”
“Bởi vì chúng ta đã tin các người suốt hai trăm năm, và các người chỉ bóc lột chúng ta mà thôi.”
Đó là câu trả lời điển hình mà Tracy thường được nghe với tư cách là sĩ quan cảnh sát khi có ai đó không có câu trả lời cụ thể hay thỏa đáng cho những câu hỏi của cô. Thay vào đó, họ buộc tội cô phân biệt chủng tộc. “Tôi là người lai Na Uy và Thụy Sĩ.” Cô nói. “Và một chút Ireland nữa. Tôi đã bóc lột gì từ ông?”
Élan mỉm cười, nụ cười vẫn không mang chút hài hước nào.
“Sao? Màn diễn trò nho nhỏ của ông bố tôi gây ấn tượng với cô rồi chứ gì – về việc cô không phải người mới vào nghề và không có gia đình ấy? Cô có nghĩ ông ấy là một thầy pháp Da Đỏ không?” Élan liếc nhìn tay cô. “Cô không đeo nhẫn cưới. Và cô cũng chẳng còn trẻ. Nếu tôi là cô thì tôi chẳng thấy gì hay ho ở chuyện đó cả.”
“Ông không trả lời câu hỏi của tôi, Élan. Tại sao ông lại không muốn biết? Nếu ông cảm thấy bất công đến vậy, tại sao ông không muốn giành lại lẽ phải trong vụ này, chính vụ này chứ không phải vụ nào khác?”
“Bởi vì đến cuối cùng cô sẽ chẳng khám phá được gì sất, thậm chí nếu có thì cũng chẳng đem lại điều gì. Lúc nào cũng thế.” Ông ta tiến thêm nửa bước về phía cô. “Chớ quay trở lại nếu không có gì thực tế để cho chúng tôi biết. Đừng vác mặt lại đây với mớ có thể, có lẽ của cô. Đừng hứa nếu không thể giữ lời. Và đừng có khiến một ông già tới tận khi xuống lỗ vẫn còn ôm ấp những tâm nguyện mà cô không sẵn sàng đáp ứng.”
Élan ném cho cô cái nhìn khinh miệt lần cuối rồi quay người bước lên thềm, đi vào trong nhà, đóng sập cửa lại. Tracy nhìn sang bên phải, nơi có ô cửa sổ ốp kính dày nhìn ra đồng cải xoăn. Élan Kanasket đã đẩy xe lăn tới cửa sổ, nhưng lần này ông ta quay mặt ra ngoài, quan sát cô.
Sau khi lái xe tới địa chỉ theo tên của Tommy Moore và không thấy ai ở nhà, nhưng có tên Moore trên hòm thư, Tracy lái xe vào trung tâm Toppenish, tìm một quán ăn kiếm gì bỏ bụng trong lúc đợi tới chiều để quay lại nhà của Moore. Cô gọi một chiếc sandwich thịt gà, hớp một ngụm trà lạnh và nghĩ về Buzz Almond. Ông đã hối hận đến mức nào khi hứa với gia đình Kanasket sẽ tìm thấy Kimi và cô bé sẽ ổn? Những cảnh sát viên trẻ tuổi tâm địa tử tế thường dễ mắc những sai lầm kiểu đó. Bản thân Tracy cũng từng ở trong tình huống bất lực ấy, vừa trong vai trò cảnh sát vừa trong vai trò thân nhân của một tội ác tàn bạo, nhưng cô đã nhanh chóng biết được rằng hai chuyện ấy không giống nhau. Với một sĩ quan cảnh sát, tội ác chỉ là một vụ án trên con đường sự nghiệp. Ta làm nhiệm vụ của mình rồi ta về nhà. Nhưng với gia đình nạn nhân, tội ác đó là một khoảnh khắc thay đổi cả đời người, mãi mãi không thể xóa nhòa. Nếu Buzz Almond không muốn xoa dịu nỗi lo âu của nhà Kanasket thì ông thật chẳng có chút nhân tính nào, nhưng chắc hẳn ông đã cảm thấy vô cùng tội lỗi khi chứng kiến đội tìm kiếm cứu nạn kéo thi thể của Kimi Kanasket lên khỏi dòng nước và nhận ra ông sẽ không tài nào thực hiện được lời hứa của mình. Tracy tự hỏi liệu đó có phải là nguyên nhân khiến Buzz luôn chú tâm đến vụ án này? Cô cũng tự hỏi nếu Buzz cho rằng Kimi Kanasket không tự tử, tại sao ông không theo đuổi vụ án đó nữa?
Earl Kanasket nói khi đó Buzz Almond mới chân ướt chân ráo vào nghề, lại còn phải mang gánh nặng gia đình trên vai. Phải chăng ông ta muốn nói Buzz Almond có lý do để quan tâm tới tình hình gia đình ông ta, hay chỉ đơn thuần đề cập tới những giới hạn của Buzz? Nếu là vế sau thì Earl Kanasket đã đúng khi đánh giá về Tracy. Cô không có những giới hạn như vậy. Nếu là vế đầu, câu nói ấy của Earl rất có thể đang có ý cảnh báo cô.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống