Nhiều sự thất bại trên đời là do người ta không nhận ra người ta đang ở gần thành công đến mức nào khi họ từ bỏ.

Thomas Edison

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
hứ Tư, ngày 10 tháng 11 năm 1976.
Trước cửa ra vào, Buzz Almond ôm hôn Anne – vợ anh. “Yêu em!” Anh nói.
“Yêu anh!” Cô nói.
“Hãy chăm sóc các cô gái của anh nhé!”
“Hãy chăm sóc chàng Buzz của em nhé!”
Đó là nghi thức thường ngày của họ. Buzz biết những câu nói đó sẽ xoa dịu phần nào nỗi âu lo của Anne. Mỗi ngày anh đi làm là một ngày cô lo lắng. Với hai cô bé con ở nhà và một nhóc tì nữa sắp chào đời – có thể là một cậu nhóc mà Buzz vẫn âm thầm mong đợi – Anne có quyền được lo lắng. Bố mẹ cô giàu có, họ sẽ dang tay chăm sóc cô và lũ trẻ nếu Buzz gặp chuyện chẳng lành, nhưng cả hai đều biết tiền không bao giờ thay thế được vị trí của một người chồng, người cha. Anh ghét việc biết được cô đang lo lắng, và anh ghét phải để những người phụ nữ của đời anh ở nhà một mình trong đêm.
Anne vòng tay qua eo anh, ngay trên dải thắt lưng kềnh càng giắt nào súng lục, dùi cui, đèn pin, bộ đàm và còng tay. “Mấy ngày nay anh cứ khác khác thế nào ấy. Có phải vì chuyện cô gái Da Đỏ không?”
“Kimi Kanasket.” Anh nhắc.
“Đúng là bi kịch.” Anne cảm thán. “Điều gì khiến anh phiền lòng vậy?”
“Anh không biết nữa.” Anh đáp, dù anh có biết. “Có lẽ do anh nghĩ ngợi nhiều quá thôi. Một cô gái trẻ trung với tương lai xán lạn trước mắt như thế.”
“Họ đã biết chuyện gì xảy ra chưa?”
“Đang đợi kết luận của pháp y.”
Anne ra sức rúc sát vào người Buzz mặc cho cái thắt lưng chắn ngang giữa họ. Tóc cô thoảng mùi dừa – cô dùng dầu gội mới – và khi ghé mũi hít hà cổ cô, Buzz ngửi thấy mùi hương caramel quen thuộc. Cả hai đều không biết tại sao. Họ đã thử kiểm tra các loại kem và nước hoa của Anne, chẳng loại nào có mùi hương đó. Đó là mùi hương tự nhiên của cô, họ nghĩ vậy, và đó là một cách cực kỳ hữu hiệu để khiến huyết quản Buzz sôi lên sùng sục. “Em ngọt như kẹo ấy.” Anh bảo cô.
“Có lẽ chiều nay, khi em về nhà và anh hết ca trực, chúng ta có thể tìm ra cách khiến anh khỏi bận tâm về chuyện đó và tập trung vào chuyện hay ho hơn.”
Anh mỉm cười. “Anh thích thế. Em có bùa chú để khiến Sophia và Marie ngồi yên một chỗ suốt nửa tiếng đúng không?”
“Không được nửa tiếng, nhưng em có một, hai bùa chú gì đó kéo dài được mười lăm phút.”
Anh lùi lại, giả vờ phẫn nộ. “Đã tới mức đó rồi sao? Một phần tư tiếng ư?”
“Vấn đề không phải là bao nhiêu phút, mà là chất lượng. Và anh, Buzz Almond, khiến cho mỗi phút giây đều trở nên đặc biệt.”
“Thử giải thích điều đó cho mấy gã ở đồn xem.”
“Đừng nhé!” Cô nói. “Em sẽ xấu hổ không dám nhìn mặt họ mất.”
“Em ư? Anh mới là người bị bọn họ trêu là chưa đi đến chợ đã rơi hết tiền đây này.”
Cô bật cười và vỗ đen đét vào ngực anh. “Anh cứ về nhà với em là được rồi, Buzz.”
“Làm sao anh có thể không về khi ý nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu anh chứ?” Anh hôn cô thêm một lần nữa và để cô ở lại bên khung cửa, trông còn rạng ngời hơn ngày anh cưới cô làm vợ.
Sau đó, trên xe tuần tra, đầu óc anh cứ chập chờn giữa hai hình ảnh, một bên là cuộc hẹn đầy mong đợi với Anne, và một bên là Earl Kanasket. Anh không thể hình dung ra nỗi đau của người đàn ông ấy; không thể tưởng tượng nổi mình sẽ thế nào nếu mất đi một trong hai cô con gái. Anh từng nghe người ta nói bố mẹ sẽ không bao giờ vượt qua được nỗi đau mất con, nhưng đó là một trong những câu nói mà nếu không thực sự trải qua thì chẳng thế nào hiểu hết được. Trong hai lần tới Việt Nam, Buzz đã chứng kiến quá nhiều người trẻ tuổi mất mạng; đó là điều anh không bao giờ quen được và cũng hy vọng sẽ không bao giờ quen được. Nhưng khi đó anh chưa có con. Anh chưa biết cảm giác yêu thương một đứa con do mình rứt ruột đẻ ra là như thế nào. Anh chưa từng chứng kiến nỗi thống khổ của người làm cha mẹ cho tới cái giây phút kinh hoàng khi anh lái xe tới nhà của Earl và Nettie Kanasket để đưa tin về cái chết của con gái họ. Earl nuốt hết nỗi đau vào trong. Tuy nhiên, giống như một võ sĩ quyền anh hứng trọn một cú đấm trực diện bằng tay phải vào giữa đầu, ông ta vẫn đứng vững trên hai chân nhưng không hề hay biết gì về những thứ xung quanh. Còn Nettie thì hoàn toàn suy sụp, chân bà nhũn ra và ngã quỵ xuống sàn.
Buzz ước gì mình chưa từng hứa sẽ tìm thấy Kimi và đưa cô bé về nhà. Điều đó ám ảnh anh.
Viên trung sĩ quản lý bảo Buzz nộp báo cáo cho điều tra viên phụ trách vụ án này rồi quên nó đi; nhiệm vụ của anh đã hoàn thành. Buzz còn có những nhiệm vụ phía trước. Nhưng càng tự nhủ rằng mình sẽ làm thế, anh càng cảm thấy không yên lòng. Anh không thể lý giải tại sao, nhưng có điều gì đó không đúng. Vào buổi tối, khi anh tới nhà Kanasket, Nettie đã nói Kimi không bao giờ gây rắc rối cho họ, và tất cả mọi thứ đều chứng minh điều đó. Chưa kể chính Élan mới là người gây rắc rối, như việc mai mối cô em gái với một kẻ như Tommy Moore.
Kimi là một học sinh giỏi, một người con đầy trách nhiệm. Theo bài báo trong tờ Lính canh, cô đã giành được học bổng một phần vào đại học, nơi cô sẽ tham gia đội điền kinh. Một cô bé khỏe khoắn, thông minh, xinh đẹp và ai cũng công nhận là hòa đồng. Liệu cô ấy có thật sự buông mình xuống sông chỉ vì một thằng con trai? Vì Tommy Moore? Buzz cho rằng có khả năng đó, nhưng anh không nghĩ thế. Vì anh không tin việc chia tay là từ cả hai phía như Moore khẳng định. Người ta thường nói những điều như vậy để bảo vệ cái tôi của họ. Anh nghĩ nhiều khả năng Moore là người bị đá hơn là người chủ động bỏ rơi Kimi.
Và anh cũng không thể bỏ qua những hư hại trên chiếc xe tải của Moore.
Buzz thoát khỏi luồng suy nghĩ vẩn vơ khi xe anh chạy qua tiệm Columbia. Nhìn gương chiếu hậu, anh quyết định đã đủ an toàn để quay đầu lại, rồi lái xe vào bãi đậu nền đất. Anh ngồi suốt một phút, tự đấu tranh với chính bản thân mình rồi tắt máy và bước ra khỏi xe. Trời đã ấm lên vài độ nhưng vẫn đủ lạnh để thấy được hơi thở của chính mình.
Leo lên những bậc cầu thang gỗ, Buzz bước vào một không gian nồng nặc mùi xào nấu. Nơi này cùng lắm chỉ rộng khoảng 250 mét vuông, có nhõn năm bộ bàn ghế và sáu cái ghế cao ở quầy bar ốp formica, nơi một người đàn ông lẻ loi đang ngồi xọc dao dĩa vào một miếng gà rán và mân mê một cốc cà phê.
Một người phục vụ chào Buzz từ sau mặt quầy. “Anh tự chọn chỗ nhé!” Bà nói, dù tấm biển gỗ ghi rõ khách hàng vui lòng đợi để được xếp chỗ. “Tôi sẽ tới chỗ anh ngay.”
Buzz chọn một chiếc bàn gần khung cửa sổ to nhìn ra bãi đậu xe và mặt đường.
Người phục vụ cầm bình cà phê đi tới, quay cốc của anh lại và rót đầy cà phê vào đó. “Tôi lấy thực đơn cho anh nhé?”
“Một tách cà phê là đủ rồi.” Anh nói.
“Anh là người mới.” Nhìn bộ đồng phục của anh, bà phán.
“Vâng. Mới được vài tháng.”
“Hoan nghênh anh!” Đó là một phụ nữ trung niên quyến rũ, cao ráo, mảnh mai, mái tóc ánh bạc cắt ngắn như đàn ông, để lộ đôi khuyên tai to tròn. Bóng mắt màu xanh càng tôn thêm màu mắt của bà. “Anh từ đâu tới?”
“Gần đây nhất ư? Việt Nam.”
“Rất tiếc khi biết điều này. Quân đội ư?”
“Lính thủy đánh bộ, à mà tôi tới từ quận Cam, Nam California.”
“Quận Cam? Ở đó có Disneyland phải không nhỉ?”
“Không xa. Anaheim.”
“Tôi từng đưa bọn trẻ tới đó vào mùa hè. Nóng như lửa đốt. Và khói nữa chứ! Không hiểu sao người ta thở được cả ngày ở đó, đặc biệt là lũ trẻ.”
“Đó là hai trong số những lý do chúng tôi không quay lại đó.”
“Anh được mấy đứa con rồi?”
“Hai gái. Một đứa nữa đang trong bụng mẹ.”
“Mừng cho anh. Chúng tôi có bánh táo ăn kèm với loại cà phê này đây.”
“Nhà làm ư?”
“Đừng xúc phạm tôi! Tôi không phục vụ bánh không do chính tay tôi làm đâu.” Bà chìa một tay ra. “Tôi là Lorraine.” Tên bà cũng in trên bảng tên bằng đồng cài trên bộ đồng phục.
Buzz đưa mắt nhìn bốn miếng bánh trong tủ kính đặt gần quầy thu ngân. “Lorraine, vui lòng cho tôi một miếng.”
Lorraine quay đi và trở lại với một miếng bánh dày và một cái dĩa. Bà đứng đợi Buzz ăn thử một miếng. Gai vị giác trong miệng anh bùng nổ khi táo và quế chạm vào đầu lưỡi.
“Oa…” Anh thốt lên. “Tôi sẽ chối là đã từng nói điều này, nhưng quả thật còn ngon hơn cả bánh mẹ tôi làm.”
Lorraine mỉm cười, nhưng nụ cười của bà sao mà héo hon. Cả tiệm ăn gần như vắng tanh cũng héo hon. Buzz thấy không có lý do gì để che giấu ý định của mình. “Tôi là cảnh sát trực khi Kimi Kanasket mất tích.”
Lorraine nhăn mặt như thể bị đâm vào giữa ngực nhưng những gì bà nói khiến Buzz ngỡ ngàng. “Vậy thì anh biết là chuyện đó không có lý gì hết.”
“Chuyện gì không có lý cơ?”
“Chuyện Kimi sẽ làm một việc như thế.”
“Tối hôm đó, bà thấy cô ấy thế nào?”
Lorraine ngồi đối diện anh, chân bắt chéo hướng ra ngoài lối đi. “Con bé có vẻ ổn. Hoàn toàn ổn.”
“Nghe nói bạn trai cô ấy đã tới đây.”
“Tommy Moore.” Lorraine đáp, như muốn nhổ cái tên ấy ra khỏi miệng. “Thằng ấy đưa một đứa con gái tới cùng.”
“Kimi phản ứng thế nào?”
“Thật lòng hả? Con bé có vẻ chẳng thấy sao hết. Tôi hỏi nó có sao không, và con bé nói ổn. Con bé nói đã chấm dứt xong xuôi. Đằng nào sang năm nó cũng vào đại học. Hơn nữa, bố mẹ nó chẳng ưa gì Tommy.” Điều đó xác nhận nghi ngờ của Buzz rằng Kimi chủ động chia tay với Moore.
“Cô ấy có bao giờ nói lý do bố mẹ không ưa Moore không?”
“Lũ vứt đi thì làm gì có tương lai, họ mong Kimi có được điều tốt đẹp hơn.”
“Nghe nói anh trai cô bé đã giới thiệu hai người cho nhau.”
“Élan ư? Tôi không biết chuyện đó.”
“Cậu ta là người thế nào?”
Lorraine đảo mắt. “Một thằng vứt đi khác. Bỏ học nửa chừng. Ru rú ở nhà. Chẳng biết nó có làm được trò trống gì ngoài việc khiến bố mẹ đau khổ không.”
“Kimi có bao giờ tâm sự chuyện tình cảm với anh trai không?”
“Không hẳn, nhưng tôi không nghĩ hai đứa nó thân thiết với nhau.”
“Vậy là Kimi không tỏ ra buồn bã hay tức giận khi Tommy đến đây cùng một cô gái khác sao?”
“Không. Con bé tới phục vụ ở bàn hai đứa kia, vẫn vui vẻ như thường. Có lẽ còn vui vẻ hơn ấy chứ. Con bé có phải đứa ngốc đâu. Nó biết Tommy đang âm mưu gì, và điều đó khiến thằng kia điên tiết. Thằng đó đứng dậy và bỏ đi một mạch, không thèm gọi đồ.”
“Cậu ta có nói gì không?”
“Không, nó chỉ túm lấy tay con bé đi cùng rồi chạy mất. Đùng đùng lái xe về. Bánh sau còn làm tung tóe sỏi đất lên.”
“Kimi làm hết ca chứ?”
“Vâng.” Lorraine chỉ cái điện thoại treo trên bức tường cạnh quầy thu ngân. “Con bé dùng cái điện thoại đó để gọi báo cho bố mẹ biết nó đang trên đường về nhà. Tối nào trước khi đi làm về nó cũng làm thế.” Lorraine nhấc chiếc khăn lót dưới đám dao dĩa bày trên bàn lên để thấm những giọt nước mắt đang chực trào ra.
“Vậy là không có dấu hiệu gì cho thấy cô ấy buồn bã hay chán chường ư?”
“Con bé ôm tôi và hẹn gặp lại tôi vào tối thứ Bảy.” Bà ngừng một lúc để lấy lại bình tĩnh trước khi nói tiếp. “Tôi bảo con bé khỏi cần phải lo, nhất là khi trận bóng sẽ diễn ra vào tối hôm đó, cả thị trấn sẽ đi sạch. Đằng nào chỗ này cũng sẽ vắng tanh vắng ngắt thôi.”
“Cô ấy không đi xem trận bóng sao?”
Bà Lorraine lắc đầu. “Không. Một số người Da Đỏ dự định sẽ tổ chức biểu tình phản đối cái tên Xung Kích Đỏ.”
“Tôi có nghe nói.”
“Cha của Kimi là một trong những người lão làng trong tộc. Ông ấy không muốn Kimi liên quan đến chuyện này vì con bé cũng đi học ở đó. Nội chuyện đó thôi đã đủ khó khăn rồi.”
“Kimi có bao giờ chia sẻ là cô ấy bị đe dọa hay quấy rối vì vụ biểu tình không?”
“Không có gì nghiêm trọng. Con bé nói đôi lúc cũng có những học sinh buông lời xúc phạm, nhưng nó lờ đi. Nó chững chạc hơn phần lớn những đứa cùng trang lứa. Kimi có cách biểu tình của riêng nó. Khi chạy việt dã hay điền kinh, nó sẽ che chữ Đỏ trên áo đi.”
“Xin phép cho tôi được hỏi thẳng, Lorraine…”
“Tôi có tin Kimi nhảy xuống sông vì Tommy Moore không chứ gì?” Bà Lorraine lắc đầu và lại đưa tay chấm nước mắt. “Tôi biết đó là những gì người ta nói, nhưng tôi khó mà tin được điều đó. Con bé lúc nào cũng trầm tĩnh, và như tôi đã nói, việc Tommy đến đây chẳng ảnh hưởng gì đến nó hết. Cũng có thể là có. Có thể con bé giấu kín đến nỗi tôi không phát hiện ra.”
“Tommy có bao giờ đón cô ấy sau ca làm và đưa cô ấy về nhà không?”
“Thỉnh thoảng thì có.”
Buzz nhìn đồng hồ. “Cảm ơn bà Lorraine. Tôi rất cảm kích về cuộc nói chuyện và cái bánh. Tôi phải đi rồi. Tôi có thể gói phần bánh còn lại để ăn sau không?”
“Nếu anh không đề nghị như vậy thì tôi sẽ đau lòng lắm đấy.” Bà đứng dậy và bước về phía quầy, rồi lại quay lại. “Anh không nghĩ Kimi làm vậy đúng không? Anh không nghĩ con bé đã nhảy xuống sông chứ?”
“Tôi không biết.” Buzz nói. Anh không muốn người ta xì xào đến tai Jerry Ostertag, điều tra viên thụ lý vụ án này, rằng anh đang tiến hành một cuộc điều tra. “Tôi chỉ làm báo cáo thôi.”
“Vậy có ai định theo đuổi vụ này không?”
“Tôi sẽ báo lại cho điều tra viên.” Anh nói. “Có lẽ có người nên làm thế.”
Buzz Almond đặt hộp xốp đựng bánh táo lên ghế cạnh ghế lái. Lorraine đã cho thêm một miếng bánh mới bên cạnh miếng anh đang ăn dở. “Cho vợ và con gái anh cùng ăn.” Bà dặn.
Từ bãi đậu xe, Buzz quay lại đường 141. Anh vòng qua một khúc cua rồi giảm dần tốc độ khi thấy một nhánh rẽ đã bị anh bỏ qua vào cái đêm anh và Earl Kanasket đi bộ dọc con đường. Anh tấp vào, xuống xe, đi men theo làn dừng khẩn cấp. Đi được vài bước, anh phát hiện có một con đường đất bị bao phủ một phần bởi lá cây, dương xỉ, những bụi mâm xôi và phúc bồn tử. Gạt đám cây sang một bên, anh thấy những vệt bánh xe. Có những chỗ lá cây trông như mới bị giập, cuống vẫn còn xanh nguyên. Buzz tiếp tục lần theo vết bánh xe, mặt đất đóng băng lạo xạo dưới gót giày anh. Đi thêm được vài mét, anh dừng lại và cúi xuống nhìn cho rõ. Nhìn rãnh lốp, có thể thấy đây là bánh xe tải ngoại cỡ, loại thường thấy ở những xe chạy địa hình, giống như anh đã thấy trên xe tải của Tommy Moore. Anh cũng để ý thấy một thứ khác, trông như vết gót giày giẫm trên mặt đất.
Anh đứng dậy và tiếp tục đi men theo vết bánh xe để khỏi giẫm lên chúng hay các vết giày. Cành lá, cây cối cào xước người anh, chọc thủng cả lớp vải đồng phục khi con đường hẹp dần lại và lượn sang phía đông vài trăm mét trước khi lại mở rộng ra và dốc lên phía trên. Buzz trèo lên đồi, bắp chân và đùi mỏi nhừ. Anh nghe thấy tiếng mình thở dốc trong lồng ngực. Anh tiếp tục nhìn thấy những cành cây gãy nằm ngổn ngang trên mặt đất, những bụi cây trông như bị giày xéo, giẫm đạp. Lên được tới đỉnh đồi, hơi thở của anh phả ra trắng xóa, và anh cần nghỉ một lúc cho lại sức. Hồi còn phục vụ trong quân đội, anh đã chạy lên chạy xuống những ngọn đồi giống thế này cả trăm lần mà không đổ một giọt mồ hôi. Giờ thì anh đang thở không ra hơi… và chỉ được mười lăm phút trong phòng ngủ.
Từ trên đồi nhìn xuống, anh thấy một trảng đất trống hình bầu dục, một cánh đồng màu xanh và nâu xen kẽ. Trông giống thứ gì đó do con người tạo ra, một khán đài hình vòng cung, nhưng anh biết chắc nó hoàn toàn tự nhiên.
Một là vì không nhìn thấy gốc cây nào bị chặt. Hai là, ai làm chuyện đó để làm gì chứ?
Vết bánh xe dừng lại ở đỉnh đồi. Vạt đồi phía bên kia không có dấu vết gì cho tới tận dưới cùng, nơi chân đồi trải ra thành một vùng bằng phẳng. Đất cát nơi đó trông như bị xới tung. Tim Buzz đập thình thịch dưới tác dụng của adrenaline dâng cao chứ không liên quan gì đến việc anh vừa phải dốc sức leo lên đồi. Anh quay người chạy ngược lại con dốc mình vừa trèo lên, đưa tay gạt hết đám lá cây ở khúc đường thắt hẹp sang một bên.
Tới chỗ chiếc xe tuần tra đang đậu, anh mở cửa bên ghế cạnh ghế lái và ấn nút mở hộp đựng đồ. Nắp hộp bật ra, khiến chiếc máy ảnh và mấy cuộn phim rơi ra ngoài.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống