We have to walk in a way that we only print peace and serenity on the Earth. Walk as if you are kissing the Earth with your feet.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
rên đường về nhà, khi đi ngang Kelso, Dan với tay tắt chiếc radio đang tường thuật trận bóng bầu dục của đội Seahawk khiến Tracy giật mình chú ý. Nãy giờ cô cứ đưa mắt ra ngoài cửa sổ ngắm những cánh đồng mênh mông chạy dọc quốc lộ 1-5, ánh sáng ban ngày đang vội vã nhạt dần, một cảnh tượng thường thấy trong mùa thu đông.
“Em tưởng anh đang nghe tường thuật trận đấu?” Tracy hỏi.
Dan đặt tay trái lên vô lăng, khuỷu tay chĩa về phía cô. “Thích ư? Đội Bốn Chín đang đè bẹp họ. Anh không thích.”
“Ồ…” Tracy nói.
“Em im lặng một cách kỳ lạ. Suốt nửa tiếng vừa rồi em chẳng nói nổi đến hai câu, và rõ ràng em chẳng thèm để tâm đến hiệp ba, nếu không em đã biết chúng ta đang bị dẫn trước ba quả touchdown.”
Cô mỉm cười. “Thôi được. Em sai.”
“Có liên quan gì đên tập hồ sơ phía sau kia không?” Dan khẽ hất đầu về băng ghế sau.
“Anh để ý thấy rồi sao?”
“Không phải chỉ mình em mới có kỹ năng điều tra đâu nhé! Chuyện gì vậy?”
“Một vụ án cũ Jenni tìm thấy trong ngăn bàn làm việc cua bố cô ấy.
Dan sục tay vào túi hạnh nhân vị wasabi. Anh đang cố gắng giảm từ hai tới năm cân và nhất định không chịu đi đâu nếu không mang theo loại hạt gì đó để ăn tạm.
“Một vụ án bỏ ngỏ chưa có hồi kết ư?”
“Không hẳn thế. Năm 1976, một cô gái gốc Da Đỏ mười bảy tuổi đã mất tích trên đường từ nơi làm việc trở về nhà. Chiều hôm sau, hai người đi câu phát hiện xác cô ấy mắc vào cành của một cái cây chìm dưới dòng sông Cá Hồi Trắng. Pháp y và công tố viên quận kết luận cô gái đã nhảy xuống sông và chết đuối.”
Dan thảy hạt hạnh nhân vào miệng. “Nhảy xuống? Cố tình á?”
“Kết luận chính thức được đưa ra là cô ấy chán đời vì mới chia tay với bạn trai. Không may là ở trường trung học, đó là chuyện thường ngày ở huyện, vừa yêu nhau đấy lại ghét nhau ngay được. Jenni nghĩ bố cô ấy tin rằng chuyện không chỉ đơn giản như thế. Cô ấy đề nghị em xem xét.”
“Em có thể làm thế không? Đây là quận khác mà?”
“Có thể. Chuyện này thường xảy ra khi một cái xác được phát hiện ở một quận nhưng việc giết người được nghi ngờ diễn ra ở một nơi khác, đại khái thế. Cảnh sát trưởng của một quận luôn có quyền yêu cầu hỗ trợ. Jenni muốn xem xét lại từ đầu phòng khi phải tái điều tra.”
“Em nghĩ Nolasco sẽ phản ứng thế nào?” Dan hỏi. Nolasco là đại úy và cũng là địch thủ truyền kiếp của Tracy.
“Johnny-Boy đã ngoan như cún từ sau khi bị OPA sờ gáy.” Cô nói. OPA – Phòng Phụ trách Sai phạm Chuyên môn đang xem xét lại một vụ án mạng cách đây mười năm do Nolasco và cộng sự của ông ta khi đó là Floyd Hattie phụ trách điều tra. Tracy phát hiện ra hồ sơ đó khi đang truy lùng Cao Bồi. Cô đã xem xét và tìm ra những sai sót nhất định làm dấy lên nghi ngờ về việc điều tra của Nolasco. OPA đã mở rộng điều tra các vụ án khác do Nolasco phụ trách, và nghe nói thêm nhiều sai phạm đã được phát hiện. May nhờ có sự ủng hộ từ công đoàn mà Nolasco vẫn còn giữ được ghế.
“Em có nghĩ rằng chuyện này hơi nhạy cảm không?” Dan hỏi, giọng anh đầy vẻ quan tâm.
“Vụ nào cũng sẽ nhạy cảm hết.” Cô nói. “Các cô gái trẻ chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các nạn nhân bị bắt cóc, lạm dụng và giết hại. Em không thể thay đổi điều đó.”
“Nhưng em cũng không cần phải tình nguyện đâm đầu vào.”
“Em biết. Khi Jenni trao đổi với em về vụ này, em đã nghĩ phản ứng đầu tiên của em sẽ là không. Nhưng giữa Kimi và Sarah có nhiều điểm tương đồng khiến em muốn xem xét vụ án này. Có lẽ bởi vì em thấu hiểu một gia đình phải chịu đựng những gì qua những chuyện này.”
“Bốn mươi năm là một quãng thời gian dài.” Dan nói. “Có ai trong gia đình đó còn sống không?”
“Bà mẹ đã qua đời. Ông bố giờ chắc đã ngoài tám mươi. Jenni nghĩ ông ta sống ở Khu bảo tồn Yakama. Cô gái đó còn có một người anh.”
“Nếu họ không muốn nhắc tới chuyện đó thì sao?” Dan hỏi.
Tracy chưa nghĩ tới chuyện này. “Em không biết nữa.” Cô nói. “Tới đâu hay đến đó thôi. Cũng có thể em sẽ chẳng tìm được gì để đảm bảo cho việc mở lại cuộc điều tra.”
Dan phải bắt chuyến bay sớm tới Los Angeles để chuẩn bị lấy lời khai trong vòng một tuần, Tracy tạm biệt anh rồi đóng cửa căn nhà ở Tây Seattle và quay sang chăm bẵm Roger, chú mèo khoang cô nuôi. Roger ngoác mồm kêu gào tỏ ý ta đây chẳng vui vẻ gì với chuyện bị bỏ rơi suốt hai ngày đâu đấy, không thèm biết đến việc chú đã có một cái máy cấp thức ăn tự động, nước nôi đầy đủ, được tự do chạy nhảy khắp nhà và ngày nào cô cũng nhờ một nhóc hàng xóm chạy sang kiểm tra chú. Nhân lúc Roger vục mặt ngấu nghiến mớ đồ hộp, Tracy tự rót cho mình một ly rượu rồi mang vào phòng ăn, háo hức xem hồ sơ của Buzz Almond. Cô bật iPad lên, chọn một kênh nhạc đồng quê, giọng ca Keith Urban vang lên lấp đầy không gian im ắng. Ấn tượng đầu tiên của cô về tập hồ sơ là độ dày của nó – quá nặng nề so với một vụ điều tra được kết luận chóng vánh rằng nạn nhân tự tử. Độ dày của tập hồ sơ chủ yếu đến từ bốn túi ảnh Kodak màu vàng và trắng, loại cô thường mua ở quầy hàng Kodak tại cửa hàng tạp hóa Kaufman ở Cedar Grove. Cô mở túi đầu tiên, xem qua các bức ảnh, nhưng lại nhanh chóng gạt chúng sang một bên. Cô không bao giờ bắt đầu bằng việc xem xét các bức ảnh, vì cô không biết chúng mô tả những gì. Cô tháo hai cái khuy đồng giúp giữ mọi thứ gọn gàng rồi thận trọng gỡ phần giấy tờ bên trong ra.
Cô thích bắt đầu từ đầu, và ngạc nhiên khi thấy mục đầu tiên là một bài báo ố vàng được gập đôi cho vừa với chiều dài của tập hồ sơ. Bài báo được cắt ra từ tờ Lính canh Stoneridge, ngày tháng được viết tay phía trên tiêu đề: Chủ Nhật, ngày 7 tháng 11 năm 1976.
Những Xung Kích Đỏ Stoneridge
Đạt Đỉnh Cao Phong Độ, Giành Chức Vô Địch Bang
Tracy lướt nhanh nội dung bài báo. Đội Xung Kích Đỏ đã đánh bại đội Archbishop Murphy với tỷ số 28–24, đánh dấu một mùa giải bất bại của huấn luyện viên Ross Reynolds và mang về chức vô địch bang về thể thao lần đầu tiên cho trường. Một cuộc diễu hành ăn mừng chiến thắng sẽ được tổ chức tại Stoneridge vào chiều thứ Hai.
Đi kèm với bài báo là loạt ảnh mang tính biểu tượng vẫn thường lồng khung và trưng bày nhan nhản trong tủ kính của bất kỳ trường trung học nào. Những cậu trai trẻ mệt lử nhưng rạng ngời, cười toét miệng, nhìn thẳng vào ống kính, đồng phục lấm lem cỏ đất, đầu tóc bết mồ hôi, vết sơn đen lấm lem dưới mắt và bụi bặm lem nhem trên mặt. Họ đang giơ cao một quả bóng bầu dục màu vàng lấp lánh đặt trên một cái bệ gỗ.
Tracy chuyển sang bài báo thứ hai với dòng chữ viết tay đề ngày thứ Hai, mùng 8 tháng 11 năm 1976. Bài này tường thuật lại lễ diễu hành vinh danh đội bóng. Bức ảnh đính kèm chụp ba chàng trai mặc áo khoác thể thao ngồi trên băng ghế sau một chiếc xe mui trần, ngón tay giơ cao trong niềm hân hoan của đám đông cổ động viên cuồng nhiệt đang hồ hởi vẫy tay dọc vỉa hè, cờ phướn, hoa giấy và cờ hiệu của trường Trung học Stoneridge phấp phới xung quanh. Giống như bức ảnh trước, khoảnh khắc này sẽ mãi mãi đi vào lịch sử của thị trấn nhỏ bé này, có lẽ đó là lý do khiến Buzz Almond lưu những bài báo này trong hồ sơ. Làm sao cho nhân chứng nhớ lại một sự kiện xảy ra hàng tháng, hay thậm chí chỉ vài tuần trước đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, nhưng việc Kimi Kanasket mất tích vào cuối tuần diễn ra sự kiện thể thao rõ ràng là trọng đại nhất trong lịch sử Stoneridge đã tạo nên một cột mốc để Buzz Almond, và giờ đến lượt Tracy, bám vào để khơi gợi cho nhân chứng nhớ lại những gì diễn ra vào thời điểm đó. Nó cũng giống với việc hỏi những người sống vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước rằng: ‘Anh đã ở đâu khi Kennedy bị ám sát?’ Đó cũng là dấu hiệu cho thấy Buzz Almond đã lường trước việc điều tra của ông có thể sẽ kéo dài hàng năm.
Tracy đặt bài báo thứ hai sang một bên rồi xem xét một bài báo về cái chết của Kimi Kanasket. Bài này ngắn hơn rất nhiều, chỉ có một cột báo với bức ảnh tốt nghiệp trung học của Kimi chèn vào giữa bài.
‘Xác một học sinh trung học được kéo lên từ dưới lòng sông
Kimi học trường Trung học Stoneridge và năm trước, khi còn là học sinh lớp Mười một, cô đã tham dự cuộc thi điền kinh toàn bang ở hạng mục chạy một trăm mét và chạy vượt rào, lần lượt giành vị trí thứ nhì và ba. Cô mất đi, để lại bố mẹ, ông Earl và bà Nettie Kanasket, và một người anh trai, Élan.’
Bài báo không đề cập đến việc tự tử. Không nhắc tới vụ điều tra nào.
Không có bài báo nào tiếp theo.
Từng lớn lên ở một thị trấn nhỏ giữa những năm 1970, Tracy hiểu mọi người không vạch áo mình, hay áo người khác, cho thiên hạ xem lưng. Nếu Kimi Kanasket tự tử, Tracy ngờ rằng sẽ chẳng ai vui vẻ gì mà công khai hay muốn đọc về chuyện đó. Hành động ấy chắc chắn sẽ bị coi là một vết nhơ, và bất công thay, nó phủ bóng đen lên cả gia đình người đã khuất. Khi bố của Tracy dùng súng tự tử sau cái chết của Sarah hai năm, ông đã hủy hoại không chỉ những gì còn lại của chính bản thân ông mà còn của cả gia đình cô. Mọi người xì xào – trước mặt mẹ con cô thì không bao giờ – nhưng họ vẫn xì xào. Đó là một trong những lý do Tracy muốn mẹ dọn đến sống cùng cô ở Seattle, nhưng mẹ cô quyết không rời Cedar Grove nửa bước.
Tracy đặt bài báo sang một bên và tìm thấy một bức ảnh tốt nghiệp cỡ 4x6 của cô gái trẻ đính vào một bản báo cáo về người mất tích. Kimi có mái tóc đen buông xõa xuống vai, và dù chỉ là ảnh đen trắng nhưng mái tóc của cô gái như sáng bóng lên. Tai phải cô đeo chiếc khuyên tai hình lưới bắt giấc mơ đính lông vũ. Khuôn mặt cô có những đường nét trẻ trung mà Tracy nghĩ sẽ trở nên góc cạnh theo năm tháng, điều đó sẽ khiến cô trở nên quyến rũ chết người. Nhưng giống như Sarah, Kimi Kanasket không có được cơ hội đó. Họ đã nằm lại mãi mãi với tuổi thanh xuân.
Tiếp đến là bản tường trình từ cảnh sát trực là Buzz Almond. Tờ giấy pơ luya và những dòng chữ đánh máy không đều nhau cho thấy đây là bản báo cáo gốc chứ không phải bản sao. Nó có vẻ rất chi tiết – dài gần bảy trang – ghi lại cẩn thận việc Buzz nhận được điện thoại từ tổng đài và tới ngay nhà Kanasket. Cuộc trò chuyện với gia đình nạn nhân được ghi chép chi tiết. Tracy đặt tập báo cáo sang một bên và cầm một tờ biên bản rời – biên bản về cuộc trao đổi giữa Buzz Almond và Tommy Moore vào ngày thứ Hai sau đó, ngày diễn ra cuộc diễu hành.
o0o
Thứ Hai, mùng 8 tháng 11 năm 1976
Quận Klickitat, Washington.
Buzz Almond rời nhà khi mặt trời còn chưa ló dạng, dù hôm ngay là ngày nghỉ chính thức của anh.
Anh tránh khu trung tâm Stoneridge. Công cuộc chuẩn bị cho cuộc diễu hành đang diễn ra, phần lớn các con phố đã được dọn sạch tuyết nhưng nhiều đoạn bị chắn bởi cọc tiêu và chắn gỗ. Bất chấp thời tiết lạnh giá, ai nấy đều dậy rõ sớm để dựng ghế xếp ở những vị trí đắc địa nhất dọc theo lộ trình của cuộc diễu hành. Thị trưởng cho nghỉ học và gọi ngày hôm nay là ngày Xung Kích Đỏ. Nhiều doanh nghiệp địa phương đóng cửa từ mười một giờ sáng tới một giờ chiều để mọi người có thể tham dự lễ ăn mừng sẽ diễn ra quanh khu trung tâm, kết thúc bằng diễn văn và một bữa tiệc mọi-người-cùng-góp-món ở nhà thi đấu của trường.
Buzz không phải người Stoneridge nên anh nghĩ vụ hội hè này có hơi quá đà, nhưng anh đã từng đọc những chuyện tương tự – những trận bóng bầu dục cấp trung học ở những thị trấn nhỏ tại Texas thu hút tới tám vạn khán giả, và những đám đông sẵn sàng đứng từ đầu đến cuối để xem trận bóng rổ ở Indiana. Anh có cảm giác đó không chỉ là chiến thắng ở môn bóng bầu dục hay bóng rổ mà còn là giấy chứng nhận cho một lối sống, chứng minh rằng trẻ con ở một thị trấn nhỏ cũng có thể cạnh tranh với lũ trẻ nơi đô thị lớn, và theo một cách nào đó, cho thấy cuộc sống ở thị trấn nhỏ nếu không tốt hơn thì chí ít cũng ngang ngửa với cuộc sống thị thành.
Việc xác một cô gái trẻ được kéo lên từ dưới lòng sông chẳng ăn nhập gì với chốn hội hè. Buzz bắt đầu cảm thấy có lẽ thị trấn không thừa nhận Kimi là người của họ. Anh tự hỏi phải chăng đó là do căng thẳng đang leo thang bởi những cuộc biểu tình bên ngoài trận đấu? Với những cư dân da trắng, cái tên Xung Kích Đỏ đồng nghĩa với bóng bầu dục cấp trung học, cả hai đều bất khả xâm phạm. Ý kiến cho rằng cái tên đó mang hàm ý xúc phạm không được đồng tình. Dân địa phương phản bác rằng nếu có ý gì thì cái tên ấy và linh vật ấy chỉ càng tôn vinh người dân Da Đỏ; các chàng trai chơi bóng bầu dục của họ chính là những chiến binh dũng mãnh sẵn sàng xung trận.
Buzz cũng dậy sớm để chọn chỗ ngồi cho mình, nhưng không phải theo lộ trình cuộc diễu hành. Anh định đợi bên ngoài căn hộ của Tommy Moore. Cuối tuần vừa rồi, Moore không về nhà. Buzz thỉnh thoảng vẫn đảo xe tuần tra qua kiểm tra, anh cũng nhờ các đồng nghiệp khác kiểm tra giúp vào ca trực của họ. Không ai nhìn thấy chiếc Ford màu trắng của Moore. Nhưng Buzz đoán thứ Hai tới kiểu gì Moore cũng phải đi làm, nếu anh ta không muốn bị đuổi việc.
Vậy là Buzz quay lại Husum. Giao lộ chính của thị trấn chưa hợp nhất này gồm một cây xăng, các nhà xưởng và một vài cửa hàng. Từ cửa hàng thực phẩm rẽ theo hướng bắc, anh đi qua một bãi đậu xe nền đất la liệt xe tải, máy cày và máy gặt hư hỏng đủ cấp độ. Tất cả đều phủ một lớp tuyết dày từ ba đến năm phân. Anh đánh xe đi dọc theo hông tòa nhà trát vữa cũ nát của Hãng Cơ khí M&N để quành ra phía sau.
Linh cảm của anh đã đúng. Chiếc Ford màu trắng của Moore đang đậu cạnh cầu thang dài dẫn lên căn hộ tầng hai.
Buzz tắt đèn, tấp xe vào phía sau thùng xe tải rồi tắt máy. Anh ngồi một lúc, quan sát cửa sổ căn hộ xem có dấu hiệu nào cho thấy có nguời ở hay không. Sau một lúc không thấy gì, anh bước ra ngoài bầu không khí lạnh giá rồi lặng lẽ khép cửa lại. Tuyết lạo xạo dưới chân anh, mảnh sân oi oi mùi dầu hỏa. Lần theo thân xe của Moore, Buzz thấy mui xe và phần phía trước bên phải bị móp. Anh khom người xuống đế nhìn cho rõ. Vết móp khá sâu chứng tỏ tốc độ chạy xe phải rất cao và vụ đâm xe hẳn là mới xảy ra vì không thấy có vết gỉ hay tróc sơn. Nhìn kỹ hơn sẽ thấy có người đã nhấc miếng chắn bùn bị bẹp lên để nó khỏi cọ vào cái lốp ngoại cỡ có đường gân và rãnh rất sâu, có lẽ chuyên để chạy địa hình.
Buzz quay lại xe mình, lấy một chiếc máy ảnh du lịch mua hôm thứ Bảy ra chụp những chỗ hư hỏng. Xong xuôi, anh nhét máy ảnh vào túi và thận trọng bước lên những bậc thang gỗ. Băng đã đóng dưới lớp tuyết mỏng khiến bậc thang trở nên trơn trượt. Anh bám vào tay vịn, dò dẫm đi lên. Tới thềm nhà, anh ghé mắt nhìn qua một ô cửa sổ nhưng không thấy ánh sáng hay động tĩnh nào hết. Anh gõ cửa rồi đứng tránh sang một bên. Vài giây sau, anh nghe thấy có tiếng người giật mình tỉnh dậy, có tiếng làu bàu không rõ nói gì và sau đó là tiếng bước chân.
“Ai đó?”
“Người của đồn cảnh sát quận Klickitat. Vui lòng mở cửa!” Im lặng. Sau đó là những tiếng nói nghèn nghẹt.
Buzz tiếp tục gõ. “Vui lòng mở cửa!”
Vài giây sau, cánh cửa mở ra, một anh chàng gốc Da Đỏ vạm vỡ mình trần mặc quần đùi xuất hiện. Lần trước, Buzz đã gặp William Cox, cậu bạn cùng phòng của Tommy Moore. Vậy đây chính là Tommy Moore. Moore có mái tóc đen chấm vai, thân hình xăm trổ, hình xăm lớn nhất là một con đại bàng đầu trắng đang sải cánh, móng vuốt xòe rộng gần hết vòm ngực. Gã ngước đôi mắt xanh ngái ngủ nhìn Buzz. Đôi mắt ấy, cộng thêm làn da màu đồng hun, khiến anh nhớ tới lũ trẻ lướt sóng trên bãi biển Waikiki mà anh và Anne từng gặp khi đi hưởng tuần trăng mật.
Đôi mắt có thể làm tan nát trái tim một cô gái. Có thể là trái tim của Kimi Kanasket.
“Tommy Moore?”
“Phải.” Giọng gã ngấm ngầm thách thức.
“Những ngày qua cậu đã ở đâu?”
“Đi thăm mẹ.”
“Tốt đấy. Con trai thì nên về thăm mẹ. Mẹ cậu sống ở đâu?”
“Khu bảo tồn Yakama.”
“Chúng tôi đang tìm cậu, Tommy.”
“Tôi có nghe nói.” Moore ngoái vào phía trong, bạn cùng phòng của gã đang đứng đó trong chiếc áo thun và quần ngủ.
“Tôi cần nói chuyện với cậu về Kimi Kanasket.”
“Cũng có nghe nói.”
Buzz cảm nhận được hơi nóng cùng thứ mùi nồm ẩm như mùi gỗ ướt đang phả ra ngoài khung cửa mở. “Chúng ta có thể đứng nói chuyện ngoài giá rét cũng được, nhưng trang phục của tôi thích hợp hơn của cậu đấy.”
Moore lùi lại để Buzz tiến vào trong. Tối thứ Sáu, anh đã vào bên trong căn hộ này. Đúng như những gì anh nghĩ về nơi ở của hai gã trai trẻ, đồ đạc toàn thứ thiết yếu nhưng lộ cộ – một chiếc sofa, một chiếc ghế, một chiếc ti-vi. Gần đó, phía dưới một giá nến treo làm từ sừng hươu là một chiếc bàn hình vuông cùng hai chiếc ghế gấp. Tường trống trơn, không treo tranh ảnh. Trần nhà lốm đốm ố ở những chỗ bị dột. Túi đựng đồ ăn nhanh tràn cả ra miệng thùng rác. Cái gạt tàn trên bàn trà đầy ngập đầu lọc thuốc và hai điếu thuốc quấn tay hút rồi, mùi thuốc lá lẫn với mùi cỏ nồng nặc.
Moore nhích tới gần cái gạt tàn.
“Kệ nó đi.” Buzz nói. Anh chẳng có hứng bắt họ vì tội hút cỏ. Mùi thuốc lá cũng chẳng hề khiến anh phiền lòng. Hồi còn trong quân ngũ, mỗi ngày anh hút hết một bao. Vì Anne tuyên bố không lấy người hút thuốc nên anh mới bỏ thuốc ngay trong vòng một nốt nhạc.
“Ở đây cậu có vũ khí không?” Buzz hỏi.
“Vài khẩu súng săn với mấy con dao.” Moore đáp.
“Để ở đâu?”
“Tủ trong phòng ngủ.”
“Tôi có thể đi tắm không?” Cậu bạn cùng phòng cất tiếng hỏi. “Tôi phải đi làm.”
“Cứ tự nhiên.” Buzz đáp. Trước khi rời phòng, cậu trai trẻ còn liếc Moore một cái. Buzz lấy cuốn sổ gáy xoắn và cây bút trong túi áo ngực ra.
“Tôi cũng phải đi làm.” Moore nói.
“May mà cậu đi làm gần nhà nhỉ.”
Moore ngồi lên sofa.
“Chuyện gì đã xảy ra với cái xe tải của cậu?”
“Đâm vào cây trong khu bảo tồn.”
“Bao giờ?”
“Cuối tuần.”
“Cuối tuần vừa rồi hả?”
“Phải.”
“Trông khá tệ đấy.”
“Tôi đập cho nó vài cái, thế là lại chạy đuợc. Ngay bây giờ tôi không có tiền để sửa.”
Buzz hơi chúi về phía truớc để ghi vào sổ. “Cậu và Kimi từng hẹn hò?”
“Phải.”
“Bao lâu?”
“Một thời gian.”
“Một thời gian là bao lâu?”
“Từ mùa hè.”
“Vậy là từ ba đến bốn tháng.”
“Chắc đúng.”
“Hai người chia tay khi nào?”
Moore thoáng xao nhãng. Rồi gã đáp: “Chắc là một tuần trước.”
“Tại sao hai người lại chia tay?”
“Thì chia tay thôi.”
“Cậu hay cô ấy chủ động?”
“Cả hai.”
“Sao cậu lại chia tay?”
Moore nhún vai. “Chả còn nghĩa lý nữa.”
“Cái gì chả còn nghĩa lý?”
“Việc tiếp tục hẹn hò.”
“Tại sao lại không?”
“Lúc nào cô ấy cũng bận. Chạy việt dã. Điền kinh, học hành. Đằng nào cô ấy cũng vào đại học.”
“Tại sao cô ấy lại chia tay với cậu?”
“Lý do tương tự.”
“Cậu có bực không?”
Moore chỉ nhún vai. “Tôi nói rồi, xuất phát từ cả hai phía.”
Buzz không cảm nhận được nỗi dằn vặt hay cảm xúc mâu thuẫn nào từ phía Tommy. Xét đến việc cái xác của Kimi vừa được kéo lên từ lòng sông thì chuyện ấy lại càng lạ lùng. “Lần cuối cậu gặp cô ấy là khi nào?”
“Tối thứ Sáu.”
“Ở đâu?”
“Tiệm ăn.”
“Cậu đã tới đó?”
Moore gật đầu. Buzz quyết định nghe theo trực giác mách bảo, dựa trên những gì bạn cùng phòng của Moore đã nói và dựa trên kinh nghiệm của chính bản thân anh về tính nết mấy cô cậu trẻ tuổi. “Cậu có đưa ai theo cùng không?”
“Có.”
“Ai?”
“Cheryl Neal.”
“Cheryl Neal là ai?”
“Một cô gái thôi.”
“Có bao nhiêu chỗ để ăn mà cậu lại đưa cô ta tới tiệm ăn nơi bạn gái cũ của cậu làm việc ư?”
“Tôi thích món bít tết chiên xù ở đó.”
“Thế à? Cậu nhất định phải ăn món đó à?”
“Không.”
“Tại sao?”
“Chúng tôi không ở lại lâu.”
“Hừm…” Buzz ậm ừ như đang cân nhắc điều gì. “Cậu mất tận mười lăm phút lái xe tới một nhà hàng mà cậu biết chắc chắn sẽ chạm mặt bạn gái cũ ở đó, rồi cậu không ở lại để ăn?”
“Phải.”
“Tại sao?”
“Tôi quyết định rằng tôi không đói.”
“Thế còn cô bạn đi cùng cậu?”
“Cô ấy cũng không đói.”
“Vậy cậu đã làm gì?”
“Lái xe đưa cô ấy về nhà và quay về đây.”
“Mấy giờ cậu về tới đây?”
“Tôi không biết. Chắc là nửa đêm.”
“Bạn cùng phòng của cậu có nhà không?”
“Cậu ta bảo có.”
Buzz ngồi xuống, đánh giá Moore. Gã trai này có ánh mắt lão luyện của một võ sĩ quyền anh, không dễ gì bị đe dọa. “Cậu đưa Chery Neal tới đó để khiến Kimi khó chịu vì đã chia tay với cậu chứ gì, Tommy?”
“Tôi đã bảo chuyện chia tay là từ hai phía.”
“Phải, tôi biết cậu nói gì. Nhưng nếu là từ hai phía thì đàn ông con trai cũng không ai đưa một người con gái tới nơi anh ta biết sẽ chạm mặt bạn gái cũ của mình, trừ phi có lý do để làm thế?”
“Tôi đã nói rồi, tôi thích món bít tết chiên xù ở đó.”
“Thật sao? Chứ không phải cậu cố tình chọc cho Kimi ghen?”
“Chẳng có lý do gì để làm thế. Ngoài kia còn đầy con gái.”
“Tại sao anh trai và bạn bè của Kimi lại tới đây tìm cậu?”
“Tôi không biết. Ông đi mà hỏi họ.”
“Tôi đang hỏi cậu. Tôi đã tới nhà họ. Khi biết Kimi bị mất tích, anh trai cô ấy đã tới đây. Tại sao anh ta lại làm thế nếu hai người đã chia tay?”
Moore nhún một bên vai. “Đi mà hỏi Élan.”
“Hai cậu là bạn?”
“Không hẳn.”
“Kẻ thù?”
“Không.”
“Cậu biết tin chúng tôi kéo xác Kimi lên khỏi dòng sông như thế nào?”
“Đọc trên báo.”
“Cậu cảm thấy thế nào?”
Moore lại mất tập trung, ánh mắt gã trở nên trống rỗng. Buzz bình thản chờ đợi. Một lúc sau, Moore trả lời anh. “Tồi tệ!” Gã đáp.
o0o
Tracy đổ chỗ rượu thừa vào bồn rửa bát và đổi sang uống trà hoa cúc. Mọi thông tin đều cho thấy Tommy Moore ít nhất cũng là một kẻ dối trá và là một tên khốn. Liệu có phải gã cũng là một tên giết người?
Roger nằm ườn trên chiếc bàn trong phòng ăn, ngáy khe khẽ. Cô cầm túi ảnh lên xem nhanh và tìm thấy ba bức ảnh chụp chỗ hư hỏng của chiếc xe Ford màu trắng. Như Buzz Almond đã mô tả trong báo cáo, phần trước bên phải của chiếc xe trông giống như đã đâm vào thứ gì đó ở vận tốc rất cao – theo lời khai của Tommy Moore thì là một cái cây. Trông chiếc xe cũng giống như đã được sửa chữa qua loa bởi ai đó có kinh nghiệm sửa xe hơi để nó có thể hoạt động trở lại.
Tracy đặt mớ ảnh sang một bên. Buzz Almond đã làm chính xác những gì Tracy sẽ làm sau khi nói chuyện với Tommy Moore. Báo cáo tiếp theo ghi lại chuyến đi của ông tới nhà Cheryl Neal. Cô này sống ở Stoneridge với bố mẹ và hai người anh trai. Vì hôm đó được nghỉ học do có lễ diễu hành nên cả nhà Neal đều ở nhà. Tracy có thể hình dung ra nỗi kinh hoàng của bố mẹ cô gái khi mới bảnh mắt ra đã có một viên cảnh sát tới gõ cửa nhà họ. Cheryl Neal xác nhận Moore đã đưa cô ta đi xem phim Màn Trình Diễn Kỳ Quái, sau đó họ cùng tới tiệm Columbia. Cô ta khai có biết Moore từng hẹn hò với Kimi Kanasket, nhưng Moore bảo với cô ta rằng họ đã chia tay. Neal nói cô ta và Kimi không phải là bạn, phủ nhận rằng họ là kẻ thù, nhưng thừa nhận cô ta biết Kimi làm việc tại tiệm ăn. Tracy ngờ rằng Moore rủ Neal đi chơi hoàn toàn là vì cô ta và Kimi không phải là bạn và cô ta thích ý tưởng Moore đưa cô ta tới tiệm ăn nơi Kimi làm việc. Tuy nhiên kế hoạch đó đã phản tác dụng. Theo báo cáo của Buzz Almond, Neal khai rằng Moore đã đùng đùng rời khỏi tiệm ăn, điên tiết về chuyện gì đó và đưa cô ta về nhà vào khoảng mười một giờ tối. Cô ta không thể làm chứng cho việc sau đó Moore đã đi đâu.
Nhưng Moore có thừa thời gian để quay lại tiệm ăn hoặc đỗ xe dọc quốc lộ 141 để đợi Kimi. Nếu họ đã hẹn hò với nhau nhiều tháng, gã hẳn phải biết quãng đường cô gái thường đi về nhà vào giờ đó.
Tracy giở biên bản khám nghiệm tử thi mà cô nhận thấy được thực hiện bởi Văn phòng Công tố quận Klickitat. Hiện tại chỉ có sáu quận ở bang Washington là có nhân viên giám định y khoa riêng, mười sáu quận có nhân viên pháp y, những quận còn lại quy mô nhỏ hơn thì có một người được chỉ định làm công tố viên/pháp y viên. Các quận này thường ký hợp đồng dịch vụ pháp y với một bác sĩ địa phương vì họ không có nhân viên hay thiết bị riêng. Tracy sợ rằng vào năm 1976 thì khác. Vì lý do đó nên dù chưa đọc báo cáo cô đã không tin vào kết quả nó đưa ra.
Báo cáo pháp y là một bản sao. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Bản gốc sẽ được lưu tại Văn phòng Công tố. Nhìn bản sao kém chất lượng này, Tracy kết luận bản gốc cũng đã được đánh máy trên giấy pơ luya hay thứ gì đó tương tự, và được in ra từ một tấm vi phim – loại cực nhỏ đến nỗi vừa khó đọc vừa nhức mắt, nhất là vào đêm khuya sau hai ngày cuối tuần dài đằng đẵng, nhưng Tracy vẫn bất chấp.
Biên bản khám nghiệm bên ngoài cho thấy người ta đã chụp ảnh phục vụ cho mục đích nhận dạng và lưu hồ sơ về tình trạng cái xác. Tracy tìm thấy các bức ảnh trong tập hồ sơ của Buzz Almond. Không đẹp chút nào. Cô lướt nhanh phần khám nghiệm tổng quát, vừa đủ đế nắm được những ý cơ bản – nữ, cao một mét bảy, nặng năm mươi bảy cân, mắt đen, tóc đen. Nhân viên pháp y ghi nhận các vết bầm giập, trầy xước và rách nhiều cấp độ khác nhau ở hầu khắp cơ thể, bao gồm cánh tay, chân và mặt. Xương ống đồng bên phải của Kimi bị gãy, phần ngực có dấu hiệu của chấn thương do va đập. Phần lưng và vai phải của cô gái cũng bị bầm giập gần hết. Nhân viên pháp y kết luận các thương tích bên ngoài trùng khớp với các va chạm thường xảy ra trong trường hợp cơ thể bị quăng quật và kéo lê qua các tảng đá và rác thải trong một dòng chảy xiết. Nhân viên pháp y cũng lưu ý tới lượng chất lỏng trong đường dẫn khí hô hấp của Kimi, bao gồm cả phổi, và kết luận là điều đó phù hợp với một người đột ngột bị nhấn chìm trong nước lạnh. Nạn nhân hít nước do phản xạ khi da bị kích thích. Kimi cũng đã nôn và hít vào một số thứ chứa trong dạ dày, cũng phù hợp với một người đã hít phải nước, theo lời bác sĩ là gây ho và rút một lượng lớn không khí ra khỏi phổi, dẫn đến việc ngừng thở và nôn.
Tracy lật sang trang tiếp theo, nhưng báo cáo kết thúc đột ngột với chữ ký của nhân viên pháp y ngay phía dưới kết luận của ông ta.
Người phụ nữ này tử vong do chịu nhiều chấn thương ở vùng đầu, ngực và tứ chi. — Bác sĩ Donald W Frick.
Cô lật xem phần còn lại của hồ sơ, trong đó có bản sao hai hóa đơn từ một công ty tên là Kính và Kính chắn gió Columbia, một tờ đóng dấu 'Đã thanh toán' bằng mực đỏ đã phai màu với số tiền là 68 đô la, tờ thứ hai là 659 đô la. Cả hai tờ hóa đơn đều không ghi rõ mục đích thanh toán, tên chủ xe, loại xe hay biển số. Cô xem lại ảnh chụp xe của Moore. Kính chắn gió có một vết nứt.
“Giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa.” Cô nói. Đang nằm trên bàn, Roger ngóc đầu lên. “Tommy Moore là kẻ tình nghi số một.”
Đột nhiên mất hứng, cô đóng tập hồ sơ lại. “Đi nào Roger, ngủ thôi!”
Roger nhổm dậy, vươn người thật dài. Cô bế cu cậu vào phòng ngủ, đầu óc vẫn vương vấn về tập hồ sơ. Tạm gác sang một bên những bằng chứng không thể chối cãi rằng một cảnh sát viên đang tiến hành một vụ điều tra, cộng thêm ảnh hưởng từ câu châm ngôn: Không một thứ gì trong hồ sơ vụ án là không liên quan tới điều tra viên, Tracy phải thừa nhận tất cả những gì mà Buzz Almond đưa vào tập hồ sơ đều có lý do riêng của nó, nhưng để biết được những lý do đó, cô còn phải đi cả một chặng đường dài.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống