Chỉ có một thành công mà thôi, đó là sống cuộc sống của mình theo cách của chính mình.

Christopher Morley

 
 
 
 
 
Tác giả: Duyên Anh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 27
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4352 / 170
Cập nhật: 2016-06-18 07:55:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần I: Vàng Ửng Ngậm Ngùi (Sa Ác Th6) - Chương 1
ó kẻ mê giang-hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc va-ly của một lãng-tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu ông ta tiên-tri cuộc đời sẽ còn những tuyến đường Moscou – Goulag Sibérie, Suối Máu – Phước Long, Kà-Tum- Bù-gia-mập, Long Giao – Sơn Ca, Trảng Lớn – Hà Nam Ninh,Gia Lai – Vĩnh Phú, Washington – Hà-nội Hilton, Nhà Mình – Sở Công An, Đề-lao Gia Định – Chí Hòa…. di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ còn những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo còi, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lãng-tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng-ực ngang họng súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn, sẽ chán chuyện lãng-du. Ở thời đại tôi và trên quê-hương tôi có những chuyến đi đã trùm lấp định-nghĩa vô-định và thống-khổ mà tôi không sợ lộng-ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định-nghĩa làm người. Rồi sẽ có hồi-ký của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn – Hà nội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu củ khoai. Rồi sẽ có hồi-ký của một tù-nhân viết chính-xác về chuyến đi Sài gòn – Phú Quốc trên chiếc tầu HQ 501 khởi hành từ bến Tân Cảng.
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân bó gối dưới hầm ngồi
Chuyến tàu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi theo định-mệnh nổi trôi
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân một nắp nhỏ thông hơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi thám-hiểm vực đời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân ba triệu tấn mồ-hôi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi rúng-động đất trời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân chờ từng giọt nước rơi
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tầu đi cháy tiếng khô lời
Chẳng bao giờ anh được đi chiếc 501
Ba nghìn tù-nhân ba nghìn thú vật rã rời
Chuyến tầu đi Phú Quốc
Chuyến tàu đi định-nghĩa con người
Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)
Thơ không đủ định-nghĩa con người và sức chịu đựng phi thưởng của nó 2 ngày 3 đêm bó gối nhịn đói, nhịn khát dưới hầm tầu há mõm. Hãy hình tưởng một nắp thông hơi thường xuyên những họng súng chúc xuống đe-dọa. Hãy hình tưởng tù-nhân chen lẩn cầm ca đi hứng nước nhỏ giọt ăn bao nhiêu đấm đá của “chiến-hữu” – vì xô đạp lên người ngồi – mới đến “nguồn hạnh phúc”, và uống một hơi, không dám uống hết đem về. Về chỗ khốn-khổ như rời chỗ, nước đã bị tung-tóe hết. Hãy hình tưởngg 2 ngày 3 đêm ỉa đái không tụt quần. Và, hãy hình tưởng, khi ghé bờ, cái tầu há mõm ra, phân tiểu cũng ùa ra. Tù-nhân “đổ bộ” theo phân; có người ngụp lặn cho sướng, ngoi đầu lên phân cả đống! Đó là sự thật rực-rỡ dưới ánh mặt trời mà bất cứ người tù Việt Nam nào tham dự chuyến đi trên hai chiếc tầu HQ 501 và HQ 503 đều không phủ-nhận. Có lẽ, người ta sẽ đính chính. Rằng, nó còn thê-thảm gấp bội. Nỗi đau đớn chưa ngưng ở đó.
Hai ngày ba đêm dưới hầm tầu
Mắt còn thèm ngủ bụng đói lả
Thân xác còn như cái mền tã
Sáng sớm vác xẻng đào giếng khơi
Đất biển không chìu theo ý người
Càng sâu bao nhiêu càng lún rã
Mấy nghì tù-nhân khát khô cổ
Nhìn nhau muốn nói chẳng nên lời
Hạnh-phúc bây giờ là nước lã
Đội đá, lên núi hề đội đá
Đường đi- về ba cây số ngàn
Năm trăm tù-nhân xếp thành hàng
Đi thì hồn khói hun bốc toả
Về thì hồn cháy thiêu tàn-tạ
Chuyến đầu cố gắng vượt gian-nan
Chuyến sau gối mỏi đầu đau ran…
Duyên Anh, (Thơ Tù, Nam Á Paris-1984)
Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù hận một cách can-đảm và kiên- nhẫn, khinh-thường hình-phạt của thù-hận, bước qua nó mà đi mà tồn-tại để tặng nhân-loại một định-nghĩa làm người, nhân-loại đã không thấy hình ảnh tuyệt-vời của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ. May mắn, nhân-loại không đọc nổi chữ Việt Nam, thành ra, họ chưa nhăn mặt biết tù-nhân chính-trị của chúng ta “ăn giun, ăn cắp cháy, ăn vụng thịt, ăn tranh cơm với heo”! Hơn mười năm nghẹn-ngào của dân-tộc, của tù-nhân lao-cải, nhân-loại đã được mở mắt những điều gì? Một cái xó xỉnh đề lao Gia Định khu Cl của Đoàn văn Toại chưa biết ghẻ tù thêu dệt ngu-xuẩn, bịa đặt gian-dối đã rằng “Goulag Vietnamien” ư? Muốn viết quần-đảo tù-ngục cộng-sản ở Việt Nam sau 1975, phải viết những trại tập-trung lao-động khổ-sai tại Sông Bé. Những đảo Bù Nho, Bù-gia-mập, Phú Văn, Phước Long, Hớn Quản, Đồng Xoài đã tạo thành một quần đảo biểu tượng. Có trại lao-cải của đàn bà tư-sản, vượt biên, phản-động. Có trại lao-cải của vũ-nữ, gái điếm. Có trại lao-cải của thanh-niên xì-ke, ma-túy. Có trại lao-cải của con nít. Có trại lao-cải của phế-binh. Có trại lao-cải của sĩ-quan chế-độ cũ. Có trại lao-cải của trộm cướp… Chỉ cần một cuốn sách viết chính xác về Quần-đảo Sông Bé, thế-giới sẽ thẩm-định giá trị phát triển của nền tù ngục cộng-sản Việt Nam. Nhưng chúng ta rất thờ-ơ trong sứ-mạng gây xúc-động và phẫn-nộ cho thế-giới. Chúng ta có nhiều tù-nhân khắp miền đất nước đang hiện diện ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc. Chúng ta, thay vì có nhiều người viết hồi-ký tù ngục, càng nhiều càng tốt – để các nhà văn lớn cô- đọng, tổng-hợp, nhuận-sắc văn-chương thành một Goulag Vietnamien vĩ-đại, đúng nghĩa, làm bàng hoàng thế-giới – thì chúng ta lại chỉ có vài cuốn. Thành thử, Goulag Vietnamien mới là cái đống rác Đoàn văn Toại, nơi đó, tù-nhân đầy đủ tự-do lập kiến-nghị và ký tên vào kiến-nghị! Thành thử, đại-diện của tù-nhân cải-tạo tư-tưởng ở Việt Nam, nhân danh tù-nhân đi họp-hành, kiện-cáo, tranh-đấu cho tù-nhân, toàn các vị ở Tây 30 năm, các vị di-tản sang Mỹ trước 30-4-1975. Bọn cai-thầu nỗi khổ này chịu khó vác bị gậy đi ăn mày sự hứa hẹn của thiên hạ. Chúng nó đã trúng mối, cả danh lẫn lợi. Và tù-nhân của chúng ta vẫn vô-vọng ngày về. Thể thì tiếng nói đích-thực của thống-khổ đâu? Tiếng nói không ai dám ngờ-vực của các ngục-sĩ đâu? Họ đã bị chụp mũ “ăng ten” cả rồi. Bị chụp mũ từ chân ướt chân ráo đặt lên đất quê người. Họ chán nản, im lặng. Để mặc cai thầu độc-quyền đấu thầu nỗi khổ. Như bọn thống trị luồn cúi đã loại bỏ những người yêu nước chân-tình để độc-quyền làm đầy-tớ cho ngoại-bang, ở đất nước chúng ta. Cho nên tôi nghĩ: những chuyến đi của tù-nhân Việt Nam trên quê-hương mình, những chuyến đi định-nghĩa con người: định-nghĩa làm người như chuyến đi Sài gòn – Phú Quốc, ngay cả trong chúng ta, vẫn còn mơ hồ, xa lạ.
Chuyến đi của tôi tầm thường. Năm mươi tù-nhân công-kênh hành-lý nhồi nhét trên chiếc xe vận-tải chuyên chở heo, bò. Không ai dám ngồi. Tất cả đứng. Bạn tù của tôi báo cáo lộ trình. Xe đã qua cầu xa-lộ. Qua ngã tư Thủ Đức – Trường Võ Bị. Nhiều anh em hồi -hộp chờ qua cầu sông Đồng Nai. Không, nó rẽ lối đi Vũng Tầu. Qua Long Thành, nó chạy thẳng. Một anh mau miệng:
- Mình vào Xuyên Mộc đất đỏ, các ông ạ!
Chúng tôi bắt đầu khó chịu vì con đường này đã bị lồi-lõm nhiều, không kịp tu sửa. Sau ngày 30-4-1975, đường-xá kể như không tu sửa. Nhà nước xã-hội chủ-nghĩa đẻ ra chính-sách “dưỡng đường”nhưng ngay ở thành-phố Hồ Chí Minh “rực rỡ tên Người”, chính sách “dưỡng đường” đã trở thành “chuyện tiếu lâm Việt- cộng”. Người ta múc nhựa đun sôi đổ đầy ổ gà rồi rắc cát lên. Xe hơi chạy qua, lôi luôn cả tảng nhựa’! Có nhiều con đường được “dưỡng” bằng cát xịt nước. Nắng Sài gòn đã làm cát bay tung mù phố-phường. Đường thành-phố đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã-hội chủ-nghĩa”, quốc-lộ và tỉnh-lộ còn tiến vọt theo “ba luồng sóng cách-mạng” bạo hơn.
Xe tới thị-xã Bà Rịa thì rẽ vô con đường đất. Tốc-độ giảm xuống. Nó ì ạch nuốt những bậc thang. Chúng tôi dồn lên, xô xuống liên tục. Nằm chuồng gà lâu ngày, chúng tôi đâm ra yếu ớt. Lục phủ ngũ tạng đảo lộn với đường-xá gập-ghềnh. Nhiều anh em ói mửa. Bụi đỏ luồn qua những khe bạt hở khiến chúng tôi ngộp thở. Cộng thêm mùi ói mửa chua lòm. Chúng tôi choáng-váng mặt mày. Chẳng ai bảo ai, cả làng ngồi hết. Ngồi lên cả hành-lý. Ngồi lên cả những bãi nôn mửa mà chịu đựng xe nhồi. Khi sức nóng hấp chúng tôi, bắt mồ-hôi chúng tôi tuôn chảy ướt nhèm quần áo, xe qua Bầu Lâm, Bà Tô. Hai địa danh này, ít nhất, có bốn trại lao-cải dành cho các ông trong ủy-ban xã, ấp, khóm, phường của chế-độ cũ, dành cho những người vượt biên thiếu may-mắn, dành cho tù-nhân hình-sự chế-độ cũ và “đệ-tử tiên nâu tiên trắng”. Ngọc Thứ Lang, tên cúng cơm Nguyễn Ngọc Tú, hỗn-danh Tú Lệch, dịch giả Bố Già tài tình, đã chết nơi đây vì can tội “chống chủ-nghĩa mác-xít bằng chủ-nghĩa choác-hít”.
Đúng trưa, xe chở sức-vật tới đích. Nó ngừng ở sân phía ngoài trại. Tấm vải bố che kín phía sau được lột lên và cửa sắt mở tung. Chúng tôi đứng dậy chờ lệnh.
- Tôi gọi tên anh nào, anh ấy hô có rồi nhẩy xuống khẩn-trương. Rõ chưa?
Chúng tôi đồng thanh đáp:
- Rõ.
Ba lô may ở Chí Hòa máng hai vai, tay xách giỏ thực-phẩm, chúng tôi chuẩn bị một “saut tù”, chắc chắn, lâm ly hơn “saut đêm” của thi sĩ Hà Huyền Chi.
- Trần Duy Cát.
Đằng Giao len ra và nhẩy…dù! Người lính nhẩy dù bất-đắc-dĩ ngã chúi. Vệ-binh ôm súng cười khoái-chí. Gã công-an dục:
- Ngồi dậy khẩn-trương! Ra xếp hàng chỗ kia!
Đằng Giao đứng dậy thật nhanh, sửa lại hành-lý và bước đến chỗ ngồi chỉ-định.
- Nguyễn Mạnh Côn.
Tác-giả Ba người lính nhẩy dù lâm nạn… lâm nạn thật sự. Đằng Vân Hầu 1 không thề đằng vân giá vũ. Cái tước hầu của anh đã bị xóa bỏ. Anh ta ném hai cái bị xuống trước rồi “bông nhông” sau. Như vậy, anh ta chỉ bị…khuỵu.
- Vũ Mộng Long.
Tôi nhẩy… kiểu thế vận hội lao-cải! Kiểu này khác Tango, Rumba, Valse. Càng khác Twist, Disco. Có lẽ nó là kiểu à gâu gâu. Nhưng mà vẫn ngã bổ nhoài. Tôi ngậm-ngùi đứng dậy và lặng-lẽ bước đến ngồi cạnh Đằng Giao. Huyết-thống tổ-tiên tôi không có “anh-hùng-tính” và tôi đã không có tinh-thần “uy-vũ bất-năng- khuất”. Phải chi tôi di-tản qua Mỹ trước 30-4-1 975 hay chẳng hề bị tù-đầy, tôi sẽ viết báo chửi tôi khiếp-nhược đầu-hàng cộng-sản”. Phải hét lớn: “Bố quốc-gia đây, bố đếch nhẩy, các con cộng-sản làm gì bố thì làm”, rồi có bị bọn chăn trâu cắt cỏ, bị đục sưng phổi, dập lá lách, tôi sẽ phong tôi làm anh-hùng tù ngục. Tuy nhiên, sẽ không anh nào gửi về an-ủi tôi một lọ dầu cù-là… Mỹ! Vậy thì tôi hèn và tôi khước-từ làm anh-hùng đào-ngũ ngồi viết sử đấu-tranh.
- Ông thầy, ngậm ngùi quá hả? – Đằng Giao thầm-thì hỏi tôi.
- Hãy còn xanh, nó sẽ chín vàng, chín vàng ửng, vàng như ước mơ.
Cái động đầu tiên của trại tập-trung đấy. Nó là tiếng ngã huỳnh-huỵch. Chúng tôi đã biến thành chìa khóa mở một kho cười no-nê cho đám công-an coi tù. Trẻ nhẩy. Già nhẩy. Màn nhẩy dù kéo dài cả tiếng đồng-hồ. Chúng tôi ngồi giữa nắng chang-chang, đầu trần. Nô-lệ thời Trung-cổ còn sướng hơn chúng tôi. Công-an thì tà-tà. Công việc tiếp-nhận tù có chi gấp-gáp. Nắng làm chúng tôi hoa mắt và khát khô họng. Chúng tôi há hốc miệng, chứ chưa thè lưỡi thôi. Lệnh bắt chúng tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bỗng tương-tư Chí Hòa. Châm ngôn của tù-nhân cộng-sản là “Nơi sắp đến khốn nạn hơn nơi đã đến. Ngày mai thê thảm hơn hôm nay”. Biết thế mà vẫn thèm thay chỗ, đổi không khí và rồi chán ngán.
- Ông thầy!
- Gì?
- Mình bỏ xác tại đây mất.
- Bậy nào.
- Mình tù lâu quá rồi.
- Một vụ nghỉ hè trong đời sống. Vài tháng nữa, mình về. Hè của học trò ba tháng. Hè của tù-nhân ba năm.
- Ông lại tin nó.
- Tôi tin tôi. Vẽ ra niềm tin mà sống chứ.
Công-an đã kê bàn trước mặt chúng tôi. Họ bắt chúng tôi kê-khai lý-lịch. Từng người lên bàn. Đứng nghiêm và đứng cách xa cán-bộ ba thước. Luôn luôn, cộng-sản cảnh-giác cao độ. Lớn cảnh-giác lớn. Bé cảnh-giác bé. Cảnh-giác mọi lãnh-vực. Cảnh-giác làm việc và cảnh-giác rong chơi. Bài học cảnh-giác được thi-hành triệt-để. Từ trên xuống dưới. Học tập dài dài. Thời chiến và thời bình. Cảnh-giác địch và cảnh-giác ta.
Chúng tôi lại phải làm công việc kê khai tên tuổi, chỗ sinh, chỗ sống, nghề-nghiệp cũ: can tội gì, bị bắt ngày nào, cơ-quan nào bắt vân vân… Tôi đã khai đến nát bét lý-lịch. Có một lần, ở khu Cl đề-lao Gia Định, Hai Phận đã làm tôi sửng-sốt về tội-trạng của tôi. Họ cầm tờ khai lý-lịch của tôi đứng ngoài cửa phòng gọi tôi:
- Vũ Mộng Long.
- Tôi là Trưởng khu, anh phải dạ vâng.
- Dạ.
- Anh can tội gì?
- Nhà văn chế-độ cũ.
- Sai. Anh viết lại đi.
- Thưa ông Trưởng khu, viết thế nào ạ?
- Vũ MộngLong can tội Duyên Anh!
Hai Phận vĩ-đại đã tặng cả phòng một trận cười khi hắn khuất dạng. Tôi cũng cười ra nước mắt. Về sau, suy nghĩ kỹ tôi mới thấy Hai Phận vĩ-đại hơn Hồ Chí Minh. Vũ Mộng Long có tội gì đâu. Duyên Anh gây ra đủ thứ tội. Thế nên, tôi đã yêu Vũ Mộng Long mà ghét Duyên Anh thậm tệ. Ở đây, ở cái trại tập-trung khổ-sai lao-động tôi chưa biết tên này. Người ta chấp nhận Vũ Mộng Long, bút hiệu Duyên Anh, can tội nhà văn phản-động, dẫu hồ-sơ Trung-ương ghi rõ tôi can tội “Đảng viên Duy Dân trốn trình-diện học-tập, trong tổ-chức chống phá cách-mạng hiện-hành”.
Phải mất thêm hai tiếng đồng-hồ phơi nắng nữa thủ-tục nhập trại mới của chúng tôi mới xong. Rồi chúng tôi được tách thành hai nhóm và được dẫn vào trại, chỉ-định nơi ăn chốn ở.
° ° °
Trại tập-trung khổ-sai lao-động này có Hòm-thư mang bí số TH6 Xuyên Mộc, Đồng Nai. Nghĩa là trại TH6 thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Đồng Nai. Riêng huyện Xuyên Mộc đã vượt chỉ tiêu 6 trại lao-cải. Cả tỉnh Đồng Nai nhân lên bao nhiêu lần?
TH6, khi tôi tới, chưa nhốt tù-nhân sĩ-quan Quân-lực Việt Nam Cộng-hòa. Mà chỉ toàn sĩ-quan cảnh-sát đặc biệt, cảnh-sát tư-pháp, sĩ-quan, hạ sĩ-quan Phủ đặc-ủy Trung-ương tình-báo, vài ông thẩm-phán và tù-nhân hình-sự đa-số mang tiền-án du-thủ du-thực dưới chế-độ cũ. Khoảng mười dẫy nhà mái tôn, nền đất, tường ghép bằng cây dài, to cỡ cánh tay, chôn sâu chẳng mấy hứa hẹn an-ninh cho những tay thích trốn trại. Mỗi dẫy nhà chứa trên dưới 150 tù-nhân gồm 3 đội. Nhà “kiến trúc” hai tầng, do tù-nhân xây cất.
Tầng dưới phải khom lưng, đứng thẳng người sẽ đụng đầu. “Sàn gác” cũng ghép bằng cây nhỏ còn nguyên vỏ, nằm ê ẩm mình mẩy. Một cái cầu tiêu ba chỗ ngồi đại-tiện phía sau và ở ngay trong nhà. Cầu tiêu “kiến trúc” rất ly-kỳ xứng đáng đoạt giải Roma, nếu dự thi như kiến-trúc-sư Ngô Viết Thụ. Ngó xuống lỗ cầu sẽ thấy cái máng gỗ chứa phân. Không nên để nước tiểu và nước rửa đít chảy vào máng chứa phân. Như thế, nước tiểu sẽ ngấm qua phân, rỉ xuống đất qua kẽ hở của máng chứa phân và tạo thành mùi thối… trường-kỳ. Trường-kỳ kháng-chiến nhất-định thắng-lợi nhưng trường-kỳ thối sẽ hủy diệt khứu-giác. Do đó, “kiến-trúc-sư” tù của Đội xây cất mới dùng tôn mỏng sáng-chế một kiểu ống máng rất hiện-thực xã-hội chủ-nghĩa. Ống máng nầy nghiên-cứu kỹ-lưỡng trước khi thiết-kế. Nó vừa đúng tầm phóng ngắn của “vòi nước”. Nhỡ phóng mạnh: văng ra ngoài không sao, đừng ào ào xuống máng chứa phân là hợp tiêu chuẩn cải tạo. Ống máng chạy về phía sau lưng tù-nhân ngồi đại tiện thì rộng ra để tù-nhân thiếu giấy chùi, có thể, đem bình nước, ca nước lết lùi vài bước mà rửa hậu-môn. Nước rửa và nước tiểu trôi qua cái ống mà tuôn vào cái hồ chứa có nắp đậy, bên ngoài bức tường cây ghép. Nước tiểu sẽ dùng để tưới rau xanh. Đội rau xanh sẽ lo múc gánh đi, mỗi sáng. Và, mỗi sáng. khi các đội đi lao-động hết, trừ những ai khai ốm nằm nhà, tù-nhân thuộc Tổ vệ-sinh kéo các thùng phân đã đầy có ngọn ra, xếp lên xe cải-tiến. Xe cải-tiến là thứ xe ba-gác, lốp đặc. Miền Nam đã chê bỏ từ lâu. Nhưng, ở miền Bắc, xe cải-tiến là cuộc cách-mạng vĩ-đại nhằm giải-phóng đôi vai phụ-nữ nông- thôn. Phụ-nữ nông-thôn miền Bắc gánh gồng vất-vả. Đảng sáng-tạo xe cải-tiến. Thay vì gánh, phụ-nữ kéo xe cải-tiến oằn vai như bò, như ngựa vậy. Để hợp nếp- sống văn-hóa mới, tù-nhân đậy lá chuối kín các máng chứa phân. Rồi anh ta xối nước rửa máng tiểu, rửa phân dính quanh lỗ cầu, rửa sàn cầu. Anh ta lại kê máng chứa phân mới đã lót sẵn mạt-cưa. Trại có xưởng cưa, tha hồ nhiều mạt. Công việc xong xuôi, anh ta kéo xe phân tới kho phân của đội rau xanh mà đổ. Rồi kiếm suối rửa xe, rửa máng. Rồi chọn khúc suối trên nước chảy róc-rách mà tắm gội, xát xà-phòng thơm vài lần. Rồi kéo xe về trại. Rồi nghỉ ngơi. Rồi lo ca cóng cải- thiện bữa ăn. Một ngày lao-động có một giờ, nhàn quá.
Tù-nhân đặc-trách vệ-sinh nhà-cầu nhiều đặc-quyền, đặc-lợi. Có quyền đi vung-vít trong, ngoài trại. Có quyền nhận riêng thực-phẩm của nhà bếp để nấu nướng riêng. Có quyền nấu nướng hai bữa. Có thể xin rau của Đội rau xanh và câu cá, mò cua, xúc tép. Có thể nuôi gà nữa. Chỉ thiệt thòi một tí là mũi sẽ điếc, sẽ hết đánh hơi thấy “thoảng hương thơm một da thịt đàn bà!.
Hai tù-nhân tình-nguyện làm công việc phu đổ thùng là hai vị thẩm-phán của Tòa Thượng-thẩm Sài gòn. Nhưng phu đổ thùng, bạn biết chưa? Lịch-sử đổ thùng như vầy: Trước cách-mạng 19-8-1945, dân chúng Hà nội 2 đã chơi cái trò đại-tiện kiểu đại-tiện của tù-nhân ở các trại lao-cải. Dĩ nhiên, nhà xí thuộc phạm vi gia đình nên nó văn-minh hơn. Năm giờ sáng, các ông phu đổ thùng chở thùng mới vào thành phổ bằng đôi bồ có nắp đậy và gánh hai thùng phân ra tận ngoại-ô bán cho nông-dân. Thuở ấy, làm nghề thầu phân béo bổ, lại không thất đức như thầu vé chợ. Nhà thầu thuê phu đổ thùng. Phân bắc quý lắm. Bởi vậy, có khối bà địa-chủ, khuyên vàng, xà-tích rủng-rỉnh mà dám xắn ống tay áo lên cao, đưa cánh tay trần chạm đáy thùng xia khoắng kỹ xem thùng xia nhiều giấy hay ít để định giá. Sau cách-mạng 19-8-1945, phu đổ thùng vẫn đeo nhãn hiệu phu đổ thùng. Mãi sau cuộc cải-cách ruộng đất 1956, vô-sản vùng lên dữ-dội thì phu đổ thùng hóa kiếp “công-nhân vệ-sinh đặc-trách” đổ thùng. Phùng Quán tả sự ghê rợn của đổ thùng:
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xăn quá gối
Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Hà-nội từ 1973 đã được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Và, mặc dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng bằng mười năm xưa”, bi-cảnh đổ thùng còn tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự nghiệp đổ thùng của nhân-dân sống mãi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như “Bác Hồ vĩ-đại sống mãi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.
Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm Sàigòn 3 lại dám làm công-việc mà, đói rã họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có người không dám vác”? Nghe một vị thẩm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-trình công-tác lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:
- Hay là ông thầy và tôi tình nguyện đổ thùng nhé!
- Cảm hứng nào thế?
- Mình ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Mình không dám ăn thì đi đổ vậy.
- Rất đúng.
Vị thẩm-phán nói tình-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu cam-go vô cùng. Nhờ đó, tôi tìm được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán anh-dũng đổ thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết trình về “triết học” Tam- túc cộng với Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược năm 1962 đã phán một câu chí-lý: “Người trí -thức muốn làm đẹp xã -hội, cần phải xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”. Đã chẳng một trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi ăn-bẩn! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị cộng-sản nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi phân tiểu đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ mình.
- Anh ạ, vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đã mua cái mặt nạ chống hơi ngạt gửi cho tôi.
- Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?
- Có!
- Rồi sao?
- Cán-bộ tịch thu.
- Vô lý!
- Vâng, thật vô lý. Cán-bộ bảo tôi thiếu thiện-chí…đổ thùng, chưa tiến-bộ còn nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.
Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị thẩm phán mà những ai đã ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.
Tôi tả tiếp sinh-hoạt của “cái nhà”. Ở trại tập-trung, người ta không gọi “phòng” mà gọi “nhà”. Tù-nhân chịu trách-nhiệm vệ-sinh, trật-tự toàn nhà gọi là Nhà-trưởng! Nhà-trưởng bắt buộc phải làm Đội-trưởng. Vì nhà có hai tầng nên thường xuyên xẩy ra cãi-cọ. Thí-dụ trên gác vô ý đánh đổ nước uống, nước mắm, lau nước điếu xuống dưới. Thí dụ quét bụi, giũ bụi không báo trước.Vân vân.
Sinh-hoạt của các trại lao-cải rập theo một chính-sách, một tổ-chức. Mỗi trại, thông thuờng có bây nhiêu đội:
1- Đội cấp dưỡng: Phụ-trách công-tác ăn uống cho tù-nhân toàn trại.
2. Đội xây cất: Phụ-trách xây dựng nhà cửa cho tù-nhân và các công-trình xây cất của trại.
3. Đội lâm-sản: Phụ-trách công-tác chặt cây, chặt tre, cung-cấp cho đội xây dựng và chặt củi cho đội cấp dưỡng.
4. Đội vận-chuyển: Phụ-trách kéo, đẩy xe cải-tiến chuyên-chở thực-phẩm, hàng-hóa.
5. Đội rau xanh: Phụ trách trồng rau cung-cấp cho nhà bếp.
6. Đội nông-nghiệp: Phụ-trách trồng khoai, sắn, bắp, lúa…
7. Đội chăn nuôi: Phụ-trách nuôi heo, nuôi bò.
8. Đội văn-nghệ: Phụ trách ca múa, đàn sáo…
9. Đội linh-tinh: Đội này gồm nhiều tổ như Tổ y-tế, Tổ vệ-sinh, Tổ thiết-kế, Tổ trật-tự, Tổ thông-tin văn-hóa, Tổ thăm nuôi…
Nếu trại chứa 1000 tù-nhân, ít nhất, có 4 Đội rau xanh, 3 Đội lâm sản. Đội nông nghiệp thì trại nào cũng đông cả. Một đội không quá 50 người. Đội trưởng, Đội phó, Thư-ký do Ban giám-thị chỉ-định. Tổ trưởng do cán-bộ quản-giáo chỉ-định. Đội trưởng được miễn lao-động 100 phần 100. Đội phó được miễn 50 phần 100. Thư-ký lao-động huỳnh-huỵch. Quản-giáo là ông thầy của lớp học lao-cải. Ông thầy săn sóc cả phần tư-tưởng lẫn phần lao-động. Khi dẫn đội ra hiện-trường lao-động, ông thầy quản-giáo đeo súng ngắn. Hai vệ-binh đeo súng AK. Đội trưởng là một chức vụ não-nề nhất của thân-phận tù. Chỉ những thẳng ngu-si, đần-độn mới ham làm Đội trưởng và chức-sắc trong tù. Miễn lao-động nhưng Đội trưởng phải đôn-đốc tù-nhân của đội lao-động tích-cực. Nội cái khoản đôn-đốc lao-động đã bị chửi xéo, chửi thầm mục mả rồi. Chưa kể, Đội trưởng “phải thay mặt cán-bộ kiểm-soát tư-tưởng của đội khi không ở hiện-trường lao-động, phải báo cáo cán-bộ mọi diễn-biến tư-tưởng của đội”. Cái khoản này hãi-hùng cao độ, dễ đưa nhau vào thù hận. Hai khoản cộng lại, dồn Đội trưởng vào thế trên đe dưới búa. Ù-lỳ thì bị quản-giáo “giáo-dục” tơi-bời, bị làm tự kiểm, bị gọi lên Ban giám-thị. Tích cực thì bị anh em thù ghét, nguyền-rủa. Đó là thân-phận Đội trưởng. Đổ thùng yên ổn nhất, không ai thích hít phân nên chẳng ai thèm chú ý thằng đổ thùng. Khổ nỗi, ở tù là phi-ní tự-do, không có quyền chọn lựa công-tác lao-động. Muốn đổ phân lại bị làm…văn-nghệ! Không muốn làm Đội trưởng mà Ban giám-thị chỉ-định làm Đội trưởng, Nhà trưởng vẫn cứ đau khổ “hồ-hởi phấn-khởi”. Từ-chối đồng nghĩa với chống đối cách-mạng. Quan-điểm chính-trị bị nâng cao vút. Anh khinh-nhờn sự chiếu-cố của cách-mạng là anh không thích tiến-bộ, là anh nuôi dưỡng tư-tưởng phản-động, là anh cầm chắc sự khốn-nạn suốt quá-trình lao-cải.
Người cộng-sản dùng câu Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động làm khuôn vàng thước ngọc đề đo tâm-hồn con người. Khuôn vàng này là bảo-sinh-viện của gian dối. Con người cộng-sản và con người trong chế-độ cộng-sản suốt đời đóng kịch giả vờ. Buồn phải giả vờ vui. Đói phải giả vờ no. Đau khổ phải giả vờ hạnh-phúc. Chổng-đối phải giả vờ ủng-hộ. Đả-đảo phải giả vờ hoan-hô. Ghét phải nói yêu. Tí-hon phải nói vĩ-đại. Thua phải nói thắng. Vân vân. Chân-lý là xa-xỉ-phẩm dưới vòm trời cộng-sản. Thi-sĩ Phùng Quán đã khao-khát sự chân-thật. Ông tuyên-chiến với chủ-nghĩa cộng-sản chỉ vì “Tôi muốn làm nhà văn chân-thật, chân-thật trọn đời”. Những kẻ chân-thật trọn đời không có đất sống dưới ánh mặt trời Đảng. Họ sẽ bị hủy-diệt hoặc sẽ bị tẩy não để đồng-hóa với gian dối.
Ở trại cải-tạo, giáo điều Tư-Tưởng Thể-Hiện Hành-Động được các bậc thẩy quản-giáo ranh con suy-diễn thêm: “Hành-động tốt thì tư-tưởng tốt. Tư-tưởng tốt do lao-động tích-cực. Lao-động chính là thước đo giá-trị con người. Nhưng muốn tư-tưởng tốt, cần triệt-để thi-hành đúng Nội- quy, Tiêu-chuẩn cải-tạo và Nếp sống văn-hóa mới”. Những tù-nhân khôn ngoan nhất, thông-minh nhất là những tù-nhân quán-triệt cái võ-đạo của nhà Mộ Dung. Mày muốn tư-tưởng thể-hiện hành-động thì ông thể-hiện hành-động. Ông giả vờ khiếp-nhược, ông nín thở qua cầu. Tâm-sự của ông, ông dấu kỹ đáy tim, mày sao biết nổi. Những tù-nhân thích chân-thật, thích khoe móng vuốt thích thể-hiện sự chống đối, đều bị rơi vào bẫy…cải-tạo. Hiển nhiên, họ bị chặt hết nanh vuốt, bị đầy đoạ tới mức bị cô- lập. Cuối cùng, họ trở thành những người khiếp-nhược hơn cả những kẻ đã bị họ miệt thị khiếp-nhược.
Cộng-sản độc-quyền anh-hùng. Phải nhớ kỹ điều đó! Họ tự nhận họ ưu-việt, ”cái nôi của loài người đỉnh cao của trí tuệ”. Sự ngạo-mạn phát-xít đó không cho phép những kẻ chống đối họ làm anh-hùng trong thế-giới của họ. Cộng-sản lại không ngu-si đần-độn như đa số những người chống họ tưởng-tượng. Họ rất giỏi sự quản-lý con người và kiêu-ngạo.
Cho những anh trung-sĩ giáo-dục đại-tá, nhà văn, nghệ-sĩ, thẩm-phán, bộ trưởng, bác-sĩ của chúng ta, họ quả là kiêu-ngạo xấc-xược, thứ kiêu-ngạo đầy mặc-cảm. Vị đại-tá Quân-lực Việt Nam Cộng-hoà có nên anh-dũng chống đối thằng trung-sĩ chăn trâu cắt cỏ về tư tưởng không nhỉ? Thế thì giả vờ và gian dối là triết-lý sống tuyệt hảo ở trại lao-cải cộng-sản. Tiếc thay, người ta đã không đủ kiến-thức cộng-sản, không có kinh-nghiệm cộng-sản để đương đầu cộng-sản trong nghịch-cảnh. Nhưng trách chi? Hai mươi năm chống cộng-sản, chúng ta có nghiên-cứu chủ-nghĩa cộng-sản đâu? Chúng ta chỉ hô to một khẩu-hiệu “Đả đảo cộng-sản”!
--------------------------------
1 Một bút hiệu ký ở mục Bẩy Ngày Đêm Tính Quẩn Chuyện Đời trên tuần-báo VNTP của Nguyễn Mạnh Côn.
2 Và các thành phố, các thị-xã miền Bắc luôn.
3 Xin miễn nêu tên.
Trại Tập Trung Trại Tập Trung - Duyên Anh Trại Tập Trung