A book that is shut is but a block.

Thomas Fuller

 
 
 
 
 
Tác giả: William Barclay
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Van Kien
Số chương: 16
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1332 / 40
Cập nhật: 2016-09-17 16:45:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
IN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 5
Bắt Đầu Câu Chuyện
Máccô 1,1-4
1 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: 2 Trong sách ngôn sứ Isaia có chép rang: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con.3 Có tiếng người hô trong hoang địa: Hăv dọn san con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thằng đê Người đi.4 Đúng theo lời đó, ông Gioan Tay Giả đà xuất hiện tronọ, hoanq địa, rao giảnẹ kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ ỉòn% sám hôi đê được ơn tha tội.
Máccô bắt đầu câu chuyện về Chúa Giêsu bằng cách lùi thật xa về quá khứ. Câu chuyện không bắt đầu bằng biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu, cũng không bắt đầu với việc Gioan Tẩy Giả vào trong hoang địa, mà bắt đầu với các giấc mơ của nhiều ngôn sứ từ lâu, nghĩa là đã bắt đầu từ ngàn xưa.
Người Khắc kỷ (Stoics) vốn rất tin tưởng vào phần kế hoạch có trật tự của Chúa. Marcus Aurelius nói “Những điều thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn do việc nhìn thấy trước, mọi sự đều từ trên trời tuôn trào ra”. Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi sau đây:
1. Có người bảo: “Ý nghĩa của thanh niên vốn là những tư tưởng rất dài hạn”, và các tư tưởng của Chúa cũng vậy. Đặc tính của Thiên Chúa là thực hiện các mục đích của Ngài. Lịch sử không phải là một mảnh kính vạn hoa do nhiều biến cố ngẫu nhiên kết hợp, đó là một diễn trình do Chúa là Đấng điều khiển và đã thấy kết cục ngay từ ban đầu.
2. Chúng ta đều nằm trong diễn trình đó, vì thế chúng ta không
thể tiêp tay hay cản ngăn. Theo một ý nghĩa, thì dự phần vào một diễn trình quan trọng nào đó là một vinh dự lớn lao, cũng như được đặc quyền nhìn thấy trước phần kết thúc tối hậu. Thay vì trông chờ một mục tiêu từ xa mà hiện tại không thể đạt đến được, chúng ta cố gắng hết sức để mỗi ngày đem mục tiêu ấy đến gần hơn thì cuộc đời sẽ đổi khác. Mục tiêu sẽ chẳng bao giờ đạt được, trừ khi có những người chịu lao khổ để biến nó thành sự thật.
Phần trích dẫn các sách tiên tri của Máccô đã gợi lên nhiều ý rất hay:
6 WILLIAM BARCLAY
1,1-4
“Này ta sai sứ giả ta đi trước mặt con. Người sẽ dọn đường cho con”. Cau này trích từ MI 3,1. Trong nguyên bản, đây là một lời đe dọa. Trong thời của Malakia các tư tế đã thất bại trong nhiệm vụ của họ. Các của lễ đều có tì vết, bị loại ra và kể là thứ phẩm. Đối với họ, việc phục vụ trong đền thờ thật mệt mỏi, chán chường. Vị sứ giả sẽ phải đến để thanh tẩy và thanh lọc việc thờ phượng trong đền thờ trước khi Đấng được xức dầu của Thiên Chúa xuất hiện. Vậy Chúa Cứu Thế đến là để thanh lọc đời sông mà thế gian đang cần. Seneca đã gọi Roma là “một ao tù tội lỗi”. Juvenal bảo nó “giống như một đường ống ô uế mà tất cả những con suối đầy cáu cặn đáng ghê tởm của các xứ Syri và Akhaia đều đổ dồn vào đó”. Kitô giáo đến bất kỳ nơi nào đều cần làm công việc thanh lọc cho nơi đó.
Việc ấy là một sự kiện có thể chứng minh được bằng những chuyện có thật. Bruce Barton kể rằng, công việc quan trọng đầu tiên mà người ta giao cho ông trong đời viết báo, là bảo ông phải viết một loạt bài để giới thiệu nhà truyền giáo Bi Uy Sunday. Ông chọn ba thành phố và ông viết “Tôi đến hỏi chuyện các thương gia, họ cho biết: Sau những buổi nhóm họp cầu nguyện, người ta đổ xô đến các nơi thu tiền để trả các món nỢ đã cũ, đến nỗi chúng tôi đã xóa sổ từ lâu. Tôi đến thăm vị chủ tịch phòng thương mại của một thành phô" mà Billy Sunday đã từng thăm ba năm trước đó. Ông ta cho biết: Tôi không phải là thành viên của Hội Thánh, tôi chẳng bao giờ đến. nhà thờ nhưng tôi có thể nói với ông một việc, nếu bây giờ có ai đề nghị mời ông Billy Sunday trở lại thành phố này, nếu chúng tôi biết trước kết quả công việc ông ấy làm như đã biết hiện nay, nếu Hội Thánh không quyên góp đủ tài chánh để mời ông ấy đến, thì chỉ trong vòng nửa ngày thôi, tôi có thể quyên được số tiền ấy từ nơi những người chẳng bao giờ đến nhà thờ. Một gánh xiếc đến đây, thu một số tiền bằng ngần ấy chỉ trong một ngày rồi đi mất, chẳng để lại gì cả. Nhưng ông Billy Sunday đã để lại một bầu không khí đạo đức khác hẳn trước”. Phần giới thiệu mà Bruce Barton muốn viết đã biến thành một lễ vật tỏ lòng tôn kính quyền phép thanh lọc của sứ điệp Kitô giáo.
Lúc Billy Graham giảng tại Shreveport, Louisiana, các cửa hàng bán rượu mạnh giảm đi 40% doanh thu và sô" Kinh Thánh bán ra tăng lên 300%. Sau một chiến dịch tại Seattle, trong sô" các kết
1,1-4
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 7
quả, CÓ một câu rất đơn giản “Nhiều vụ ly hôn đã dự định nay được hủy bỏ”. Tại Greensboro, North Carolina, bản phúc trình ghi nhận “Toàn thể cơ cấu xã hội của thành phố đã chịu ảnh hưởng”.
Một trong những câu chuyện kể về Kitô giáo có thể làm gì là câu chuyện lịch sử đã ghi lại một vụ nổi loạn trên tàu Bounty. Bọn cướp tàu ấy bị tống lên đảo Pitcaim. Có chín tên nổi loạn, sáu người đàn ông bản xứ, mười đàn bà bản xứ và một bé gái mười lăm tuổi. Một trong đám người đó có người biết nấu rượu. Kết quả là tình hình trở nên khủng khiếp. Tất cả đều chết, ngoại trừ Alexander Smith. Smith may mắn gặp một quyển Kinh Thánh. Ông ta đọc sách ấy và quyết tâm xây dựng một quốc gia với thổ dân trên đảo, lập nền trên Kinh Thánh. Mãi 20 năm sau mới có một chiếc thuyền buồm nhỏ đến thăm đảo, người ta gặp tại đó một cộng đồng hoàn toàn Kitô giáo. Ớ đó không có nhà tù vì không có tội ác. Không có bệnh viện vì không ai đau ốm. Không có dưỡng trí viện vì không ai bị loạn trí. Không có ai mù chữ và không có nơi nào trên thế giới sinh mạng và tài sản được an toàn bằng tại đấy. Kitô giáo đã thanh lọc xã hội ấy. Nơi nào Chúa Cứu Thế được mời đến thì chất sát trùng của niềm tin Kitô đã tẩy sạch chất độc của xã hội, khiến nó trở nên trong sạch, thuần khiết.
Rồi Gioan đến, rao giảng một phép rửa tỏ lòng sám hối. Người Do Thái vốn quen thuộc với nghi lễ tẩy rửa. Lê vi 15 đã mô tả chi tiết các nghi lễ ấy. Tertullian nói “người Do Thái tắm rửa hằng ngày vì mỗi ngày họ đều bị nhiễm ô uế”. Các biểu tượng về tẩy rửa và thanh lọc được đưa vào chính cơ cấu và nghi lễ của dân Do Thái. Người ngoại nhất thiết bị kể là ô uế vì chẳng hề giữ luật Do Thái. Cho nên khi một người ngoại nhập đạo Do Thái, nghĩa là tin theo Do Thái Giáo, thì người ấy phải làm ba việc. Thứ nhất, phải chịu phép cắt bì, vì đó là dấu hiệu về một người của giao ước. Thứ hai, phải dâng một sinh tế, vì với tư cách là người ngoại, người ấy cần được chuộc tội, mà chỉ có máu mới chuộc được tội lỗi. Thứ ba, phải chịu phép rửa vì tượng trưng cho việc mọi ô uế trong quá khứ của mình đều đã được tẩy sạch. Cho nên, lẽ tự nhiên phép rửa không phải chỉ là việc rảy nước lên người nhưng là việc tắm toàn thân trong nước. Người Do Thái biết rõ phép rửa, nhưng chuyện lạ trong phép rửa của Gioan, là ở chỗ Gioan là người Do Thái mà lại dạy người Do Thái cần phải chịu một nghi
8 WILLIAM BARCLAY
1,1-4
lễ chỉ có người ngoại mới phải chịu. Gioan đã có một khám phá phi thường là một người Do Thái theo phương diện chủng tộc vẫn chưa phải là thành viên của tuyển dân của Chúa; một người Do Thái cũng ở địa vị như một người ngoại, không phải hễ là người Do Thái thì tự nhiên thuộc về Chúa, nhưng người có đời sống được thanh tẩy, đó là người của Chúa.
Phép rửa kèm theo việc xưng tội. Bất cứ hành động nào liên quan đến sự trở về cùng Chúa, việc xưng tội được đòi hỏi đối với ba đối tượng:
1/Người ta phải tựxưng tội với chính mình. Bản tính con người thường là muốn nhắm mắt làm ngơ trước những gì ta không muốn nhìn thấy, và trên hết là chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với tội lỗi của chính mình. Người ta kể câu chuyện về bước đầu tiên đến được với ân sủng của một người kia. Một hôm, lúc đang cạo râu, ông ta thấy mặt mình trong gương, thình lình ông ta thét lên “À ra mày, mày là một thằng khốn nạn, bẩn thỉu”. Và từ đó, ông ta trở nên một người khác hẳn. Chắc chắn sau khi bỏ nhà ra đi, người con trai hoang đàng nghĩ rằng mình là nhân vật tử tế, thích mạo hiểm. Nhưng trước khi quyết định trở về nhà, anh ta đã nhìn lại mình thật kỹ và tự nhủ “ta sẽ đứng dậy, trở về nhà và nhận rằng ta là một đứa con hoàn toàn hư hỏng” (Lc 15,17.18). Trên đời này, đối diện với chính mình thì khó hơn là phải đối diên với bất kỳ ai khác, và bước đầu của hoán cải, của việc làm hòa lại với Chúa là phải tự thú nhận tội lỗi của mình với chính mình.
2/ Người ta phải xưna tội với kẻ mình đã đối xử sai quấy. Thưa với Chúa rằng ta ăn năn hốì tiếc là vô ích nếu trước đó ta chưa ăn năn hối hận với những người đã bị ta xúc phạm và gây thương tổn, làm buồn phiền. Phải cắt bỏ các chướng ngại giữa người và người với nhau trước khi có thể gỡ bỏ các chướng ngại với Chúa. Thông thường xưng tội với Chúa vốn dễ hơn xưng tội với người, nhưng nếu có sự khiêm nhường hạ mình, thì vẫn không có tha tội.
3/ Người ta phải xưng tội với Chúa. Kết thúc kiêu ngạo là khởi điểm của tha tội. Chỉ khi nào một người nói “tôi có tội”, mới có hy vọng được Chúa phán “Ta tha tội cho con”. Không phải kẻ muốn đến gặp Chúa với tư cách tay đôi như hai người ngang hàng với nhau mà được tha tội, nhưng phải là người quì gối xuống với tâm
1,5-8
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 9
lòng khiêm hạ, ăn năn, thống hối, xấu hổ thì thầm “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
Sứ Giả Của Nhà Vua
Máccô 1,5-8
5 Mọi nqười từ khắp mien G iu đê và thành Giêrusalem kẻo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. 6 Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng đây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.7 Ồng rao giâng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tỏi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Nạười.8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em tronẹ nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần. ”
Rõ ràng chức vụ của Gioan đã có kết quả lớn vì mọi người đổ xô đến nghe ông giảng và chịu để ông làm phép rửa cho họ. Tại sao Gioan lại gây được ảnh hưởng lớn trên dân tộc ông như vậy?
1/ Gioan là người sống theo sứ điệp ông rao giảng. Chẳng những ông chỉ phản đối bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sông của ông nữa. Có ba điều ở ông đã chứng thực cho lời phản đối của ông về đời sống tạm bợ này.
(a) Nơi ông ở. Ông ở trong hoang địa. Giữa trung bộ xứ Giuđê và Biển Chết, có một vùng hoang địa khủng khiếp nhất thế giới. Đó là một hoang địa đá vôi trông gồ ghề, vặn vẹo. Nó phản chiếu lấp lánh dưới sức nóng gay gắt, các khối đá vôi nóng bỏng làm phỏng da, người ta có cái cảm giác như chúng rỗng ruột, như đang đi trên một lò nung ở dưới mặt đất. Nó nghiêng về phía Biển Chết rồi tạo thành những dôc thẳng đứng đáng sợ, dẫn xuống những hố sâu không thể nào leo lên được về phía bờ biển. Trona Cựu Ước, thỉnh thoảng nó được gọi là Jeshimmon nghĩa là nơi hoang vu. Gioan không phải là một thị dân. Ông là người từ hoang địa, từ nơi hoang vu vắng vẻ mà đến. Ông là người từng đi tìm cơ hội để được nghe tiếng Chúa phán dạy.
(b) Y phục ông mặc, ông inặc áo dệt bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Êlia cũng từng ăn mặc như vậy (Lv 1,8). Nhìn một người như thế người ta sẽ không thể liên tưởng tới một nhà
10 WILLIAM BARCLAY
1,5-8
hùng biện thời danh, ăn mặc đúng thời trang, nhưng nhớ lại các ngôn sứ thời xưa từng sinh sống hết sức giản dị, tránh mọi lối xa hoa yếu mềm, yểu điệu, thường giết chết tâm hồn.
(c) Thực phẩm. Thực phẩm của ông là châu chấu và mật ong rừng. Cả hai từ này đều có thể có hai nghĩa. Châu chấu là giống vật được luật cho phép ăn (Lv 11,22.23), nhưng cũng có thể đó là một loại đậu hay hột gọi là carob, vốn là lương thực của kẻ nghèo. Mật ong có thể là mật của loài ong rừng đóng tổ trong các bọng cây hoặc cũng có thể là một loại nhựa ngọt chảy ra từ lớp vỏ của một vài loại cây. Từ này có nehĩa chính xác vẫn không là vấn đề quan trọng. Dầu thế nào đi nữa thức ăn của Gioan rất đạm bạc, ông đã xuất hiện trong tình trạng như vậy. Thiên hạ thường thích nghe những người như thế. Người ta kể về Carlyle rằng “Ông giảng hai mươi bộ sách Phúc Âm bằng sự im lặng”. Ngược lại có nhiều người đã đem đến một sứ điệp mà chính đời sống họ lại phủ nhận nó. Lắm người có nhiều tiền gửi ngân hàng, nhưng lại giảng rằng đừng tích trữ của cải ở dưới đất, nhiều người ca tụng các phúc lộc của kẻ nghèo, nhưng lại sống trong một biệt thự khang trang, trưởng giả. Nhưng trong trường hợp của Gioan, ông là con người của sứ điệp, sống theo chính sứ điệp rao giảng và vì thế dân chúng đã nghe ông.
2/ Thông điệp của ông sở dĩ được hiệu nghiệm vì ông nói với dân chúng điều mà thâm tâm họ vẫn biết, ông đem đến cho họ điều mà họ vẫn mong đợi.
(a) Người Do Thái có câu “nếu dân Israel giữ trọn luật Chúa chỉ trong một ngày thì Nước Trời sẽ đến”. Khi Gioan kêu gọi họ hoán cải là ông đặt họ đốì diện với sự chọn lựa, với quyết định mà tự đáy lòng họ đã biết rất rõ đó là việc họ phải làm. Từ xưa, Plato đã nói rằng giáo dục khône phải là nói với người ta những điều mới lạ nhưng là rút ra từ ký ức họ những gì họ đã biết rồi. Không có sứ điệp nào hiệu nghiệm cho bằng nói với chính lương tâm con người, và sứ điệp ấy hầu như trở thành điều họ không thể cưỡng lại được khi nó được một người đầy đủ thẩm quyền nói ra.
(b) Dân Israel biết rõ rằng từ ba trăm năm qua, tiếng nói ngôn sứ đã im bặt. Họ đang chờ đợi một tiếng nói thật sự từ Thiên Chúa đến và họ đã nghe được nơi Gioan. Trong mọi lãnh vực của đời
1,9-11
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 1 1
Sống, người ta dễ nhận ra ai là nhà chuyên môn. Một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng kể rằng ngay khi Toscanini đứng lên chiếc ghế nhạc trưởng, toàn ban cảm thấy uy quyền của con người ây tràn qua trên họ. Chúng ta nhận biết ngay một vị bác sĩ mát tay. Nghe một diễn giả thấu hiểu đề tài mình trình bày, chúng ta nhận biết ngay. Gioan vốn từ Thiên Chúa đến, chỉ nghe ông nói là đủ để nhận ra.
3/ Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản việt văn dịch là giày) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẩn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
4/ Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tâm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Ngày Quyết Định
Máccô 1,9-11
ọ Hồi ẩy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan.10 Vừa lên khỏi nước, Người
HCM - 8 250 745
12 WILLIAM BARCLAY
1,9-11
liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khi như chim bồ câu ngự
xuống trên mình.“ Lại có tiếng từ trờiphátĩ rang: “Con là Con yêu
dấu của Cha, Cha hài lỏng về Con. ”
Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn
phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi
hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và
muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng
một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại
không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải
là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao?
Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.
I​l/ Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua
I​Ngài ở tại Nazaret, Ngài là trung tín làm bổn phận hàng ngày trong
*​nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình,
jg​chắc Ngài đana chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của
Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc
Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sông đều có những
khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ.
Chẩp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại.
Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao
giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và
thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không
biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa
chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu
biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nazaret
vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài
phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
2/ Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dây lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sư hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một
1,9-11
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 13
phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.
3/ Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Máccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “này là Con yêu dấu của ta” như Mt đã ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràn quyết định ấ) đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.
4/ Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bây giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. cả Mt lẫn Lc đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu,
14 WILLIAM BARCLAY
1,12.13
bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.
Thời Gian Chịu Thử Thách
Máccô 1,12.13
12 Thần Khí liền đay Người vào hoang địa.13 Người ở trong hoang địa bổn mươi ngày, chịu Xcitan cám dỗ, sổng giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
Giờ vinh quang của phép rửa qua chưa được bao lâu, tiếp đến là chiến trận của cám dỗ. Có một điểm nổi bật ở đây hết sức sống động mà ta không thể bỏ qua. Chính Thần Khí đã giục Chúa Giêsu vào hoang địa để trải qua thử thách. Chính Thần Khí vừa ngự xuống trên Ngài lúc chịu phép rửa đã đưa Ngài vào hoang địa.
Sông trên đời, chúng ta sẽ không thể nào tránh được việc tấn công của cám dỗ, nhưng điều chắc chắn là những cám dỗ không nhằm khiến chúng ta phải sa ngã. Chúng đến nhằm củng cố các gân cốt của trí tuệ, tấm lòng và linh hồn chúng ta. Chúng không được đưa đến để nhằm làm hại, hủy diệt chúng ta, nhưng nhằm đem lợi ích cho chúng ta. Chúng là những phương tiện thử nghiệm để khi ra khỏi đó, chúng ta sẽ trở thành những chiến sĩ, những lực sĩ thiện chiến hơn, mạnh mẽ hơn của Chúa. Giả sử có một thanh niên chơi túc cầu thật hay trong đội dự bị và thấy nhiều triển vọng, người huấn luyện của cậu sẽ làm gì đây? Chắc chắn ông không xếp cậu đá cho đội hạng bét để suốt trận cậu chẳng cần đổ mồ hôi, nhưng ông sẽ xếp cậu đá cho đội tuyển chính thức để cậu phải chịu thử thách như chưa bao giờ chịu thử thách trước đó, để cậu có cơ hội chứng tỏ chính mình. Đó là mục đích mà cám dỗ nhắm vào, đó là cơ hội tạo cho chúng ta tự chứng minh nhân cách của mình để khi ra khỏi đó, dược vững vàng, mạnh mẽ hơn cho cuộc chiến đấu.
Bốn mươi ngày là một cụm từ không nên lìiểu theo nghĩa đen. Người Do Thái thường dùng từ ấy chỉ một thòi gian đáng kể. Môsê đã lên đỉnh núi với Chúa bôn mươi ngày (Xh 24.18). Sau khi được
1,1Z. 1 J
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 15
bữa ăn của Thiên Sứ, Êlia đã có sức để đi trong bốn mươi ngày (IV 19,8). Người Do Thái không dùng câu bốn mươi ngày theo nghĩa đen, nhưng nhằm chỉ một thời gian tương đối dài.
Chính qủy Satan đã cám dỗ và thử thách Chúa Giêsu. Quan niệm về quỉ Satan rất lý thú, đáng cho chúng ta chú ý.
Từ Satan trong Hy văn chỉ có nghĩa đơn là kẻ chống đối, kẻ thù. Trong Cựu Ước nó vẫn được dụng nhiều lần theo nghĩa là những kẻ thù thông thường, những người chống đối. Vị thiên sứ của Chúa là Satan đứng chặn đường Balaam (Ds 22,22). Dân Philitinh sợ rằng Đavít có thể trở thành Satan của họ (2Sm 29,4); Đavít xem Abisai như Satan của mình (2Sm 19,22). Salômôn tuyên bô" rằng Thiên Chúa đã cho ông hòa bình, thịnh vượng đến nỗi nhà vua không còn Satan nào chông lại mình nữa (IV 5,4). Ban đầu từ ấy chỉ có nghĩa là kẻ thù, nhưng dần dần có thêm nghĩa là kẻ kiện cáo người khác. Chính theo nghĩa ây, chữ Satan đã được dùng ở Gióp 1. cần ghi nhận rằng trong chương đó, Satan chính là một trong những con cái của Chúa (G 1,6), nhưng công tác đặc biệt của satan là soi mói con người (G 1,7) để tìm dịp kiện cáo họ trước mặt Chúa. Việc làm của Satan là kiếm đủ chuyện để chống.
Một danh hiệu khác nữa của Satan là ma quỉ, từ ma quỉ vốn do từ Hy văn diabolos, nghĩa đen là kẻ nói hành. Từ ý nghĩa là kẻ kiếm chuyện để chông lại một người đến ý nghĩa là kẻ cô" ý và quỉ quyệt nói hành, nói xấu một người trước mặt Thiên Chúa chỉ là một bước ngắn. Nhưng trong Cựu Ước, Satan hãy còn là một sứ giả của Chúa, chứ chưa phải là kẻ thù quỉ quyệt số một của Ngài, nó chỉ là kẻ thù của loài người mà thôi.
Rồi vẫn còn thêm ý nghĩa hiểu về Satan. Sau khi bị lưu đày, dân Do Thái học hỏi được một số tư tưởng của Ba Tư. Tư tưởng Ba Tư được đặt trên quan niệm cho rằng trong vũ trụ này có hai thế lực, một thế lực của ánh sáng và một thế lực của tối tăm - Orrnuzd và Ahriman - một thế lực của điều thiện và một thế lực của điều ác. Toàn thể vũ trụ là bãi chiến trường của chúng và loài người phải chọn đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp ấy. Thật ra người ta nhìn biết và cảm thây cuộc đời là như vậy. Tóm lại, trên đời này có Chúa và kẻ thù của Ngài. Hầu như không thể nào mà không hiểu Satan là kẻ thù sọ một, tiêu biểu cho mọi thừ tfich. Đó chính là
16 WILLIAM BARCLAY
laz.u
ý nghĩa của tên nó, loài người luôn luôn hiểu về nó như thế, Satan đã trở thành kẻ chống nghịch Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, chúng ta thấy ma quỉ hay Satan ẩn mình phía sau bệnh tận và đau khổ của con người (Lc 13,16). Chính satan đã quyến rũ Giuđa (Lc 22,3), ma quỉ là kẻ chúng ta phải chống lại (IPr 5,8.9; Gc 4,7), chính quyền lực của ma quỉ bị công việc của Chúa Cứu Thế đập tan (Lc 10,1-19), chính ma quỉ đã bị hủy diệt hoàn toàn vào ngày sau cùng (Mt 25,41). Satan là thế lực chống lại Thiên Chúa.
ở đây, chúng ta có câu chuyện về cám dỗ, Chúa Giêsu cần quyết định phải làm công việc của mình như thế nào. Ngài biết rằng đây là một công việc phi thường và Ngài cũng ý thức đến những quyền, lực phi thường. Thiên Chúa Cha đã phán với Ngài “Hãy đem tình yêu của ta đến cho loài người, hãy yêu thương họ đến nỗi con sẽ vì họ mà chịu chết, hãy chinh phục họ bằng tình yêu thương không gì chiến thắng được, cả khi con phải kết thúc nó trên thập giá”. Quỷ Satan bảo với Chúa Giêsu “Hãy dùng quyền phép của ngươi để quét sạch loài người, hãy tiêu diệt các kẻ thù của ngươi, hãy chiếm lấy thế gian này bằng sức mạnh, quyền phép và làm đổ máu”. Thiên Chúa phán với Chúa Giêsu “Hãy thiết lập vương quyền bằng tình yêu”, Satan bảo Ngài “Hãy thiết lập một chế độ độc tài bằng bạo lực” Chúa Giêsu đã phải chọn giữa phương pháp của Thiên Chúa và đường lối của kẻ thù Thiên Chúa.
Câu chuyện ngắn gọn của Máccô kể lại về cám dỗ chấm dứt bằng hai nét sống động.
1/ Có thú rừng ở chung với Ngài. Trong vùng hoang địa có beo, gâu, heo rừng, chó rừng lang thang khắp nơi. Người ta thường cho rằng đó là những chi tiết sống động làm cho thêm vẻ đen tối, ghê rỢn của khung cảnh. Nhưng sự thật không phải vậy, đây là một điều hết sức đẹp đẽ vì nó có thể có ý nghĩa là các thú dữ đã đến để kết bạn với Chúa Giêsu. Trong giấc mơ của dân Do Thái về hoàng kim thời đại, họ vẫn mơ có một ngày nào đó, sự thù địch giữa loài người và loài vật không còn nữa “trong ngày đó Ta sẽ vì chúng mà lập giao ước cùng những thú đồng, chim trời và côn trùng trên đất” (Os 2,18), “bây giờ muông sói sẽ ở với chiên, beo nằm với dê, trẻ con đương bú sẽ chơi kề ổ rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò
1,14.15
'TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 17
tay vào hang rắn lục, nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của Ta” (Is 11,6-9). Sau này, chúng ta thấy Thánh Phanxicô đã giảng cho thú vật. Rất có thể ở đây cho chúng ta được nếm trước vẻ đẹp của thời kỳ mà con người và loài thú sẽ sống hòa bình với nhau. Chúng ta được thấy bức tranh trong đó loài thú nhận biết trước loài người rằng Ngài sẽ là bạn và là Vua của chúng.
2/ Có thiên sứ hầu Ngài. Trong lúc thử thách bao giờ cũng có sự thêm sức của Chúa. Lúc Êlisê và đầy tớ ông bị kẻ thù bao vây tại Đôtha và dường như chẳng còn đường nào thoát được, Êlisê đã xin Chúa mở mắt cho đầy tớ ông và chàng thanh niên ấy thấy chung quanh có những ngựa và xe bằng lửa của Chúa (2V 6,17). Chúa Giêsu đã không bị bỏ mặt một mình để chiến đấu trong cô đơn, và chúng ta cũng vậy.
Sứ Điệp Phúc Âm
Máccô 1,14.15
14 Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.'5 Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hoi và tin vào Tin Mừng. ”
Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.
1/ Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc Âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dung của nó.
(a) Đó là Tin Mừng chân lý (GI 2,5; C1 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đên, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nước. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.
>4
18 WILLIAM BARCLAY​1,J/+.IJ
(b) ĐÓ là Tin Mừng hy vọng (Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọng.
(c) Đó là Tin Mừng bình an (Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biết. Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ớ một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ bị Ngài bắt phục chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.
(d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa (Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải một Thiên Chúa của những lời hứa. Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.
(e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt (2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chết.
(g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi (Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cực. Nó khône phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.
2/ Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đối tâm
1,16-20
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCỔ​19
trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả
của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc,
về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu
rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi
thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội
lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là
chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính
tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thành Montaigne đã viết trong tập
tự truyện của ông. “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì
chính bản chất của nó, để chẵng những tránh hành động, mà còn
ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng
khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có
nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách
khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.
3/ Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin Tin Mừng”. Tin Tin
Mừng chỉ đơn giản có 1
Giêsu, tin rằng Chúa đi
tin rằng Chúa yêu thươn
điều gì để đưa chúng ta
có thể là sự thật, sẽ thật
Chúa Giêsu Chọn Bạn
Máccô 1,16-20
16 Người đang đi dọc theo biên hồ Galilê, thì thay ông Simôn với người anh là ônẹAnrê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.17 Ngirỏĩ bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. ”'8 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Dêbêđê, và ngirời em là ông Gioan. Hai ỏng này đang vá lưới ở trong thuyền.20 Nẹười nền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền vói những người làm công, mà đi theo Người.
Ngay sau khi Chúa Giêsu đã quyết định và xác định phương pháp hành động, thì Ngài bắt tay thiết lập bộ tham mưu của Ngài. Một lãnh tụ phải bắt đầu từ một điểm nào đó. Người ấy phải tự tạo
Ighĩa là nắm lạ
ing như lờí Chu
g thế gian
trở về với
sự trở thàn
cho mình một nhóm người để có thể thổ lộ tâm sự, để viết thông điệp của mình ngay trên tấm lòng của họ. Ớ đây, Máccô cho chúng ta thấy việc Chúa đã thực sự đặt nền móng cho Nước Trời, và gọi số người đầu tiên theo Ngài.
Tại xứ Galilê có nhiều ngư dân, Josephus có một thời gian làm tổng đốc Galilê và là một đại sử gia của dân Do Thái, kể lại vào thời ông có 330 thuyền đánh cá trên biển Galilê. Dân chúng ở Palestine thường ít ăn thịt, nói chung thì hàng tuần họ không ăn hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ (Le 11,11; Mt 7,10; Mc 6,30-44; Lc 24,12). Bình thường cá được đem muối vì không có phương tiện vận chuyển cá tươi. Cá tươi là một trong những loại cao lương mỹ vị ở các đô thị lớn, chẳng hạn như Roma. Chính tên của các thị trấn nằm trên bờ biển hồ cho thấy nghề chài lưới rất quan trọng. Bếtsaiđa có nghĩa là nhà cá, một thị trấn khác trên bờ biển hồ tên Tarichaea có nghĩa là công trường cú muối. Chính tại đây cá được chuẩn bị để chở đến Giêrusalem và đến tận Roma. Nghề buôn bán cá muối là một kỹ nghệ quan trọng tại Galilê.
Ngư dân thường dùng hai loại lưới, cả hai đều được đề cập trực tiếp hoặc ngụ ý trong các sách Phúc Âm. Có một loại gọi là sagènè, là một loại lưới kéo, người ta để nó ở phía sau lái thuyền, rất nặng và được thả ngay trên mặt nước, khi thuyền đi tới, nó chìm xuống dần dần, bốn góc lưới gặp nhau và trở thành một cái túi lớn nhốt cá vào trong. Loại thứ hai là loại mà Phêrô và Anrê vẫn dùng gọi là blestron, nó là một loại chài nhỏ, được khéo léo quăng ra bằng tay, nó có hình dáng như cây dù ném xuống nước và chìm dần để úp chụp cá vào trong.
Lẽ dĩ nhiên, nghiên cứu kỹ số người mà Chúa Giêsu đã chọn làm môn đệ là điều vô cùng thích thú.
1/ Chúng ta chú ý xem họ là ai. Họ chỉ là những người thường, họ không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển chọn từ giới tư tế, hoặc dòng quí tộc, không có học thức cũng không giàu có gì. Họ chỉ là ngư dân, nghĩa là những con người tầm thường, bình dị. Chưa hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu. George Bernard Shaw có lần nói “Tôi chưa hề nghĩ gì về giai cấp công nhân, ngoại trừ muốn xóa bỏ nó đi để thay vào bằng những kẻ nhạy cảm”. Trong quyến.
“The Patrician”, John Galsworthy ký thác lời cho một nhân vật của ông: “Quần chúng, tôi không ưa họ, tôi ghét sự ngu xuẩn đê tiện của họ, tôi ghét tiếng ồn ào của họ, ghét nhìn thẳng gương mặt họ, nó nhỏ mọn xâu xí làm sao ấy”. Trong một cơn giận Carlyle đã tuyên bố rằng tại Anh quốc có 27 triệu người thì đạ số đều là những người điên. Chúa Giêsu đã không cảm thấy như vậy, Lincoln nói: “Đức Chúa Trời yêu thương giới bình dân, Ngài đã tạo ra họ thật đông đảo”. Dường như Chúa Giêsu muôn mời gọi “hãy giao cho tôi mười hai người tầm thường, và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho tôi, tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành.
2/ Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì. Họ đang làm công việc hàng ngày của mình, họ đang đánh cá, vá lưới. Với nhiều nsôn sứ cũng vậy, Amos nói “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng không phải là con người của n'ỉôn sứ, nhưng ta là một kẻ chăm sóc những cây vả rừng. Chúa đã bắt lấy tôi và phán cùng tôi rằng: Hãy đi, nói cho dân ítraen” (Am 7,14.15). Tiếng gọi của Chúa Trời đến với một người không phải chỉ xảy ra trong nhà Chúa, cũng không chỉ ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hàng ngày. Một naười sông trong một thế giới đầy dẫy Chúa sẽ không thể nào trốn thoát khỏi Ngài được.
3/ Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là “hãy theo ta”. Xin đừng nghĩ rằng hôm ấy là lần đầu tiên Ngài đứng trước mặt họ. Chắc chắn họ đã từng đứng giữa đám đông để lắng nghe Ngài; họ đã từng nán lại để trò chuyện cùng Ngài sau khi số còn lại trong đám đông đã giải tán, và họ đã từng cảm thấy một điều gì kỳ diệu từ đôi mắt vốn có sức thu hút lạ lùng của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hề nói với họ “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, ta có một số triêt thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, ta muốn được thảo luận với các ngươi”. Ngài phán “Hãy theo ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng cá nhân đối với Ngài, tất cả đều bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩa là một khi muốn theo Chúa Cứu Thế chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông trong chúng ta, theo Chúa Cứu Thê như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Có người đã
22 WILLIAM BARCLAY
1,21-22
tâm sự “chúng ta thán phục người khác có lý do, còn chúng ta yêu người khác thỉ chẳng có lý do gì cả”. Sự việc xảy ra chỉ vì họ là họ, mà ta là ta, vậy thôi. Chúa Giêsu phán “Còn ta khi ta được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” (Ga 12,32). Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Chúa Giêsu đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.
4/ Cuối cùng, chúng ta chú ý đến điều Chúa Giêsu đã ban cho họ. Ngài giao cho họ một nhiệm vụ: Ngài không gọi để họ gặp mọi sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Có người bảo rằng, mọi người đều cần “một cái gì đó để có thể đầu tư cuộc sống của mình vào đây”. Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Ngài không phải để cho họ được mọi sự dễ dàng thoải mái, không phải để sống thụ động, cả ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện, chẳng làm gì cả. Ngài gọi họ vào một nhiệin vụ mà họ phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để đến cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng bào đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.
Chúa Giêsu Bắt Đầu Sứ Vụ của Ngài
Máccô 1,21-22
21 Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngav ngày sabát, Người vào hội đường gi cinq dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giàn ẹ dạy cùa Người, VI Ngirời giảng dạy như một Đang có thấm quyển, chứ không như các kinh sư.
Câu chuyện Máccô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Chúa Cha để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhận dấu ấn của Chúa Cha chứng tỏ Chúa Cha tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu chịu ma quỉ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có một nhóm nhỏ những tâm hồn đồng lòng hiệp ý nhau, để Ngài có thể viết lên đó những sứ điệp của Ngài. Nếu ai có một sứ điệp của Chúa cần rao giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào phải là Hội Thánh, là nơi họp
1,21-22
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 23
mặt những người thuộc về Chúa. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu sứ vụ của mình từ hội đường.
Có vài điểm khác nhau căn bản giữa hội đường và nhà thờ theo chúng ta được biết ngày nay.
(a) Trước hết hội đường là nhà trường để dạy đạo. Một buổi học trong hội đường chỉ gồm ba việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải Lời ấy. Không có cử nhạc, ca hát, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ, chỉ bảo, là chỗ có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ có một Đền thờ duy nhất, Đền thờ tại Giêrusalem. Luật quy định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do Thái thì phải có một hội đường, do đó, bất kỳ nơi nào có một nhóm người Do Thái định cư thì có hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi để người ấy trình bày.
(b) Hội đường tạo cơ hội cho người ta truyền rao một thông điệp như thế. Hội đường có một số chức sắc. Có ông trưởng hội đường, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc và thu xếp các buổi học. Có những người phân phát của bố thí. Hằng ngày có việc thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người đóng góp, sau đó được phân phát cho người nghèo. Những người nghèo nhất được cấp thực phẩm đủ 14 bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn gọi là người phục vụ. Vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách thánh. Vị ây cũng quét dọn hội đường, thổi kèn (loa bằng bạc) để loan báo ngày sa bát, dạy lớp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Nhưng có một chức vị mà hội đường không có, đó là người rao giảng hay thầy dạy thường xuyên. Khi mọi người họp lại và buổi họp bắt đầu thì người trưởng có nhiệm vụ chỉ định người giảng dạy. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thê bắt đầu sứ vụ của Ngài trong hội đường. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như một người có một thông điệp muốn rao truyền, do đó, bất cư hội đường nào của các cộng đồng đều dành tòa giảng cho Ngài dạy dỗ.
Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lân bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một mặc khải mới mẻ. Ngài không giảng dạy như các Kinh sư là các chuyên viên về luật. Các Kinh sư này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng licng nhẩt
24 WILLIAM BARCLAY
1,21-22
trên đời là Luật, Tora. Trái tim của Luật là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu Luật là năm quyển đầu của Cựu Ước mà họ gọi là Ngữ kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái, Luật ấy hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến. Họ tin rằng Luật vốn được Chúa trực tiếp trao cho Môsê, hoàn toàn thánh và có tính cách ràng buộc tuyệt đối. Họ bảo “Ai nói Tora không từ Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”, “Kẻ nào bảo Môsê đã viết Luật theo hiểu biết của riêng ông, dầu chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh bỉ Lời Chúa”.
Nếu Luật vốn thiêng liêng như thế thì có hai việc nẩy sinh. Một là Luật phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sông và đức tin; hai là Luật phải hàm chữa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy, Luật chỉ đòi hỏi hai điều, một là phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ cần thận, hai là Luật chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật hàm chứa phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm cho sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc, như vậy lý luận mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và khai triển Luật, có một giai cấp học giả, đó là những Kinh sư, các chuyên viên về Luật, danh xưng dành cho những người cao nhất trong họ là Rabi. Các Kinh sư này có ba nhiệm vụ:
(a) Họ căn cứ vào các nguyên tắc đạo đức trọng đại trong Luật để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy ra trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng. Do Thái giáo bắt đầu bằng các nguyên tắc đạo đức quan trọng, nhưng kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và quy tắc. Bắt đầu là một tôn giáo, nhưng kết thúc là chủ nghĩa duy luật.
(b) Nhiện vụ của các Kinh sư là truyền dạy Luật và khai triển. Các luật lệ và quy tắc lấy ra từ đó và suy diễn ra chẳng bao giờ viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật truyền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ Kinh sư này đến thế hệ Kinh sư khác. Người học trò giỏi là người có trí nhớ giống như “một cái giếng được lót bằng đá vôi không làm mất đi một giọt nước nào cả”.
1,23-28
TIN MỪNC) THEO THÁNH MÁCCÔ 25
(c) Sau cùng, các Kinh sư có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà, mỗi vụ kiện tụng như vậy lại tạo ra những luật lệ mới.
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với các Kinh sư chỗ nào? Ngài giảng dạy có uy quyền. Không có Kinh sư nào dám tự mình quyết định việc gì cả. Ông ta chỉ nói “Căn cứ theo lời dạy rằng...” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. Hễ nói ra một lời ỉà ông ta dựa vào câu này, câu nọ được ồng trích dẫn lại, từ những bậc thầy về luật mà thiên hạ đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu! Khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không còn thẩm quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, khôns dựa vào uy quyền của một chuyên viên nào cả, Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Đôi với dân chúng, nghe một người giảng dạy như vậy thật chẳng khác gì được một làn gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn thận trọng của các Kinh sư. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ vang vang, và chính giọng nói ấy đã tác động mọi người.
Chiến Thắng Đầu Tiên Đối Với Các Thế Lực Của Ma Quỷ
Máccô 1,23-28
23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên24 rang: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đền ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ônọ, là ai rồi: ông là Đâng Thánh của Thiên Chúa! ”2Ỉ Nhưng Đức Giêsu quát mảng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này! ” 26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.1 Mọi người đều kinh ngạc đên nôi họ bàn tản với nhau: “Thê nẹhìa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại cỏ uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chủng phải tuân lệnh!’’28 Lập tức danh tiếng Ngitời đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê.
Nếu lời Chúa Giêsu khiến dân chúng trong hội đường lây làm lạ thì việc làm của Ngài càng khiến họ vô cùng kinh ngạc. Trong
26 WILLIAM BARCLAY
1,23-28
hội đườnơ có một người bị tà ma ám. Anh ta gây rối và được Chúa Giêsu chữa lành. Qua suốt các sách Phúc Âm, chúng ta vẫn thấy những người bị tà ma và ma quỉ ám như thế. Vậy có gì ẩn sau việc ấy? Người Do Thái, và nói chung là cả thế giới thời xưa tin ma quỉ. Hamack nói “Cả thế giới và cả bầu không khí bao quanh đều đầy dẫy ma quỉ, không phải chỉ có việc thờ ngẫu tượng, mà mọi việc, mọi hình thức của đời sống đều bị chúng cai trị. Chúng ngự trên các ngai vàng, bay lượn trên những chiếc nôi, thật ra thì cả địa cầu là một hỏa ngục”. Tiến sĩ A. Rendle Short kể lại một sự việc chứng tỏ người thời xưa tin vào ma quỉ mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều nghĩa địa thời xưa người ta tìm thây những sọ người bị xoi lỗ. Trong một nghĩa địa nọ người ta thấy trong 120 xương sọ có sáu cái bị đục thủng như vậy. Với kỹ thuật giải phẫu giới hạn thời xưa, làm vậy không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, căn cứ vào việc chỗ xương ấy còn phát triển, người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta hãy còn sống. Điều cũng rõ ràng là lỗ đục xương sọ nhỏ đến nỗi nó không thể có giá trị điều trị hay giải phẫu nào và người ta biết rằng cái vòng tròn được lấy ra đó thường được đeo vào cổ như một thứ bùa chú. Lý do đực thủng như vậy là để ma quỉ có lối thoát ra khỏi thân thể một người. Nhưng nếu các nhà giải phẫu thời xưa sẩn sàng thực hiện một công cuộc giải phẫu như vậy, và nếu người ta cũng sẩn sàng chịu để cho đục như vậy, thì ta thấy niềm tin vào việc bị ma quỉ ám vốn có thật đến độ nào.
Vậy các ma quỉ ấy từ đâu ra? Có ba giải đáp cho vấn đề này. (1) Có người tin rằng chúng cũng xưa như công cuộc tạo thành trời đất vậy. (2) Có người tin rằng chúng vốn là linh hồn của những kẻ ác đã chết nhưng vẫn tiếp tục làm những công việc gian ác của nó. (3) Phần đông liên kết ma quỉ với câu chuyện xưa chép trong Sáng Thế 6,1-8 (đối chiếu với 2Pr 2,4-5). Người Do Thái phóng đại câu chuyện như thế này: Có hai thiên thần trốn Chúa để xuống địa cầu vì bị sắc đẹp của con gái loài người quyến rũ. Tên họ là Asên và Simsai. Một trong hai thiên thần này quay về với Chúa, còn người kia ở lại thế gian để thỏa mãn tham dục của mình và ma quỉ là hậu duệ từ con cháu vị ấy sanh ra. Từ chỉ ma quỉ là Mazzikin có nghĩa là kẻ làm hại. Vậy ma quỉ là các hữu thể thích là ác trung gian giữa Chúa và loài người, gây tai họa cho loài người.
1,23-28
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 27
Theo tin tưởng của dân Do Thái, thì ma quỉ có thể ăn uống và sinh con đẻ cái. Chúng đông khủng khiếp. Có người cho rằng có đến bảy triệu rưỡi ma quỉ, một người có thể có một vạn ma quỉ ở bên phải và một vạn ở bên trái. Chúng sống tại những nơi ô uế như mồ mả và những nơi có nước dơ, chúng sông trong sa mạc là nơi người ta có thể nghe tiếng hú của chúng. Chúng đặc biệt nguy hiểm cho các lữ khách cô đơn, phụ nữ có con, các cô dâu, chú rể và cho trẻ con ra ngoài sau khi trời tối và cho những người đi đường ban đêm. Chúng hoạt động đặc biệt trong sức nóng oi ả giữa trưa và giữa thời gian mặt trời lặn và mặt trời mọc lên. Có một con quỉ làm cho người ta đui, một con quỉ gây bệnh phong cùi, một con quỉ gây chứng đau tim. Chúng có thể truyền các khả năng làm ma quỉ của chúng cho người ta nữa. Chẳng hạn ma quỉ có thể biến may thành rủi và mọi người tin rằng của cải là do ma quỉ ban cho họ. Chúng cũng làm việc với một số các loài thú như rắn, bò mộng, lừa và muỗi. Theo Lilith thì quỉ đực đọi là shedim và quỉ cái là lilin. Các quỉ cái có tóc dài và là kẻ thù của con trẻ. Chính vì thế mà trẻ con có các thiên thần bảo vệ (18,10).
Vấn đề không phải là chúng ta tin hay không tin mọi điều vừa kẻ, cũng không phải là chuyện ấy có thật hay không. Vân đề là vào thời Tân Ước, người ta tin như vậy. Ngày nay, chúng ta vẫn nói “đồ quỉ”, đó là di tích của niềm tin cổ xưa. Khi có người tin là mình bị ma quỉ ám ảnh thì người ấy “ý thức về mình và về một hữu thể khác ở bên trong thúc đẩy, điều khiển mình”. Điều đó giải thích tại sao những kẻ bị quỉ ám tại Palestine thường kêu to lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng biết dù sao cũng có một số người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mesia, chúng biết khi Chúa Giêsu trị vì thì ma quỉ bị thanh toán, và kẻ tin rằng chính mình đã bị quỉ ám thì nói như chính con quỉ nói khi gặp Chúa Giêsu. Có nhiều kẻ làm thầy đuổi quỉ, tự xưng là có thể đuổi được quỉ. Việc ây có thật đến độ vào khoảng năm 340 sc, Hội Thánh Chúa thật sự có một dòng đuổi quỉ. Nhưng còn chỗ khác nhau này: thầy đuổi quỉ thông thường của dân Do Thái và dân ngoại thường dùng thần chú, gào thét, và nghi lễ có tính cách ma thuật. Chúa Giêsu đuổi quỉ ra khỏi người ta chỉ bằng một tiếng phán rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn đầy quyền năng. Chưa hề có ai thây việc như vậy trước đó, quyền năng không tại tiếng gào thét, đọc thần chú hay trong lời kêu cầu khân vái theo công thức, bằng nghi lễ công
phu, nhưng quyền năng vốn có ở trong Chúa Giêsu, cho nên mọi người đều kinh ngạc sững sờ.
Một Phép Lạ Tại Tư Gia
Máccô 1,29-31
29 Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nam trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chúa Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc khiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi họp tại hội đường, Ngài cùng các bạn đến nhà Phêrô. Theo thói quen Do Thái, bữa ăn chính trong ngày Sabát là sau buổi nhóm họp ở hội đường vào giờ thứ sáu, nghĩa là 12 giờ trưa (ngày của dân Do Thái bắt đầu vào 6 giờ sáng, các giờ cứ theo đó mà tính). Có thể Chúa Giêsu muốn được nghỉ ngơi sau những công việc căng thẳng và mệt nhọc trong buổi nhóm họp tại hội đường. Nhưng một lần nữa, có người đang cần đến quyền năng của Ngài, và Ngài lại dấn thân vì người khác. Phép lạ này nói với chúng ta vài điều về ba hạng người.
1/ Chúng ta biết về Chúa Giêsu, Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám đông người trong hội đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không chịu cứu giúp. Nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong hội đường, chúng ta lại thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều thầy trừ quỉ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái, những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la hò hét với nhiều đồ nghề và ma thuật. Trong hội đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ớ đây cũns có một sự việc như thế xảy ra. Bà mẹ vợ của Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Bệnh này từ xưa đến nay vẫn lan tràn tại vùng đất ấy của xứ Galilê. Kinh Talmud
cũng có kể ra các phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2.3 rồi đến 4.5. Rồi có một công thức ma thuật đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú theo ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Từ Hy văn được dùng chỉ quyền phép trong đoạn sách trên đây là exousia và exousia được định nghĩa là tri thức, cùng với quyền năng độc nhất vô nhị, đó chính là điều Chúa Giêsu vốn có và là việc Ngài sẩn sàng thi thố ngay trong một căn nhà tranh. Paul Tournier có viết “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: Tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là kiên nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người không phải là một nhiệm vụ khó nhọc. Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần Ngài cứu giúp.
2/ Chúng ta biết về các môn đệ của Ngài. Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng nsay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà mẹ vợ của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bốĩ rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên. Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ồng thường đến thăm một tu sĩ đã lớn tuổi và ông cũng chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc về cách cầu nguyện vô cùng đơn sơ của vị tu sĩ đó. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tu sĩ lão thành ấy luôn luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Ông Paul Tournier nói tiếp: “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ây, và chúng tôi cùng cầu xin Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp thân mật với Chúa Giêsu như vị tu sĩ nọ vậy. Từ đó, Ngài đã trở thành trọng tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về những việc đó. Ngài là bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đới sống mình ra thảo luận. Ngài chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi, Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn
30 WILLIAM BARCLAY
1,32-34
chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm bản chất của sinh hoạt Kitô hữu. Như lời một bài thánh ca: Hãy trình bày dâng mọi sự cho Chúa bằng lời cầu nguyện. “Thế là các môn đệ đã học được điều đã trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp mình”.
3/ Chúng ta biết vài điều về bà mẹ vợ của Phêrô. Ngay sau khi được chữa lành, bà cụ liền bắt tay phục vụ. Bà cụ đã dùng sức khỏe được hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Có một gia đình danh tiếng tại Tôcáchlan vẫn dùng khẩu hiệu này “được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu cứu giúp chúng ta là để chúng ta giúp đỡ người khác.
Những Đám Đông Buổi Đầu
Máccô 1,32-34
32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và nhũng ai bị quỷ ủm đến cho Người.33 Cả thành xúm lại trước cửa.34 Đức Giêsu chữa nhiều kẻ om đau mac đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhimg không cho quỷ nói, vì chủng biết Người là ai.
Những việc Chúa Giêsu đã làm tại Caphácnaum không thể nào giấu kín được. Một người mới xuất hiện, có uy quyền, có quyền năng là chuyện không tài nào dấu kín được. Cho nên ngay chiều đó, căn nhà của Phêrô bị một đám đông người mong được Chúa Giêsu chữa lành vây chặt. Sở dĩ họ phải chờ đến lúc mặt trời lặn là vì luật cấm mang một vật nặng đi trong thành phô" vào ngày Sabát (Gr 17,24), mang một vật nặng như thế là làm việc mà làm việc thì bị cấm. Dĩ nhiên thời bây giờ họ không có đồng hồ. Ngày Sabát kéo dài từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều và theo luật thì một ngày kết thúc khi có ba ngôi sao mọc trên trời. Cho nên người trong thành phải chờ đến khi mặt trời lặn, sao đã mọc, họ mới ra khỏi nhà và đưa người bệnh đến với Chúa Giêsu để Ngài chữa làrih cho họ.
Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho người ta ba lần. Lần thứ nhất Ngài chữa bệnh trong hội đường, lần thứ hai trong
IJZ-34
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCỔ 31
nhà một bạn thân của Ngài và giờ đây, lần thứ ba, Ngài chữa bệnh ở ngoài đường phô". Chúa Giêsu nhận biết ngay nhu cầu của bất kỳ ai muốn khấn xin Ngài. Có người nói về tiến sĩ Johnson rằng, gặp bất hạnh là điều chắc chắn để được ông kết bạn và trợ giúp. Bâ't cứ ở đâu có rắc rối, hoạn nạn thì Chúa Giêsu sẩn sàng sử dụng quyền năng của Ngài, Ngài không hề kén chỗ hay kén người. Ngài nhận biết nhu cầu phổ quát mà mọi người cần đến.
Sở dĩ đông người kéo theo Chúa Giêsu vì họ nhận thấy Ngài là con người có thể làm nhiều việc lạ. Có nhiều người biết nói chuyện, giải thích, thuyết giảng. Nhưng đây là một người không chỉ nói suông mà còn giải quyết mọi sự bằng hành động. Có người bảo rằng “Nếu ai đó biết làm một chiếc bẫy chuột tốt hơn người láng giềng của mình, thì dù người ấy có sống giữa rừng, dân chúng cũng tìm được đường đến nhà người ấy”. Người mà dân chúng cần đến là người có hiệu năng. Chúa Giêsu đã và đang tạo nhiều kết quả.
Nhưng tấm thảm kịch cũng bắt đầu từ đây. Đám đông đã kéo đến, nhưng họ kéo nhau đến là vì họ muôn Chúa Giêsu làm một việc gì đó cho họ. Họ đã không đến vì yêu mến Ngài hoặc vì được thấy một mặc khải mới mẻ, nói cho cùng, họ muôn lợi dụng Ngài. Đó là điều mà hầu như tất cả mọi người đều muốn nơi Thiên Chúa và Con Ngài. Với một lời cầu nguyện được dâng lên cho Chúa trong những ngày thịnh vượng, thì có đến một ngàn lời cầu xin dâng lên trong những lúc gặp khó khăn. Nhiều người không hề cầu nguyện lúc mặt trời đang chiếu sáng, lại bắt đầu cầu nguyện khi có các luồng gió mạnh thổi đến. Có người bảo đã có quá đông người xem đạo giáo như “một đội cấp cứu chứ không phải như một tuyến lửa của cuộc đời”. Với họ thì gặp khủng hoảng, cùng cực lắm, họ mới chạy đến với đạo giáo, chỉ khi họ gặp bước đường cùng trong cuộc sống hoặc khi họ bị cuộc đời cho đo ván, họ mới bắt đầu nhớ đến Chúa. Điều vẫn luôn luôn đúng là tất cả chúng ta phải đến cùng Chúa Giêsu và chỉ một mình Ngài mới có thể cung ứng các nhu cầu của đời sống cho chúng ta. Nhưng nếu việc đi đến và các tặng phẩm đó không làm phát sinh một tình yêu. Lòng biết ơn để đáp lại thì thật là một sai lầm thảm khốc. Thiên Chúa không phải là Đấng để chúng ta lợi dụng trong những ngày gặp bất
32 WILLIAM BARCLAY
1,35-39
hạnh. Ngài là Đấng phải được chúng ta yêu mến và mong nhớ mỗi ngày trong đời sông chúng ta.
Giờ Yên Tịnh Và Hành Động Thôi Thúc
Máccô 1,35-39
jS Sáng sớm, lúc trời còn toi mịt, Người đã dậv, đi ra một noi hoang vang và cầu nẹuyện ở đó.}b Ông Si mô n và các bạn kéo nhau đi tìm?1 Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầv đay! ”3H Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. ” 39 Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đumiq của họ, và trừ quỷ.
Chỉ cần đọc qua các sự việc xảy ra tại Caphácnaum cũng đủ thấy Chúa Giêsu không còn chút thì giờ nào để ở riêng một mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ: Ngài không thể sống không có Thiên Chúa. Nếu Ngài cứ phải luôn luôn ban phát thì ít nhất thỉnh thoảng Ngài cũng phải nhận vào. Nếu Ngài tự ban chính mình cho tha nhân thì Ngài cũng luôn luôn cần cầu xin để trợ giúp mình. Chúa Giêsu biết Ngài không thể sống mà không cầu nguyện. Trong một quyển sách nhỏ nhan đề “Cầu Nguyện Thực Hành”, tiến sĩ A.D.Belden đưa ra một trong những câu định nghĩa quan trọng về cầu nguyện “Cầu nguyện có thể được định nghĩa là tiếng kêu của linh hồn”. Không cầu nguyện là mắc phải một lỗi lầm điên rồ vĩ đại, đó là bỏ qua, không biết đưa Chúa vào số tài nguyên sẵn có của chúng ta. Trong cầu nguyện, chúng ta tạo cơ hội cho Chúa nuôi dưỡng các khả năns tinh thần của chúng ta. Chúa Giêsu biết việc đó, Ngài biết nếu phải gặp con người, trước hết Ngài cần phải gặp Thiên Chúa. Nếu cầu nguyện cần thiết cho Chúa Giêsu đến thế, nó còn cần thiết cho chúng ta biết bao!
Nhưng ngay đến trong những giờ phút đó họ vẫn đi tìm Ngài. Chúa Giêsu không có cách gì để đóng cửa lại đối với họ. Nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Rose Macaulay bảo rằng tất cả những gì bà đòi hỏi nơi đời sống là “một phòng riêng của mình”. Đó chính là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ có được. Một bác sĩ lừng danh nhận định nhiệm vụ của y học là “thỉnh thoảng chữa lành,
1,35-39
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCỒ 33
thôn" thường trấn an và luôn luôn là an ủi, vỗ về”. Nhiệm vụ ấy luôn luôn đặt trên Chúa Giêsu. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “giúp người ta sông và chết”, mà con người thì bao giờ cũng vừa sống vừa chết. Bản tính con người là cố tạo nên những hànơ rào để có thì giờ và bình an cho riêng mình, đó là điều Chúa Giêsu chẳnc bao giờ làm. Tuy ý thức được sự mỏi mòn suy kiệt của chính mình, Ngài lại ý thức rõ hơn tiếng kêu cứu bất biến của nhu cầu con người. Cho nên khi họ đến với Ngài, thì Ngài đã từ chỗ đang quì gối phải đứng lên để đối diện với thách thức của nhiệm vụ. Cầu nguyện chẳng bao giờ lại thay thế việc này việc nợ của chúng ta, điều nó có thể làm là thêm sức để chúng ta có thể làm những việc chúng ta phải làm.
Vậy, Chúa Giêsu lại ra đi, thực hiện một vòng rao giảng trong các hội đường xứ Galilê. Trong sách Máccô, vòng đi này chỉ được thu gọn trong một câu, nhưng chắc nó phải kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Trong chuyến đi này, Ngài vừa giảng dạy vìfa trừ quỉ. Có vài sự việc vẫn gắn liền nhau mà Chúa Giêsu không bao giờ tách rời.
1/ Ngài không bao giờ tách rời lời nói với hành động. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã làm xong một việc khi công việc ấy đang bị đình chỉ. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình đã xong nhiệm vụ sau khi đã khuyên dạy người ta đến với Thiên Chúa và sống thánh thiện. Những vấn đề được trình bày, và lời khuyên bảo của Ngài luôn luôn biến thành hành động. Fosdick kể chuyện về một sinh viên thường tìm mua những sách hay nhất, những học cụ tốt nhất, sắm một chiếc ghế đặc biệt để ngồi, có giá để sách hầu học hỏi nghiên cứu cho thuận tiện, rồi anh ta ngồi vào chiếc ghế ấy mà... ngủ. Người chỉ nói giỏi mà không làm giống như thế.
2/ Ngài không bao giờ phân rẽ linh hồn với thân xác. Có ý kiến cho rằng thân xác dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng con người là cả hồn lẫn xác. Nhiệm vụ của Kitồ giáo là cứu chuộc con người toàn diện chứ không phải chỉ cứu một phần con người mà thôi. Dĩ nhiên có người dù sông thiếu thôn trong một căn nhà lụp xụp, gặp hoạn nạn, đau khổ, nhưng luôn cảm nhận được phúc lộc qua những ngày tháng ngọt ngào với Chúa, nhưng đó không phải là lý do để cứ bỏ mặc con người ấy như vậy. Các hội truyền giáo cho người bán khai không phải chỉ đem đến cho họ quyển Kinh Thánh
34 WILLIAM BARCLAY
1,4U-40
mà thôi, nhưng đem giáo dục và thuốc men nữa, họ cũng đem đến trường học và bệnh viện. Thông điệp của Kitô giáo là thông điệp nhằm rao giảng và làm ích cho cả thân xác lẫn linh hồn người ta.
3/ Chúa Giêsu chẳng bao giờ tách rời đất với trời. Có những người qua bận tâm đến cõi trời đến nỗi quên hết mọi sự thuộc về đất, do đó trở thành những nhà duy tâm, chỉ mơ toàn chuyện lý tưởng không thực tế. Nhiều người khác lại quá bận tâm đến những điều thuộc về đất đến nỗi quên hết những điều thuộc về trời, để chỉ ciới hạn cái hay, cái tốt vào cái hay, cái tốt vật chất mà thôi. Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời kỳ mà ý Chúa sẽ thành tựu ở dưới đất cũng nhưở trên trời (Mt 6,10). Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời đại mà đất với trời chỉ là một.
Người Phong Cùi Được Sạch
Máccô 1,40-45
40 Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nen Ngài muốn, Ngài có thê làm cho tôi được sạch. ”4' Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi! ”42 Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.43 Nhuvg Người nghiêm giọnọ, đuôi anh đi ngay,44 và báo anh: “Coi chìmg, đừng nói ẹỉ với ai cả, nhimg hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, đế làm chứng cho người ta biết. ”45 Nhưng vừa ra khỏi đỏ, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thê công khai vào thành nào được, mà phải ở lại nhũng nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Trong Tân Ước không có chứng bệnh nào bị coi là khủng khiếp đáng thương hại bằng bệnh phong cùi. Lúc Chúa Giêsu sai mươi hai tông đồ, Ngài truyền dặn “Hãy chữa lành kẻ đau... làm sạch người phong”(Mtl0,8). số phận người phong rất hẩm hiu. E. w. G. Masterman trong bài viết về bệnh phong in trong bộ “Tự điển về Chúa Cứu Thế và Các Sách Phúc Âm” mà chúng tôi sẽ trích dẫn phần lớn có nói “không có bệnh nào khác đẩy người ta vào một tình trạng bị ghê tởm quá lâu năm như thế”. Trước hết, chúng ta hãy xét những sự kiện.
1,40-45
TIN MỪNG THEO THÁNH MÁCCÔ 35
CÓ ba loại bệnh phong:
1/ Có bệnh phong do lao xương, nó bắt đầu bằng vô số lần hôn mê, rời rã và đau nhức ở các khớp xương, rồi nó xuất hịên trên thân thể, đặc biệt là trên lưng thành từng mảng da tái nhợt. Trên các mảng da ấy hình thành những mụn nhỏ ban đầu màu hồng sau chuyển sang màu nâu. Da trở nên dày hơn. Các mụn nhỏ đặc biệt tập trung tại các nếp da trên má, trên mũi, trên môi và trên trán. Cả gương mặt bị thay đổi hoàn toàn, khiến mặt bệnh nhân không còn là mặt người nữa và theo người xưa nói, thì trông giống như mặt sư tử hay dê thần. Các mụn cứ lở loét và từ đó có nước thối chảy ra. Lông mày rụng hết, đôi mắt sáng lên, giọng nói trở thành khàn khàn và hơi thở thì khò khè vì những vết ung thối gây ảnh hưởng trên các dây thanh quản. Tay chân cũng lở loét. Dần dần bệnh nhân trở thành một khối lở loét. Thời gian trung bình của căn bệnh là chín năm và nó kết thúc bằng sự sa sút tinh thần, hôn mê, rồi chết. Bệnh nhân trở thành hết sức ghê tởm cả cho chính mình lẫn người khác.
2/ Có bệnh phong tê, các giai đoạn đầu của bệnh này cũng giông như trên, nhưng trong loại phong này các dây thần kinh nhiễm bệnh. Các khư vực bị nhiễm mất hết cảm giác. Nó có thể xảy ra mà bệnh nhân chẳng hay biết gì cả, ngay khi bị đốt hay bị cắt vẫn khôrìg có cảm giác đau ở những chỗ đáng lễ phải đau. Bệnh càng phát triển thì những chỗ dây thần kinh nhiễm bệnh trở thành nhợt nhạt, biến thành vết phồng lên. Các bắp thịt biến dần, các gân teo lại cho đến khi đôi tay bị co quắp lại. Móng tay rồi cũng biến dạng, rồi có những mụn lở loét ở bàn chân, bàn tay. Các ngón chân ngón tay rụng dần cho đến cuối cùng, cả bàn tay hoặc bàn chân có thể cụt hẳn. Căn bệnh kéo dài khoảng hai mươi đến ba mươi năm năm, đây là một cái chết dần mòn khủng khiếp của thân xác.
3/ Loại bệnh phong thứ ba là loại phổ biến nhất, kết hợp cả hai loại phong lở và phong tê.
Đó là bệnh phong nói chung, chắc đã có nhiều người phong như vậy tại Palestine vào thời Chúa Giêsu. Bệnh phong được mô tả ở Lêvi 13 và theo phần mô tả đó thì rõ ràng vào thời Tân Ước, từ “phong” được dùng chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da khác. Dường
như nó cũng dùng chỉ bệnh “bạch tạng” phủ toàn thân bằng những mảng da màu trắng, và có lẽ do đó mà có câu nói “bị phong trắng như tuyết”, dường như nó còn gồm cả bệnh sài (ring-worm) vốn khá phổ biến bên phương đông. Từ Do Thái chỉ bệnh phong ở Lêvi là tsaraath, nhưng Lêvị 13,47 còn đề cập tsaraath của y phục, và tsaraath trong nhà thì được đề cập trong Lêvi 14,33. những vết ố trên quần áo có lẽ do những loại nấm những mốc, ở trong nhà thì có lẽ do những loại nấm mốc trên cây mục hay trên loại rêu thường mọc trên đá. Dườna như từ tsaraath, bệnh phong theo ý nghĩa của dân Do Thái bao gồm tất cả các chứng bệnh ngoài da lan dần che phủ cả thân thể. Với kiến thúc y khoa thô thiển thời bấy giờ, không thể chuẩn đoán để phân loại các chứng bệnh ngoài da, nhưng gộp chung cả chứng bệnh nan y, chết người với những chứng bệnh không nguy hiểm mấy vào cùng một loại cũng tương đối vô hạn.
Bất kỳ chứng bệnh nào như kể trên đều khiến bệnh nhân bị ô uế, bị cấm thông công, giao thiệp với mọi người, phải ở riêng bên ngoài trại, đi đây đó với quần áo rách rưới, đầu trần, toàn thân che kín đến tận môi trên, vừa đi, vừa phải la lên “ô uế, ô uế” để báo cho mọi người về sự hiện diện ô uế của mình. Chúng ta có thể thấy cùng một cảnh tượng như vậy vào thời Trung cổ và đó chỉ là một hình thức áp dụng luật Môsê. Vị linh mục mặc áo choàng, cầm thập giá dẫn kẻ phong vào nhà thờ, đọc kinh hành lễ an táng cho bệnh nhân. Người phong tuy còn sống nhưng bị kể như đã chết. Người ấy phải mặc y phục đen để mọi người có thể nhận thấy và người ấy sống trong một trại cùi. Người ấy không được tham dự một buổi hành lễ trong nhà thờ, nhưng có thể nhìn qua một cái lỗ dành cho người phona đục trong vách khi buổi lễ được cử hành. Chẳng những kẻ phong phải chịu sự đau đớn thể xác mà còn phải gánh chịu nỗi buồn khổ và đau đớn tinh thần vì bị xã hội ruồng bỏ và thật sự bị xa tránh như người ta tránh xa bệnh dịch vậy.
Nếu người phong được lành, bệnh phong thật sự vốn là nan y nên có lẽ ở đây ám chỉ các chứng bệnh ngoài da khác, người ấy phải trải qua một nghi lễ phức tạp về việc được lành bệnh như đã mô tả trong Lêvi 14. Người ấy phải được thầy tư tế khám xét, phải đem đến hai con chim, một con bị giết trong dòng nước chảy, thêm vào đó còn phải đem cây hương nam, màu đỏ sậm và nhành kinh giới, các vật ấy và con chim còn sống được nhúng vào máu của con
chim đã bị giết, sau đó thả con chim bay đi. Người lành bệnh phải tắm rửa, thay y phục và cạo râu tóc. Bảy ngày sau, người ấy được tai khám. Bấy giờ, người ấy lại phải cạo lông, tóc, râu và lông mày. Rồi một số của lễ được dâng lên gồm hai con chiên đực không tỳ vết, một chiên cái chưa giáp năm, bột lọc chế dầu làm của lễ chay và một ít dầu. Số của lễ được giảm bớt cho người nghèo. Thầy tư tế lấy máu con vật và dầu bôi trên trái tai hữu, ngón tay cái bên mặt và trên ngón chân cái bên mặt của người được lành bệnh. Thầy tư tế khám xét lần cuối và nếu quả thật người ấy đã được lành bệnh, thì cho phép ra về với tờ chứng nhận người ấy đã được sạch.
Đây là một trong những bức tranh nổi bật của Chúa Giêsu:
1/ Ngài không xua đuổi kẻ đã vi phạm luật: Người phong không hề được quyền trò chuyện với Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã thỏa mãn nhu cầu của một người lâm cảnh tuyệt vọng bằng thái độ thương xót và đầy cảm thông.
2/ Chúa Giêsu đã đưa tay ra chạm đến bệnh nhân. Ngài đã rờ tay vào kẻ ô uế. Với Chúa Giêsu thì người ấy không ô uế, người ấy chỉ là một linh hồn đang lâm cảnh tuyệt vọng cần được cứu giúp.
3/ Sau khi chữa lành người ấy, Chúa Giêsu dạy người ấy nên đi về, làm đúng mọi thủ tục đã ấn định. Chúa Giêsu giữ đúng luật lệ và sống công chính theo cách loài neười. Ngài không bướng bỉnh thách đố các quy ước của loài người, nhưng khi cần, Ngài sẵn sàng phục tùng các quy ước ấy.
Ớ đây chúng ta thấy cả lòng thương xót, quyền năng và sự khôn ngoan được kết hợp
Tin Mừng Mác Cô, Chú Giải Tin Mừng Mác Cô, Chú Giải - William Barclay