To acquire the habit of reading is to construct for yourself a refuge from almost all the miseries of life.

W. Somerset Maugham

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1547 / 33
Cập nhật: 2019-06-15 23:31:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 24 - Những Người Bạn Cũ Và Những Kẻ Thù Cũ
hững giờ phút tiếp theo trôi qua khốn khổ. Ngài Benedict và lũ trẻ buộc phải chứng kiến cảnh lão Curtain và S.Q. miệt mài cạo cỏ đêm trong tầm với trên khắp bề mặt hang đá. Chính lão Curtain đã mang tới những chiếc hộp kim loại được xếp chồng dưới bàn mà lúc trước bọn trẻ phát hiện thấy. Mặc dù lão không hề biết hình thù hay nơi trồng của loại cây này, lão là người nghiên cứu chuyên sâu từ rất lâu rồi về huyền thoại cỏ đêm, và vài năm trước - trong xó xỉnh tối tăm nào đó trên thế giới - lão đã tìm được một mảnh giấy từ một cuốn sách cổ cung cấp và hướng dẫn việc vận chuyển và bảo quản loại cây mong manh này. Hiển nhiên không có gì phức tạp hơn đòi hỏi về bóng tối, độ ẩm, và nhiệt độ nhất định, và lão Curtain đã sáng chế ra hộp chứa đặc biệt hội tụ đủ các điều kiện này. Mỗi khi lão hay S.Q. mở một chiếc hộp kim loại ra để chuyển sang lớp rêu quý giá khác, làn hơi nước nhè nhẹ bốc lên như thể từ chiếc vạc của phù thủy hiện đại.
“Nghĩ mà xem,” ngài Benedict cất lời khi quan sát người em trai đang nhoài người với một mảng cỏ đêm cao trên một măng đá, “nếu ta làm việc cùng nhau, Ledroptha ạ, chúng ta có thể thực hiện những thoả thuận vĩ đại đấy. Chúng ta biết những thứ mà người kia không biết.”
“Và vẫn sẽ thế,” lão Curtain đáp, lão đang đứng trên mặt chiếc ghế lăn để với cỏ đêm dễ dàng hơn. (Chiếc xe lăn đáp lại một hiệu lệnh vô hình, kì quái đi vòng qua măng đá như thể nó tự biết suy nghĩ vậy.) “Nhưng như những gì ngươi chứng kiến bây giờ, ta hoàn toàn có thể khiến ngươi tiết lộ những điều ta muốn biết. Ta thấy chẳng có ích lợi gì ở cái sự “làm việc cùng nhau” như ngươi vừa nói cả.”
“Lợi ích,” ngài Benedict bắt đầu giải thích, “sẽ là ở... “
“Ta không muốn nghe bất kì ý kiến nào của ngươi nữa,” lão Curtain ngắt lời, lão đang tróc ra cả mảng lớn rêu ẩm ướt. “Những ý tưởng ngớ ngẩn làm ta xao lãng, mà ta thì không có thời gian để xao lãng.”
“Chú làm việc có vẻ vội vã quá,” ngài Beneđict nhận xét.
“Ta vừa mới bảo ngươi cái gì về việc ý kiến ý cò hả?” lão Curtain cáu kỉnh. “Một lần nữa ngươi lại bộc lộ tính ngốc nghếch của mình, Benedict ạ. Làm sao ngươi lại nghĩ ta tránh để bị bắt nếu như không biết cách để không bao giờ nấn ná, không bao giờ chần chừ hả? Như trong trường hợp hiện tại này: Giả sử ta không nhận được những lời từ cô nương Kazembe, ta đã toan bỏ đi khỏi hòn đảo này hôm nay rồi.”
“Và từ bỏ cả cỏ đêm ư?” ngài Benedict hỏi, giọng khá ngạc nhiên.
“Lại nữa rồi Benedict. Suy nghĩ đến là ngốc nghếch. Dĩ nhiên, ta định để S.Q. tiếp tục tìm kiếm nó trong khi ta nghiên cứu các việc ở chỗ khác. Cách này hay cách khác ta vẫn sẽ tìm ra cỏ đêm, ta đoan chắc với ngươi như thế đấy.”
Tới đây, S.Q. ngừng tay làm. Qua vẻ mặt sững sờ, rõ ràng gã không mảy may biết gì về kế hoạch bị bỏ rơi một mình trên hòn đảo hiu quạnh này.
“Tuy nhiên, như thường lệ,” lão Curtain nói tiếp. “Ta vẫn cứ đạt được mục tiêu của mình theo cách thức hữu hiệu nhất có thể được. Mặc dù ta chưa bao giờ hợp với việc ở đâu đó quá lâu. Do đó mà ta bắt tay vào làm việc thật khẩn trương, như vẫn vậy.”
“Nếu ông vội vã đến vậy,” Kate chen vào, “sao ông không bắt chúng tôi ra giúp ông thu lượm cỏ đêm nhỉ?”
Lão Curtain bật ra tiếng cười the thé. “Ta được giúp đỡ đủ rồi, cảm ơn, cô nương Wetherall! Và ta cũng đã kiếm được kha khá cỏ đêm rồi, ngay cả khi ta có buộc phải bỏ lại chỗ kia. Không đâu, ta nghĩ rằng tốt nhất là các ngươi vẫn bị trói lại.”
“Tôi không hiểu sao ông lại không quẳng béng chúng tôi xuống núi,” Kate hỏi. “Giờ thì ông đã có trong tay cái cây khỉ gió đó rồi, bọn tôi chẳng còn mấy hữu dụng cho ông nữa.” (Bạn bè cô bé khá bối rối với những gợi ý này, mặc dầu chúng hiểu rằng Kate đang cố tạo ra cơ hội tẩu thoát.)
Nhưng lão Curtain lại luôn hiểu ý đồ của cô bé - sự lanh lợi chưa bao giờ là sở trường của Kate cả - lão lại the thé cười và nói, “Trái lại, ngươi khá là hữu ích đấy! Ta vừa mới suy nghĩ về vấn đề này, như ngươi thấy đấy, và thực tế là một khi ta đã có lượng cỏ đêm chưng cất thích hợp, việc rất đơn giản là làm các ngươi ngủ gục - một giấc ngủ rũ yên lặng và không có gì phòng vệ - ngoại trừ những dịp ta áng chừng thích hợp. Nói ngay, mỗi khi ta đòi hỏi điều gì. Benedict vừa chứng tỏ ông ta khá yếu mềm nếu kéo bọn trẻ dính dáng vào.”
“Được rồi, ta thấy ông vừa nói ra một ý tưởng không phải xuẩn ngốc nhất,” Kate ương bướng đáp, để tỏ ra can trường, vì gợi ý của lão Curtain vừa khiến cô bé sợ phát khiếp đi được. “Dẫu vậy, chúng tôi có khá nhiều người thì làm sao giấu hết được. Ông có loại máy nào làm thu nhỏ không?”
“Lại làm trò gian lận hả, cô nương Wetherall, ta nghĩ các ngươi thích hợp khi đặt trong phòng riêng rẽ.” Lão Curtain bĩu môi, giả bộ như đang cân nhắc. Nhưng ngươi nói đúng, điều đó chứng tỏ khá nhiều bất tiện. Ta sẽ cần suy nghĩ thêm về điều ấy. Ngươi nghĩ sao đây, Benedict? Ngươi muốn được giải thoát hoàn toàn, hay ngủ vạ ngủ vật suốt đời mình trong phòng giam kín?”
“Ta khoái những giấc ngủ chợp mắt hơn đấy,” ngài Benedict đáp. “Và ta chưa từng tránh né nó trước kia, nên ta không biết phải trả lời thế nào.” Thái độ bình tĩnh không gì lay chuyển được của ngài Benedict dường như càng chọc tức lão Curtain, nụ cười ngạo nghễ của lão biến mất, thay vào đó là cái nhìn lạnh lùng. “Thế thì thật may là ngươi không phải người có quyền lựa chọn. Giờ thì im đi, tất cả các ngươi. Ta bị xao lãng thế là đủ rồi. Ta ghét bị gián đoạn công việc, và ta đoan chắc với các ngươi - kẻ nào thốt ra một lời nào nữa sẽ nhận lấy sự chăm sóc tuyệt đối của ta đấy.”
Không nghi ngờ gì về sự chân thực trong lời nói của lão Curtain về điều này - hay ý của lão về “sự chăm sóc tuyệt đối” - và suốt thời gian còn lại, mọi thứ diễn ra trong im lặng hoàn toàn, bởi sự dọa dẫm của đôi găng tay bạc bóng loáng, không tiếng động nào phát ra để lão Curtain và S.Q. vẫn tiếp tục làm việc.
Reynie vẫn tiếp tục động não - bấy giờ khá dữ dội - nhưng chưa có kết quả tốt đẹp nào. Cậu đã cố hàng trăm ngàn lần nghĩ cách trốn thoát. Cố gắng rồi thất bại. Và cậu cũng tưởng tượng thấy đủ thứ cậu chẳng khoái nghĩ tới tẹo nào, chẳng hạn như cuộc đối mặt khủng khiếp với lão Curtain và Máy Thì Thầm của lão, và chuyện gì sẽ xảy ra với Rhonda, cô Perumal và những người khác nữa, nếu lại thắc mắc tò mò thì lão Curtain sẽ chẳng bao giờ khoan dung đâu. Thật không may, trí tưởng tượng của Reynie không ngừng lại ở đó. Thay vì thế, nó lại chán chường đi lang thang, tới tận nhà ngài Benedict và Thành phố Đá, ở đó Reynie thấy cả đội những Gã Số Mười đi ngang nhiên trên những con phố thiu thiu ngủ, mỏi người dân đều bị ép vào giấc ngủ bởi loại nước cỏ đêm được “chưng cất thích hợp”. Cố hết sức mình, Reynie không sao chặn được tâm trí tiếp thấy nhiều hơn. Và rồi cậu nhìn thấy rõ ràng đến kinh hoàng tay chân của lão Curtain dễ dàng lôi những người dám chống đối lại chủ nhân của chúng. Hẳn sẽ chẳng có kháng cự, giành giật, thậm chí chẳng có lấy một tiếng kêu than phiền. Đơn giản là thành phố tỉnh giấc vào buổi sáng và bớt đi một người chống đối lão Curtain.
Lão Curtain sẽ có cái mà lão luôn hằng mong muốn. Lão sẽ có quyền lực tuyệt đối. Việc đó đòi hỏi lão đổi tên thành Nicholas Benedict. Đa phần mọi người sẽ chẳng bao giờ thắc mắc chuyện gì đang diễn ra.
Dĩ nhiên bấy giờ bọn trẻ sẽ bị gạt ra một bên. Điều đó là chắc chắn rồi. Câu hỏi là lão Curtain định làm gì với chúng. Reynie không sao nghĩ ra được khả năng nào khác mà không khiến cậu toát mồ hôi.
Hy vọng duy nhất của cậu - dù rằng rất mong manh - đó là Milligan có thể cứu chúng, và khi đêm dần chuyển sang ngày, Reynie cứ bấu víu vào điều đó với nỗi thất vọng tăng dần. Khi lão Curtain lơ đãng thốt ra rằng Gã Số Mười của lão mất quá nhiều thời gian để lần theo dấu vết của Số Hai (lão gọi cô là “cô ả”), để S.Q. ra khỏi hang, tay cầm điện đàm để liên lạc với chúng, Reynie đã tràn trề hy vọng. Có thể Milligan đang chờ bên ngoài và sẽ phục kích gã. Nhưng S.Q. quay về báo cáo rằng sóng điện đàm im lặng. Tin này khiến lão nhướn mày ngờ vực, và nó khiến Reynie có thêm lý do để nung nấu hy vọng mong manh của mình lâu thêm nữa...
Nhưng hy vọng đó hoàn toàn sụp đổ ngay trước lúc bình minh, khi McCracken khập khiễng bước vào hang.
Kate bật ra tiếng thổn thức, rồi oà khóc, bởi lẽ Gã Số Mười xuất hiện có một ý nghĩa duy nhất. Mấy đứa trẻ nhìn nhau tuyệt vọng, và ngài Benedict cũng giàn giụa nước mắt khi ông nghe thấy tiếng Kate vỡ oà nức nở, ông với sang cô bé an ủi - rồi gục xuống một bên, tì lên một măng đá và ngủ gục.
McCracken quan sát tất cả với vẻ thích thú trong khi lết qua để chờ lão Curtain, nghe tiếng cử động thì lão đang lui về căn phòng bên cạnh. S.Q. như thể cũng biến mất, nhưng Gã Số Mười vừa nhìn chằm chằm vào một măng đá cạnh đó vừa hét toáng lên, “Mã Số Bảy, thưa ngài Curtain! Không cần phải mai phục nữa!” Với giọng kể cả, gã nói thêm, “S.Q. tao sẽ phải nhắc mày nhớ rằng Mã Số Bảy nghĩa là “gọn ghẽ cả”. Dù sao thì đầu mũi giày của mày cũng lộ ra thấy rõ ràng kia kia.”
Khi S.Q. nhô ra từ chỗ trốn trông rất bẽn lẽn, lão Curtain lao vụt xuất hiện với tốc độ nhanh tới mức chiếc xe lăn của lão chắc chắn sẽ đâm sầm vào McCracken. Lão phanh kít lại ngay suýt soát, tuy thế McCracken tiếp đón ông chủ đi vào với cái cúi chào ngưỡng mộ. Nếu lão Curtain vừa rồi để chiếc ghế đâm sầm vào gã, hẳn McCracken sẽ bị tung hê xa cả trượng, nhưng là một Gã Số Mười, gã vô cùng kính nể việc phô diễn sức mạnh ấn tượng.
May cho McCracken không bị tung hê đi, vì lẽ gã đang trong một tình trạng cực kì khủng khiếp. Gã dùng cà vạt làm dây treo cánh tay bị thương, mặt be bét máu me và vằn vện những bồ hóng, bộ vét trang trọng của gã rách tươm và cháy xém, và chiếc vali cực kì bờm xờm với tua tủa là mũi tên. Tuy thế, mặt mày gã lại bộc lộ vẻ thoả mãn công khai, và khi gã mở miệng nói với điệu bộ bình tĩnh quen thuộc, xem chừng còn khá thoải mái, như thể gã đơn giản chỉ tới báo cáo về thời tiết.
“Bọn tôi gặp phải một chút rắc rối,” McCracken giải thích cho cái nhìn khiển trách của lão Curtain. Gã hất đầu chỉ bọn trẻ. “Ngài tìm đâu ra bọn nhóc con này thế?”
“Chúng đã tìm tới ta,” lão Curtain lạnh lùng trả lời, “lấy cắp chiếc Salamander của ta, mà đáng lẽ ngươi phải giữ nó. Và ta đã tóm được chúng và giữ chúng lại, dường như còn được việc hơn cả một đội đần độn các ngươi có thể xoay xở. Đừng quên lý do ta trả lương cho ngươi.”
McCracken toe toét cười, để lộ ra hàm răng gẫy đến mấy cái. “Bọn tôi rất hữu ích cho tinh thần của ngài. Dẫu sao thì ngài không cần phải đối phó với Milligan nữa.”
“Mật vụ của Benedict ư? Hắn còn trên đảo sao?”
“Ồ... thế ra chúng không kể cho ngài nghe à?” McCracken vừa đáp vừa nhướn cao mày.
Lão Curtain liếc xéo sang bọn trẻ với ánh nhìn nham hiểm “Chúng không nói. Milligan hả? Ta cho rằng việc lão dính líu vào đã lý giải tại sao ta không nghe được tin về Jackson hay Jillson.”
“Chắc chắn vậy,” McCracken tán đồng. “Nhưng ngài không cần phải lo hắn xía vào chuyện gì nữa. Milligan đã bị xử lý rồi.”
“Ta nhận ra ngươi cũng bị hắn đáp lại kha khá đấy,” lão Curtain nhìn Gã Số Mười từ đầu đến chân. “Ngươi trông thảm hại quá.”
“Không chỉ mình tôi. Cả bọn chúng tôi đều thế. Tôi phải thừa nhận rằng Milligan chẳng giống bất kì ai tôi từng chiến đấu. Nhanh như hổ và ranh mãnh như cáo. Nhưng thực tế thì hắn chưa từng chớp lấy cơ hội nào. Hắn ta ngốc nghếch chẳng dám sát thương ai. Ngài đáng lẽ phải chứng kiến hắn mất thời gian ra sao để tránh không hạ sát Crawlings, trong khi nó tìm mọi cách có thể được để băm vằm hắn thành nhiều mảnh. Một khi tôi khám phá ra điểm yếu này, thì chỉ còn là vấn để thời gian là tôi kết liễu được hắn.”
“Thế ngươi đã kết liễu hắn rồi chứ?” Lão Curtain hỏi. “Cứ thế phát huy đến đoạn kết nhé McCracken. Và ngươi nữa, S.Q. đừng có đứng như cột đèn nữa và quay lại làm việc đi.”
“Đoạn kết khá thất vọng,” McCracken kể tiếp trong khi S.Q. vội vội vàng vàng cạo rêu và đóng gói. “Trận chiến đấu vừa rồi dẫn chúng tôi lên khá cao trên một ngọn núi, ở đó tôi dồn hắn ra một vách đá bên một hẻm vực sâu - lúc này đồng đội của tôi đã ở ngoài cuộc - rồi hắn nhất quyết chịu bị ong đốt thật khủng khiếp chứ không chịu đi ra khỏi tảng đá mà hắn dùng làm tấm chắn đỡ. Nhưng rồi tôi dần dần tiến vào và kết liễu hắn, và khi hắn nhận ra đang bị bất lợi, hắn đã chọn một kết thúc ít đau đớn hơn. Hắn nhảy xuống.”
Reynie quành tay qua vai Kate, nhưng cô bé chẳng hề đế ý. Cô bé vừa cố nín khóc, kiềm chế mình đế lắng nghe McCracken báo cáo. Cô nhìn Gã Số Mười chằm chằm đầy giận dữ.
“Rồi, tôi không thấy xác hắn đâu,” McCracken kể tiếp. “Đèn pin của tôi bị đập vỡ rồi. Nhưng dưới ánh trăng sáng, tôi có thể thấy rõ khoảng mười lăm mét phía dưới, nên hắn rơi xuống phải sâu hơn thế, và hắn trong tình trạng tồi tệ khó mà vực dậy được. Một cú rơi như thế sẽ làm vỡ tan xương cốt hắn.”
“Ngươi sẽ phải ước ngươi đáng lẽ không còn sống mà về!” Kate gầm gừ và nhào người về trước. Cô bé vừa nói vừa di chuyển với điệu bộ dữ dằn khiến mọi người trong hang phải chùn bước - trừ McCracken, gã cười thầm khi còng tay của Kate vẫn khoá chặt vào chiếc xích, kéo giật làm cô bé suýt ngã. Reynie và Sticky đỡ vội cô, giữ cô lại vì sợ cô bé sẽ làm gãy tay nếu cứ cố lao vào McCracken.
“Tôi tới để xem giờ ngài muốn làm gì tiếp đây,” McCracken quay lại nói tiếp với lão Curtain. “Tôi vẫn cần bám theo dấu vết của Số Hai, nhưng trước tiên tôi cần tập hợp đội lại. Cả Martina nữa, tôi cho rằng đã thấy cô nàng và Garrotte ở đồng cỏ. Milligan đã phục kích họ khi họ đang trên đường về làng.”
Lão Curtain cau mày. “Ta tưởng ngươi vừa bảo hắn tránh gây sát thương thực sự cơ mà.”
“Và hắn đã làm thế, nhưng gã để mọi người nằm bất tỉnh, và Crawlings bị vài chỗ gãy xương và sẽ chóng lành hơn nếu tôi cho người tới nâng gã dậy đúng cách. Nếu ngài không quan tâm tới việc này, tôi có thể chỉ cần quăng gã lên chiếc Salamander bằng bên tay không bị thương của tôi. Hoặc, nếu ngài muốn, tôi có thể chờ những người khác tỉnh táo lại và giúp tôi một tay. Sharpe và Garrote có vẻ sắp tỉnh lại rồi - bọn chúng đã nhấp nháy mắt khi tôi đá chúng - và tôi đoán chúng sẽ sớm tỉnh táo thôi. Nhưng tôi nghĩ nên để ngài quyết định. Tôi biết ngài hy vọng sẽ rời đi trước buổi trưa hôm này.”
Lão Curtain đón nhận tin này khá bực bội, nhưng có lẽ lão quyết định không muốn làm không khí thêm căng thẳng. “Dẫn S.Q. theo,” lão cộc cằn ra lệnh. “Và khẩn trương lên. Chúng ta đáng lẽ phải sẵn sàng xếp đồ rồi.”
S.Q. đặt chiếc hộp kim loại đang cầm trên tay xuống.
“Đừng có bực,” McCracken quay sang cười với S.Q. theo kiểu rõ ràng rằng hắn đang bực, “nhưng tôi nghĩ ngài nên giúp tôi, ngài Curtain ạ. Như tôi đã kể, Crawlings bị gãy xương. Không nên để cậu ta bị rơi lần nữa.”
S.Q. bị xúc phạm vô cùng, thả rơi chiếc hộp kim loại xuống dưới chân.
“Được thôi,” lão Curtain đáp trong khi S.Q. đang vừa ôm chân vừa nhảy choi choi rên rỉ đau. “Ta sẽ tới. Còn S.Q. thôi không nhảy cỡn lên nữa và quay lại làm việc đi.”
McCracken đặt chiếc vali xuống và lấy đầu ngón tay lần dò chiếc răng gẫy. Gã lôi nó ra, nhìn ngó nó vẻ tò mò, rồi thả nó vào túi áo. “Có việc này nữa. Milligan đã bảo bọn trẻ rằng bạn của chúng đang tới đón chúng.”
“Lũ rắn rết và chó má,” lão Curtain lầm bầm. “Hắn có nói là ai không? Không thể là một đội giải cứu chính thức nào cả. Ta cho rằng không ai đánh điện khi ngươi còn bên ngoài.”
“Tôi đã nghe tin từ chỗ Bludgins. Rõ ràng Rhonda Kazembe đã gửi chim bồ câu lại kèm theo lời nhắn. Cô ta tuyên bố đã xác định được nhân vật mà ngài đang tìm và xin vài ngày nữa để định vị được ông ta.”
“Thủ đoạn đáng thất vọng,” lão Curtain vừa nói vừa xua tay gạt đi. “Ta vừa xác định được thứ ta tìm rồi. Nhưng ngươi không biết gì thêm về đám người đang tới à?”
“Không hề, và Milligan thì không nhắc đến cái tên nào cả. Nhưng bọn tôi biết nơi thuyền của chúng cập bờ, trong trường hợp nó chưa tới nơi. Địa điểm thích hợp duy nhất là ở vịnh đông nam. Nếu ngài muốn, ngay khi đội của tôi tỉnh dậy, chúng tôi có thể lái xe tới…”
Lão Curtain vẫy tay ra hiệu cho gã im lặng. “Mọi cuộc đối đầu có thể đợi đã, McCracken ạ, và nói chung thì tốt nhất là tránh bọn chúng ra. Điều ta muốn ngươi làm là hãy đảm bảo tên nữ tù đã trốn thoát của chúng ta không liên lạc được với đám người đó rồi kể cho chúng biết chỗ Benedict ở đâu.”
“Được,” McCracken đáp, “nếu cô ả chưa kịp gặp bọn chúng - thì tôi sẽ đảm bảo, còn nếu chúng chưa kịp gửi tới cả một đội giải cứu băng qua cả hòn đảo... “
“Chưa hẳn là thế đâu,” lão Curtain ngắt lời. “Chỗ vịnh đêm qua thuỷ triều dâng lên thấp như đánh lừa - mà ta thì biết đôi điều về thuỷ triều, ngươi cũng biết rồi đấy - và ta cho rằng không có tàu thuyền nào có thể cập bờ trước lúc này đâu.”
“Tốt quá,” McCracken hí hửng đáp. “Thế thì tôi có thể cam đoan với ngài bọn tôi sẽ tóm được Số Hai trước khi cô nàng kịp gây ra rắc rối. Tối ngờ rằng cô nàng vẫn trốn trong khu rừng gần ngôi làng. Có gió thổi trợ giúp, chúng tôi sẽ không khó khăn gì khi đốt cháy cánh rừng và khói sẽ làm cô nàng phải chui ra thôi.”
“Ngươi nên làm cho tốt,” lão Curtain đáp cộc lốc.
Cuộc đối thoại tiếp tục chuyển sang đề tài chiếc xe lăn, lão Curtain không muốn để nó lại. McCracken bị đau một bên cánh tay nên không thể mang cả chiếc ghế và chiếc vali đi xuống con đường đá dốc để tới chỗ xe Salamander, trong khi chiếc xe quá nặng nên lão Curtain không tự mang được - thậm chí với bất kì ai cũng khó mà mang được xe, trừ những gã to cao khoẻ mạnh. McCracken chỉ ra rằng lão Curtain thực tế sẽ không cần dùng nhiều tới chiếc xe lăn, lão Curtain đáp lại rằng McCracken không chịu động não mà nghĩ, nhưng rồi vẫn thích đem theo nó bên mình. Thế là cuộc tranh luận lại tiếp tục.
Trong khi đó, Kate đang lén lút lục lọi chiếc giỏ của mình, cố gắng tìm kiếm thứ gì có thể giúp được. Lúc lầu sau cô thầm thì, “Mình chưa nghĩ ra cách để chúng ta giải quyết việc này như thế nào.”
“Ý cậu là làm thế nào để chúng ta thoát được hả?” Reynie lí nhí đáp lời. “Mình cũng chưa.”
“Mình không có ý đó,” Kate đáp, như thể ngạc nhiên với ý nghĩ đó. “Dĩ nhiên là chúng ta sẽ trốn thoát!”
“Chúng ta sẽ thoát chứ?” Sticky hỏi với vẻ đầy hy vọng. “Nhưng làm thế nào?”
“Ôi, chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó thôi,” Kate thầm thì, không đủ nói rõ cái kế hoạch mà Sticky đang háo hức mong chờ. “Điều mình đang thắc mắc là làm thế nào chúng ta gặp được Milligan và tìm thấy Số Hai trước những kẻ lén lút này tìm được. Làm thế nào chúng ta cứu được cô ấy?”
“Chờ đã - chị nghĩ rằng Milligan vẫn còn sống à?” Constance thầm thì.
“Hiển nhiên là thế! Ý mình là, thoạt đầu mình chưa nghĩ ra ngay, nhưng rồi mình nhận ra rằng Milligan sẽ không bao giờ nhảy vào chỗ chết - ông sẽ không làm thế đâu trong khi chúng ta vẫn đang gặp nguy hiểm. Ông ấy hẳn đã có tính toán trong đầu rồi. Có lẽ là ông chưa tìm ra chúng ta được mà thôi. Lúc cuối cùng ông bảo chúng ta đi tới cánh rừng bên vịnh. Chính chỗ ông tới tìm chúng ta đấy.”
Reynie không được lạc quan như Kate, nhưng cô nói cũng có lí. “Để mình nói vắn tắt nhé. Chúng ta đang đang bị trói trong một cái hang và không biết liệu lão Curtain định làm gì chúng ta, và mối quan tâm lớn nhất của cậu là làm thế nào giải cứu được Số Hai ư?”
“Chính xác thế!” Kate thầm thì.
“Mình chỉ muốn làm rõ điều này,” Reynie giải thích, và dẫu rằng chỉ có chút xíu lý do để cậu có thể mỉm cười, thì đó cũng là cảm giác tốt nhất cậu có được cho tới lúc đó rồi.
“Mình nghĩ điểm khởi đầu sẽ là tự giải cứu chúng mình đã, Kate ạ.”
“Mình biết, nhưng chúng ta cần có nhiều thời gian hơn! Nếu chúng định đốt rừng cây”
“Chúng ta có nhiều thời gian hơn bọn chúng nghĩ đấy,” Constance nói chen vào. “Chúng sẽ gặp rắc rối nếu định đốt lửa. Thời tiết ngoài kia rất ẩm ướt. Sương mù và mưa phùn nữa. Đừng nhìn em như thế, chị biết là em có thể cảm thấy thế.”
“S.Q.” Lão Curtain quát ầm lên. Bọn trẻ giật bắn nín bặt và ngước nhìn lên thì thấy lão đang nhìn chúng giận dữ. “Nếu bất kì một đứa nào trong đám tù nhân kia mở miệng nói lần nữa - dù là một kẻ nào thôi, S.Q. - ngươi hãy báo lại cho ta khi ta quay về, và chúng sẽ phải chịu hậu quả. Đó là mệnh lệnh, hiểu chưa? Không đứa nào được nói năng gì cả. Ta sẽ không để cho còn có tiếng thì thà thì thầm nào giữa chúng nữa.”
“Vâng, thưa ngài.” S.Q. đáp và đằng hắng giọng. “Và, à, thưa ngài? Liệu tôi có thể gợi ý rằng McCracken vác chiếc xe lăn của ngài còn ngài mang chiếc vali của hắn không? Ý tôi là, chỉ tới chỗ Salamander thôi.”
Hai tên kia nhìn S.Q. chằm chằm,rồi nhìn sang nhau vẻ kinh ngạc.
“Đúng là thật thà như miệng trẻ con,” McCracken làu bàu.
“Ta sẽ điều khiển chiếc xe tới gần con đường dốc đá,” lão Curtain đã sẵn sàng xuất phát.
“Rồi chúng ta có thể tráo đổi gánh nặng.” Lão nhanh chóng lướt đi trên hành lang, McCracken tấp tểnh bước sau lão, chẳng thèm nói lời cảm ơn nào với S.Q. - thậm chí cũng chẳng đưa mắt nhìn biết ơn - vì đã đưa ra một gợi ý khả dụng đáng kinh ngạc rằng hai tên đó có thể làm việc cùng nhau.
***
Mặc dù vẫn thấy đau khổ vì bị McCracken lăng mạ và lão Curtain đối xử lạnh lùng, S.Q. chỉ vừa quay lại bắt tay vào việc thì ngài Benedict bắt chuyện với gã. Không ai thấy ngài Benedict tỉnh dậy lúc nào, và bây giờ ông đang nói bằng âm giọng chậm chạp, vẻ ngái ngủ, như thể có lẽ ông vẫn chưa hoàn toàn tỉnh ngủ.
“S.Q.” ngài Benedict gọi với giọng nói như ru ngủ, lạ lẫm, “Ta biết cậu có việc phải làm, nhưng nếu cậu có thể dành chỉ giây lát thôi, mấy cái còng tay lại cọ xát vào ta quá.”
S.Q. quay sang ngài Benedict với ánh nhìn sợ hãi. “Ôi không, ngài Benedict, ngài không nên nói chuyện! Ngài không nhận ra là giờ tôi phải báo cáo cho ngài Curtain về ngài ư? Đó là mệnh lệnh trực tiếp, ngài biết mà! Ngài sẽ bị trừng phạt đấy!”
Ngài Benedict vẫn điềm tĩnh nhìn S.Q. “Ta biết thế, S.Q.” ông đáp, vẫn với giọng nói chầm chậm, ngái ngủ, mà thế cũng đúng thôi. Cậu vẫn phải làm việc cần làm, anh bạn ạ. Ta thấy ở cậu không có chút mảy may yếu mềm nào.”
Rõ ràng được an ủi rất nhiều, S.Q. mỉm cười, rồi có nín nhịn ngáp.
“Thế nhưng,” ngài Beneđict nói tiếp, “những chiếc còng tay cứ chà xát vào cổ tay ta quá thể. Chúng cứ thế mãi thôi.”
S.Q. nhìn ông chăm chú, không phải đang do dự, cũng không phải đang nghi ngờ, chỉ là như thể mất kha khá thời gian để những lời lẽ của ngài Benedict mới thâm nhập vào não hắn. Bọn trẻ con, vẫn còn ngơ ngác, không nói năng gì. Chúng thậm chí còn không dám thở. Chúng có thể nhận thấy ngài Benedict đang sắp đạt tới điều gì đó mặc dù S.Q. không thể nhận ra. S.Q. lại ngáp nhưng vẫn không rời mắt khỏi ngài Benedict.
“Cậu đang mệt lắm rồi, phải không S.Q.?” ngài Benedict hỏi.
S.Q. vẫn nhìn ông. Sau một lát, gã gật đầu vẻ ngốc nghếch. “Tôi thực sự mệt,” gã lí nhí.
“Ta biết cậu mà, anh bạn,” ngài Benedict nói tiếp. “Và tôi cũng thế. Cậu nên ngồi xuống cạnh tôi một lát và nghỉ ngơi đi. Nhưng trước tiên, hãy làm ơn cởi khoá chiếc còng tay, giống như cậu từng rất tử tế làm trước kia. Tôi những muốn được xoa xoa tay cho có cảm giác ở cổ tay mình.”
Và rồi, trứớc sự kinh ngạc vô cùng của bọn trẻ, S.Q. Pedalian bước lại gần ngài Benedict và mở khoá còng tay. Thoạt đầu, ngài Benedict không hề cử động, ông chỉ nói cảm ơn S.Q. và xoa xoa cổ tay với vẻ biết ơn. Rồi ông vỗ vỗ xuống mặt đất bên cạnh ông.
“Hãy ngồi nghỉ một lát,” ngài Benedict nói.
“Chỉ một lát thôi đấy,” giọng S.Q. đều đều, mi mắt nặng trĩu, vai chùng xuống. Gã ngồi cạnh ngài Benedict và dựa lưng lên măng đá.
“Cậu sẽ cảm thấy chiếc kẹp này thế nào,” ngài Benedict thật thong thả như thể chỉ đặt cái khuy lên cổ tay áo S.Q. ông trượt chiếc còng tay vào cổ tay S.Q. (bọn trẻ vẫn bị còng vào sợi dây xích) và sập nó vào. “Đấy, có khó chịu không?”
“Nó khá gượng gạo,” S.Q. thì thào, cau mày khó chịu. “Ý tôi là chật chội. Ý tôi là...” Gã kéo dài giọng, nói năng luống cuống.
“Chúng ta nên cởi trói cho chúng,” ngài Benedict nói tiếp. “Hãy đưa chìa khoá cho ta.”
S.Q. đưa ngài Benedict chìa khoá.
Cúi người về phía trước để che mắt S.Q. ngài Benedict tuồn chìa khoá cho Kate, cô bé nhoắng cái tự mở khoá cho mình và các bạn. Rồi ngài Benedict lôi bọn trẻ tránh xa măng đá, còn S.Q. vẫn bị còng tay vào xích sắt. S.Q. nháy mắt lia lịa, như thế sắp tỉnh ngủ. Gã nhìn bọn trẻ, rồi nhìn ngài Benedict, hoàn toàn mù mờ.
“Ta xin lỗi nhé, S.Q.” ngài Benedict nhẹ nhàng nói. “Phần nào trong cậu phải hiểu ta thành thật xin lỗi.”
S.Q. lắc đầu mạnh như thể để cho tình táo. Mặt gã tối sầm lại, môi run lên. “Nhưng... ngài đã không thành thật! Ngài không thể nói dối tôi được!”
“Ta chưa từng nói dối,” ngài Benedict đáp.
S.Q. choáng váng. “Nhưng những lần khác nữa - ngài chẳng bao giờ cố gắng làm gì cả. Ngài đã hứa ngài sẽ không làm thế! Tôi thậm chí đã cho ngài một giọt hóa chất Sự Thật để chắc chắn nữa!”
“Đúng, ta đã hứa hẹn khá nhiều lần đó, S.Q. ạ. Nhưng ta không hứa sẽ thả cậu ra - ta đã, chỉ nói rằng chúng ta nên mở khoá tay của cậu ra. Thế là chúng ta làm. Ở một nơi tử tế hơn, trong thời khắc tốt đẹp hơn, ta hẳn rất vui mừng được giải thoát cho cậu. Và ta hy vọng sẽ gặp lại cậu ở một nơi như thế, vào thời khắc như thế. Cậu có một tâm hồn sáng rạng, S.Q. ạ. Và ta cực kì xin lỗi vì phải để cậu lại trong tình thế khó xử này, nhưng ta phải để cậu lại. Ngài Benedict quay đi vô cùng đau khổ. “Đi nào các cháu, chúng ta phải khẩn trương lên.”
Kate nhấc bổng Constance lên lưng, và cùng các tù nhân vừa được giải thoát vội vã bước dọc hành lang. Sau lưng họ, S.Q. ngồi đó, mặt mày càng ngày càng tối sầm lại, mắt gã nhìn quanh nhìn quẩn như thể hồi tưởng lại những điều ngài Benedict vừa nói. Gã vẫn đang cố gắng không tin vào những điều vừa xảy ra.
“Ngài đã thôi miên hắn ạ?” Constance hỏi khi họ vội vã đi trong hành lang.
“Đại khái thế,” ngài Benedict đáp giọng nghiêm nghị, “mặc dầu thô lỗ hơn. Chỉ cần thuyết phục cậu ta là được bởi vì cậu ấy tin rằng ta sẽ không phản bội lại lòng tốt của cậu ấy. Ta vừa đánh một đòn tâm lý khủng khiếp vào phần tốt đẹp nhất của S.Q. Pedalian rồi, các cháu ạ. Chúng ta phải hy vọng cậu ấy tĩnh tâm lại.” Ngài Benedict chạm vào vai Reynie. “Ta hy vọng cháu không từ bỏ những người như S.Q. trên thế giới này, Reynie ạ. Cháu thấy đấy, có rất nhiều chú cừu khoác bộ dạng của chó sói. Nếu không nhờ vào bản chất tốt đẹp của S.Q. thì chúng ta chẳng bao giờ thoát ra được.”
Họ đã tiến tới lối ra ở cửa hang, ở đó, họ nghe thấy âm thanh kì quái rền rĩ - trời đã bình minh, và cơn gió ban ngày trên đảo đã nổi lên - và Reynie mới kịp nhận ra họ vẫn chưa trốn thoát hẳn khi tiếng gió rền rĩ dội vào vách hang sau lưng họ rồi vọng ra tiếng rít bi ai. S.Q. cuối cùng đã nhận ra hiện thực. Trong cơn giận dữ thịnh nộ, gã gào thét sau lưng họ, “Ngươi đúng như ngài Curtain đã nói! Ta đã tin tưởng ngươi, Benedict kia! Ta đã tin ngươi! Ta đáng lẽ phải biết sớm hơn! Ta đáng lẽ phải biết!”
Đứng ở cửa hang, ngài Benedict dừng chân, ngoái đầu nhìn lại. Có lẽ là vì kiệt sức, hoặc có lẽ là vì ông là người trực tiếp gây ra nỗi khổ sở mà S.Q. đang phải chịu đựng, nên nét mặt ông sầu thảm đến mức chưa đứa nào từng bắt gặp cả.
“Giá mà... “ ông định nói, nhưng lại không nói hết ra suy nghĩ của mình, vì lúc đó, ông lại ngủ gục.
***
Sticky đã tránh cho ngài Benedict một cú đập vào đầu khi đang đứng thì ngã nhoài ra. Vì chính Sticky là người lĩnh giúp cú va đập đó, trán cậu bé va xuống mặt đất tím bầm khi ngã lăn ra, còn ngài Benedict đè lên trên. Đứng dậy được, cậu nhẹ nhàng lăn ngài Benedict lên lưng mình, rồi chỉnh kính cho ông già đang ngủ thiếp trước khi tự chỉnh lại kính của mình. Cậu lắc cánh tay ngài Benedict và gọi. “Dậy đi, ngài Benedict! Dậy đi!”
Tiếng S.Q. gào thét dừng lại đột ngột như lúc bắt đầu, và âm thanh duy nhất vang lên bây giờ là tiếng gió gào rít và tiếng Sticky khẩn nài gọi khi đám bạn nhìn lên lo lắng. Lão Curtain và McCracken vừa đi không bao lâu. Nếu chúng quên cái gì và quay lại... Reynie liếc nhìn lo âu vào trong hang. Bình minh đã ló rạng, nhưng chưa có ánh mặt trời. Những đám mây xám xịt vẫn lảng vảng bao quanh núi, và - quả như Constance đã tiên đoán - màn sương xám phủ mờ mọi thứ, cuộn xoáy trong gió như khói tỏa.
“Ông vẫn chưa tỉnh dậy,” Sticky vừa nói vừa vỗ nhẹ vào má ngài Benedict.
“Ôi chao,” Constance thốt lên. “Chuyện này xảy ra khi ông thực sự mệt mỏi quá. Đôi khi bọn em chẳng thể đánh thức ông dậy trong vài tiếng đồng hồ.”
“Chà, ông giờ chắc chắn đang kiệt sức lắm đấy,” Sticky nói và quay sang nhìn Reynie. “Không tốt tẹo nào.”
“Để xem ta có thể làm một cái cáng được không,” Reynie gợi ý. “Chúng ta không thể cứ chờ với đợi được. Chúng ta cần phải tới kịp khu rừng ven vịnh.”
“Thế còn Số Hai thì sao?” Kate phản đối.
“Cơ hội tốt nhất chúng ta có để giúp cô ấy là đi được tới cánh rừng. Như cậu nói đấy, đó là nơi Milligan muốn chúng ta tới, thế thì chúng ta sẽ tìm ông ở đấy. Nếu ông không ở đó, thì có thể bạn bè của ông tới, chúng ta có thể nhờ họ giúp chúng ta. Nhưng sẽ không có một cơ hội nào thực hiện được thế nếu chúng ta bị tóm. Chúng ta phải đi thôi!”
Đi, dĩ nhiên là một từ có sức lôi cuốn tự nhiên rất lớn đối với Kate, và ngay lập tức cô thuần phục theo viễn cảnh Reynie vẽ ra. Tuy nhiên, cô bé lo ngại liệu tụi con trai có thể xoay xở với một cái cáng trong suốt hành trình ra vịnh không, cho dù có thay đổi chỗ, vẫn còn cả Constance nữa. “Thứ ta cần phải là một chiếc xe trượt. Chúng ta có thể kéo cả ngài Benedict và Constance cùng lúc. Tớ sẽ quay lại ngay!” Rồi cô lao vụt vào hành lang dẫn vào hang.
Bọn trẻ còn lại vẫn đang cố đánh thức ngài Benedict khi Kate quay lại. Cô kéo theo chiếc bàn vốn phủ kín các thiết bị và dụng cụ. Với trợ giúp của các dụng cụ, chiếc xô và con dao găm (mà lão Curtain đã quẳng lại trên bàn), cô chặt những chiếc chân bàn rồi buộc chúng theo chiều dọc để biến nó thành một ván trượt thô thiển. Cô cũng gỡ lấy một đống dây điện từ một vài cái đèn pha, rồi buộc và kẹp chặt chúng lại để kéo tấm ván trượt. Đó là thứ đồ tự chế khá kì cục, nhưng tốc độ lắp ráp của Kate thì xuất sắc tuyệt vời.
“Tớ những muốn mang theo chỗ muối ngửi,” Kate vừa nói, vừa nhìn sang ngài Benedict vẫn đang thiêm thiếp ngủ, “nhưng S.Q, lại giữ trong túi áo và tớ nghĩ tốt là không nên lại gần chỗ gã. Gã đã nhìn mình như muốn vặn nghéo cổ mình ra vậy.”
Chúng nâng ngài Benedict đặt lên xe trượt, rồi Constance trèo lên và ôm chặt lấy ông, trong khi mấy đứa trẻ tóm lấy chỗ dây và giật mạnh để thử. Chiếc ván trượt kim loại tạo ra tiếng chà xát kinh khùng, âm thanh ken két nghiến vào đá, nhưng khi Kate và tụi con trai kéo đi, chiếc ván trượt lướt khá nhanh.
Kate nói vẻ thoả mãn, “Tớ sẽ cần tìm con đường nào đi xuống dễ dàng nhất,” rồi cô bé vội vã trèo lên đỉnh núi phía trên hang, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá kia cứ như đích thực dê núi sống trên đảo này vậy. Chẳng mất nhiều thời gian, cô đứng cao tít phía trên, lướt qua suốt dọc đường viền phía đông của hòn đảo bằng chiếc kính viễn vọng của mình. Cô bé nhanh chóng xác định được con đường tốt nhất: Trước tiên là một đoạn dốc ngắn phía tây bắc đi tới lối mòn cho dê núi rất dễ thấy sẽ dẫn tới hầu hết các con đường xuống núi, rồi cắt xiên sang một đoạn dốc dài rải sỏi, và cuối cùng băng qua một bãi đá đen để tới khu rừng bên vịnh, nếu nhìn từ đây chỉ thấy bóng tối tăm khắp lượt phủ màu xám xịt. Kate tìm kiếm dấu hiệu của Milligan nhưng không thấy gì. Khu rừng, bãi vịnh và biển cả biến mất dưới màn sương mù mịt.
Tít phía dưới, Reynie ngước lên nhìn Kate, khắc khoải chờ cô bạn thông báo, cảm giác lạ kì xâm chiếm cậu. Cậu không chắc chắn đó là gì. Cậu cứ nhìn đi nhìn lại, cố nhớ cho ra. Kate đứng đó, nổi bần bật trên nền trời phù mây xám xịt, gió thổi túm tóc đuôi ngựa của cô bé phấp phới. Mấy chú chim nhạn từ vách núi lao ra từ lỗ hổng trên vách đá bên cạnh cô bé, mặc kệ tiết trời ẩm ướt, và tít phía lên cao, chao liệng một cánh chim săn mồi, chắc chắn đang nghĩ rằng chú chim kia sẽ là bữa sáng của nó. Trong khi đó, mây đen nối nhau phủ kín như thể một thước phim hành động, cảnh tượng phối hợp giữa tiếng vỗ cánh của đàn chim nhạn và sải cánh rộng lớn của chim săn mồi khiến ruột gan Reynie lộn tùng phèo như thể mất thăng bằng... đúng rồi, chính cảm giác mất thăng bằng này là cái thứ xúc cảm lạ kỳ kia. Hay là không, Reynie vẫn không hài lòng với câu trả lời. Thế cảm giác này là gì? Nó gần giống như thứ ngờ ngợ đã trải qua - như thể cậu đã trải nghiệm cái gì đó rất giống thế trước kia.
Kate trèo xuống báo cáo tình hình. “Sẽ khó nhọc kinh khủng đấy,” cô nói thêm sau khi mô tả đoạn đường đi. “Mình nghĩ phải mất ít nhất hai tiếng đồng hồ để tới cánh rừng, có khi phải ba tiếng, phụ thuộc vào mấy cậu con trai có thể kéo ra sao. Thế nghĩa là nếu chúng ta không gặp tai nạn nào khi đi xuống núi nữa.” Cô bé với tay ra sau buộc lại mái tóc đuôi ngựa vừa bị xoã ra khi leo xuống. “Và còn có một việc nữa.”
“Chuyện gì thế?” Reynie hỏi, cảm thấy đó sẽ là một tin xấu.
“Mình không biết chúng ta sẽ tránh để lại dấu vết như thế nào. Nếu chúng tìm thấy Số Hai, chúng sẽ quay lại đây và phát hiện ra chúng ta bỏ đi - trong trường hợp này McCracken và Curtain chắc chắn sẽ leo lên và nhìn ra xung quanh như mình vừa làm. Nếu chúng không tìm thấy cô ấy, chúng sẽ lái Salamander đi lòng vòng trên đảo để tìm cô ấy. Theo mình hình dung, nếu thế chúng chắc chắn vẫn thấy ta đang đi trên bãi đá. Chúng ta hoàn toàn sẽ bị đặt trong vòng nguy hiểm cả một thời gian dài. Chúng ta có một khởi đẩu thuận lợi, thế thì chúng ta đáng lẽ phải vượt xa chúng... “
“Nhưng rồi sao?” Constance nói. “Chúng sẽ biết chỗ chúng ta, còn chúng ta thậm chí không chắc liệu có sự giúp đỡ nào chờ đợi chúng ta không!”
Reynie day day thái dương. Dĩ nhiên Constance nói đúng. Và nếu McCracken dự đoán là chính xác, thì hai trong số những Gã Số Mười bấy giờ sẽ tỉnh dậy, và có thể Martina cũng thế. Sẽ có quá nhiều hiểm nguy lởn vởn xung quanh khu rừng, và rất nhiều tay chân đuổi theo bọn trẻ đang trốn chạy.
“Có thể chúng ta nên tìm một chỗ ẩn náu và chờ ngài Beneđict tỉnh dậy,” Sticky nói. “Ngài ấy sẽ biết phải làm gì.”
Kate lắc đầu. “Ngài ấy có khi phải ngủ vài tiếng đồng hồ mất. Chúng ta cần tự mình tìm cách cho việc này.”
Nói “tự mình” ý Kate chủ yếu nói Reynie, cả cô bé và các bạn theo bản năng cùng quay sang cậu. Reynie nhăn mặt. Cậu đang cố gắng một cách nhọc nhằn để tìm cách giải quyết, nhưng tâm trí cậu cứ nhay đi nhay lại cái cảm giác lạ lùng ngờ ngợ kia. Nó là cái gì mà cậu phải nhớ tới thế? Cậu bấy giờ đang quan sát Kate, và cánh chim diều hâu... Chờ đã... Đó có phải là chim diều hâu không? Cậu giật nảy mình, rồi ngước nhìn lên trời. Không, không phải diều hâu. Một chú chim ưng.
“Kate! Nhìn kìa! Có phải chim ưng...”
“Sao cơ, đó là Madge!” Kate la lên. Cô lấy còi ra thổi.
Con chim ưng rạch môt đường từ trên trờỉ xuống, nhẹ nhàng đáp xuống cổ tay Kate y như lúc cô bé xỏ chiếc găng da bảo vệ. “Bé ngoan, Madge!” Kate dỗ dành, vuốt ve bộ lông của con chim. “Ta xin lỗi ta chẳng mang đồ ăn gì cho bé cả. Ta nợ bé một lần này nhé.”
Một túi da nhỏ buộc vào chân Madge. Kate hấp tấp gỡ móc cài và lôi ra một bức thư. “Nó từ Đạn Thần Công!”
Bọn trẻ túm tụm lại gần để đọc:
Gửi Kate,
Chúng tôi mong thư này sẽ tới chỗ em. Chúng tôi biết em đang gặp nguy hiểm, và tôi viết thật nhanh để kể cho em tình thế của chúng tôi và để biết chúng tôi có thể giúp được gì. Trong trường hợp có bất kì việc gì quan trọng, tôi sẽ giúp em hết sức mình.
Đêm qua chúng tôi nấp trong rừng, thấp thỏm đợi chờ em tới, lúc đó chúng tôi nghe thấy có tiếng nổ. Ngay sau đó, chúng tôi phát hiện thấy Số Hai trượt ra từ một đường hầm trong núi. Cô ấy sẽ ổn cả thôi, nhưng lúc đó chúng tôi cảm thấy phải mang cô ấy ra chỗ Đường Tắt để băng bó.
Cô kháng cự rất ồn ào - quá là ồn ào, vì quả thực tai cô bị chấn động sau vụ nổ. Cô bị chút ảnh hưởng ở đầu, nhưng rõ ràng cô vẫn tin rằng em đang gặp nguy hiểm, và cô đã lao vào tìm em trong hầm để rồi chính cô gặp nạn (và bị núi đá hành hạ kha khá) khi lối vào nổ tung. Cô nài nỉ chúng tôi để cô lại để đi tìm các em. Nhưng thế là trái với chỉ dẫn của Milligan, và chúng tôi không dám mạo hiểm làm đảo lộn kế hoạch của ông mặc dù vết thương của Số Hai cần phải được chăm sóc ngay lập tức. Các em yên tâm, cô ấy được băng bó cẩn thận rồi, và cô đã phục hồi mọi cảm giác. Chính cô nghĩ ra cách nhờ Madge gửi một tin nhắn, và - giờ thì cô ấy đang bảo tôi dài dòng quá, vậy nên để tôi nói nhanh nhé.
Chúng tôi lên tàu Đường Tắt, cách bờ biển khoảng chục mét. Kế hoạch của chúng tôi là quay lại rừng ngay lập tức, nhưng chúng tôi gặp phải khó khăn. Động cơ tàu bị hỏng khi gặp bãi nước nông khi chúng tôi rời vịnh - thuỷ triều hôm qua dâng thấp như đánh lừa - và giờ con tàu quá ồn ã và chậm chạp. Chúng tôi sợ rằng còn chạy nó thì sẽ gây nguy hiểm cho em vì sẽ gây sự chú ý. Milligan đã khuyên nhủ rằng chúng tôi phải đặt việc thận trọng kín đáo lên hàng đầu. Điều đó vẫn đúng trong trường hợp này chứ? Gửi thư đi, Kate, và cho chúng tôi biết phải làm gì!
Một số điều cân nhấc: Thuyền trưởng Noland, theo chỉ dẫn của Milligan, đã liên lạc với Hải quân Hoàng gia lúc bình minh (chỉ vài phút trước lúc tôi viết thư) nhưng tàu tuần tra của họ sẽ chưa tới ngay được. Thuyền trưởng không thể đưa Đường Tắt quá gần đảo vì sợ mắc cạn, nhưng ở trong tàu chúng tôi có thể tới kịp bờ vịnh trong tối đa hai giờ đồng hồ. Chúng tôi sẽ chờ em ở đó hoặc tới chỗ em nếu em thấy thế nào là tốt nhất - chỉ cần cho chúng tôi biết chỗ tìm!
Chúng tôi hy vọng Madge sẽ tìm thấy em bằng đôi mắt tinh tường của cô bé. Khi em gửi nó trở lại, chỉ cần nói “ếch ăn” thì nó sẽ bay thằng tới chỗ tôi - tôi đã cho nó ăn những miếng thịt từ lúc ta đón nó lên tàu. Hãy nhanh lên, Kate, và gửi thư hồi âm nhé!
Đạn Thần Công (Joe Shooter)
Khi đọc xong, Reynie đi đi lại lại. Cảm giác thực sự cậu cảm thấy như thể bị cuộn tròn lại trong trái bóng. Lá thư đáng lẽ phải động viên cậu, nhưng trong hoàn cành này nó lại làm cậu khốn khổ. Nếu chúng gửi thư trả lời cho Madge mang đi ngay bây giờ và nếu mọi thứ diễn ra chính xác như mong đợi, chiếc tàu chậm chạp và ồn ã sẽ đi thẳng vào vịnh ngay khi bọn trẻ tới nơi. Nhưng Kate nói đúng - chúng chắc chắn sẽ bị phát hiện khi đang đi trên bãi đá trống, khi đó, Salamander sẽ bám sát theo dấu vết của chúng, và Milligan chẳng bảo rằng Salamander rất nhanh trên cạn và cả dưới nước đó sao. Ngay cả nếu chúng có tới được chỗ tàu... chà chà, chiếc tàu vốn đã bị hỏng sẽ dễ dàng bị đập nát. Chúng sẽ bị tay chân của lão Curtain tóm gọn trước khi kịp tới chỗ Đường Tắt.
Mấy đứa kia cũng đồng loạt rên rỉ, cũng dần hiểu ra điều khiến Reynie đang lo lắng: không có lối thoát nào cho việc này.
“Ít nhất thì Số Hai cũng đã được an toàn,” Sticky rầu rĩ thốt lên.
Mấy đứa bạn gật đầu nhưng không nói gì. Tất cả bọn chúng đều an lòng khi Số Hai được an toàn. Mặc dầu tin tốt về cô ấy lại là tin xấu cho bọn trẻ, vì lão Curtain và đám tay chân Số Mười không tìm được cô ở khu rừng phía tây sẽ tiếp tục đi vòng quanh đảo. Việc này khiến khả năng bọn trẻ càng dễ bị phát hiện trước khi tới được vịnh.
Reynie nhìn xuống khuôn mặt đang ngủ rũ của ngài Benedict, nhăn mặt, và đi đi lại lại.
“Có lẽ chúng ta nên ẩn trốn,” Constance nói. Những chiếc tàu tuần tra rốt cuộc sẽ tới phải không? Có thể họ sẽ tới đây kịp lúc cứu chúng ta.”
“Chúng ta sẽ phải may mắn lắm mới được thế,” Kate đáp. “Mình nói chúng ta cứ tiến tới và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất. Bố Milligan có thể ở trong rừng, nhớ chứ. Chúng ta chỉ cần tới được chỗ ông, ông sẽ giúp được.”
Sticky đang luống cuống lau chùi đôi kính. “Cậu nghĩ sao hả Reynie? Chúng ta có nên đi tới đó không hay trốn đi?”
Reynie nghiến răng ken két. Cậu nghĩ gì nhỉ? Rất khó mà giấu ai đó khỏi mấy Gã Số Mười lâu cho được. Và cho dù tàu tuần tra có tới kịp và đưa người lên bờ, Reynie không chắc họ có thể đấu được với đám tay chân dữ dằn của lão Curtain, đặc biệt là từ lúc bọn chúng lại có được Salamander. Nhưng chạy đi ư? Tâm trí Reynie quay trở lại chiếc thuyền. Ổn ã, Đạn Thần Công đã nói thế - vậy họ thậm chí không mong gì tránh bị phát hiện trong màn sương mù dày đặc. Và không như Kate, Reynie không hy vọng Milligan có thể giúp chúng. Không, ẩn trốn có lẽ là lựa chọn tốt hơn, mặc dầu thế gần như là một cách làm vô vọng, và mặc dầu...
Reynie dừng bước đi. Cậu vừa nghĩ tới một lựa chọn khác. Thực tế cậu đã nghĩ ngay từ đầu, nhưng lại gạt nó đi. Nếu có thành công, đó là cơ hội tốt nhất để chúng trốn thoát. Nhưng nếu không, tất cả sẽ lạc lối - và để nó thành công thì Reynie phải tin tưởng vào điều gì đó mà cậu cảm thấy không thể tin được.
“Reynie?” Kate thúc giục. “Cậu nghĩ sao?”
Reynie nhìn chăm chăm vào thân hình đang ngủ rũ của ngài Benedict. Bọn chúng đã liều mạng sống và leo lên tìm ông, đã đi tới tận cùng trái đất để bảo vệ ông. Nếu ngài Benedict tỉnh dậy bây giờ, ông sẽ bảo Reynie làm gì? Cậu thấy có gì đó giật giật cổ tay áo. Constance đang ngước lên nhìn cậu.
“Anh phải tin ông ấy,” cô bé nói.
“Tin ông ấy?” Kate hỏi lại. “Tin ai cơ? Reynie, con bé đang nói cái gì thế?”
Reynie nhìn đáp lại Constance. Cậu biết cô bé nói đúng. Cậu biết ngài Benedict sẽ bảo cậu làm thế. Vấn đề là liệu cậu có đủ can đảm để làm thế không.
“Reynie à?”
“Đưa mình cái bút và tờ giấy,” Reynie đã quyết định dược. “Mình biết chúng ta cần làm gì rồi!”
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict